Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Nghiên cứu điều chỉnh kết cấu diện tích rừng trồng keo tai tượng (acacia mangium) theo tuổi phục vụ cho điều chế rừng gỗ nhỏ tiến tới chứng chỉ rừng tại xí nghiệp lâm nghiệp kỳ sơn thuộc công ty lâm nghiệp hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.15 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN QUỐC THỐNG

NGHIÊN CỨU ĐIỀU CHỈNH KẾT CẤU DIỆN TÍCH RỪNG
TRỒNG KEO TAI TƯỢNG (Acacia Mangium) THEO TUỔI
PHỤC VỤ CHO ĐIỀU CHẾ RỪNG GỖ NHỎ TIẾN TỚI
CHỨNG CHỈ RỪNG TẠI XÍ NGHIỆP LÂM NGHIỆP KỲ SƠN
THUỘC CÔNG TY LÂM NGHIỆP HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN QUỐC THỐNG

NGHIÊN CỨU ĐIỀU CHỈNH KẾT CẤU DIỆN TÍCH RỪNG
TRỒNG KEO TAI TƯỢNG (Acacia Mangium) THEO TUỔI
PHỤC VỤ CHO ĐIỀU CHẾ RỪNG GỖ NHỎ TIẾN TỚI
CHỨNG CHỈ RỪNG TẠI XÍ NGHIỆP LÂM NGHIỆP KỲ SƠN


THUỘC CÔNG TY LÂM NGHIỆP HÒA BÌNH

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Vũ Nhâm

Hà Nội, 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá, không những cung cấp gỗ và các
loại lâm sản khác, mà nó còn có giá trị bảo vệ và cải tạo môi trường sinh thái,
tạo cảnh quan du lịch. Nhưng trong thời gian qua, do nhiều nguyên nhân khác
nhau dẫn đến diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, diện tích đất trống đồi núi
trọc ngày càng tăng. Vậy nên để giữ gìn và phát triển được nguồn tài nguyên
quý giá này thì ngoài việc dùng các biện pháp kỹ thuật tác động chúng ta phải
trồng rừng để thay thế những diện tích rừng đã mất nhằm đảo bảo cho sự phát
triển bền vững.
Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay để đáp ứng được nhu cầu
ngày càng lớn của con người về gỗ và lâm sản trong tương lai đòi hỏi cần có
những biện pháp điều chỉnh kết cấu rừng trồng để rừng đáp ứng được những
yêu cầu của con người. Trong trồng rừng có nhiều mục đích khác nhau nhưng
việc nghiên cứu cơ sở khoa học để điều chỉnh kết cấu rừng theo tuổi phục vụ
cho điều chế rừng gỗ nhỏ theo mục đích kinh doanh là một vấn đề mới đáng

quan tâm nghiên cứu và đây còn là vấn đề cần thiết đối với các doanh nghiệp
lâm nghiệp.
Điều chế rừng là một môn khoa học mang tính ứng dụng của việc tổ
chức rừng. Nó dựa trên cơ sở quy luật phát triển sinh học của quần thể rừng
để khai thác, nuôi dưỡng, bảo vệ, phục hồi tái sinh rừng... tác động đúng
hướng vào rừng để rừng luôn phát triển đi lên, dẫn dắt rừng đi đến trạng thái
cân bằng và do đó bảo đảm vốn rừng ổn định đạt năng suất cao, đất rừng ngày
càng phì nhiêu, tác dụng nhiều mặt của rừng ngày càng được phát huy.
Tồn tại hiện nay trong điều chế rừng nói chung và điều chế rừng trồng
nói riêng có sự khác biệt, trong điều chế rừng trồng mục tiêu chính là sản
lượng ổn định. Muốn vậy, cần áp dụng phương pháp kinh doanh rừng theo
cấp tuổi. Tuy vậy, trong thực tế sản xuất hiện nay các công ty lâm nghiệp tiến


2

hành trồng rừng chưa theo một kế hoạch chặt chẽ về diện tích để tạo ra mật độ
và sản lượng ổn định, bởi chăng các hộ dân tham gia trồng rừng không trồng
theo diện tích, như vậy các công ty Lâm nghiệp muốn có một sản lượng gỗ
hàng năm ổn định thực hiện điều chế rừng làm cơ sở tiến tới chứng chỉ rừng,
việc nghiên cứu cơ sở khoa học để điều chỉnh kết cấu rừng theo tuổi phục vụ
cho điều chế rừng để có thể tiến tới được cấp chứng chỉ rừng là việc làm cần
tiến hành.
Điều chế rừng là một công cụ để quản lý rừng bền vững. Có rất nhiều
các khái niệm khác nhau về quản lý rừng bền vững nhưng những sai khác đó
chỉ là trong cách diễn đạt ngôn từ, nhưng cuối cùng đều hướng vào mô tả mục
tiêu chung của quản lý rừng bền vững đó là việc quản lý để đạt tới sự bền
vững về kinh tế, xã hội và môi trường.
Để góp phần giải quyết những tồn tại trên cả về mặt lý luận và thực
tiễn, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu điều chỉnh kết cấu

diện tích rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) theo tuổi phục vụ cho
điều chế rừng gỗ nhỏ tiến tới Chứng chỉ rừng tại Xí nghiệp Lâm nghiệp Kỳ
Sơn thuộc Công ty lâm nghiệp Hoà Bình”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Cấu trúc rừng
Rất nhiều nhà khoa học đã dày công nghiên cứu về cơ sở sinh thái của
cấu trúc rừng, mà tiêu biểu là Baur.G.N (1964)[1] , và Odum.E.P (1971), các
tác giả nghiên cứu các vấn đề sinh thái. Qua đó làm sáng tỏ khái niệm về hệ
sinh thái rừng, đây là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc đứng trên quan
điểm sinh thái học.
1.1.1.1. Quy luật phân bố số cây theo đường kính (N – D)
Để nghiên cứu và mô tả quy luật cấu trúc đường kính thân cây hầu hết
các tác giả tìm các phương trình toán học dưới nhiều dạng phân bố xác suất
khác nhau như:
Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu của Meyer (1934), Prodan
(1949). Các tác giả này đã mô tả phân bố số cây theo cỡ đường kính của rừng
tự nhiên bằng phương trình toán học dạng:
N = k.e-αdi

(1.1)

Phương trình này được gọi là phương trình Meyer hay hàm Meyer.
Tiếp đó, Naslunel (1936-1937), Moiseev (1972) đã xác lập phân bố
Charlier-A đối với phân bố N-D của lâm phần thuần loài đều tuổi. Loetch

(1973) dùng hàm Beta nắn phân bố thực nghiệm, Roemisch (1975) nghiên
cứu khả năng dùng hàm Gamma mô phỏng sự biến đổi của phân bố N/D theo
tuổi. J.L.F Batista và H.T.Z Docuto (1992) trong khi nghiên cứu rừng nhiệt
đới ở Maranhoo - Brazin đã dùng hàm Weibull mô phỏng phân bố N-D. Hàm
có dạng:
F(x)= ..x-1.e-.x^

(1.2)


4

Qua nghiên cứu thấy được là phân bố N/D ban đầu thường có dạng
lệch trái, phạm vi phân bố hẹp, đường cong phân bố nhọn
1.1.1.2. Tương quan giữa đường kính tán và đường kính tại vị trí 1,3m (DT
- D1.3)
Nghiên cứu mối quan hệ này có các công trình nghiên cứu khác nhau,
nhiều tác giả như: Zieger (1928), Cromer.O.A.N (1948), Miller.J (1953)…đã
đi đến kết luận là giữa đường kính tán và đường kính ngang ngực có mối quan
hệ mật thiết, phổ biến nhất là dạng phương trình đường thẳng.
Tán cây rừng là một bộ phận quyết định đến sinh trưởng cũng như tăng
trưởng của cây rừng. Ionikas (1980); Lebedinski (1972) đã sử dụng và đo tính
thể tích tán lá cây sống để nghiên cứu năng suất rừng. Qua nghiên cứu nhiều
tác giả đã đi đến kết luận giữa đường kính tán và đường kính thân cây có mối
quan hệ mật thiết như nghiên cứu của Zieger; Erich (1928), Comer, O.A.N;
Tuỳ theo loài cây và các điều kiện khác nhau, mối liên hệ này được thể hiện
khác nhau nhưng phổ biến nhất là dạng phương trình đường thẳng:
DT = a + b.D1.3

(1.3)


Các nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng còn phát triển mạnh mẽ khi
các hàm toán học được đưa vào sử dụng để mô phỏng các quy luật kết cấu
lâm phần. Rollet B. L. (1971) đã biểu diễn mối quan hệ giữa chiều cao và
đường kính bằng các hàm hồi quy, phân bố đường kính ngang ngực, đường
kính tán bằng các dạng phân bố xác xuất, Balley (1973) sử dụng hàm Weibull
để mô hình hoá cấu trúc đường kính thân cây loài Thông,...
1.1.1.3. Quy luật tương quan giữa chiều cao với đường kính (H - D)
Đây cũng là quy luật cơ bản và quan trọng trong hệ thống các quy luật
cấu trúc lâm phần. Qua nghiên cứu nhiều tác giả cho thấy, chiều cao tương
ứng với mỗi cỡ đường kính luôn tăng theo tuổi. Trong một cỡ kính xác định,
ở các cấp tuổi khác nhau cây rừng thuộc cấp sinh trưởng khác nhau.


5

Tiurin.D.V (1927) đã phát hiện ra quy luật này khi xác lập đường cong chiều
cao ở các cấp tuổi khác nhau. Prodan.M (1935) cho thấy độ dốc đường cong
chiều cao có chiều hướng giảm dần khi tuổi tăng lên.
Curtis.R.O đã mô phỏng quan hệ chiều cao với đường kính và tuổi theo
dạng phương trình: Logh = d + b1.1/d + b2.1/A + b3.1/dA

(1.4)

Tại từng tuổi nhất định dùng phương trình:
Logh = b0 + b1.1/d

(1.5)

Các tác giả như: Hohenadl; Krenn; Michailoff; Naslund, M; Anoutchin,

NP; Eckert, KH; Korsum, F; Levakovic, A; Meyer, H.A; Munller và V.Soest,
J đã đề xuất dùng các phương trình dưới đây:
h = a0 + a1d + a2d2

(1.6)

h 1,3 = d2/(a + bd)2

(1.7)

h = a.bd; logh = a + b.logd

(1.8)

h = a.(1 – e-bd)

(1.9)

h = a + b.logd

(1.10)

h = a.(d/(1 + b))b

(1.11)

h = a.e-b/d.

(1.12)


log (h) = loga + b.((loge)/d)

(1.13)

h = a(b.lnd – c.(lnd)^2)

(1.14)

h = a0 + a1d + a2logd

(1.15)

h = a0 + a1d + a2d2 + a3d3.

(1.16)

Như vậy, để biểu thị tương quan chiều cao với đường kính có thể sử
dụng nhiều dạng phương trình khác nhau. Việc lựa chọn phương trình thích
hợp nhất cho những đối tượng nào thì chưa được nghiên cứu đầy đủ. Hai dạng
phương trình được sử dụng nhiều nhất để biểu thị đường cong chiều cao là
phương trình Parabol và Logarit.


6

1.1.2. Phương pháp kinh doanh rừng theo cấp tuổi
Phương pháp kinh doanh rừng theo cấp tuổi được xây dựng trên cơ sở
so sánh giữa tỷ lệ cấp tuổi thực tế với tỷ lệ cần đạt tới (tiêu chuẩn). Tỷ lệ cấp
tuổi được biểu thị bằng sự phân bố diện tích theo cấp tuổi.
Ví dụ: Một khu rừng có diện tích 2.000ha với tuổi khai thác chính là

100 năm với kết cấu diện tích theo cấp tuổi như sau:
- Cấp tuổi I

1 - 20

600 ha

- Cấp tuổi II

21 - 40

500 ha

- Cấp tuổi III

41 - 60

300 ha

- Cấp tuổi IV

61 - 80

250 ha

- Cấp tuổi V

81 - 100

300 ha


- Cấp tuổi VI

(>100)

50 ha

- Diện tích mỗi cấp tuổi đạt tới theo mô hình tiêu chuẩn của loại hình
trên là 2.000 ha: 5 (cấp tuổi) = 400 ha.
Diện tích khai thác hàng năm: LS 

S
U

Trong đó: S là tổng diện tích; U là tuổi khai thác chính
và diện tích khai thác cho cả chu kỳ điều chế (10 năm) là: LS 10 

S
.10
U

Lượng khai thác biểu thị bằng trữ lượng được tính bằng cách lấy lượng
khai thác biểu thị bằng diện tích nhân với trữ lượng bình quân trên ha của các
lâm phần thành thục cộng với lượng tăng trưởng của các lâm phần này trong 5
năm.
Để xác định lượng tăng trưởng thường xuyên định kỳ trong 5 năm của
những lâm phần thành thục thường sử dụng biểu sản lượng phù hợp với loài
cây và cấp đất của loại hình kinh doanh đó. Trong trường hợp không có biểu
sản lượng có thể sử dụng biểu suất tăng trưởng, biểu lượng tăng trưởng
thường xuyên hoặc thậm chí có thể bỏ qua đại lượng này.



7

1.1.3. Điều chế rừng
Có nhiều khái niệm về Điều chế rừng .
- Người Pháp đến nay vẫn dùng khái niệm cổ điển của họ: “Điều chế 1
khu rừng (Ame’nagemen) là đề ra những điều muốn làm, cân nhắc những gì
có thể làm và dự đoán những cái phải làm” (BORUGE-NOT L .1969) .
- Người Đức quan niệm : Điều chế rừng (Forsteinrich-tung) là một môn
khoa học về điều tra giai đoạn về kế họach hoá trung hạn và dài hạn kiểm tra
định kỳ hiệu quả của quản lý kinh doanh nghề rừng (RICH - TER A . 1963)
- Người Anh cho rằng :Muốn Điều chế rừng (Manage-ment) trước hết
phải có chính sách lâm nghiệp để dựa và đó mà xác định mục tiêu đề ra các
yếu tố tự nhiên, kinh tế, con người …cuối cùng xác định các biện pháp Điều
chế và phúc tra lại rừng (DAWKINSHC.1958) .
- Ở Mỹ, công tác điều chế rừng (Management) mới bắt đầu năm 1930,
sau chiến tranh thế giới lần thứ hai mới đẩy mạnh lên. Họ cho rằng: Điểu chế
rừng là áp dụng phương pháp công tác và những nguyên tắc của kỹ thuật nghề
rừng để xử lý một tài nguyên rừng. Đó là sự thiết lập, xếp đặt vào trật tự và
giữ trong trật tự đó công tác nghiệp vụ lâm nghiệp. Theo DAVIS K.P, 1952
thì Điều chế rừng là kết quả của hạt nhân đường lối chính của nghề rừng.
- Ở Liên Xô, công tác Điều chế rừng bắt đầu theo khoảnh, sau đó dùng
phương pháp cấp tuổi. Từ 1926 đến 1948 dựa trên phương pháp cấp tuổi. Từ
1964, xác định Điều chế rừng phải giải quyết 7 vấn đề, Theo BAICHIN A.A
1967, đó là
+ Nhiệm vụ quan trọng của Điều chế rừng là phân chia rừng trong trạng
thái tự nhiên, xây dựng phương án lâm phần.
+ Xác định loại cây cần nuôi dưỡng, gieo trồng, những chủng loại gỗ,
(gỗ tròn) cần dự kiến ở tuổi chặt chính.



8

+ Trong Điều chế theo phương pháp cấp tuổi, rừng ở cấp đất I đến cấp
đất III tạo thành một loại kinh doanh thương phẩm cỡ lớn.
+ Xác định phương hướng khai thác chính.
+ Điều tiết việc sử dụng gỗ trong các lâm trường là một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất của Điều chế rừng.
+ Các biện pháp lâm sinh được thiết kế trong Điều chế riêng như chăm
sóc, tiêu nước, canh tác, tác động đối với đất… là nội dung cở bản của hoạt
động thực tiễn về trồng rừng thâm canh.
+ Sự bắt đầu rõ rệt và nổi tiếng của công tác Điều chế rừng là tính thông
kê và tính thực tiễn.
- Người Rumani cho rằng: Điều chế rừng là một khoa học và thực tiễn về
tổ chức rừng phù hợp với nhiệm vụ quản lý kinh doanh rừng ( RUCAREANU
N… 1967).
Từ thế kỷ thứ XIII khi rừng ở Trung Âu bị thu hẹp mạnh để đảm bảo
cung cấp gỗ liên tục, ổn định về sản lượng lý thuyết về điều chế rừng bắt đầu
được hình thành. Đến thế kỷ thứ XVIII trải qua quá trình tích lũy về lý luận
và thực tiễn khoa học điều chế rừng mới ra đời. Người đầu tiên đưa ra những
cơ sở đúng đắn về điều chế rừng là G.L.Hartig và H. Cotta vào thế kỷ XX,
dựa trên học thuyết ban đầu về điều chế rừng này nhiều nhà lâm nghiệp đã
phát triển học thuyết này điển hình là G.Hufel 1922, J.ch. Hundeshagen, Fr.
ludeich 1922, Chr. Agner 1928 và H. Nanquette 1960.
Các lý luận về điều chế rừng lần lượt được công bố. Theo Davis K.P,
1952: “Điều chế rừng là kết quả của hạt nhân đường lối chính của nghề rừng".
Dawkins H.C 1958 cho rằng “muốn điều chế rừng (Manegement) trước hết
phải có chính sách lâm nghiệp để đưa vào đó mà xác định mục tiêu đề ra các
yếu tố tự nhiên, kinh tế, con người . . . cuối cùng xác định các biện pháp điều

chế và phúc tra lại rừng". Richter A, 1963 cho rằng: “Điều chế rừng


9

(Foresteinirichtung) là môn khoa học về điều tra giai đoạn về kế hoạch hoá
trung hạn và dài hạn, kiểm tra định kỳ hiệu quả của quản lý kinh doanh nghề
rừng". Theo Baichin A.A, 1967 thì điều chế rừng (Lecoyctprouctbo) phải giải
quyết 6 vấn đề: (phân chia rừng, xác định loài cây, xác định phương thức khai
thác, điều tiết sử dụng gỗ, các biện pháp lâm sinh, tính thống kê và tính thực
tiễn). Rucareanu N. 1967 cho rằng: "Điều chế rừng (Amenagement) là một
khoa học và thực tiễn về tổ chức rừng phù hợp với quản lý kinh doanh rừng".
Theo F.C. O smaston, 1968, “Điều chế rừng của bất kỳ đơn vị kinh
doanh nào cũng đều bao gồm việc tổ chức và chỉ đạo các hoạt động cần thiết
để đạt mục tiêu của chủ rừng". Boulgenot. L, 1969 lại cho rằng “Điều chế 1
khu rừng (Amenagement) là đề ra những điều muốn làm, cân nhắc những gì
có thể làm và dự đoán những cái phải làm".
FAO (1996) đã tổng kết kinh nghiệm điều chế rừng tự nhiên nhiệt
đới. Có 5 kinh nghiệm đã được đưa ra là: (1)- Phải phân tích kỹ các yếu tố cơ
bản của quá trình điều chế rừng; (2)- Phải xác định hai khía cạnh tổ chức thời
gian rừng (Luân kỳ điều chế rừng và kế hoạch thời gian tác nghiệp hàng
năm); (3)- Phải xác định rõ tính pháp chế của phương án điều chế rừng; (4)phải đảm bảo hài hoà giữa các mục đích sản xuất, xã hội và môi trường; và
(5)- phải có sự tham gia của các bên liên quan trong việc điều chế rừng.
Qua tìm hiểu về quá trình hình thành phương án điều chế rừng cho
thấy 3 yếu tố quan trọng nhất trong điều chế là (mục tiêu, đối tượng và các
hoạt động trong điều chế rừng). Ngoài ra chu kỳ điều chế rừng và kế hoạch
tác nghiệp rừng hàng năm là hai khía cạnh thời gian của điều chế rừng. Tính
pháp lý của phương án điều chế rừng đề cập đến việc phương án phải được
thực thi đúng mục đích, đối tượng, quy trình kỹ thuật và tiến độ và phải được
bộ chủ quản xác nhận. Với bản chất của rừng là đa tác dụng, nên trong điều

chế rừng ngoài việc điều chế theo mục đích ưu tiên nào đó vẫn phải chú ý đến


10

các mục đích kết hợp khác. Trong điều chế rừng sự tham gia của các bên liên
quan có tính chất quan trọng quyết định đến tính khả thi của phương án.
1.1.4 Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng
Khái niệm phát triển bền vững được đưa ra năm 1980 ấn phẩm “Chiến
lược Bảo tồn Thế giới”với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại
không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những
nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học"
nhưng cũng đủ để mọi người nhận thức rõ ràng thế nào là phát triển bền vững.
Từ đó các khái niệm về quản lý rừng bền vững lần lượt ra đời.
Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC) đề xuất 10 nguyên tắc và các
tiêu chuẩn quản lý rừng. Uỷ ban phát triển bền vững (CSD) cũng đề nghị các
chỉ thị rừng bền vững. Tổ chức các tiêu chuẩn quốc tế (ISO) và hội tiêu chuẩn
Canada (CSA) đã đưa ra hệ thống quản lý ngành lâm nghiệp - tiêu chuẩn ISO
14000. IUCN - hiệp hội quốc tế về bảo tồn thiên nhiên - khuyến cáo các tiêu
chuẩn đảm bảo tính đa dạng sinh học....
Vào cuối những năm 1980, việc tẩy chay gỗ nhiệt đới gặp thất bại, trong
một số trường hợp lại gây ra hiệu ứng ngược. Hội nghị Thượng đỉnh thế giới
tại Rio de Janerio năm 1992 đã nhấn mạnh sự cần thiết phải có một cơ chế
hiệu quả quản lý rừng. Thay vì việc tẩy chay trước đó, họ đã muốn sử dụng
thị trường để thúc đẩy lợi ích xã hội, môi trường và hiệu quả kinh tế trong
quản lý. Lần đầu tiên, những nhà môi trường, xã hội và kinh tế đã cùng nhau
tham gia một chương trình quốc tế bình đẳng và thành lập Hội đồng quản trị
rừng thế giới (FSC). Cho đến nay, FSC vẫn là một môi trường bình đẳng,
thống nhất ý kiến chung cho các nhóm lợi ích khác nhau.
Cùng với sự ra đời của FSC, một loạt các tổ chức khác cũng được thành

lập: PAN-EUROPEAN cho rừng tự nhiên toàn châu Âu (Helsinki); CIFOR
(Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế) cho rừng tự nhiên nói chung;


11

ITTO (tổ chức quốc tế về gỗ nhiệt đới) cho rừng tự nhiên nhiệt đới... Cộng
đồng quốc tế đã tổ chức nhiều hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước
bảo vệ và phát triển rừng: Chiến lược bảo tồn quốc tế (1980); Hội nghị của
Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (UNCED, Riodejaneiro, 1992);
Công ước buôn bán động thực vật quý hiếm (CITES); Công ước đa dạng sinh
học (CBD)... Nhiều định nghĩa QLRBV được đưa ra, tuy nhiên hai định nghĩa
phổ biến và được công nhận rộng rãi nhất là của ITTO và trong tiến trình
Hensinki.
Theo ITTO: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những lâm
phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu quản lý đề ra một cách
rõ ràng như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong
muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương
lai của rừng và không gây ra những tác động không mong muốn đối với môi
trường tự nhiên và xã hội”
Theo tiến trình Hensinki: “Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và
đất rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học,
năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng trong quá trình thực hiện và
trong tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa
phương, cấp quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với hệ
sinh thái khác”.
Các định nghĩa trên đều tập trung vào các vấn đề chính là: quản lý rừng
ổn định bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra, bảo đảm
bền vững về kinh tế, môi trường và xã hội. Các yếu tố của QLRBV là:
- Có khuôn khổ chính sách và pháp lý

- Sản xuất lâm sản bền vững
- Bảo vệ được môi trường.
- Đảm bảo lợi ích con người.


12

- Đối với rừng trồng, có các cân nhắc áp dụng cụ thể phù hợp.
Trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc gia
(Canada, Malaysia, Indonexia...) và cấp quốc tế của tiến trình Helsinki, tiến
trình Montreal. FSC và ITTO đã có bộ tiêu của quản lý rừng được vận dụng
rất rộng rãi để đánh giá quản lý rừng ở nhiều nước.
1.1.4.1. Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC) và các tiêu chuẩn QLRBV
FSC là tổ chức uy tín nhất và có phạm vi rộng lớn trên toàn thế giới.
FSC được thành lập vào tháng 10/1993 tại Toronto – Canada bởi một nhóm
gồm 130 thành viên khác nhau từ 26 quốc gia, bao gồm đại diện của các cơ
quan môi trường, các thương gia, các cộng đồng dân bản xứ, đại diện các
ngành công nghiệp và các cơ quan cấp chứng chỉ. Năm 1994 các thành viên
sáng lập đã thông qua các nguyên tắc và tiêu chuẩn FSC, cùng với Quy chế
FSC (ngày nay gọi là By-Laws) áp dụng đánh giá cho rừng tự nhiên, rừng
trồng, rừng ôn đới, nhiệt đới và mọi đối tượng khác. Trụ sở chính đặt tại thành
phố Bonn – Đức. Cấu trúc quản trị duy nhất dựa trên các nguyên tắc sự tham
gia, dân chủ, công bằng.
FSC có đại diện tại hơn 50 quốc gia. Thành viên FSC được chia thành
nhóm xã hội, nhóm môi trường và nhóm kinh tế, mỗi nhóm lại được chia ra
thành nhóm Bắc (các nước công nghiệp) và nhóm Nam (các nước đang phát
triển). Bất kỳ ai hỗ trợ cải thiện quản lý rừng trên thế giới đều có thể trở thành
thành viên của FSC.
FSC ủy quyền cho 10 cơ quan trên thế giới cấp chứng chỉ có trụ sở tại
Anh, Mỹ, Hà Lan, Đức, Canada, Nam Phi, Thụy Sĩ. Tại Châu Á – Thái Bình

Dương, Công ty SmartWood/Rainforest Allliance và SGS Forestry thực hiện
phần lớn việc đánh giá và cấp CCR.
Các lợi ích FSC tạo ra:


13

- Lợi ích về môi trường: Đảm bảo cho tất cả mọi người tham gia vào
thương mại lâm sản rằng các đóng góp của họ sẽ giúp đỡ việc bảo tồn hơn là
hủy diệt rừng, con người và cuộc sống thông qua các hoạt động.
1. Bảo tồn đa dạng sinh học và các giá trị khác như nước, đất…
2. Duy trì các chức năng sinh thái và thể thống nhất của rừng.
3. Bảo vệ các loại động, thực vật quý hiếm và môi trường sống của chúng.
- Lợi ích về xã hội: Đảm bảo quyền con người được tôn trọng. Nhiệm
vụ chính là yêu cầu có sự tham gia của nhiều thành phần có liên quan khi
xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia hay khu vực.
- Lợi ích về kinh tế: Đó là chủ rừng cần phải cố gắng đạt được cách
sử dụng tối ưu và chế biến tại chỗ các sản phẩm đa dạng của rừng, giảm thiểu
các tác động tiêu cực đến môi trường nơi khai thác và chế biến.
FSC xây dựng 10 tiêu chuẩn cho QLRBV. Từ các tiêu chuẩn đó, các
quốc gia, khu vực tham gia vào tiến trình QLRBV và CCR sẽ xây dựng các
bộ tiêu chuẩn quốc gia riêng để đánh giá và phù hợp với các điều kiện cụ thể
của mình. Các bộ tiêu chuẩn này cần phải được sự phê chuẩn của FSC trước
khi được sử dụng để đánh giá cấp chứng chỉ tại quốc gia hoặc khu vực đó.
CCR được áp dụng cho tất cả các đơn vị quản lý rừng với các quy mô
lớn nhỏ bất kể là sở hữu nhà nước hay tư nhân. Đây là một quá trình hoàn
toàn tự nguyện của các chủ rừng. Tuy nhiên, đánh giá cấp CCR chỉ được áp
dụng cho các đơn vị đang quản lý rừng sản xuất và đang hoạt động quản lý
kinh doanh. Để được cấp CCR của FSC, chủ rừng phải chứng minh họ đã đáp
ứng tất cả các quy tắc, tiêu chuẩn trên. Thực chất CCR chính là chứng chỉ

chất lượng ISO, là hiệu quả cuối cùng của QLRBV, được FSC đề cập như là
một “công cụ hữu hiệu, giúp cải thiện quản lý rừng của thế giới” và “là công
cụ chính sách mạnh mẽ nhất” trong quản lý rừng. Khi được cấp CCR, chủ
rừng sẽ được:


14

- Xuất khẩu lâm sản vào mọi thị trường khắt khe trên thế giới kể cả Tây
Âu và Bắc Mỹ với giá bán cao hơn.
- Rừng cùng với môi trường sinh thái và xã hội có liên quan đến rừng
sẽ được giữ gìn, bảo vệ và phát triển tốt hơn.
Bên cạnh đó, các đánh giá định kỳ của cơ quan cấp chứng chỉ sẽ giúp
chủ rừng tìm ra các điểm mạnh, yếu trong hoạt động kinh doanh của mình.
- CCR của FSC giúp bảo vệ thương hiệu và uy tín của chủ rừng với đối
tác kinh doanh, các tổ chức tài chính và các tổ chức cơ quan giám sát. Các
tiêu chuẩn FSC hợp lệ trên toàn thế giới, là tiêu chuẩn duy nhất không có rào
cản đối với tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
FSC có hệ thống chứng nhận duy nhất được hỗ trợ bởi tất cả các nhóm
môi trường. Các nước Mỹ, Úc chỉ chấp nhận CCR của FSC bởi chỉ có FSC
quy định:
* Cấm chuyển đổi rừng tự nhiên hoặc môi trường sống khác
* Nghiêm cấm việc sử dụng thuốc trừ sâu rất độc hại trên toàn thế giới
* Nghiêm cấm việc trồng cây biến đổi gen
* Tôn trọng quyền của người dân bản địa trên khắp thế giới
* Kiểm soát từng hoạt động chứng nhận ít nhất một năm một lần - và
nếu bị phát hiện là không phù hợp thì giấy chứng nhận bị thu hồi.
1.1.4.2. Các loại chứng chỉ của FSC
Có hai loại chứng chỉ do FSC cấp:
- Chứng chỉ quản lý rừng FSC/FM (FSC forest management

certification)
- Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm FSC/CoC (FSC chain of
custody certification )


15

Trong quá trình đánh giá cấp chứng chỉ sẽ có hoạt động kiểm soát gỗ
(FSC Controlled Wood)
1.1.4.3. Chứng chỉ quản lý rừng FSC/FM
FSC không đánh giá cấp chứng chỉ. Quá trình đánh giá được thực hiện
bởi tổ chức độc lập gọi là cơ quan đánh giá quản lý rừng. Họ đánh giá quản lý
rừng đối với các nguyên tắc và tiêu chuẩn FSC cũng như các tiêu chuẩn quốc
gia. Điều này cho phép FSC vẫn độc lập với quá trình đánh giá và hỗ trợ tính
toàn vẹn của hệ thống chứng nhận FSC.
Các tiêu chuẩn của FSC:
Tiêu chuẩn 1: Phù hợp với tất cả điều luật và công ước quốc tế.
Tiêu chuẩn 2: Quyền và trách nhiệm sử dụng đất
Tiêu chuẩn 3: Quyền người dân sở tại
Tiêu chuẩn 4: Quan hệ công đồng và quyền của công nhân.
Tiêu chuẩn 5: Những lợi ích từ rừng
Tiêu chuẩn 6: Tác động môi trường
Tiêu chuẩn 7: Kế hoạch quản lý
Tiêu chuẩn 8: Giám sát và đánh giá
Tiêu chuẩn 9: Duy trì những rừng có giá trị bảo tồn cao
Tiêu chuẩn 10: Rừng trồng
Các tiêu chuẩn về xã hội là tiêu chuẩn 2, 3, 4, 5
Các tiêu chuẩn về môi trường là tiêu chuẩn 6, 7, 9
Các tiêu chuẩn về tuân thủ luật pháp là tiêu chuẩn 1 và 2
Các quá trình giám sát và quản lý là tiêu chuẩn 8, nguyên tắc này cũng

liên quan đến chuỗi hành trình sản phẩm.
Các khu rừng trồng: tiêu chuẩn 10
Các tiêu chuẩn liên quan đến kinh tế: tiêu chí và chỉ số của tiêu chuẩn
được thể hiện rõ ở hai nội dung đầu nhưng tiêu chuẩn kinh tế của nó lại không


16

được thể hiện rõ: giá chuyển đổi, giá cố định, hoạt động xã hội và môi trường
có thể bị ảnh hưởng bởi giá chuyển đổi trong ngành. Các tiêu chuẩn có liên
quan: 5, 7 và 8.
Nếu chủ rừng tuân thủ đầy đủ các yêu cầu FSC, FSC sẽ trao chứng chỉ.
Nếu chủ rừng còn thiếu một số điều kiện, chủ rừng phải hoàn thành
chúng trong một thời gian cụ thể trước khi nhận chứng chỉ.
FM cũng được cấp cho rừng trồng thể hiện ở tiêu chuẩn 10.
Để thương mại lâm sản với logo FSC và yêu cầu bồi thường, người
quản lý rừng phải có chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm. Nó đảm bảo rằng
sản phẩm có nguồn gốc từ một khu rừng đã được cấp chứng chỉ cho người
tiêu dùng.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Cấu trúc rừng
Việc nghiên cứu về cấu trúc rừng trồng đã có nhiều tác giả đề cập đến,
nhìn chung, những nghiên cứu này đều có cùng một hướng là, xây dựng cơ sở
có tính khoa học và lý luận phục vụ công tác kinh doanh rừng hiệu quả đáp
ứng mục tiêu ngày càng đa dạng. Những nghiên cứu này bước đầu nghiên cứu
về mặt không gian thời gian và định hướng nghiên cứu cấu trúc, sinh trưởng
và sản lượng rừng đã được các nhà khoa học khái quát lại dưới dạng mô hình
toán học từ đơn giản đến phức tạp, nhằm định lượng hoá các quy luật của tự
nhiên, nhờ đó đã giải quyết được nhiều vấn đề trong kinh doanh rừng, đặc biệt
là trong lĩnh vực trồng rừng tính toán sản lượng cũng như xây dựng hệ thống

các biện pháp kinh doanh nuôi dưỡng, làm giàu rừng cho từng đối tượng cụ
thể. Việc nghiên cứu cấu trúc rừng trồng để điều chỉnh và làm cơ sở cho xây
dựng phương án điều chế để rừng phát triển ổn định.
1.2.1.1. Quy luật phân bố số cây theo đường kính (N-D)


17

Đối với rừng tự nhiên nước ta, Đồng Sỹ Hiền (1974)[10] đã dùng họ
đường cong Pearson biểu diễn phân bố số cây theo cỡ đường kính của rừng tự
nhiên. Vũ Nhâm (1988)[19] và Vũ Tiến Hinh (1990)[11] cho thấy, có thể
dùng phân bố Weibull với hai tham số để biểu thị phân bố N-D cho những
lâm phần thuần loài, đều tuổi như thông đuôi ngựa (pinus massoniana), thông
nhựa (Pinus merkussii), Mỡ (Manglietia glauca) và bồ đề (Styrax
tonkinensis).
Nguyễn Ngọc Lung (1999)[16] khi nghiên cứu phân bố số cây theo cỡ
đường kính đã thử nghiệm 3 hàm phân bố: Poisson, Charlier, Weibull cho
rừng thông ba lá (Pinus kesiya) ở Việt Nam và rút ra kết luận: Hàm Charlier
kiểu A là hàm phù hợp nhất.
Tuy vậy, đối với rừng thuần loài đều tuổi nhiều tác giả đã chọn phân bố
Weibull để mô tả và xây dựng mô hình cấu trúc đường kính lâm phần.
1.2.1.2. Quy luật tương quan giữa đường kính tán với đường kính tại vị trí
1,3m (DT – D1,3)
Vũ Đình Phương (1985)[9] đã khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa
đường kính tán và đường kính ngang ngực; Phạm Ngọc Giao (1996)[9] đã
xây dựng mô hình động thái tương quan giữa DT/D1.3 với rừng Thông đuôi
ngựa khu Đông Bắc.
Bảo Huy (1993)[14] trong nghiên cứu cấu trúc rừng Bằng Lăng ở Tây
Nguyên đã thử nghiệm 5 dạng phân bố lý thuyết là Poisson, khoảng cách,
hình học, Mayer và weibull để mô phỏng các cấu trúc này

1.2.1.3. Quy luật tương quan giữa chiều cao với đường kính (H – D)
Khi sắp xếp cây rừng cùng một lúc theo hai đại lượng đường kính
ngang ngực (D1.3) và chiều cao cây (H) sẽ được quy luật phân bố hai chiều và
có thể định lượng thành quy luật tương quan giữa chiều cao và đường kính
thân cây, quy luật kết cấu cá bản này cũng được nhiều tác giả nghiên cứu.


18

Ở nước ta, Đồng Sỹ Hiền (1974)[10] đã thử nghiệm năm dạng tương
quan thường được nhiều tác giả nước ngoài sử dụng là: (1.6), (1.8), (1.10),
(1.15), (1.16), và kết luận phương trình (1.8) thích hợp cho đối tượng rừng
hỗn giao khác tuổi có nguồn gốc tự nhiên.
Vũ Nhâm (1988)[19] dùng phương trình (1.10) xác lập quan hệ H/D
cho mỗi lâm phần làm cở sở lập biểu thương phẩm gỗ cho rừng thông đuôi
ngựa. Vũ Tiến Hinh (1990)[11] dùng phương trình (1.10) xác lập quan hệ
H/D cho các loài Mỡ, Sa mộc, thông đuôi ngựa.
Như vậy, đối với rừng trồng thuần loài dạng phương trình được sử
dụng nhiều nhất để biểu thị đường cong chiều cao là phương trình Logarit.
1.2.2. Phương pháp kinh doanh rừng theo cấp tuổi
Ở Việt Nam các nhà khoa học đang tiến hành một số đề tài nghiên cứu
và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất tại một số công ty lâm nghiệp như:
- Công ty Lâm nghiệp Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
- Công ty Lâm nghiệp Tam Sơn, tỉnh Phú Thọ
- Công ty Lâm nghiệp Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
1.2.2. Điều chế rừng
Ở Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc điều chế rừng ít được chú ý mặc
dù về lý luận, có đưa môn điều chế rừng vào giảng dạy ở một số trường
chuyên nghiệp. Nhưng trên thực tế, điều chế rừng ít được áp dụng, một số nơi
có làm điều chế nhưng trên diện tích hẹp như điều chế rừng gỗ má ở Quảng

Ninh, điều chế rừng sót ở Nam bộ.
Sau năm 1954 hòa bình lặp lại, điều chế rừng được thay bằng công tác
điều tra thiết kế kinh doanh rừng với đối tượng xây dựng phương án chủ yếu
là các lâm trường. Sau năm 1980, nhận thấy rằng công tác điều tra thiết kế
kinh doanh rừng không hoàn toàn thay thế được điều chế rừng, một chương


19

trình điều chế rừng đã được tổ chức trên phạm vi toàn quốc do FAO tài trợ đã
đạt được một số kết quả nhất định. Chương trình đã xây dựng được một số mô
hình điều chế mẫu trên cơ sở xây dựng phương án cho một số lâm trường như
Cô Ba, Nghệ an... Thông qua việc tổ chức thực thi phương án phần nào đó
giúp các 1âm trường quản lý tài nguyên rừng và kinh doanh đạt hiệu quả hơn.
Tuy nhiên có thể thấy, các phương án điều chế mẫu lúc bấy giờ vẫn mang
dáng dấp một phương án thiết kế kinh doanh rừng, hơn là một phương án điều
chế rừng. Việc xác định các yếu lố kỹ thuật điều chế rừng và mô hình điều
chế rừng được xây dựng chưa có đầy đủ cơ sở chắc chắn.
Nguyễn Văn Trương (1983)[26] đề xuất xây dựng mô hình cấu trúc
rừng chuẩn dựa trên cơ sở những mô hình hoàn thiện đã có trong tự nhiên và
dưới tác động điều tiết của con người; trong đó chú trọng đến điều tiết phân
bố tổng diện ngang và cấu trúc đứng của lâm phần mẫu. Theo Nguyễn Ngọc
Lung (1983) trong thực tiễn sản xuất, sau khi phân chia rừng thành các loại,
mỗi loại thuần nhất về một mặt nào đó như tổ thành, tầng thứ, phân bố số cây
theo cỡ kính, có thể chọn được một loại trong các lô tốt nhất, có trữ lượng
cao, năng suất sinh trưởng tốt, tổ thành cấu trúc hợp lý nhất, các thế hệ cây gỗ
cũng cho phép có sản lượng ổn định, coi là mẫu chuẩn tự nhiên. Quan điểm
này có tính thực tiễn, để áp dụng trong sấn xuất và nghiên cứu, theo hướng
mô phỏng tự nhiên" là hướng tiếp cận nghiên cứu sinh thái học hiện đại.Vũ
Biệt Linh (1985) cho rằng kết cấu chuẩn lả mô hình kết cấu được lấy làm mức

cần phải đạt được trong mục tiêu tạo rừng cho mỗi loại rừng mục đích, ở các
giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi loại rừng đó và đặc biệt là ở giai đoạn
đưa vào sử dụng.
Lê Minh Trung (1991)[25] xây dựng cấu trúc mẫu trên ba cao năng
suất làm cơ sở đề xuất hướng khai thác và nuôi dưỡng rừng tụ nhiên hỗn loài
ở Đắc Nông. Mô hình cấu trúc mẫu là mô hình có khả năng tận dụng tối đa


20

tiềm năng của điều kiện lập địa, có sự phối hợp hài hòa giữa các nhân tố cẩu
trúc để tạo ra một quần thể rừng có sản lượng, tính ổn định và chức năng
phòng hộ cao nhằm đáp ứng mục tiêu kinh doanh nhất định (Phùng Ngọc
Lan, 1986).
Trần Văn Con (1992)[6] đề nghị ứng dụng mô phỏng đoán trong
nghiên cứu động thái rừng tự nhiên dựa trên tương quan giữa tổng số cây và
tiết diện ngang của lâm phần rừng khộp, tính toán các tham số phù hợp cho
mỗi dạng cấu trúc để xác định mật độ tối ưu của lâm phần.
1.2.3. Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng
Khái niệm “bền vững” được thế giới sử dụng từ những năm đầu thế kỷ
18 là tiền đề cho QLRBV sau này, thì đến mãi cuối thế kỷ 20 Việt Nam mới
dùng khái niệm “điều chế rừng” để quản lý, kinh doanh lâm nghiệp. Đến nay,
khái niệm này vẫn được coi là công cụ truyền thống để quản lý rừng theo
phương án điều chế thực

hiện theo những quy định trong Quyết định

40/2005/QĐ-BNN ngày 7/7/2005 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn về Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác.
1.2.3.1. Tổ công tác quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG)

Tháng 2/1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng 3 tổ chức
quốc tế phát động 1 phong trào QLRBV và CCR rộng rãi trong cả nước,
thông qua hội thảo quốc gia ngày 10-12/02/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổ Công tác Quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) đã được thành
lập gồm 12 thành viên thực hiện chương trình hành động, đồng thời xây dựng
tổ chức để hoạt động lâu dài trong hệ thống thành viên của FSC nhằm thúc
đẩy tiến trình QLRBV và CCR tại Việt Nam. Ban đầu NWG trực thuộc Cục
lâm nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Từ năm 2001, theo


21

quy chế của FSC, NWG trở thành một tổ chức độc lập, phi chính phủ, phi lợi
nhuận thuộc Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (nay là Viện Quản lý rừng bền
vững và Chứng chỉ rừng).
Các hoạt động chủ yếu của NWG là:
- Dựa trên cơ sở 10 nguyên tắc và 56 tiêu chí của FSC, hoàn thành dự
thảo tiêu chuẩn quốc gia với 160 chỉ số phản ánh các đặc thù của Việt Nam,
song vẫn đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng của FSC. Đây là dự thảo lần 9 đã
lấy ý kiến nhiều chủ rừng, các cơ quan tổ chức liên quan, đã 2 lần mời chuyên
gia FSC sang dự hội thảo góp ý. Đang chờ ý kiến FSC thẩm định.
- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho chủ rừng, các bên
liên quan và cộng đồng dân cứ sống trong rừng, gần rừng.
- Nâng cao năng lực quản lý cho chủ rừng, năng lực hoạt động cho
chuyên gia Viện QLRBV và cán bộ lâm nghiệp.
- Đánh giá chất lượng quản lý rừng khu rừng.
- Tổ chức mạng lưới các mô hình QLRBV tự nguyện.
1.2.3.2. Các chính sách chính liên quan QLRBV
Năm 2001, Chiến lược lâm nghiệp quốc gia (NFS) giai đoạn 2001-2010
đã xác định quản lý và phát triển rừng theo hướng bền vững là hướng đi chủ

chốt. Vào đầu năm 2007, Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 20062020 đã được ban hành, trong đó quy định theo hướng phát triển rừng quốc
gia với năm chương trình lớn. Một lần nữa QLRBV là một trong ba chương
trình trọng điểm của chiến lược với mục tiêu 30% (8,4 triệu ha) diện tích rừng
trồng sản xuất đến năm 2020 được cấp chứng chỉ.
Các vấn đề về QLRBV là một yếu tố chủ chốt trong các chính sách,
chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam. Điều này được thể hiện
trong các văn bản pháp quy như: Luật Đất đai, năm 2003; Luật Bảo vệ và
phát triển rừng, năm 2004; Luật Bảo vệ môi trường, năm 2005 và Quyết định


22

số 18/2007/QĐ- TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt
Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020.
1.3. Thảo luận
Tóm lại việc nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ cho điều chế rừng ở
Việt nam đã và đang được các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu. Các
nghiên cứu này tập trung vào các vấn đề kỹ thuật và lý thuyết là chính nhằm
tìm ra phương án phù hợp để tác động thay đổi cấu trúc rừng theo mục đích.
Điều chế rừng có tính xã hội sâu sắc, chúng ta cần quan tâm hơn đến kiến
thức bản địa, năng lực, nguồn lực tại chổ để xây dựng một kế hoạch kinh
doanh rừng khả thi và có hiệu quả hơn, trong đó chú ý đến vai trò của cộng
đồng, người dân, những kinh nghiệm cũng như sự tham gia của họ, và kinh
doanh rừng phải đóng góp vào việc nâng cao đời sống của cư dân sống trong
và gần rừng.
Nhìn chung, cơ sở khoa học nhằm điều chỉnh cấu trúc rừng cho một địa
điểm cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu nhất định của một khu vực là một vấn đề
cần thiết. Với định hướng trong tương lai các công ty lâm nghiệp cần có
những tiêu chí nhất định để có thể được cấp chứng chỉ rừng thì việc điều
chỉnh cấu trúc cấu trúc rừng theo cấp tuổi phục vụ cho điều chế rừng gỗ nhỏ

cung cấp nguyên liệu cho chế tạo ván nhân tạo là vấn đề cần nghiên cứu và
triển khai nhằm đáp ứng được mục đích kinh doanh và hướng tới quản lý rừng
bền vững và cấp chứng chỉ rừng.
QLRBV là xu thế tất yếu đối với đơn vị kinh doanh lâm nghiệp. Chứng
chỉ rừng không chỉ làm thay đổi giá trị của hàng hoá đem lợi ích đến không
chỉ cho doanh nghiệp chế biến lâm sản mà cả những đơn vị trồng rừng cũng
được hưởng nhiều quyền lợi khi có được chứng nhận này. Những khó khăn
trở ngại nêu trở thành những thách thức trong quá trình chuyển đổi quản lý
rừng theo hướng bền vững .Đánh giá quản lý rừng phải căn cứ vào các tiêu


23

chuẩn QLRBV, nhưng vận dụng các tiêu chuẩn này cho các đơn vị cần linh
hoạt, theo điều kiện thực tế đang có. Mục tiêu của Xí nghiệp lâm nghiệp Kỳ
Sơn cũng như nhiều cơ sở sản xuất lâm nghiệp khác là quản lý sử dụng tài
nguyên rừng bền vững. Trong đó việc điều chế rừng để tạo ra sản lượng ổn
định và đánh giá việc quản lý rừng của đơn vị mình mình theo bộ tiêu chuẩn
QLRBV của FSC, cần có sự tư vấn hỗ trợ và chuyển giao kỹ năng của các
chuyên gia. Đề tài “Nghiên cứu điều chỉnh kết cấu diện tích rừng trồng Keo
tai tượng (Acacia mangium) theo tuổi phục vụ cho điều chế rừng gỗ nhỏ
tiến tới Chứng chỉ rừng tại Xí nghiệp Lâm nghiệp Kỳ Sơn thuộc Công ty
lâm nghiệp Hoà Bình” nhằm hỗ trợ Xí nghiệp làm tốt công việc trên.


×