Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Chiếu đời Lí Đặc trưng thể loại, giá trị tác phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.17 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐH KHXH & NV TPHCM
KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HỌC

Chuyên đề:
Hệ thống thể loại văn học trung đại Việt Nam
Đề tài:

CHIẾU ĐỜI LÝĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI, GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
GVHD: PGS.TS NGUYỄN CÔNG LÝ
HVTH: Nguyễn Thị Nhân
Lớp:

CH Lí luận Văn học 2016-1

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 3/2017
1


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN
ĐỀ……………………………………………………………………………1
CHƯƠNG I : ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
CHIẾU…………………………………….2
1.1 ĐỊNH NGHĨA, NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI THỂ LOẠI CHIẾU
…………. 2
1.2 ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CHIẾU
…………………………………………...3
CHƯƠNG II: GIÁ TRỊ CHIẾU ĐỜI
LÝ………………………………………………5
2.1 Chiếu dời đô- tầm nhìn chiến lược của vua Lý Thái



Tổ……………5
2.2 Chiếu đánh dẹp họ Nùng, Chiếu xá thuế –Sự uy nghiêm và

trung hậu của vua Lý Thái
Tông……………………………………………………7
2.3 Chiếu để lại trước khi mất- tấm lòng vô ngã, khiêm cung của

vua



Nhân

Tông………………………………………………………….9
2.4 Chiếu hối lỗi- sự thức tỉnh muộn màng của vua Lý Cao

Tông…..11
KẾT
LUẬN……………………………………………………………………………...13
2


3


ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm Thuận Thiên thứ nhất, Canh Tuất (1010) với vị vua khai sáng là Lý
Thái Tổ, triều nhà Lý bắt đầu, cũng là bắt đầu của một kỉ nguyên sáng rạng cho Đại
Việt. Trải qua 216 năm (1010-1225) với 9 đời vua, vương triều này có những cống

hiến lớn lao mà lịch sử đã ghi nhận. Đó là tầm nhìn chiến lược của vua Lý Công
Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La. Đó là chiến công Lí Thường Kiệt đánh đuổi quân
Tống ra khỏi bờ cõi dưới thời Lý Nhân Tông. Bài thơ thần “Nam quốc sơn hà”
vang vang trên phòng tuyến sông Như Nguyệt ngày ấy đã trở thành lời hịch hùng
tráng, hào sảng có tác dụng hiệu triệu lòng người trong suốt lịch sử mỗi khi Việt
Nam khi phải đụng độ với giặc phương Bắc. Đó là cuộc viễn chinh năm 1069 mở
mang bờ cõi thêm ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh (Quảng Bình và bắc Quảng
Trị ngày nay) khởi đầu cho cuộc Nam tiến sau này. Đó còn là những công trình học
thuật, nghệ thuật, tôn giáo độc đáo: Văn Miếu, Chùa Một Cột. Giáo sư Lê Thành
Khôi nhận định rằng triều đại nhà Lý đã “đem lại cái khung chính trị, hành chính và
quân sự vững chắc mà Việt Nam chưa có, biến nước này thành một quốc gia không
chỉ có khả năng chống trả các vụ xâm lược từ Trung Quốc mà còn có thể thôn tính
Chăm pa để mở rộng về phía nam”[168,3]
Những dấu ấn vĩ đại đó chỉ có thể được thực hiện khi vương triều có những
vị minh quân lãnh đạo. Quả vậy, nhiều vị vua triều Lý đã trị quốc không chỉ bằng
sự thông tuệ vượt đời mà còn bằng lòng bác ái hơn người. Tư tưởng của các vị ấy
để lại có thể tìm thấy rõ nhất trong các chiếu thư. Khảo sát 5 bài chiếu tiêu biểu :
Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu)- Lý Công Uẩn, Chiếu xá thuế (Xá thuế chiếu)- Lý
Thái Tông, Chiếu đánh dẹp họ Nùng (Bình Nùng chiếu)- Lý Thái Tông, Chiếu để
lại lúc sắp mất (Lâm chung di chiếu)- Lý Nhân Tông, Chiếu hối lỗi (Truy hối tiền
quá chiếu )Lý Cao Tông, bài tiểu luận “Chiếu thời Lý- đặc trưng thể loại, giá trị
tác phẩm” góp phần làm sáng rõ thể loại chiếu nói chung cũng như đặc điểm riêng
của chiếu đời Lý.
4


CHƯƠNG I : ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CHIẾU
1.1

Định nghĩa, nguồn gốc, phân loại thể loại chiếu


Về định nghĩa, trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng
Phê chủ biên 2006, chiếu là “ điều vua công bố cho dân biết bằng văn bản về một
vấn đề chung của nhà nước”[159,6] Các tác giả Từ điển Văn học (bộ mới) định nghĩa
rõ hơn: “chiếu lệnh là một hình thức văn chương của Trung Quốc và nhiều nước
phương Đông thời cổ, dùng để gọi chung các văn từ mệnh lệnh do nhà vua ban bố
cho quần thần, bao quát các thể văn sách, chiếu, mệnh, lệnh, chế, cáo… vốn không
thống nhất về thể loại cũng như tên gọi”. Trong Thơ văn Lý – Trần nhìn từ thể loại,
NXB Giáo dục,1996, tác giả Nguyễn Phạm Hùng cũng đưa ra định nghĩa
về chiếu như sau: “Chiếu là loại văn bản hành chính của triều đình nhằm công bố
cho thần dân trong nước biết và thực hiện những nhiệm vụ hay những vấn đề có
liên quan tới đời sống quốc gia, dân tộc, vương triều”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị
Anh đề xuất: “Chiếu là văn bản hành chính có tính quan phương trong thời kì trung
đại, nhằm công bố cho thần dân trong nước biết và thực hiện những nhiệm vụ hay
những vấn đề có liên quan tới đời sống quốc gia, dân tộc, vương triều và thường
được viết theo lối văn tứ lục biền ngẫu, mỗi câu ngắt thành hai đoạn bốn – sáu hoặc
sáu – bốn , có vế đối ở từng cặp câu”[7]. Chúng tôi đồng ý với định nghĩa này, chỉ
xin bổ sung là chủ thể văn bản chiếu là nhà vua, đối tượng tiếp nhận văn bản là
những người dưới quyền. Dù có thực tế, nhiều bài chiếu do phụ tá vua soạn, nhưng
người soạn vẫn đứng trên địa vị nhà vua mà ban lệnh, nội dung văn bản vẫn là
truyền tải quyết định, ý định của nhà vua.
Về nguồn gốc thể loại, theo giáo sư Trần Đình Sử thì “Thái Ung thời Đông
Hán nói: thiên tử nhà Hán đặt hiệu là Hoàng đế, lời của Hoàng đế thì gọi là chế,
chiếu. Nhiệm Phường thời nhà Lương, Nam triều cho biết chiếu bắt đầu có từ thời
nhà Tần. Trước đó lời của vua gọi là cáo, thệ, mệnh, đến đời nhà Tần mới đổi thành
chiều. Vương Triệu Phương đời nhà Thanh giải thích: Chiếu chính là cáo, cáo về
việc gì đó. Vua dùng chiếu để cáo với thiên hạ, ý cũng như mệnh lệnh. Chỉ có đời

5



Đường do Vũ Hậu có tên là Chiếu nên kị húy mà đổi chiếu ra chế. Từ đời Trung
Đường mới gọi là chiếu trở lại”[ 287,5]

1.2

Đặc trưng thể loại chiếu:

Chức năng đầu tiên của chiếu là thực hiện chức năng hành chính, ban bố
mệnh lệnh của vua với thần dân. Vì thế, nội dung của chiếu thường mang tính lớn
lao, can hệ đến cả đất nước. Có trường hợp, chiếu hướng đến một hoặc một nhóm
đối tượng, nhưng chung qui lại vấn đề đề cập để vua ban chiếu thường là vấn đề hệ
trọng.
Trong văn bản chiếu, có sự phân biệt thứ bậc, giai cấp rất rõ ràng. Lời chủ
thể văn bản là lời người trên, người có quyền tối thượng hướng đến đối tượng tiếp
nhận là những thần thuộc. Do đó, người viết thường xưng “ta”, “trẫm”, gọi người
nghe là “các khanh”, “ngươi”, “kẻ dưới”.
Để đạt được mục đích hành chính,văn bản chiếu thường được viết bằng văn
xuôi cổ thể, có cả biền văn, tản văn và cả vận văn, nhưng phổ biến nhất là biền văn.
Sử dụng biền văn, chiếu vừa có tính trang trọng, bác học, đĩnh đạc thể hiện rõ vị thế
thiên tử, vừa có tính đăng đối, nhịp nhàng, uyển chuyển dễ đọc, hướng tới nhiều đối
tượng tiếp nhận từ kẻ sĩ đầy chữ Thánh hiền đến thứ dân ít học. Từ đó khiến văn
bản chiếu được trau chuốt, chọn lọc; ngôn từ trong văn bản chiếu phong phú, đa
dạng, mang tính thẩm mĩ cao. Sự kết hợp nhuần nhị giữa nội dung sáng rõ, ý nghĩa
lớn lao và hình thức hợp lí đã khiều văn bản chiếu vượt ra khỏi mục đích hành
chính đơn thuần mà trở thành những áng văn chương tuyệt bút.
Trong lịch sử các vương triều trung đại, có nhiều loại chiếu, như tức vị
chiếu, di chiếu, ai chiếu, phục chiếu, mật chiếu, thủ chiếu, khẩu chiếu. Đánh giá
ngôn từ các loại chiếu này, Lưu Hiệp ở thiên 19 Chiếu thư trong Văn tâm điêu long,
viết “Phù vương ngôn sùng bí,đại quan tại thượng, sỡ dĩ bách tích kỳ hình, vạn

bang tác phu. Cổ thụ quan tuyển hiền, tắc nghĩa binh trọng ly chi chuy; ưu văn
phong sách, tắc khí hàm phong vũ chi nhuận; sắc giới hằng cáo, tắc bút thổ tinh
6


hán chi hoa; trị nhung tiếp phạt, tắc thanh hữu tiến lôi chi uy; sảnh tai tứ xá, tắc
văn hữu xuân lộ chi tư; minh phạt sắc pháp, tắc từ hữu thu sương chi liệt. Thử
chiếu sách chi đại lược dã ”. (Phàm lời vua nói ra đều rất cao cả thiêng liêng. Do ở
trên nhìn khắp được bốn phương, nên các chư hầu đều phải noi theo, nơi nơi đều
phải tín phục. Bởi thế, việc chọn hiền tài, phong quan tước phải sáng rõ như mặt
trăng mặt trời. Văn chương chiếu sách khen thưởng phong tặng phải thuần nhã như
được thấm mưa thấm gió. Loại cáo sắc có tính khuyên răn lâu dài phải tỏa sáng như
muôn sao. Loại chiếu lệnh về việc binh nhung hoặc hiệp đồng chinh phạt thì phải
có thanh thế uy vang như sấm dạy. Loại ân xá kẻ lỡ bị tội thì lời văn phải như tưới
nhuần sương móc mùa xuân. Loại nêu việc xử phạt công minh, làm đúng phép tắc,
thì lời lẽ cứng cáp như sương thu nặng hạt. Đó là yêu cầu đại lược của thể văn
chiếu thư).[ 244-245,1]

7


CHƯƠNG II: GIÁ TRỊ CHIẾU ĐỜI LÝ
2.1

Chiếu dời đô- tầm nhìn chiến lược của vua Lý Thái Tổ.

Tháng 10 năm Kỉ Dậu (1009), Lê Ngọa Triều mất, Lý Công Uẩn lên thay, lời
sấm truyền trên cây gạo ở châu Cổ Pháp mà sư Vạn Hạnh đọc đã thành sự thật: nhà
Lý thay nhà Lê cai trị đất nước. Trở thành vị vua khai sáng triều đại, Lý Thái Tổ
xứng đáng là người lãnh đạo xuất sắc mà sáng kiến vĩ đại nhất của ông là quyết

định dời đô ra Đại La. Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) đã thể hiện rõ tầm nhìn xa
rộng của nhà vua.
Nội dung bài chiếu gồm 2 phần: lí do quyết định dời đô khỏi Hoa Lư và những
thuận lợi của đất Đại La để chọn nơi này là kinh đô mới.
Việc dời đô là một công việc to lớn, hệ trọng với dân tộc. Để an lòng dân chúng,
Lí Thái Tổ đã nêu tên các vương triều thịnh vượng Thương, Chu trong sử sách
Trung Quốc đã không ngần ngại dời đô nhiều lần, tìm nơi đất lành đóng đô mà đất
nước thịnh vượng. Lấy người xưa làm gương mà xét việc nay, chuyện dời đô của
vua cũng là một quyết định thuận mệnh trời nên hợp lòng người. Bằng tầm nhìn xa
rộng, Lý Thái Tổ nhận thấy việc đóng đô ở vùng Hoa Lư đã không còn phù hợp
nữa: "Cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số
phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi". Quả vậy,
Hoa Lư là vùng có địa thế hiểm trở, hang động, núi non nhiều thuận lợi trong
phòng thủ. Trong thời Đinh và Tiền Lê, Hoa Lư là lựa chọn chiến lược. Nhưng đến
đời Lý thì đất nước phát triển, kinh đô phải ở nơi rộng lớn, địa thế thuận lợi cho
phát triển kinh tế, Hoa Lư không thể đáp ứng được. Một nhu cầu tự nhiên là phải
tìm nơi khác.Nơi khác mà Lý Thái Tổ chọn là thành Đại La.
Theo tác giả, thành Đại La có vị thế thuận lợi về nhiều mặt. Địa thế nơi này
phù hợp cho cả nhu cầu phòng thủ và phát triển“Đã đúng ngôi nam bắc đông tây;
Lại tiện hướng nhìn sông dựa núi”.Thuận lợi cho dân sinh sống, làm ăn, và thuận
lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp “Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà

8


thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong
phú, tốt tươi”. Đại La còn ở vào vị trí trọng yếu, là nơi hội tụ của các nẻo đường
đất nước, đầu mối giao thông và giao lưu kinh tế, văn hóa “Thật là chốn tụ hội của
bốn phương đất nước” nên xứng đáng là bộ mặt của một quốc gia độc lập, tự
cường, có uy thế trong khu vực “Cũng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn

đời” Nơi định đô mới này sẽ đáp ứng được vai trò là đầu mối trung tâm của kinh tế,
chính trị, văn hoá của đất nước. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh nhận định rằng tầm nhìn
của Lý Thái Tổ là “tầm nhìn văn hóa, chứng tỏ có con mắt lịch sử, con mắt địa lý,
con mắt kinh tế rất bao quát, rất sâu xa. Từ trong hang động Hoa Lư, chuyển ra
vùng đất chính giữa đồng bằng sông Hồng này, là cả một hình thành trưởng thành
của dân tộc. Từ nơi hang động, Lý Thái Tổ chuyển ra giữa thanh thiên bạch nhật,
trên cái thế voi quì hổ đứng, lúc đó có hùng khí của Nghĩa Lĩnh, Tam Đảo, Ba Vì,
Phù Đổng, Mê Linh hội tụ, và sau này sẽ có cả Tức Mặc, cả Côn Sơn hướng về. Và
cho đến bây giờ thì ta càng thấy rõ hơn”[28,2]
Quyết định dời đô của Lý Công Uẩn thể hiện một tinh thần nhạy bén và linh
hoạt trong trị nướcnếu thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên vận nước lâu dài,
phong tục phồn thịnh. Đồng thời quyết định này của vua cũng lý giải nguyên nhân
triều Lý trở thành triều đại vững bền vào bậc nhất trong lịch sử nước ta. Ấy là bởi
vì những việc làm của triều đại này đã xuất phát từ lợi ích của đất nước và nhân
dân.
Chiếu dời đô là một văn bản biền ngẫu chuẩn mực: kết cấu chặt chẽ, lập luận
giàu sức thuyết phục, câu văn đăng đối nhịp nhàng. Giữa những lí lẽ sắc sảo, tác giả
cũng không ngần ngại thể hiện tình cảm chân thành. Khi thì trực tiếp bộc lộ Trẫm
rất đau xót về việc đó. Lúc lại ân cần, cầu thị Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của
đất ấy để định làm nơi ở. Các khanh thấy thế nào?. Câu kết Trẫm muốn dựa vào sự
thuận lợi của đất ấy để định làm nơi ở Các khanh nghĩ thế nào? vừa thể hiện tính
quyết đoán của đấng minh quân lại vừa thể hiện tinh thần dân chủ. Ngay điều này
nữa cũng là một phần sức mạnh thuyết phục của Chiếu dời đô.
9


2.2

Chiếu đánh dẹp họ Nùng, Chiếu xá thuế –Sự uy nghiêm và
trung hậu của vua Lý Thái Tông

2.2.1 Chiếu đánh dẹp họ Nùng (Bình Nùng chiếu)
Lý Thái Tông là ông vua thứ hai của triều Lý, lên ngôi lúc 28 tuổi, đang tuổi

tráng niên. Ông là võ tướng trước khi là hoàng đế. Suốt những năm còn là Đông
cung thái tử cho đến 27 năm ở ngôi, ông luôn thể hiện tài thao lược của mình. Năm
20 tuổi, được giao là nguyên soái, cầm quân đánh Chiêm Thành; năm 24 tuổi cầm
quân đi đánh Phong Châu; hai năm sau đi đánh Diễn Châu; 27 tuổi đi đánh châu
Thất Nguyên; năm 33 tuổi đánh châu Định Nguyên; 35 tuổi đánh châu Ái; 39 tuổi
đánh Nông Tồn Phúc; 42 tuổi đánh Nùng Trí Cao; 44 tuổi đánh Chiêm Thành. Mỗi
lần đánh trận, ông lại lập thêm những chiến công chói lọi.
Tháng ba năm Kỉ Mão (1039) sau khi tự cầm quân đánh dẹp Nùng Tồn Phúc
ở châu Quảng Nguyên (Cao Bằng ngày nay), Lý Thái Tông ban Chiếu đánh dẹp họ
Nùng (Bình Nùng chiếu). Nội dung bài chiếu có hai phần: phần một khẳng định tính
chính danh của triều đại nhà Lý, phần hai là hạch tội Tồn Phúc.
Tính chính danh của triều đại được Lý Thái Tông khẳng định rõ ràng, đầy
trang trọng: “Trẫm từ làm chủ thiên hạ tới nay, các bề tôi văn võ, không người nào
dám bỏ tiết lớn; phương xa cõi lạ, không nơi nào không thuần phục” Phải nói
rằng, lời khẳng định “làm chủ thiên hạ” và cách nói phủ định hai lần “không người
nào dám bỏ tiết lớn”, “không nơi nào không thuần phục” thể hiện vị thế trưởng
thành của Đại Việt thời Lý. Nhà vua lấy dẫn chứng ngay bằng thái độ thuần phục
của họ Nùng từ trước đến nay: “Mà họ Nùng từ đời này qua đời khác cũng giữ yên
bờ cõi được phong, hằng năm điều nộp cống phẩm”. Đến phần hạch tội Tồn Phúc,
lời chiếu tuyên án nghiêm khắc: “Nay, Tồn Phúc càn rỡ, tự tôn tự đại, tiếm xưng vị
hiệu, ban hành chinh lệnh, tụ tập quân ong kiến, làm hại dân biên thùy. Vì thế trẫm
cung kính thi hành mệnh trời trách phạt” Cách gọi Tồn Phúc là “càn rỡ”, “tiếm

10


xưng”, quân nổi loạn là “ong kiến” là cách nói của bề trên với kẻ dưới, người chính

danh với kẻ tiếm xưng, phân biệt rạch ròi hai bên chính- tà, phải- trái.
Nội dung ngắn gọn, khúc chiết, lời lẽ uy nghiêm, Chiếu đánh dẹp họ Nùng
(Bình Nùng chiếu) mang cái oai phong nhân danh chính nghĩa của bậc thiên tử điếu
dân phạt tội đồng thời phản ánh xu thế thống nhất của nước ta lúc bấy giờ.
2.2.2

Chiếu xá thuế (Xá thuế chiếu)

Chiếu xá thuế là một bài chiếu khá ngắn gọn, chỉ có 4 câu. Ba câu đầu nêu lí
do xá thuế, câu cuối là lời tuyên bố xá thuế.
Phải biết, chiếu này ban ra vào năm Giáp Thân 1044, sau khi đi đánh Chiêm
Thành về. Cuộc Nam chinh chắc chắn khiến công khố hao hụt nhiều, may mắn
thay, nhân dân “mùa đông năm nay được mùa lớn”. Điều đó dễ khiến người ta nghĩ
nhà vua sẽ tăng thuế nhằm bù quốc khố. Ấy vậy mà Lý Thái Tông lại ban chiếu xá
thuế, việc thường chỉ làm mỗi khi thiên tai khiến dân mất mùa. Lí lẽ của vị vua thứ
hai đời nhà Lý đưa ra thật trung hậu. Bởi vì, năm qua “việc đánh dẹp phương xa
làm tổn hại đến công việc nhà nông”. Việc xá thuế khiến quốc khố của vua có hao
hụt nhưng đời sống của nhân dân thêm phần ấm no. Theo nhà vua “Nếu trăm họ
đều no đủ thì trẫm còn lo gì thiếu thốn?”. Nhân cách của vị minh quân thể hiện ở
đây là sự thống nhất thậm chí là đồng nhất giữa quyền lợi vương triều, quyền lợi cá
nhân với lợi ích trăm họ. Bởi lẽ giản dị dân có giàu thì nước mới mạnh, vương triều
tồn vong hay không là do có biết dựa vào dân hay không. Tầm nhìn xa rộng của
con người vĩ đại ấy thể hiện rõ ở tư tưởng thân dân, lấy dân làm gốc- bí quyết trị
nước duy nhất của các vua hiền.
Lời tuyên bố xá thuế “xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay để an ủi nỗi
khó nhọc lội suối trèo đèo”nghe thật xúc động. Hóa ra, ngay trong thắng trận, vua
Lý không say sưa, đắm chìm trong thắng lợi và sự tự mãn về tài thao lược của
mình. Vua vẫn hiểu chiến thắng công lao cá nhân mà còn là “nỗi khó nhọc lội suối
trèo đèo” của muôn dân.Quan điểm của nhà vua được Phó Giáo sư Đoàn Thị Thu
11



Vân nhận định: “Một lần nữa thấy được thái độ trọng dân của nhà vua. Thật công
bằng. Người dân tạm gác việc gia đình, việc mưu sinh để theo vua vất vả gian lao
trong chiến chinh, công sức ấy cần phải được ghi nhận và đền bù. Dân không phải
là tôi tớ hay công cụ phục vụ cho lợi ích của vương triều. Mối quan hệ giữa dân và
vua không chỉ có một chiều là cung ứng, cống hiến mà còn có chiều ngược lại:
được đãi ngộ và cùng hưởng thụ thành quả. Vua biết đến công của dân như thế, lẽ
nào dân lại tiếc thân mình không đáp lại mệnh lệnh của vua khi đất nước cần? Lẽ
công bằng này không phải dễ thực hiện nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình, nhất là đối
với người đang là kẻ mạnh, đang nắm quyền lực tối thượng trong tay. Cái lớn lao
trong nhân cách của vị vua nhà Lý là ở đó” [8]
2.3

Chiếu để lại trước khi mất- tấm lòng vô ngã, khiêm cung của
vua Lý Nhân Tông

Sinh ngày 25 tháng giêng năm Bính Ngọ (1066), ngay ngày hôm sau (26), Lý
Càn Đức được phong Hoàng Thái tử. Năm 1072, khi vừa tròn 7 tuổi, ông nối ngôi
vua cha, lấy hiệu Nhân Tông. Lên ngôi khi còn ít tuổi nhưng may mắn thay, bên
cạnh vua Nhân Tông có nhiều người hiền tài phò tá. Đó là |Linh Nhân hoàng thái
hậu Ỷ Lan, bên văn Lý Đạo Thành, bên võ Lý Thường Kiệt. Nhà vua lại sớm tỏ ra
là một người thông minh, nhanh chóng quán xuyến công việc triều đình. Trị vì suốt
56 năm, dưới triều vua Lý Nhân Tông, Đại Việt trở thành một quốc gia hùng mạnh,
đạt nhiều thành tựu lớn lao về mọi mặt. Về quân sự, kháng chiến chống Tống
thành công, lời thơ thần Nam quốc sơn hà trở thành bản tuyên ngôn độc lập đầu
tiên của nước Việt. Về giáo dục, mở khoa thi tam trường đầu tiên còn gọi là Minh
kinh bác học để chọn người hiền tài, lập trường Quốc Tử Giám.Về nông nghiệp,
vua đắp đê Cơ Xá bảo vệ mùa màng. Trong sử sách đương thời và đời sau vua được
ngợi ca là vị minh quân. Trong di chiếu để lại, qua việc tự đánh giá về mình, Lý

Nhân Tông còn khiến người đời ngưỡng mộ về sự trung hậu, vô ngã hiếm có.
Chiếu để lại trước khi mất (Lâm chung di chiếu) mở đầu bằng một tư tưởng
đậm chất Phật giáo- sống chết là lẽ thường của vũ trụ “Trẫm nghe: các giống sinh

12


vật không giống nào không chết. Chết là số lớn của trời đất, là lẽ đương nhiên của
muôn loài” . Nhà vua xem nhẹ cái chết là bởi thấu rõ nguyên lí vận hành của vũ
trụ, điều đó thể hiện nhân cách lớn lao của bậc hiền minh: thuận theo lẽ thường,
khi đã hết tuổi trời, không tham sống sợ chết như kẻ phàm phu ngu muội. Chính
tâm lí bình thản của người sắp ra đi đã giảm nhẹ sự bi thương cho người còn sống.
Từ việc xem sự chết là bình thường, nhà vua cho rằng chuyện tang lễ linh đình làm
hao tổn tiền của và tang chế khóc thương đến hao tổn thân thể là những việc đáng
phê phán.
Lo rằng triều đình vì cái chết của mình mà phiền lụy trăm họ, nhà vua tha
thiết căn dặn: “Trẫm đã ít đức, không làm gì cho trăm họ được yên, đến khi chết đi
lại bắt dân chúng mặc xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, để làm
nặng thêm lỗi lầm của trẫm thì thiên hạ sẽ bảo trẫm là người như thế nào?”.
Nhìn lại quãng thời gian trị vì, vua Lý Nhân Tông tâm sự chân thành, khiêm
nhường: “Trẫm vẫn xót vì tuổi nhỏ phải đảm đương ngôi báu lớn, ở trên các vương
hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi, đến nay đã năm mươi sáu năm. Nhờ anh
linh của tổ tông và hoàng thiên tin giúp nên bốn bể yên lành, biên thùy ít loạn, đến
khi chết đi được dự đứng sau tiên đế là may lắm rồi, việc gì còn phải khóc
thương?”.
Sau đó, nhà vua mới cắt đặt mọi việc trong triều: chỉ định và răn dạy người nối
nghiệp, dặn dò bề tôi trung thành việc phòng bị điều bất trắc. Và sau cùng, vua lại
một lần nữa nhắc lại tâm nguyện của mình: “Việc tang thì sau ba ngày nên bỏ áo
trở, thôi khóc than. Chôn cất thì nên theo cách kiệm ước của Hán Văn Đế, không
cần xây lăng tẩm riêng, hãy để trẫm được hầu bên cạnh tiên đế”. Trở đi trở lại

trong di chiếu của vua là tâm nguyện mong muốn việc tang chế của mình được tiến
hành đơn giản, gọn tiện, không gây hao tổn. Trong thứ dân, vợ để tang chồng, con
để tang cha mẹ cũng đà ba năm. Là bởi việc tang chế vốn là đại sự. Trong chốn
cung đình, không ít vua khi sống không làm nên công trạng gì, cứ chăm chăm tìm
thuốc, luyện đan hòng kéo dài chuỗi ngày hưởng thụ, lại chăm chăm xây lăng mộ
13


nguy nga tráng lệ cho mình. Ấy cũng là lẽ thường con người đầy “ngã chấp”, người
càng quyền lực, “ngã chấp ” càng cao. Vậy mà, vị vua Lý Nhân Tông, sự nghiệp
lẫy lừng là thế lại yêu cầu để tang ba ngày, chôn cất kiệm ước, không xây lăng tẩm
riêng, để không đình trệ công việc triều chính, không phiền lụy muôn dân. Lời dặn
dò của vua thực đã vượt ra khỏi “ngã chấp”, quên cái cá nhân, chỉ biết nghĩ cho
người khác. Sự trung hậu, chân thành, chu đáo của vua thể hiện trong di chiếu thật
khiến người đời nể phục và ngưỡng mộ.
2.4

Chiếu hối lỗi- sự thức tỉnh muộn màng của vua Lý Cao Tông

Lý Cao Tông, vị vua thứ bảy nhà Lý ngồi vào ngai vàng lúc 3 tuổi. Suốt 35 năm
trị vì, vua “ham mê săn bắn, vơ vét của dân, xây nhiều cung điện, bắt trăm họ phải
phục dịch khổ sở, nạn trộm cắp nổi lên như ong” [135,2] Sự bê tha của vua khiến
đất nước lâm vào khủng hoảng, họa mất nước đã rất gần. Năm 1208, thấy giặc giã
nổi lên khắp nơi, vua nghĩ về những lỗi lầm quá khứ, ban Chiếu hối lỗi (Truy hồi
tiền quá chiếu).
Bài chiếu gồm bốn câu. Hai câu đầu là sự kiểm điểm của nhà vua. Truy về
nguyên nhân khiến mình lầm lỗi, vua cho rằng: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác
việc lớn, ở tận nơi cửu trùng, không biết được cảnh khó khăn của dân chúng, nghe
lời bọn tiểu nhân mà gây nên oán với kẻ dưới” Nhà vua thể hiện thái độ chân thành
“Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai”.Hai câu sau là lời hứa hẹn “Nay trẫm sẽ

sửa lỗi, cùng dân đổi mới. Ai có ruộng đất, sản nghiệp bị sung công sẽ được hoàn
lại".
Với Chiếu hối lỗi, vua Lý Cao Tông là vị vua đầu tiên trong lịch sử dám nhận
sai, xin lỗi dân chúng. Tuy nhiên, sự xin lỗi của vua quá muộn màng, giữa lúc triều
đình mục ruỗng, không có người tài, chính sự đổ nát, dân tình khốn khổ. Khi vua
nhận ra lỗi lầm thiên hạ đã loạn lạc đến độ quân Quách Bốc làm phản nổi dậy cướp
quyền, vua phải chạy trốn lên vùng Sông Thao (Phú Thọ). Sau khi nhận lỗi, nhà
vua cũng không có môt chính sách khả dĩ vực dậy đất nước. Để rồi 2 năm sau,vua
14


qua đời, di sản cho con Lý Huệ Tông là một đất nước trên đà suy vi không thể cứu
vãn.
Điều đáng lưu ý trong bài chiếu này là trong vị thế của người có lỗi, vua chân
thành khẳng định “Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai?” Tư tưởng lấy dân
làm gốc là tư tưởng lớn xuyên suốt triều đại nhà Lý. Đến đời Lý Cao Tông, nhà vua
trong những năm trị vì thuở tráng niên đã không nhớ đến dân, nhưng đến lúc nguy
cơ mất nước thấy trước mắt đã thốt lên tư tưởng ấy một cách trực tiếp, cụ thể nhất.
“Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai?” Nhà vua trước hiện thực lịch sử,
không còn là thiên tử, chăn dắt muôn dân, bảo bọc dân đen con đỏ, mà hiểu rõ dân
là nơi để “trẫm” dựa vào . Dù muộn màng, sự thức tỉnh của vua Lý Cao Tông sẽ là
bài học chân lý nhãn tiền cho kẻ cầm quyền hậu thế.

15


KẾT LUẬN
Do vua ban hành, chức năng đầu tiên của thể loại chiếu là chức năng hành
chính có tính quan phương. Vì thế, nội dung chiếu thường rõ ràng, rành mạch, văn
phong vừa đảm bảo sự uyên bác, vừa dễ hiểu dễ tiếp thu. Thể chiếu thường được

viết bằng văn biền ngẫu với nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí lẽ thấu đáo và các vế
câu đăng đối nhịp nhàng, đọc lên nghe có nhạc tính, thuận tai.
Những bài chiếu xuất sắc đời Lý không chỉ là phương diện thể hiện rõ tư
tưởng nhà vua trong thuật trị nước, trị dân mà còn là những áng văn chương trác
tuyệt. Tìm hiểu thể loại chiếu qua các bài chiếu đời Lý khiến chúng ta vừa có cơ
hội hiểu biết sâu về thể loại riêng của văn học trung đại vừa lí giải sự vững bền của
triều đại hưng thịnh vào bậc nhất lịch sử Việt Nam.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁCH
1. Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long (Trần Thanh Đạm, Phạm Thị Hảo dịch), Nxb
Văn học, 2006
2. Vũ Ngọc Khánh, Tám vị vua triều Lí, Nxb Hồng Đức, 2013
3. Lê Thành Khôi, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XX, Nxb Thế
Giới, 2014
4. Hoàng Phê chủ biên, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006
5. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo
dục, 1999
6. Viện Văn học ,Thơ văn Lý Trần, tập I, Nxb Khoa học xã hội, HN, 1977.
TÀI LIỆU TRÊN INTERNET
7. Nguyễn Thị Anh, Tìm hiểu thể loại chiếu và hệ thống văn bản chiếu trong
lịch sử Việt Nam,

/>
loai-chieu-va-he-thong-van-ban-chieu-trong-lich-su-viet-nam.html truy cập
lần đầu 12/03/2017
8. Đoàn Thu Vân, Ba bài chiếu đời Lý, một tầm cao văn hóa mở đầu cho kỉ

nguyên Thăng Long- Đại Việt. www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-mucgoc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/ba-bai-chieu-doi-ly-mot-tamcao-van-hoa-mo-dau-cho-ky-nguyen-thang-long-dai-viet truy cập lần đầu
14/3/2017

17



×