Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.69 KB, 11 trang )

Trong thời gian gần đây, Việt Nam chủ động đẩy nhanh tiến trình hội nhập
với việc tích cực ký kết và gia nhập vào các điều ước quốc tế song và đa phương
trong khu vực cũng như trên thế giới nhằm thể hiện rõ chính sách mở cửa, hội
nhập toàn diện và sâu rộng của Đảng và Nhà nước. Hệ thống pháp luật quốc gia đã
có những thay đổi cơ bản nhằm đảm bảo tương thích với những cam kết quốc tế
mà Việt Nam có nghĩa vụ thi hành. Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế năm 2005 là văn bản luật điều chỉnh một cách tổng thể các vấn đề liên
quan đến công tác điều ước quốc tế của Việt Nam. Luật đã ghi nhận hai phương
thức áp dụng điều ước mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia là áp dụng trực tiếp
và chuyển hoá điều ước ước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, việc áp
dụng điều ước quốc tế được thực thi bằng phương thức nào, nói một cách khác,
điều ước quốc tế sau khi đã được hoàn tất các thủ tục ký kết, sẽ được áp dụng trực
tiếp hay phải thông qua một thủ tục chuyển hóa bằng việc sửa đổi hoặc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia? luật lại không quy định rõ. Cho nên,
việc giải quyết một cách triệt để các vấn đề nêu trên sẽ đặt nền móng cho những
luận cứ khoa học vô cùng quý báu, nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực thi
pháp luật quốc tế - đặc biệt là cơ chế thực thi các điều ước quốc tế theo nguyên tắc
pacta sunt servanda; bảo vệ tối đa lợi ích dân tộc, bảo vệ triệt để chủ quyền và an
ninh quốc gia trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá.
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về các phương thức áp dụng điều ước quốc tế của
Việt Nam cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, nhóm chúng em đã quyết
định họn đề tài: “….”
1. Những vấn đề pháp lý về chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế
mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
1.1. Cơ sở lí luận của việc chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế vào
pháp luật quốc gia
Khi tham gia các điều ước quốc tế, các quốc gia đều có nghĩa vụ là làm cho
pháp luật quốc gia mình phù hợp với pháp luật quốc tế. Về vấn đề này hiện nay có
hai quan điểm chính:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng điều ước quốc tế có hiệu lực trực tiếp trong các
lĩnh vực của pháp luật quốc gia mà không cần phải có sự chuyển hoá (nội luật


1
hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia – tức là thừa nhận việc chỉ áp
dụng trực tiếp.
Học thuyết về sự chấp nhận hiệu lực trực tiếp của quy phạm điều ước quốc
tế rất gần với chủ nghĩa nhất nguyên. Học thuyết này khước từ việc ban hành một
văn bản thi hành của Nhà nước như là cầu nối giữa quy phạm pháp luật quốc tế và
sự áp dụng nó ở trong nước. Theo học thuyết này, các quy phạm pháp luật quốc tế
được áp dụng trực tiếp ở trong nước. Tuy nhiên, các quy phạm này không vì thế
mà mất đi tính chất của nó với tư cách là các quy phạm pháp luật quốc tế. Với sự
chấp nhận, các quy phạm điều ước được công nhận như là pháp luật trong nước.
Ví dụ: Theo hệ thống pháp luật nhất nguyên của mình, các Toà án của Hà Lan
áp dụng trực tiếp và tức thời các quy phạm điều ước mà không cần một thể thức
chuyển hoá vào nội luật.
- Quan điểm thứ hai: pháp luật quốc tế không áp dụng trực tiếp trong các lĩnh
vực của pháp luật quốc gia; điều ước quốc tế, muốn phát huy hiệu lực của mình ở
trong các nước thì đòi hỏi phải được chuyển hoá vào nội luật, nghĩa là toàn bộ
hoặc một phần nội dung của điều ước đó phải được chuyển đổi dưới các hình thức
văn bản quy phạm pháp luật.
Trái ngược với học thuyết về sự chấp nhận, học thuyết về sự chuyển hoá thể
hiện rõ tính nhị nguyên luận. Học thuyết này xuất phát từ chỗ cho rằng các quy
phạm pháp luật quốc tế không thể được áp dụng như các quy phạm pháp luật trong
nước vì pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập với nhau.
Những quy phạm điều ước quốc tế muốn được áp dụng trong nước thì phải được
chuyển đổi (chuyển hóa) thành quy phạm pháp luật trong nước.
Pháp luật nhiều nước bên cạnh việc thừa nhận ưu thế của điều ước quốc tế
so với pháp luật quốc gia, còn quy định rằng, điều ước quốc tế chỉ có hiệu lực ở
trong nước sau khi có hành vi chuyển đổi (Điều 25, Điều 29, Luật Cơ bản (GG)
của CHLB Đức; Điều 38 - Các nguyên tắc chung về luật của Italia; Điều 28 Hiến
pháp năm 1975 của Hy Lạp).
1.2. Chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc

tham gia
1.2.1. Quan điểm về chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế theo pháp
luật Việt Nam
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, mỗi quốc gia là
thành viên của điều ước quốc tế đều có quyền hạn và trách nhiệm xác định cách
thức thực thi các điều khoản của điều ước quốc tế trong phạm vi quyền lực pháp lý
của mình.
Khoản 3 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
năm 2005 quy định: “Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc
2
tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của
điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần
điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định
của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước để
thực hiện điều ước quốc tế đó”. Quy định này thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai
phương pháp thực hiện điều ước quốc tế: áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều
ước vào văn bản pháp luật quốc gia.
- Áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế là hình thức “nội luật hoá” toàn bộ hoặc
một phần nội dung của điều ước quốc tế thông qua một quyết định chấp thuận của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tức là các quốc gia chỉ bằng một văn bản pháp
luật thừa nhận việc thi hành tất cả các điều ước quốc tế mà mình tham gia sẽ được
áp dụng trên phạm vi lãnh thổ mà không cần sửa đổi hay ban hành các văn bản
pháp luật quốc gia chuyên biệt. Văn bản này thường có giá trị pháp lý tương
đương với một đạo luật kí kết và thực thi các điều ước quốc tế nói chung của một
quốc gia hoặc có thể được ghi nhận trong các văn bản có giá trị pháp lý cao như
Hiến pháp, Bộ luật…
Về bản chất, khi áp dụng trực tiếp, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên đã được coi như là một “nguồn luật” bên cạnh pháp luật quốc gia và được
thực hiện như pháp luật quốc gia. Có nghĩa là khi điều ước quốc tế đã được ký kết

và có hiệu lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó
đều có nghĩa vụ thi hành và công dân hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của
điều ước quốc tế đó trước Tòa án để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Nhà nước
không nhất thiết phải thực hiện các thủ tục “chuyển hoá điều ước quốc tế” bằng
việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật truyền thống theo quy định của Luật,
vừa phức tạp, kéo dài và tốn kém.
Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia
nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung cam kết được áp dụng
trực tiếp của Việt Nam là: Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư, Luật Kinh doanh bảo
hiểm, Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật
Điện ảnh, hoặc Hiệp định về thuế…
- Chuyển hóa điều ước quốc tế là việc nhà nước của quốc gia thành viên ban
hành các văn bản qui phạm pháp luật mới chứa đựng nội dung, tinh thần của các
điều ước mà quốc gia đã kí kết, tham gia hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản qui
phạm pháp luật có liên quan để phù hợp với các điều ước quốc tế nhằm chuyển
hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường hợp này thường xảy ra
khi nội dung của điều ước quốc tế chưa đủ cụ thể, rõ ràng để có thể áp dụng trực
3
tiếp vào thực tiễn pháp luật hoặc nội dung điều ước đó có điều khoản trái hoặc
chưa được quy định trong Hiến pháp.
Bản chất của phương thức này là dù bằng cách này hay cách khác trong quá
trình “chuyển hóa” các qui phạm pháp luật quốc tế không bị biến đổi thành các qui
phạm pháp luật quốc gia mà qui phạm pháp luật quốc tế vẫn là qui phạm pháp luật
quốc tế, chỉ xuất hiện thêm hoặc tồn tại sự thay đổi các qui phạm pháp luật quốc
gia để phù hợp với tinh thần và nội dung của các qui phạm pháp luật quốc tế. “Các
văn bản nội luật hóa là các văn bản qui phạm pháp luật trong nước nhưng có một
số nội dung pháp lý vốn là nội dung pháp lý của điều ước quốc tế có liên quan.
Nếu xét về bản chất thì nội dung pháp lý của văn bản nội luật hóa đó có cội nguồn
từ nội dung pháp lý của các cam kết cần được thi hành của các nước liên quan.”
1

Chẳng hạn như việc chuyển hóa một số điều ước về quyền ưu đãi, miễn trừ
ngoại giao, lãnh sự trong Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại
Việt Nam; chuyển hóa nội dung Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ (CEDAW) vào trong Luật Bình đẳng giới. Nhiều quy định của các
điều ước quốc tế khác cũng đã được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo
luật của Việt Nam, nhất là từ khi chúng ta gia nhập WTO như: Bộ luật dân sự, Bộ
luật tố tụng dân sự, Luật cạnh tranh, Luật thương mại…có nhiều quy định tương
thích với các quy định của Công ước BERN về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ
thuật, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Pháp lệnh về công nhận và
thi hành của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam hài hòa với các quy tắc của Công
ước New York năm 1958…
Với ý nghĩa là hoạt động pháp lý nhằm bảo đảm điều ước quốc tế được thực
hiện thông qua những công cụ pháp luật quốc gia, thực chất của hoạt động chuyển
hoá điều ước quốc tế là quá trình tạo ra môi trường pháp luật và thực tế để thực thi
có hiệu quả điều ước quốc tế. Quá trình này có thể diễn ra ở nhiều hoạt động với
nhiều cách thức khác nhau. Nhưng yêu cầu chung đặt ra cho hoạt động chuyển hoá
điều ước quốc tế là thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, đồng thời áp dụng đúng
các quy định của điều ước quốc tế trong điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát
sinh trên cơ sở của điều ước quốc tế đó.
1.2.2. Phương thức chuyển hóa và áp dụng điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết
hoặc tham gia
* Đối với phương thức áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết
hoặc tham gia: như đã đề cập ở trên, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ có thẩm
quyền quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã
1
Xem: Đường Thị Thùy Chi, Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, Khóa luận tốt nghiệp, Hà
Nội, 2010, trang 36.
4

đủ rõ, chi tiết để thực hiện. Do đó, trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế
đầy đủ, rõ ràng và chi tiết thì cơ quan có thẩm quyền chỉ cần ban hành văn bản
pháp luật thừa nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của một điều ước quốc tế và
hệ quả của nó là nội dung của điều ước quốc tế trở thành bộ phận của hệ thống
pháp luật quốc gia, được thực hiện, dẫn chiếu áp dụng như các quy định của pháp
luật quốc gia.
Có thể thấy rằng, trong điều kiện khuôn khổ pháp lý còn chưa hoàn thiện và
khả năng ban hành luật đầy đủ, chi tiết còn hạn chế như hiện nay thì việc tính toán
để áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế là hợp lý. Trên thực tế, có nhiều điều ước
quốc tế như Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1967, Công
ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật năm 1971 mà nước ta gia nhập
là những điều ước quốc tế chuyên ngành, nên việc việc quy định áp dụng trực tiếp
các điều này để bảo đảm sự hài hoà và thống nhất giữa pháp luật quốc gia và điều
ước quốc tế là cần thiết.
* Việc chuyển hóa điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia vào
pháp luật quốc gia (nội luật hóa) được thực hiện theo các phương thức phổ biến
sau:
- Sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện điều ước quốc
tế. Theo quy định tại khoản 10 Điều 14 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005, cơ quan đề xuất ký kết có trách nhiệm “Kiến nghị về việc
áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế.” Như
vậy, để thực hiện nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc tế mà cần
phải sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành, thì cơ quan đề xuất việc ký kết điều ước
quốc tế phải chủ động phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp kiến nghị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc này.
Trong công tác xây dựng pháp luật, theo quy định tại Điều 5 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, một trong những nguyên tắc xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới là phải "không làm cản trở việc thực
hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên." Đây

cũng là một biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý quốc tế
phát sinh từ điều ước quốc tế được tuân thủ nghiêm túc tại Việt Nam.
- Tiến hành chuyển hoá quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật trong
nước. Nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mật thiết đến vấn đề
chuyển hoá (nội luật hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Mục
đích cơ bản của vấn đề chuyển hoá là bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện các
điều ước quốc tế.
5

×