Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Hoàn thiện quy trình kiểm soát nội bộ chi đầu tư qua kho bạc nhà nước trên địa bàn tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 119 trang )

1

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
“HOÀN THIỆN QUY TRÌNH KIỂM SOÁT NỘI BỘ CHI ĐẦU TƯ QUA
KHO BẠC NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC’’
1.1. Đặt vấn đề nghiên cứu đề tài
Với chức năng quản lý quỹ NSNN, hệ thống KBNN được giao một số chức
năng nhiệm vụ hết sức quan trọng, trong đó có nhiệm vụ kiểm soát, thanh toán, chi
trả các khoản chi của NSNN với mục tiêu đảm bảo các khoản chi đúng mục đích,
tiết kiệm và có hiệu quả. Theo quy định của Luật NSNN, chi NSNN bao gồm các
khoản chi phát triển Kinh tế - Xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt
động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi
khác theo quy định của pháp luật. Mặt khác, Tổng số chi NSNN gồm lĩnh vực như
chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ và viện trợ, chi bổ sung quỹ dự
trữ tài chính, dự phòng ngân sách nhưng chi đầu tư phát triển là một trong những
khoản chi NSNN hết sức quan trọng trong tổng chi NSNN.
Để thực thi nhiệm vụ kiểm soát chi đầu tư từ NSNN được quy định tại Quyết
định số 108/2009/QĐ-TTg ngày 26/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng Giám
đốc KBNN đã ban hành quy trình kiểm soát chi đầu tư và quy trình này được bổ
sung, điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với tình hình, yêu cầu thực tế ở từng thời
kỳ. Cụ thể, từ năm 2000 đến nay, đã ban hành các quyết định như : Quyết định số
601 KB/QĐ/TTVĐT ngày 28/10/2003; Quyết định số 297/QĐ-KBNN ngày
18/05/2007; Quyết định số 1359/QĐ-KBNN ngày 11/12/2007; Quyết định số
686/QĐ-KBNN ngày 18/8/2009; Quyết định số 282/QĐ-KBNN ngày 20/04/2012;
Quá trình tổ chức triển quy trình KSNB chi đầu tư về cơ bản đã đảm bảo tính
thống nhất trong toàn hệ thống KBNN từ trung ương đến các địa phương. Tuy
nhiên, bên cạnh tính nhất quán chung đó, do đặc thù ở mỗi địa phương, KSKB chi
đầu tư vẫn tồn tại khá nhiều vấn đề có tính đặc thù ở mỗi địa phương làm ảnh



2

hưởng đến công tác KSNB chi đầu tư qua KBNN cần phải cấp thiết nghiên cứu
hoàn thiện.
Bên cạnh vấn đề đặc thù của KBNN, trước sự thay đổi của tình hình kinh tế
thế giới và để phát triển hội nhập, vấn đề kiểm soát các khoản chi NSNN càng quan
trọng hơn, đòi hỏi phải được đảm bảo và nâng cao tính hữu hiệu của nó.
Từ những vấn đề trên, nâng cao tính hữu hiệu của quy trình KSNB chi đầu tư
qua KBNN là một vấn đề thời sự, bức thiết cả về mặt lý luận, thực tiễn ở Việt Nam
hiện nay cũng như ở từng địa phương cụ thể.
1.2. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bình Phước là một tỉnh nghèo chỉ mới hình thành từ năm 1997 trên cơ sở chia
tách từ tỉnh Sông Bé cũ. Để phát triển kinh tế xã hội, Bình Phước đã, đang đứng
trước một yêu cầu, thách thức rất thời sự về bài toán đáp ứng, giải quyết đầu tư phát
triển. Hàng năm, trong dự toán chi NSNN tại tỉnh, chi đầu tư phát triển xây dựng cơ
sở hạ tầng như: giao thông, thủy lợi, trường học, bệnh viện,... chiếm tỷ trọng khá
lớn, khoảng 30% đến 40% tổng chi NSNN. Các khoản chi này giữ một vai trò rất
quan trọng trong thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nhiều dự án hoàn thành bàn giao đưa vào khai thác, sử dụng được hình thành
từ nguồn vốn chi đầu tư của Nhà nước đã phát huy được hiệu quả góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên địa bàn.
Tuy nhiên, vẫn còn đây đó việc thất thoát vốn, hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong
đầu tư chưa cao, gây ra hiện tượng lãng phí nguồn lực kinh tế tài chính hạn hẹp.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó vấn đề về kiểm soát chi
vốn đầu tư của hệ thống KBNN.
Theo thống kê của KBNN trung ương, kết quả giải ngân vốn đầu tư của Bình
Phước hàng năm đạt khá thấp, cụ thể, năm 2012, tổng số vốn thanh toán chỉ đạt
87,9% so với kế hoạch dự toán được giao và thấp hơn mức bình quân của cả nước
(Tỉ lệ giải ngân vốn đầu tư trung bình của cả nước năm 2012 là 95,5% kế hoạch
theo thông báo số 574/KBNN-KSC ngày 01/4/2013 của KBNN trung ương).



3

Trong những năm qua, mặc dù các cấp lãnh đạo của KBNN Bình Phước đặc
biệt quan tâm và thường xuyên đưa ra những giải pháp hướng đến mục tiêu cải
thiện tốt hơn công tác kiểm soát chi đầu tư nhưng kết quả mang lại vẫn chưa đạt
được sự kỳ vọng của lãnh đạo địa phương.
Chính vì vậy, hoàn thiện quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN trên địa bàn
tỉnh Bình Phước hướng đến hiệu lực, hiệu quả là một vấn đề thời sự, khoa học về lý
luận, thực tiễn, cấp thiết hiện nay và tương lai. Từ đó, tác giả đã chọn đề tài “ Hoàn
thiện quy trình kiểm soát nội bộ chi đầu tư qua Kho bạc Nhà nước trên địa
bàn tỉnh Bình Phước” làm đề tài nghiên cứu luận án thạc sĩ kinh tế chuyên ngành
Kế toán.
1.3. Một số công trình nghiên cứu có liên quan đề tài
Nghiên cứu những nội dung có liên quan đến quy trình KSNB chi đầu tư qua
KBNN trong những năm qua đã được một số tác giả thực hiện. Mỗi tác giả tiếp cận
lý luận, thực tiễn theo một góc độ, ở những địa phương khác nhau. Trong số những
công trình nghiên cứu gần đây, tác giả đã tiếp cận các công trình nghiên cứu gần
nhất của một số tác giả. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng (2012), “Giải pháp hoàn
thiện công tác kiểm soát chi đối với các dự án đầu tư XDCB từ nguồn vốn NSNN
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”, công trình tập trung nghiên cứu về lý luận, thực
trạng và đề xuất giải pháp kiểm soát chi đối với các dự án đầu tư XDCB từ nguồn
vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Tác giả Đoàn Kim Khuyên (2012),
‘‘Hoàn thiện công tác kiểm soát thanh toán đầu tư xây dựng cơ bản tại KBNN Đà
Nẵng’’, công trình tập trung nghiên cứu lý luận, thực trạng và đề xuất giải pháp
kiểm soát thanh toán kiểm soát thanh toán đầu tư xây dựng cơ bản tại KBNN Đà
Nẵng. Tác giả, Lê Toàn Thắng (2012), ‘‘Quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN của
Thành phố Hà Nội”, tập trung nghiên cứu lý luận, thực trạng và đề xuất giải pháp
hoàn thiện quản lý vốn đầu tư XDCB thành phố Hà nội. Trên cơ sở những công

trình nghiên cứu trên và một số công trình nghiên cứu khác, tác giả đã kế thừa, tiếp
cận theo một hướng riêng về quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN và tại địa
phương cụ thể là tỉnh Bình Phước.


4

1.4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các mục tiêu cụ thể như sau:
-

Tổng kết các vấn đề lý thuyết liên quan đến KSNB và quy trình KSNB chi đầu
tư qua KBNN.

-

Mô tả và đánh giá tính hữu hiệu của quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN tại
tỉnh Bình Phước.

-

Xác lập quan điểm, giải pháp hoàn thiện quy trình KSNB chi đầu tư qua
KBNN tại tỉnh Bình phước.

1.5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vận dụng lý luận vào thực tiễn quy trình
KSNB chi đầu tư qua KBNN tại địa bàn tỉnh Bình Phước. Vì vậy, đề tài không có
tham vọng nghiên cứu chuyên sâu về lý luận KSNB cũng như các lý luận chuyên
sâu về quy trình KSNB như quan điểm, khái niệm, các bộ phận cấu thành mà chỉ kế
thừa, chọn lọc những lý thuyết thích hợp về KSNB, về quy trình KSNB để xây

dựng cơ sở luận cho tiếp cận thực tiễn, đánh giá thực tiễn để đề xuất giải pháp hoàn
thiện quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN tại tỉnh Bình Phước.
1.6. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Để đạt được ba mục tiêu nêu trên, và trong phạm vi nghiên cứu, đề tài hướng
đến tiếp cận nghiên cứu, giải quyết các nội dung sau :
-

Tiếp cận, chọn lọc, xác lập cơ sở lý luận liên quan đến quy trình KSNB, như :
• Khái niệm KSNB;
• Các bộ phận cấu thành KSNB;
• Quy trình KSNB;
• Tính hữu hiệu quy trình KSNB;
• Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của quy trình KSNB.
và chi đầu tư qua KBNN và một số bài học kinh nghiệm quy trình KSNB liên
quan đến chi đầu tư qua KBNN, như:
• Chi đầu tư qua KBNN


5

• Một số bài học kinh nghiệm quy trình KSNB liên quan đến chi đầu tư qua
KBNN của một số quốc gia trên thế giới như Cộng hòa Pháp, Trung Quốc,
Hàn Quốc và một số tỉnh, thành phố trong nước như: Bình Dương, Bà Rịa –
Vũng Tàu.
-

Nghiên cứu thực trạng quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN tại tỉnh Bình
Phước như :
• Khảo sát và mô tả các quy phạm pháp luật, hành chính, quản lý chi phối đến
quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN và tại tỉnh Bình Phước;

• Khảo sát và mô tả các yếu tố kỹ thuật của quy trình KSNB chi đầu tư qua
KBNN tại tỉnh Bình Phước
• Khảo sát và mô tả bộ máy vận hành quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN
tại tỉnh Bình Phước

-

Đánh giá thực trạng quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN tại tỉnh Bình Phước
qua các khía cạnh như :
• Đánh giá các quy phạm pháp luật, hành chính, quản lý chi phối đến quy trình
KSNB chi đầu tư qua KBNN và tại tỉnh Bình Phước;
• Đánh giá tình hình vận dụng các yếu tố kỹ thuật của quy trình KSNB chi đầu
tư qua KBNN tại tỉnh Bình Phước
• Đánh giá tình hình nhân sự và bộ máy vận hành quy trình KSNB chi đầu tư
qua KBNN tại tỉnh Bình Phước

-

Trên cơ sở lý thuyết, thực trạng, đánh giá thực trạng hoàn thiện quy trình KSNB
chi đầu tư qua KBNN tại tỉnh Bình Phước như :
• Xây dựng quan điểm hoàn thiện;
• Xác lập các giải pháp hoàn thiện về các quy phạm pháp luật, hành chính,
quản lý; các yếu tố kỹ thuật, bộ máy vận hành quy trình kiểm soát KSNB chi
đầu tư qua KBNN tại tỉnh Bình Phước;
• Xác lập các giải pháp hỗ trợ thực thi quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN
tại tỉnh Bình Phước.

1.7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài



6

Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở triết học duy vật biện chứng, trên quan
điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời dựa
trên những cơ sở lý thuyết về kinh tế - tài chính và các đề tài nghiên cứu có liên
quan đã được công bố.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
-

Để tiếp cận, nghiên cứu, xác lập lý thuyết và mô tả thực tế, tác giả chủ yếu sử
dụng các phương pháp khảo sát, phân tích, thống kê, đối chiếu, so sánh, suy
luận để tổng hợp nên các cơ sở lý luận và mô tả thực trạng.

-

Để xây dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp
khảo sát, thống kê và sau đó dùng phần mềm SPSS để kiểm định, đánh giá
những tác động của tình hình thực trạng đến quy trình KSNB chi đầu tư qua
KBNN tại tỉnh Bình Phước.

-

Để xây dựng các giải pháp hoàn thiện, tác giả sử dụng kết hợp giữa cơ sở lý
thuyết, thực trạng và kết quả kiểm định suy luận, xác lập các quan điểm, giải
pháp hoàn thiện.

1.8. Kết cấu của luận văn
Ngoài những nội dung bắt buộc theo quy định như : Lời cảm ơn; Mục lục;
Danh mục các từ viết tắt, bảng biểu, hình vẽ; Tài liệu tham khảo và các Phụ lục, nội

dung chính của luận văn gồm 05 chương
-

Chương 1 - Giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu “hoàn thiện quy trình
KSNB chi đầu tư qua KBNN trên địa bàn tỉnh Bình Phước”;

-

Chương 2 – Tổng quan về KSNB và quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN;

-

Chương 3 – Tổng quan về KBNN Bình Phước và thực trạng quy trình KSNB
chi đầu tư qua KBNN;

-

Chương 4 – Đánh giá thực trạng quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN tại
tỉnh Bình Phước

-

Chương 5 – Kiến nghị hoàn thiện quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN tại
tỉnh Bình Phước.


7

1.9. Những mong muốn đóng góp của đề tài
-


Hệ thống hóa các cơ sở lý thuyết liên quan đến KSNB, quy trình KSNB chi
đầu tư qua KBNN;

-

Tóm tắt bức tranh thực trạng quy trình KSNB chi đầu tư qua KBNN trên địa
bàn tỉnh Bình Phước;

-

Giới thiệu các quan điểm và các giải pháp cụ thể hoàn thiện quy trình KSNB
chi đầu tư qua KBNN trên địa bàn tỉnh Bình Phước.


8

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ KSNB VÀ QUY TRÌNH KSNB
CHI ĐẦU TƯ QUA KBNN
2.1. Tổng quan về kiểm soát nội bộ (KSNB)
2.1.1. Khái niệm và hệ thống KSNB
KSNB được tiếp cận và nhận định với nhiều khái niệm khác nhau gắn liền với
quá trình hình thành, phát triển của nó. Tuy nhiên, hai định nghĩa gần đây nhất có
tính ảnh hưởng lớn đến nghiên cứu và ứng dụng kiểm soát nội bộ đó là quan điểm
về KSNB theo Báo cáo COSO 1992 và Báo cáo COSO 2004
 Khái lược về COSO
COSO là một Ủy ban thuộc Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ về việc chống gian
lận về báo cáo tài chính (National Commission on Financial Reporting, hay còn
được gọi là Treadway Commission). Ủy ban này bao gồm đại diện của Hiệp hội kế

toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA), Hiệp hội Kiểm toán viên nội bộ (IIA),
Hiệp hội Quản trị viên tài chính (FEI), Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ (AAA), Hiệp hội
kế toán viên quản trị (IMA). Từ mục tiêu giám sát, hạn chế, khắc phục sự gian lận
tại các công ty ở Mỹ cũng như sự quan tâm của xã hội đến KSNB, COSO được
thành lập nhằm nghiên cứu về KSNB, cụ thể là: thống nhất định nghĩa về KSNB để
phục vụ cho nhu cầu của các đối tượng khác nhau có liên quan; công bố đầy đủ một
hệ thống tiêu chuẩn để giúp các đơn vị có thể tiếp cận, đánh giá, xây dựng hệ thống
kiểm soát, quy trình trình KSNB của họ và tìm giải pháp để hoàn thiện.
 Khái niệm và các bộ phận cấu thành hệ thống KSNB
Theo COSO 1992
Báo cáo COSO 1992 cung cấp một hệ thống lý luận từ sự kế thừa và phát triển
các nghiên cứu trước đó về KSNB và là báo cáo đầy đủ nhất ở thời kỳ bấy giờ.
Theo báo cáo COSO 1992: “Kiểm soát nội bộ là một quá trình do người quản lý,
hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung


9

cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện ba mục tiêu dưới : Báo cáo tài chính
đáng tin cậy; các luật lệ và quy định được tuân thủ; hoạt động hữu hiệu và hiệu
quả.”
Định nghĩa trên, KSNB gắn liền với bốn nội dung cơ bản là : quá trình, con
người, đảm bảo hợp lý và mục tiêu.
-

KSNB là một quá trình : vấn đề này thể hiện KSNB bao gồm một chuỗi hoạt
động kiểm soát hiện diện ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp với
nhau thành một thể thống nhất tạo nên hệ thống kiểm soát và là phương tiện
để giúp cho đơn vị đạt được các mục tiêu của mình.


-

KSNB được thiết kế và vận hành bởi con người điều này thể hiện KSNB
không chỉ đơn thuần là những chính sách, thủ tục

biểu mẫu mà bao

gồm cả những con người trong tổ chức có liên quan như Hội đồng quản trị,
Ban Giám Đốc, các nhân viên khác và chính con người định ra mục tiêu, thiết
lập cơ chế kiểm soát ở mọi nơi và vận hành chúng.
-

KSNB cung cấp một sự đảm bảo hợp lý chứ không đảm bảo sự tuyệt đối các
mục tiêu được thực hiện nên khi vận hành kiểm soát những yếu kém có thể
xẩy ra do các sai lầm của con người nên dẫn đến không thực hiện được các
mục tiêu. KSNB có thể ngăn chặn và phát hiện những sai phạm nhưng không
thể đảm bảo là chúng không bao giờ xảy ra. Ngoài ra, một nguyên tắc cơ bản
trong việc đưa ra quyết định quản lý là chi phí cho quá trình kiểm soát không
thể vuợt quá lợi ích được mong đợi từ quá trình kiểm soát đó. Do đó, tuy
người quản lý có thể nhận thức đầy đủ về các rủi ro, thế nhưng, nếu chi phí
cho việc kiểm soát quá cao thì họ vẫn không áp dụng các thủ tục để kiểm soát
rủi ro.

-

Mục tiêu của KSNB sẽ khác nhau với những hoạt động khác nhau. Với KSNB
về báo cáo tài chính, KSNB hướng đến đảm bảo về tính trung thực và đáng tin
cậy; với sự KSNB về tính tuân thủ, KSNB hướng đến đảm bảo sự hợp lý trong
chấp hành luật pháp, quy định; với KSNB về sự hữu hiệu và hiệu quả, KSNB



10

giúp đơn vị bảo vệ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực kinh tế trong hoạt động,
bảo mật thông tin, duy trì và nâng cao uy tín,...
Trên cơ sở luận điểm trên, hệ thống KSNB theo COSO 1992 gồm 5 bộ phận
cấu thành chính là : môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát,
thông tin và truyền thông, giám sát. Các nội dung cụ thể từng bộ phận thể hiện tóm
tắt qua Bảng 2.1 sau.
Bảng 2.1: Các bộ cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
Bộ phận

Nội dung chủ yếu

Các nhân tố

Môi trường

Tạo ra sắc thái chung

- Tính chính trực và giá trị đạo đức.

kiểm soát

của một tổ chức, chi

- Đảm bảo về năng lực.

phối đến ý thức kiểm
soát của mọi người


- Hội đồng quản trị và Ủy ban kiểm toán.

trong tổ chức, là nền

- Triết lý quản lý và phong cách điều

tảng cho mọi bộ phận

hành.

khác của kiểm soát

- Cơ cấu tổ chức.

nội bộ.

- Phân định quyền hạn và trách nhiệm.
- Chính sách về nhân sự.

Đánh giá

Đơn vị phải nhận biết - Xác định mục tiêu của đơn vị.

rủi ro

và đối phó với các rủi - Nhận dạng rủi ro.
ro bằng cách thiết lập
- Phân tích và đánh giá rủi ro.
mục tiêu của tổ chức và

hình thành cơ chế để
nhận dạng, phân tích và
đánh giá các rủi ro có
liên quan.

Hoạt động

Các chính sách và các

- Phân chia trách nhiệm đầy đủ.

kiểm soát

thủ tục để giúp đảm

- Kiểm soát quá trình xử lý thông tin.

bảo là những chỉ thị


11

của nhà quản lý được

- Kiểm soát vật chất.

thực hiện và có các
hành động cần thiết
đối với các rủi ro
nhằm đạt được mục

tiêu của đơn vị.
Thông tin

Hệ thống thông tin

- Hệ thống thông tin, bao gồm cả hệ

và truyền

được thiết lập để mọi

thống thông tin kế toán phải đảm bảo

thông

thành viên trong đơn

chất lượng thông tin.

vị có khả năng nắm

- Truyền thông bảo đảm các kênh thông

bắt và trao đổi thông

tin bên trong và bên ngoài đều hoạt động

tin cần thiết cho việc

hữu hiệu.


điều hành, quản trị và
kiểm soát các hoạt
động.
Giám sát

Toàn bộ quy trình

- Giám sát thường xuyên: thông qua việc

hoạt động phải được

thu thập thông tin trong nội bộ và bên

giám sát và điều chỉnh

ngoài; đối chiếu số liệu thực tế và sổ

cần thiết. Hệ thống

sách,.. hoặc xem xét các báo cáo hoạt

phải có khả năng phản

động để phát hiện các biến động bất

ứng năng động, được

thường.


thay đổi theo yêu cầu

- Giám sát định kỳ: thực hiện thông qua

của môi trường bên

các cuộc kiểm tra định kỳ của đơn vị

trong và bên ngoài.

kiểm toán độc lập hoặc đơn vị kiểm toán
nội bộ.

 Khái niệm và các bộ phận cấu thành hệ thống KSNB
Theo COSO 2004
KSNB theo Báo cáo COSO 1992 ra đời và đã đóng góp khá tích cực cho


12

nghiên cứu, ứng dụng trong kiểm soát và nó cũng được liên tục bổ sung, hoàn thiện,
tuy nhiên, sự thay đổi môi trường hoạt động, nhất là những vấn đề rủi ro, quản trị
rủi ro dẫn đến KSNB theo COSO rơi vào một số hạn chế, khiếm khuyết. Vì vậy, sự
ra đời một công bố mới về KSNB của COSO 2004.
Trên cơ sở tiếp cận và bổ sung những vấn đề mới về KSNB, hệ thống KSNB
theo COSO 2004 so với COSO 1992 có các điểm giống và khác nhau sau:
Về quan điểm, hệ thống KSNB theo COSO 2004 vẫn tương tự như quan điểm
của COSO 1992 nhưng bổ sung, nhấn mạnh đến quản trị rủi ro. Cụ thể, quan điểm
về rủi ro được thể hiện, bổ sung như sau : Quản trị rủi ro doanh nghiệp là một quá
trình do hội đồng quản trị, các cấp quản lý và các nhân viên của đơn vị chi phối,

được áp dụng trong việc thiết lập các chiến lược liên quan đến toàn đơn vị và áp
dụng cho tất cả các cấp độ trong đơn vị, được thiết kế để nhận dạng các sự kiện
tiềm tàng có thể ảnh hưởng đến đơn vị và quản trị rủi ro trong phạm vi chấp nhận
được rủi ro nhằm cung cấp một sự đảm bảo hợp lý về việc đạt được các mục tiêu
của đơn vị. Cụ thể,
Về các bộ phận cấu thành : Các bộ phận cấu thành hệ thống KSNB theo
COSO 2004 so với COSO 1992 bổ sung thêm ba bộ phận mới là thiết lập mục tiêu,
nhận dạng sự kiện, đối phó rủi ro. Như vậy, các bộ phận cấu thành hệ thống KSNB
gồm có: Môi trường kiểm soát; Thiết lập mục tiêu; Nhận dạng sự kiện; Đánh giá rủi
ro; Đối phó với rủi ro; Hoạt động kiểm soát; Thông tin và truyền thông; Giám sát.
Với các bộ phận cấu thành trên, các vấn đề cần chú ý khi nghiên cứu, vận
dụng vào KSNB là :
Môi trường quản lý : Quản trị rủi ro được nhìn nhận từ triết lý của nhà quản
lý là một yếu tố hợp thành của môi trường quản lý. Điều này cho thấy quản trị rủi ro
đã được nhìn nhận là tất yếu và không thể bỏ qua, đơn vị phải nhận thức được rủi ro
và cách thức quản lý chúng trong hệ thống KSNB. Hai nhân tố chính thuộc về môi
trường quản lý liên quan đến KSNB về rủi ro là:
-

Triết lý của nhà quản lý về quản trị rủi ro. Triết lý về quản trị rủi ro là quan


13

điểm, nhận thức và thái độ của nhà quản lý, điều này tạo nên cách thức mà
đơn vị tiếp cận với rủi ro trong hoạt động, từ phát triển chiến lược đến các
thực thi hoạt động hàng ngày.
-

Rủi ro có thể chấp nhận. Là mức độ rủi ro mà xét trên bình diện tổng thể, đơn

vị sẵn lòng chấp nhận. Nó phản ánh triết lý về quản trị rủi ro của nhà quản lý
cấp cao, và ảnh hưởng đến văn hoá, cách thức hoạt động của đơn vị. Rủi ro có
thể chấp nhận được xem xét khi đơn vị xác định các chiến lược, ở đó lợi ích
kỳ vọng của một chiến lược phù hợp với mức rủi ro có thể chấp nhận đã đề ra.
Thiết lập mục tiêu : Thiết lập mục tiêu là một bộ phận cấu thành trong

KSNB. Để quản trị rủi ro, doanh nghiệp cần nhận thấy được tầm quan trọng của
việc thiết lập mục tiêu trong quản trị rủi ro. Do đó, thiết lập mục tiêu đã tách ra
thành một bộ phận độc lập để hợp thành quản trị rủi ro. Theo quản trị rủi ro, các
mục tiêu được thiết lập đầu tiên ở cấp độ chiến lược, từ đó, đơn vị tiếp tục cụ thể
hóa trong chiến lược, hoạt động, báo cáo và tuân thủ. Việc thiết lập các mục tiêu
của đơn vị là điều kiện đầu tiên để nhận dạng, đánh giá và phản ứng với rủi ro. Các
mục tiêu chiến lược: là những mục tiêu cấp cao của đơn vị, các mục tiêu này phù
hợp và ủng hộ cho sứ mạng mà đơn vị đã đề ra. Nó thể hiện sự lựa chọn của nhà
quản lý về cách thức đơn vị tạo lập giá trị cho chủ sở hữu của mình. Các mục tiêu
liên quan: là những mục tiêu cụ thể hơn so với mục tiêu chiến lược và phù hợp với
mục tiêu chiến lược đã được lập. Mặc dù các mục tiêu trong đơn vị rất đa dạng,
nhưng các mục tiêu liên quan đến các mục tiêu chiến lược có thể bao gồm các mục
tiêu hoạt động, mục tiêu về báo cáo, mục tiêu tuân thủ. Nội dung các mục tiêu này
tương tự như KSNB.


14

Nhận dạng sự kiện : KSNB chỉ nhìn nhận các sự kiện có thể gây ra rủi ro cho
đơn vị trong khi đó quản trị rủi ro có cái nhìn rộng hơn nên khi xem xét sự kiện có
thể có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến đơn vị và từ đó có thể tối đa hóa việc
tạo lập giá trị cho mọi tình huống trong tương lai. Ngoài ra, quản trị rủi ro cũng xem
xét các sự kiện một cách có hệ thống hơn KSNB, cụ thể như sau:
-


Các yếu tố ảnh hưởng: có nhiều yếu tố có thể dẫn đến các sự kiện tác động
đến việc thực hiện mục tiêu của đơn vị. Việc xác định được các yếu tố bên
trong và bên ngoài tác động đến đơn vị có tác dụng quan trọng đến việc nhận
dạng các sự kiện tiềm tàng. Một khi các yếu tố ảnh hưởng đã được nhận dạng,
nhà quản lý có thể xem xét tầm quan trọng của chúng và tập trung vào các sự
kiện có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu của đơn vị.

-

Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự kiện: Các sự kiện liên quan đến đơn vị
thường không xuất hiện độc lập mà có sự tương tác lẫn nhau. Một sự kiện xuất
hiện có thể tạo ra, tác động đến một sự kiện khác và các sự kiện có thể xuất
hiện đồng thời. Trong việc nhận dạng các sự kiện, đơn vị phải biết được sự
liên quan giữa các sự kiện là như thế nào. Bằng cách đánh giá sự liên quan
giữa các sự kiện, đơn vị có thể biết được nơi nào cần tập trung cần thiết để
quản trị rủi ro.

-

Phân biệt cơ hội và rủi ro: Sự kiện tiềm tàng nếu xuất hiện sẽ tác động tiêu
cực hoặc tích cực đến đơn vị hoặc tác động cả hai. Nếu sự kiện có tác động
tiêu cực, đe dọa nguy cơ đạt được mục tiêu của đơn vị, thì đòi hỏi đơn vị phải
đánh giá rủi ro và phản ứng với rủi ro. Nếu sự kiện có tác động tích cực đến
đơn vị, làm thuận lợi việc thực hiện mục tiêu của đơn vị hoặc tạo giá trị cho
đơn vị, thì phải được xem xét trở lại đối với các chiến lược đã được xây dựng.
Đánh giá rủi ro: Quản trị rủi ro cung cấp các bước để đánh giá rủi ro, trên cơ

sở đó có thể đánh giá cụ thể sự tác động của các sự kiện tiềm tàng. Việc đánh giá rủi
ro bao gồm các nội dung sau:

-

Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát: Rủi ro tiềm tàng là rủi ro do thiếu các


15

hoạt động của đơn vị nhằm thay đổi khả năng hoặc sự tác động của các rủi ro
đó. Rủi ro kiểm soát là rủi ro vẫn còn tồn tại sau khi đơn vị đã phản ứng với
rủi ro. Đơn vị cần phải xem xét cả rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, đầu tiên
là xem xét các rủi ro tiềm tàng, sau đó khi đã có phương án phản ứng với rủi
ro tiềm tàng thì tiếp tục xem xét đến rủi ro kiểm soát.
-

Ứơc lượng khả năng và ảnh hưởng: Các sự kiện tiềm tàng phải được đánh giá
trên hai khía cạnh: khả năng xảy ra và mức độ tác động của nó. Những sự kiện
mà khả năng xuất hiện thấp và tác động ít đến đơn vị thì không cần phải tiếp
tục xem xét. Ngược lại, các sự kiện với khả năng xuất hiện cao và tác động lớn
thì cần phải xem xét kỹ càng. Các sự kiện nằm giữa hai thái cực này đòi hỏi sự
đánh giá phức tạp, điều quan trọng là phải phân tích kỹ lưỡng và hợp lý.

-

Sự liên hệ giữa các sự kiện: Đối với những sự kiện độc lập với nhau thì đơn vị
đánh giá các sự kiện một cách độc lập. Nhưng nếu có sự liên hệ giữa các sự
kiện hoặc các sự kiện cùng kết hợp lại với nhau sẽ tạo nên những tác động lớn
thì đơn vị phải đánh giá được tác động tổng hợp đó.
Phản ứng với rủi ro : Sau khi đã đánh giá các rủi ro liên quan, KSNB chưa

đưa ra được cách thức để phản ứng với rủi ro, trong khi đó quản trị rủi ro xác định

các cách thức để phản ứng với rủi ro bao gồm:
-

Né tránh rủi ro: Không thực hiện các hoạt động mà có rủi ro cao như sản xuất
một mặt hàng mới, giảm doanh số ở một số khu vực của thị trường, bán bớt
một số ngành hàng hoạt động,...

-

Giảm bớt rủi ro: Các hoạt động nhằm làm giảm thiểu khả năng xuất hiện hoặc
mức độ tác động của rủi ro hoặc cả hai. Các hoạt động này liên quan đến việc
điều hành hàng ngày tại đơn vị.

-

Chuyển giao rủi ro: Làm giảm thiểu khả năng xuất hiện và mức độ tác động
của rủi ro bằng cách chuyển giao hoặc chia sẻ một phần rủi ro. Các kỹ thuật
này bao gồm: mua bảo hiểm cho tổn thất, sử dụng các công cụ về tài chính để
dự phòng cho tổn thất, các hoạt động thuê ngoài,...


16

-

Chấp nhận rủi ro: đơn vị không làm gì cả đối với rủi ro. Trong việc xác định
các phản ứng đối với rủi ro, đơn vị cần xem xét các vấn đề sau: ảnh hưởng của
phản ứng của đơn vị đến khả năng và tác động của rủi ro, và phản ứng nào
nằm trong phạm vi của rủi ro bộ phận; lợi ích và chi phí của từng loại phản
ứng; cơ hội có thể có đối với việc thực hiện mục tiêu chung của đơn vị khi

phản ứng với các rủi ro cụ thể.
Hoạt đông kiểm soát : Các hoạt động kiểm soát bao gồm các chính sách và

thủ tục trợ giúp cho việc đối phó với rủi ro và thực hiện các chỉ thị của nhà quản lý
về phản ứng với rủi ro cũng như chỉ đạo khác của đơn vị. Hoạt động kiểm soát được
thực hiện ở mức độ toàn đơn vị và trong phạm vi từng chức năng trong đó bao gồm
cả việc kiểm soát hệ thống xử lý thông tin của đơn vị.
Thông tin và truyền thông : Thông tin và cách thức truyền thông là yếu tố
không thể thiếu để đơn vị nhận dạng các sự kiện tiềm tàng, đánh giá và phản ứng
rủi ro. Việc quản lý quá trình ghi nhận, truyền đạt thông tin bao gồm cả hình thức và
trình tự sẽ giúp mọi cá nhân trong đơn vị hoàn thành trách nhiệm của mình. Trong
quản trị rủi ro, việc truyền thông được hiểu theo nghĩa rộng hơn: từ trên xuống
dưới, từ trong ra ngoài,...
Giám sát : Đây là yếu tố cuối cùng của hệ thống quản trị rủi ro doanh nghiệp,
yếu tố này sẽ giúp giám sát sự hoạt động hữu hiệu của các yếu tố khác trong QTRR
doanh nghiệp, việc giám sát có thể thông qua:
-

Các hoạt động giám sát thường xuyên.

-

Các chương trình đánh giá định kỳ.

-

Sự phối hợp của giám sát thường xuyên và giám sát định kỳ.
Như vậy, với những bổ sung, hoàn thiện hệ thống KSNB theo COSO 2004

trong môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh mới đã giúp cho các nhà quản trị,

kiểm soát nhận dạng rủi ro, đưa rủi ro vào hệ thống KSNB. Từ đó, việc KSNB sẽ
tạo lập sự phù hợp giữa lựa chọn chiến lược và mức rủi ro có thể chấp nhận; làm


17

tăng hiệu quả đối với việc phản ứng với rủi ro; giảm thiểu tổn thất bất ngờ trong
quá trình hoạt động; nhận dạng và quản lý rủi ro xuyên suốt toàn đơn vị; cung cấp
các phản ứng tổng hợp cho nhiều loại rủi ro; giúp đơn vị nắm bắt những cơ hội
trong kinh doanh; cải thiện sự phân bổ nguồn vốn của đơn vị.
Bên cạnh những lợi ích mà sự bổ sung, cải thiện mang đến, hệ thống kiểm soát
nội bộ theo COSO 2004 vẫn ẩn chứa những hạn chế tiềm tàng như trong COSO
1992. Đó chính là những rủi ro liên quan đến tương lai và sự chứa đựng các yếu tố
không chắc chắn trong KSNB; những hạn chế xuất phát từ con người liên quan đến
quản trị rủi ro trong việc ra quyết định sai do thiếu thông tin, bị áp lực trong sản
xuất kinh doanh, sự vô ý, bất cẩn, đãng trí, hiểu sai chỉ dẫn của cấp trên hoặc báo
cáo của cấp dưới; việc đảm nhận vị trí công việc tạm thời, thay thế cho người khác;
sự thông đồng giữa các nhân viên với nhau hay với các bộ phận bên ngoài đơn vị;
sự cân đối giữa lợi ích và chi phí trong quyết định, sự lạm dụng quyền lực,...
2.1.2. Quy trình KSNB - Tính hữu hiệu – Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu
hiệu của quy trình KSNB
2.1.2.1. Quy trình KSNB
Quy trình KSNB là một tiến trình thực hiện KSNB. Quy trình KSNB cũng
gắn liền với những quan điểm của KSNB.
Kiểm soát” là “Xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”.
“Kiểm soát” là bao gồm các hoạt động giám sát quá trình thực hiện, so sánh với các
tiêu chuẩn và chọn ra cách thức đúng (B.S.Dhillon 91987), Enginering
management, Inc). Như vậy, tiếp cận theo quan điểm này, quy trình KSNB gắn liền
với các các quy phạm pháp luật, hành chính, quản lý liên quan đến quy trình; các
yếu tố kỹ thuật gắn liền với quy trình và bộ máy vận hành quy trình KSNB.

Với các quy phạm pháp luật, hành chính, quản lý thể hiện những căn cứ mà
quy trình KSNB phải tuân thủ.
Với các yếu tố kỹ thuật gắn liền với quy trình KSNB thể hiện việc xác lập,
vận dụng các bộ phận cấu thành hệ thống KSNB trong quy trình KSNB như : môi


18

trường kiểm soát, mục tiêu, sự kiện, rủi ro, phương pháp đối phó với rủi ro, hoạt
động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát liên quan đến quy trình.
Với bộ máy vận hành quy trình KSNB, quy trình KSNB thể hiện những con
người và cách thức mà con người tiến hành quy trình KSNB.
2.1.2.2. Tính hữu hiệu của quy trình KSNB
Tính hữu hiệu của một quy trình KSNB được thể hiện qua việc xây dựng
một quy trình KSNB đảm bảo tốt nhất các mục tiêu KSNB đặt ra. Như vậy, một quy
trình KSNB hữu hiệu cần phải đảm bảo :
-

Những quy phạm pháp luật, hành chính, quản lý đồng bộ, nhất quán, đầy đủ,
dễ hiểu và được chấp hành hay tuân thủ tốt.

-

Các yếu tố kỹ thuật gắn liền với quy trình KSNB cần phải được xác lập đầy đủ
và hiểu biết, vận dụng một cách tốt nhất trong quy trình.

-

Bộ máy thực thi quy trình phải đảm bảo bởi số lượng, chất lượng lao động tốt
nhất cho quy trình đem lại hiệu quả tốt nhất


2.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của quy trình KSNB
Trên cơ sở tiếp cận quy trình, tính hữu hiệu của quy trình KSNB, nếu nhìn
theo góc độ các bộ phận hợp thành, chi phối quy trình KSNB, các nhân tố ảnh
hưởng đến tính hữu hiệu được thể hiện qua các vấn đề cơ bản sau..
Thứ nhất, những quy phạm pháp luật, hành chính, quản lý liên quan đến quy
trình
Thứ hai, xác lập và ảnh hưởng của các yếu tố kỹ thuật KSNB trong quy trình
KSNB.
Thứ ba, con người và các thức tổ chức để vận hành quy trình KSNB
2.3. Chi đầu tư qua KBNN và một số bài học kinh nghiệm quy trình KSNB
liên quan đến chi đầu tư qua KBNN
2.3.1. Chi đầu tư qua KBNN


19

Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của đầu tư là đạt được
các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực kinh tế mà người đầu tư phải
gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực kinh tế phải hy sinh đó có thể là tiền, là
tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Kết quả đạt được có thể là sự tăng
thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường giao thông,
bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý,
khoa học kỹ thuật…) hay điều kiện làm việc, năng suất lao động trong nền sản xuất
xã hội.
Chi đầu tư phát triển hay còn gọi chung là chi đầu tư là những khoản chi mang
tính chất tích lũy phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng gắn với việc xây dựng
cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư

của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh
tế.
Chi đầu tư phát triển được cấp phát từ ngân sách gắn liền với những khoản chi
cơ bản sau đây:
-

Chi đầu tư xây dựng cơ bản (gọi tắt là XDCB);

-

Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước;

-

Chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực
cần thiết có sự tham gia của Nhà nước;

-

Chi cho các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển;

-

Chi dự trữ nhà nước.
Với khoản chi đầu tư từ ngân sách với bất kỳ quốc gia nào cũng đều phải tuân

thủ nghiêm ngặt bới những luật lệ, quy trình, tổ chức vận hành của hệ thống quản
lý, kiểm soát, thực thi ngân sách, hay KBNN.
 Kết luận chương 2
Kiểm soát nội bộ và các bộ phận cấu thành kiểm soát nội bộ cần phải đặt trong



20

sự tương thích với hoạt động, môi trường hoạt động của tổ chức trong từng thời kỳ.
Ngày nay, sự thay đổi nhanh chóng môi trường hoạt động, KSNB phải gắn kết với
quản trị rủi ro. Quy trình kiểm soát nội bộ là một góc tiếp cận, sắp xếp trình tự tiến
hành kiểm soát nội bộ và tính hữu hiệu của quy trình kiểm soát nội bộ gắn liền với
sự đảm bảo tốt nhất mục tiêu của kiểm soát nội bộ và nó chịu sự chi phối bởi những
yếu tố liên quan đến quy phạm pháp luật, hành chính, quản lý; các yếu tố kỹ thuật
của quy trình; và bộ máy tổ chức thực thi.


21

CHƯƠNG 3
TỔNG QUAN VỀ KBNN TỈNH BÌNH PHƯỚC VÀ THỰC TRẠNG QUY
TRÌNH KSNB CHI ĐẦU TƯ QUA KBNN
3.1. Lược sử quá trình hình thành, phát triển của KBNN Bình Phước
Ngày 4-1-1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ký Quyết định số 07/HÐBT tái thành
lập hệ thống Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính với chức năng và nhiệm vụ
chủ yếu là Quản lý quỹ ngân sách Nhà nước và các quỹ dự trữ tài chính Nhà nước;
Theo Quyết định Số 07/HÐBT, hệ thống Kho bạc Nhà nước được tổ chức thành 3
cấp: ở Trung ương có Cục Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính; ở tỉnh, thành
phố (trực thuộc Trung ương) có Chi cục Kho bạc Nhà nước; ở huyện, quận và cấp
tương đương có Chi nhánh Kho bạc Nhà nước.
Ngày 1-4-1990, ngày hệ thống Kho bạc Nhà nước được tổ chức khá hoàn
chỉnh về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và chính thức đi vào hoạt động trên
phạm vi cả nước. Theo đó, Kho bạc Nhà nước là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính,
có nhiệm vụ giúp Bộ Trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lí nhà nước về

quĩ ngân sách nhà nước, quĩ dự trữ tài chính nhà nước và các quỹ khác của nhà
nước được giao theo qui định của pháp luật, thực hiện huy động vốn cho ngân sách
nhà nước và cho đầu tư phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo
qui định của pháp luật.
KBNN Bình Phước đã được thành lập theo Quyết định số 1140/TC-QĐTCCB ngày 14/12/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và chính thức đi vào hoạt động
từ ngày 01/01/1997 và đến nay hệ thống KBNN Bình Phước gồm có 10 phòng
nghiệp vụ và 09 KBNN cấp huyện, thị xã trực thuộc. Tổng số cán bộ công chức
hiện nay trong toàn hệ thống tại Bình Phước là 178 người, trong đó tại KBNN tỉnh
là 62 người, còn lại là KBNN cấp huyện, thị xã mỗi đơn vị là từ 12 đến 14 người.
Số công chức có trình độ Đại học là 97 người, chiếm 54,5%; trình độ cao đặng và
trung cấp là 36 người, chiếm 20,2%.


22

Trải qua hơn 16 năm xây dựng và trưởng thành, với phương châm củng cố,
ổn định và phát triển dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Kho bạc
Nhà nước và sự phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan, bằng sự nỗ lực phấn đấu
không ngừng của các thế hệ cán bộ, công chức, KBNN Bình Phước đã thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ được giao, có những bước phát triển ổn định, bền vững góp
phần cùng hệ thống Kho bạc Nhà nước khẳng định vị trí không thể thiếu được trong
bộ máy hành chính công quyền của Nhà nước thực hiện chức năng: quản lý nhà
nước về quỹ NSNN, các quỹ tài chính của Nhà nước, huy động vốn cho NSNN, cho
đầu tư phát triển và là đầu mối thực hiện nhiệm vụ tổ chức công tác kế toán NSNN.
Trong đó, quản lý quỹ NSNN là một chức năng đặc biệt quan trọng của KBNN
được Chính phủ, Bộ Tài chính, chính quyền địa phương đánh giá, nhìn nhận và yêu
cầu ngày càng cao.
Công tác Kiểm soát chi NSNN luôn được thực hiện đúng kế hoạch, dự toán,
quy trình, quy định, đảm bảo chi trả, thanh toán các khoản chi của các đơn vị giao
dịch đúng chế độ Nhà nước, kịp thời và chính xác.

Những năm qua, KBNN Bình Phước luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
kiểm soát chi NSNN. Qua nhiều năm tích cực thực hiện, đến nay, công tác kiểm
soát chi không đơn thuần chỉ là xuất quỹ ngân sách giúp cho công tác quản lý, điều
hành và sử dụng NSNN hiệu quả, tiết kiệm mà còn để tập trung nguồn lực tài chính
nhằm thực hiện các dự án, chương trình trọng điểm cấp thiết tạo động lực vững
mạnh để phát triển kinh tế-xã hội địa phương và được khen tặng nhiều bằng khen,
huân chương.
3.2. Tổng quan về đầu tư, chi đầu tư, kiểm soát, kiểm soát nội bộ chi đầu tư
qua kho bạc Nhà nước
3.2.1. Tổng quan về đầu tư và chi đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực
đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của các công cuộc đầu tư là đạt
được các kết quả lớn hơn so với hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh


23

chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải hy sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên
thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các
tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, trường
học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ thuật…)
và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong
nền sản xuất xã hội.
Chi đầu tư phát triển hay còn gọi chung là chi đầu tư là những khoản chi mang
tính chất tích lũy phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng gắn với việc xây dựng
cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư
của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh
tế. Nói khác đi, việc chi cho đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước nhằm
mục đích tạo ra một sự khởi động ban đầu, kích thích quá trình vận động các

nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự tăng trưởng. Chi đầu tư phát triển được
cấp phát chủ yếu từ ngân sách Trung ương và một bộ phận đáng kể của ngân sách
Địa phương và bao gồm các khoản chi cơ bản sau đây:
-

Chi đầu tư xây dựng cơ bản (gọi tắt là XDCB);

-

Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước;

-

Chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực
cần thiết có sự tham gia của nhà nước;

-

Chi cho các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển;

-

Chi dự trữ nhà nước.
Trong đó, chi đầu tư XDCB là một khoản chi lớn và nhiệm vụ của KBNN là

kiểm soát chi đầu tư XDCB.
Chi đầu tư XDCB là những khoản chi liên quan đến XDCB hay thực thi dự án
đầu tư. Như vậy chi XDCB gắn liền với những khoản chi liên quan đến tổng mức
đầu tư xây dựng.
Tổng mức đầu tư xây dựng công trình (gọi tắt là tổng mức đầu tư) là chi phí

dự tính của dự án được xác định trong giai đoạn lập dự án đầu tư. Tổng mức đầu tư


24

là cơ sở để chủ đầu tư lập kế hoạch và quản lý vốn khi thực hiện đầu tư xây dựng
công trình và cũng là cơ sở để KBNN kiểm soát, thành toán chi đầu tư.
Tổng mức đầu tư bao gồm: chi phí xây dựng; chi phí thiết bị; chi phí bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư; chi phí quản lý dự án; chi phí tư vấn đầu tư xây dựng;
chi phí khác và chi phí dự phòng. Cụ thể, các khoản chi phí của tổng mức đầu tư
được quy định cụ thể như sau:
-

Chi phí xây dựng bao gồm: chi phí xây dựng các công trình, hạng mục công
trình; chi phí phá dỡ các công trình xây dựng; chi phí san lấp mặt bằng xây
dựng; chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công;
nhà tạm tại hiện trường để ở và điều hành thi công;

-

Chi phí thiết bị bao gồm: chi phí mua sắm thiết bị công nghệ; chi phí đào tạo
và chuyển giao công nghệ (nếu có); chi phí lắp đặt, thí nghiệm, hiệu chỉnh; chi
phí vận chuyển, bảo hiểm; thuế và các loại phí liên quan khác;

-

Chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư bao gồm: chi phí bồi thường nhà,
công trình trên đất, các tài sản gắn liền với đất theo quy định được bồi thường
và chi phí bồi thường khác; các khoản hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất; chi phí
tái định cư; chi phí tổ chức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; chi phí sử dụng

đất trong thời gian xây dựng (nếu có); chi phí đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật
(nếu có);

-

Chi phí quản lý dự án bao gồm các chi phí để tổ chức thực hiện quản lý dự án
từ khi lập dự án đến đến khi hoàn thành, nghiệm thu bàn giao, đưa công trình
vào khai thác sử dụng và chi phí giám sát, đánh giá dự án đầu tư;

-

Chi phí tư vấn đầu tư xây dựng bao gồm: chi phí tư vấn khảo sát, lập dự án,
thiết kế, giám sát xây dựng và các chi phí tư vấn khác liên quan;

-

Chi phí khác bao gồm: vốn lưu động trong thời gian sản xuất thử đối với các
dự án đầu tư xây dựng nhằm mục đích kinh doanh; lãi vay trong thời gian xây
dựng và các chi phí cần thiết khác;

-

Chi phí dự phòng bao gồm: chi phí dự phòng cho khối lượng công việc phát
sinh và chi phí dự phòng cho yếu tố trượt giá trong thời gian thực hiện dự án.


25

Vốn đầu tư xây dựng từ NSNN là khoản vốn ngân sách được Nhà nước dành
cho đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả

năng thu hồi vốn và các khoản chi đầu tư khác theo quy định các cấp ngân sách.
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước bao gồm: vốn đầu tư từ Ngân sách Trung ương
và Ngân sách các cấp chính quyền địa phương được sử dụng đầu tư vào các lĩnh
vực theo định hướng phát triển kinh tế xã hội đất nước trong từng thời kỳ, cụ thể
như sau:
Vốn đầu tư từ Ngân sách Trung ương đầu tư xây dựng các công trình kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do trung ương quản lý; đầu
tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh vào
các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước theo quy
định của pháp luật, chi cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Quỹ Hỗ trợ phát triển
đối với các chương trình, dự án phát triển kinh tế; dự trữ nhà nước; cho vay của
Chính phủ để đầu tư phát triển. Ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo
đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia. Vốn đầu tư từ
Ngân sách Trung ương gồm có vốn trong nước và vốn ngoài nước. Vốn trong nước
dành để chi cho đầu tư phát triển, chủ yếu để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn, chi cho các chương trình
mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước và các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy
định của pháp luật. Vốn ngoài nước là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức của
chính phủ hoặc của các tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển theo 2
phương thức là viện trợ không hoàn lại và viện trợ có hoàn lại (tín dụng ưu đãi).
Vốn đầu tư từ Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung
là ngân sách cấp tỉnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
do cấp tỉnh quản lý; đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước theo quy
định của pháp luật.
Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân
sách cấp huyện) đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo
sự phân cấp của tỉnh, trong đó có nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ



×