Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu phân chia điều kiện lập địa phục vụ trồng rừng chống xói lở ven sông và kênh rạch vùng nước lợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------

LÃ NGUYÊN KHANG

NGHIÊN CỨU PHÂN CHIA ĐIỀU KIỆN LẬP ĐỊA PHỤC VỤ TRỒNG
RỪNG CHỐNG XÓI LỞ VEN SÔNG VÀ KÊNH RẠCH VÙNG NƯỚC LỢ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------

LÃ NGUYÊN KHANG

NGHIÊN CỨU PHÂN CHIA ĐIỀU KIỆN LẬP ĐỊA PHỤC VỤ TRỒNG
RỪNG CHỐNG XÓI LỞ VEN SÔNG VÀ KÊNH RẠCH VÙNG NƯỚC LỢ

Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số



: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học
TS. PHÙNG VĂN KHOA

HÀ NỘI, 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bờ biển Việt Nam nằm trài dài trên 3.200km với 114 cửa sông lớn nhỏ và có
thể chia làm 4 vùng tự nhiên là Vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Vịnh
Thái Lan. Hàng năm, nước ta có khoảng 6 ÷ 10 cơn bão đổ vào dải ven bờ đã và
đang là mối đe dọa nghiêm trọng đến môi trường sinh thái và đời sống của con
người. Trong những thập niên qua, hiện tượng xói lở bờ sông, cửa biển tăng cả quy
mô và tính chất nguy hiểm, có đến 397 đoạn bờ đã và đang bị xói lở với tổng chiều
dài 920km, tốc độ bình quân 5 ÷ 10m/năm, cá biệt có đoạn 30 ÷ 50m/năm, thậm chí
đến 120m/năm. Ở vùng châu thổ sông Hồng và sông Mê Kông nổi tiếng về bồi tụ,
xói lở xuất hiện. Châu thổ sông Mê Kông, bờ Bồ Đề dài 36km bị xói lở 30 ÷
50m/năm trong nhiều năm. Ở châu thổ sông Hồng, dải bờ Giao Hải - Văn Lý dài
30km bị xói lở 10 ÷ 15m/năm hơn nửa thế kỷ qua, mặc dù đã có đê kè ngăn chặn
(Tiến và nnk, 2002). So sánh xói lở bờ biển Hải Hậu nằm giữa cửa Ba Lạt và Lạch
Giang, qua hai giai đoạn 1965 - 1990 và 1991 - 2000, trên chiều dài gần 20km, mặc
dù ít bão nhưng tốc độ xói lở tăng từ 8,6m/năm lên 14,5m/năm và diện tích xói sạt
tăng từ 17ha/năm lên 25ha/năm (Thanh et al, 2004).
Tác dụng của các dải rừng phòng hộ vùng ven bờ vùng cửa sông đóng một

vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển đất bồi tụ, hạn chế xói lở
bờ, làm giảm tốc độ gió, sóng và dòng triều vùng có đê ven biển và trong cửa sông.
Ngoài tác dụng chắn sóng, chắn gió bảo vệ vùng bờ, lắng đọng phù sa ..., rừng
phòng hộ ven bờ còn có tác dụng cải thiện môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho
cư trú, sinh sản và hình thành năng suất của nhiều loài hải sản, chim nước, chim di
cư, làm phong phú thêm nguồn tài nguyên động vật ven biển. Từ thực tế đã chứng
minh ở vùng ven bờ nào duy trì được hệ thống rừng phòng hộ thì ở đó ngặn chặn
hoặc giảm thiểu được quá trình xói lở và sa bồi cửa sông, giảm thiểu được những
thiệt hại do thiên tai gây ra, điều này đã chứng tỏ những dải rừng phòng hộ ven bờ
có một vai trò hết sức quan trọng trong bảo vệ môi trường.
Mặc dù giá trị của rừng phòng hộ dải ven bờ rất lớn nhưng do chưa có
phương thức và kỹ thuật quản lý thích hợp mà diện tích rừng phòng hộ, đặc biệt là
rừng tự nhiên bị suy giảm nhanh chóng. Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp


2

và Phát triển nông thôn, diện tích rừng ngập mặn trên toàn quốc tính đến hết tháng
12 năm 2008 là 64.042 ha. So với năm 1999, diện tích rừng ngập mặn là 156.608
ha thì diện tích rừng ngập mặn nước ta giảm 92.566 ha, khoảng 59%. Những
nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng đó là hoạt động khai phá rừng ngập mặn để
lấy đất sản xuất nông nghiệp và phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thuỷ sản. Tham
gia vào khai thác đất rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản không chỉ có các hộ gia
đình sống ở vùng rừng ngập mặn, mà còn có cả những tổ chức và cá nhân có năng
lực kinh tế ở các thành phố lớn, thậm chí ở nước ngoài, họ muốn đầu tư vào Việt
Nam với mục tiêu nhanh chóng sinh lời. Một trong những nguyên nhân quan trọng
khác là việc quản lý rừng ngập mặn còn lỏng lẻo của các cơ quan Nhà nước, sự phối
hợp không chặt chẽ giữa các ngành, các cấp ở địa phương trong quy hoạch và phát
triển rừng ngập mặn.
Nhận thức được những thiệt hại to lớn do bị suy giảm về diện tích, chất

lượng rừng ngập mặn, trong những năm qua Nhà nước đã đầu tư nhiều tỷ đồng để
xây dựng và kiên cố hoá hệ thống kè đê bờ sông, đê biển. Nhưng hàng năm nhiều
đoạn đê vùng cửa sông, ven biển vẫn bị xói lở mạnh mẽ, thậm chí nứt, sạt vỡ, ảnh
hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội của các địa phương. Để giảm thiệt hại
của thiên tai, trong những năm gần đây Chính phủ đã phối hợp với nhiều tổ chức
trong và ngoài nước đầu tư kinh phí và kỹ thuật để khôi phục và trồng mới rừng
phòng hộ ven bờ ở nhiều nơi như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình, Nghệ An, Thanh Hoá .... Tuy nhiên, việc xây dựng và quản lý rừng
phòng hộ cho dải ven biển nói chung hay các vùng cửa sông, kênh rạch nói riêng
còn thiếu cơ sở khoa học. Trên thực tế phần lớn người ta trồng rừng phòng hộ ở
vùng cửa sông, kênh rạch là dựa vào kinh nghiệm, họ thường áp dụng các biện pháp
phân vùng chọn đất, chọn loài cây, kỹ thuật trồng rừng thông thường mà chưa có
nhiều luận cứ khoa học để phân chia lập địa thích hợp với loài cây đem trồng, nên ít
nhiều đã ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng rừng trồng. Nhằm đóng góp cơ sở
khoa học cho công tác xây dựng rừng phòng hộ cửa sông, kênh rạch vùng nước lợ
chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu phân chia điều kiện lập địa phục vụ trồng
rừng chống xói lở ven sông và kênh rạch vùng nước lợ”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Những nghiên cứu về lập địa và phân chia điều kiện lập địa
Lập địa nguyên tiếng Đức là Standort, từ này gồm hai từ gộp lại là “Stand”
và “Ort”, Stand có nghĩa là trạng thái, hoàn cảnh, còn Ort có nghĩa là địa phương.
Như vậy, Standort có nghĩa là hoàn cảnh tự nhiên ở một địa phương hay địa bàn cụ
thể. Từ Standort được các nhà khoa học Trung Quốc dịch là Li-Ti, Việt Nam dùng
theo nguyên âm Hán - Việt là lập địa. Còn tiếng Anh là Site, tiếng Pháp là Station.

Theo các nhà lập địa Đức: “Dưới khái niệm lập địa ta hiểu một phạm vi địa
hình nhất định với tất cả những yếu tố của ngoại cảnh ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
của cây cối” [51]. Ở Liên Xô (cũ), lập địa được hiểu là những điều kiện của nơi sinh
trưởng rừng, nghĩa là các yếu tố ngoại cảnh tác động và tạo nên các kiểu rừng nhất
định và ảnh hưởng tới sức sinh trưởng của rừng. Năm 1955, Hills [17] đã đưa ra
định nghĩa lập địa như sau: “Lập địa là một phức hợp hoàn cảnh của khí hậu, địa
hình, nền vật chất tạo đất, đất, nước ngầm, cộng đồng của động thực vật và con
người”. Năm 1971, dựa theo thuyết lâm hình của Sucasep (1958). W.Schwanecker
[51] đã đưa ra các yếu tố hình thành lập địa (bảng 1.1).
Bảng 1.1. Các yếu tố hình thành lập địa (W.Schwanecker, 1958)
Các yếu tố tĩnh:
Khí hậu
Địa hình
Đất
Các yếu tố động:
Thế giới động vật
Thế giới thực vật
Thế giới vi sinh vật
Các yếu tố nhân tác:
Xã hội con người

Sinh thái cảnh
(lập địa theo
nghĩa hẹp)

Quần thể
sinh vật

Sinh địa quần
thể tự nhiên

(lập địa theo
nghĩa rộng)

Sinh địa quần
thể nhân tác


4

Như vậy, khái niệm lập địa bắt đầu từ khái niệm sinh thái phát sinh và mang
tính chất khu vực, không gian thuộc về một lãnh thổ bất kỳ, bắt đầu từ toàn bộ trái
đất và kết thúc ở một khoảnh nhỏ bé.
Tóm lại, xác đinh lập địa tức là xác định những yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng
và quyết định đến sự hình thành các kiểu quần hệ thực vật khác nhau (quần thể tự
nhiên và thứ sinh) và năng suất sinh trưởng của chúng.
Các nhà lâm nghiệp Đức như Krutch (1814, 1849) Pleil (1821, 1829),
Ramann (1867, 1885) và Valter (1887, 1925) tiến hành nghiên cứu lập địa trong
mối quan hệ hẹp đó là mối quan hệ giữa sinh trưởng của thực vật rừng với các yếu
tố của môi trường thông qua khí hậu, địa hình, đất mà không cần chú ý tới yếu tố
địa lý. Thực chất của phương pháp này là phương pháp phân kiểu lập địa. Sau này
phương pháp này vẫn được John.R.Fones (1969) [61] sử dụng.
Sang thế kỷ 20 phương pháp phân vùng lập địa của Krauss (1825, 1835,
1935, 1954) ra đời bằng việc nghiên cứu mối quan hệ giữa thực vật rừng và lập địa
trong một không gian nhất định, nó bao gồm việc mô tả, phân tích, hệ thống hóa và
vẽ bản đồ từng lập địa riêng lẻ.
Sau đó ngành lâm nghiệp Đức đã kết hợp hai phương pháp trên thành một
phương pháp điều tra lập địa tổng hợp và kết quả điều tra lập địa lâm nghiệp ở vùng
đồng bằng và trung du Cộng hòa dân chủ Đức (cũ) do Kopp và Schwanecker làm,
tương đồng với kết quả điều tra phân vùng lập địa nông nghiệp do Schmidt và
Dietmann làm năm 1974. Tổng kết các kinh nghiệm điều tra lập địa trong và ngoài

nước, các giáo sư H.I.Friedler,W.H. Neber và W. Hunger (1982) (trích dẫn từ
Nguyễn Văn Khánh (1996)) [22] đã biên soạn “Giáo trình điều tra lập địa chú ý tới
vùng nhiệt đới”, giáo trình này đã đưa ra các đơn vị lập địa cơ bản, như: vùng sinh
trưởng, khu sinh trưởng, phạm vi bức khảm và dạng lập địa. Mỗi đơn vị lập địa đều
có sự so sánh với đơn vị khí hậu và đơn vị cảnh quan cụ thể.
Trên cơ sở học thuyêt Docuchaep, ở Nga và Liên Xô (cũ) lại có nhiều kiểu
phân chia tự nhiên để phục vụ sản xuất nông - lâm nghiệp. Trong lâm nghiệp


5

Sucasep cho rằng “Kiểu rừng chỉ có thể phân loại ở nơi có rừng, nơi không có rừng
cần xác định kiểu điều kiện lập địa. Kiểu điều kiện lập địa là tập hợp những khoảnh
đất có khả năng xuất hiện những thực vật giống nhau, nghĩa là ở phức hệ giống
nhau về các yếu tố tự nhiên, như: khí hậu, đất đai,…”, cùng thời điểm đó
Pronhepnhiac, một chuyên gia trồng rừng đã đưa ra phương pháp xác định lập địa
phục vụ cho trồng rừng và phương pháp này đã được ứng dụng rộng rãi ở Ucraina
(1955). Trên cơ sở của hai yếu tố độ phì và độ ẩm có sự tham gia của thực vật chỉ
thị, ông chia độ phì ra 4 nhóm, mỗi nhóm ứng với một kiểu rừng nhất định. Độ ẩm
đất chia ra làm 6 cấp từ khô đến đầm lầy. Độ ẩm và độ phì kết hợp với nhau dưới
một điều kiện khí hậu nhất định tạo ra các đơn vị lập địa.
Sau đó một hướng phân loại lập địa khác được thực hiện bởi các nhà khoa
học Blaglovidop, Buakep (1958, 1959) và Trectov (1977, 1981). Blaglovidop và
Buakep cho rằng đặc điểm quần hệ thực vật rừng hình thành phụ thuộc vào các yếu
tố khí hậu, đá mẹ hình thành đất, địa hình và mức độ thoát nước. Theo Trectop
(trích dẫn từ Đỗ Đình Sâm,1990) [31] ba yếu tố này phản ánh tiềm năng sản xuất
của lập địa và tác động tổng hợp thông qua sự hình thành các kiểu mùn của đất rừng
nghĩa là mỗi kiểu mùn hình thành phản ánh đặc điểm của ba yếu tố trên.
Ở Trung Quốc, khái niệm lập địa được du nhập vào từ những năm sau giải
phóng (1950) nhưng phát triển rất chậm chạp, mãi đến những năm 90 của thế kỷ

XX các nhà khoa học Trung Quốc mới thực sự chú ý đến nó. Năm 1993, Dương Kế
Cảo (trích dẫn từ Nguyễn Văn Khánh, 1996) [22] đã tiến hành áp dụng phương
pháp điều tra và phân vùng lập địa ở Thái Hàng Sơn - một khu vực rộng lớn
(100.000 km2) thuộc Đông Bắc Trung Quốc. Sáu cấp phân vị đã được tác giả sử
dụng để điều tra là: (1) Cấp khu lập địa; (2) Cấp á khu lập địa: Phân chia theo sự
khác nhau của khí hậu có sự tham khảo của địa mạo và thực vật; (3) Tiểu khu lập
địa: Phân chia theo địa mạo và nham; (4) Nhóm kiểu lập địa: Phân chia theo độ
cao tuyệt đối, hướng dốc, vị trí dốc, độ dốc (dưới 150 và trên 150 ); (5) Kiểu lập địa:
Phân chia theo độ dày tầng đất (dưới 30cm và ≥ 30cm), chất đất (sét - thịt - thịt pha
cát - cát); (6) Kiểu phụ lập địa: Phân chia theo độ dày tầng đất mặt (dưới 15cm và


6

≥ 15cm), độ pH (pH < 6,5; pH: 6,5 ÷ 7,5; pH > 7,5) mức nước ngầm (nông < 0,5m;
trung bình: 0,5m ÷ 1,5m; sâu > 1,5m).
Ngoài ra, một số nghiên cứu khác về lập địa trên thế giới được thực hiện trên
một diện tích hẹp, đó là sử dụng kiểu lập địa để đề xuất tập đoàn cây trồng như
trong nghiên cứu của Petec.R.Stevens (1986), hoặc ở Úc đã tiến hành đánh giá độ
thích hợp của một loài cây cụ thể trên một lập địa cụ thể (trích dẫn từ Nguyễn Văn
Khánh, 1996) [22].
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của vùng nước lợ
Nước lợ là nước có độ mặn cao hơn nước ngọt nhưng không cao bằng nước
mặn. Nước lợ có thể được tạo ra do sự pha trộn nước ngọt với nước biển như vùng
cửa sông hoặc do các bể nước ngầm/tầng ngậm nước bị ảnh hưởng bởi các loại hoá
thạch lợ. Về phương diện kỹ thuật, hàm lượng muối trong nước lợ dao động trong
khoảng từ 0,5 ÷ 30 g/lít và thường được biểu thị bằng 0.5 ÷ 30 phần nghìn (ppt hoặc
‰). Nhìn chung, trong nhiều trường hợp, độ mặn của nước lợ không cố định mà nó
thay đổi theo không gian và thời gian (Wikipedia, 2009). Vì vậy, theo khái niệm
này thì toàn bộ vùng cửa sông Hồng của Việt Nam thuộc môi trường nước lợ do có

độ mặn trong khoảng 9.2 – 26.7‰ (Wösten và cộng sự, 2003) [60] .
Trong tự nhiên, các vùng nước lợ thường gặp chủ yếu bao gồm các vùng
cửa sông, khu vực rừng ngập mặn, biển nước lợ (như biển Baltic - vùng nước lợ lớn
nhất thế giới, biển Đen) và hồ nước lợ (như hồ Chillka - Ấn Độ, Hồ Charles - Hoa
Kỳ, Hồ de Oviedo tại Cộng hòa Dominicana) (Wikipedia). Tuy nhiên, vùng nước lợ
chủ yếu ở Việt Nam tập trung vào các vùng cửa sông chính như sông Hồng (cửa Ba
Lạt - Nam Định), sông Thái Bình (cửa Thái Bình), sông Mã (cửa Hới - Thanh Hoá),
sông Cả (cửa Hội - Hà Tĩnh) và các cửa của sông Mekong ở miền Nam (Nguyễn
Hữu Khải, Nguyễn Văn Tuần, 2001) [21] .
Các vùng cửa sông được chia làm 3 loại chính, bao gồm cửa sông ưu sóng
(wave-dominated, như cửa Ba Lạt (sông Hồng) tại Nam Định), cửa sông ưu phù sa


7

(fluvial dominated, như cửa sông Mekong tại miền Nam Việt Nam) và cửa sông ưu
thuỷ triều (tide-dominated) (Maren, 2004) [57] .
Sự xâm mặn từ biển khơi vào các cửa sông do sóng biển có thể gây ra các
vấn đề nghiêm trọng cho canh tác nông nghiệp và thuỷ sản nước ngọt nhưng lại
mang lại những nguồn lợi rất lớn cho nền canh tác nông ngư nước lợ (Hoanh và
cộng sự, 2009) [59]. Chiều dài vùng nước lợ của cửa sông thay đổi tương đối lớn
theo không gian và thời gian. Chẳng hạn, một số vùng cửa sông (của Pháp) thường
có chiều dài khoảng 25 ÷ 75 km nhưng ảnh hưởng của sóng thuỷ triều có thể vươn
tới cự ly khoảng 133 km tính từ cửa sông về phía đất liền (Mikhailova và Isupova,
2005) [62]. Trong khi đó, một số vùng cửa sông ở đồng bằng sông Cửu Long của
Việt Nam có chiều dài vùng nước lợ từ 20 ÷ 30 km tính từ mặt giáp biển về phía
ngược dòng sông (Nguyen và Savenije, 2006) [52].
Tại các vùng cửa sông trong khu vực Đông Nam Á, do lũ lụt diễn ra mạnh
mẽ cho nên gây ảnh hưởng lớn tới hiện tượng xói lở đất ven bờ, ven biển. Chẳng
hạn, vùng cửa sông Hồng của Việt Nam có thể xem là một ví dụ khá điển hình, bởi

vì trong khi ở chỗ này có quá trình tích tụ phù sa nhanh chóng thì chỗ khác lại diễn
ra quá trình xói lở nghiêm trọng. Thậm chí, có những nơi chỉ trong 2 thập kỷ đã có
tới 2 km đất bị xói lở và cuốn trôi trong khi có chỗ được bồi tụ tới 5 km (Maren,
2004) [57] .
1.1.3. Nghiên cứu về các nhân tố sinh thái dưới thảm thực vật vùng cửa sông,
ven biển
Nghiên cứu về các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến sự hình thành và phát
triển của thực vật vùng cửa sông, ven biển đã có nhiều tác giả đề cập đến. Theo V.J.
Chapman (1975) [55], có 7 yếu tố sinh thái cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển của
thực vật vùng này đó là: Nhiệt độ, thể nền đất bùn, sự bảo vệ, độ mặn, thủy triều,
dòng chảy hải lưu, biển nông. V.J. Chapman (1975) [55], P.B. Tomlinson (1986)
[67] cho rằng nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phân
bố của thực vật. Thực vật ở vùng cửa sông, ven biển sinh trưởng tốt ở môi trường


8

có nhiệt độ ấm, nhiệt độ của tháng lạnh nhất không dưới 200C, biên độ nhiệt theo
mùa không vượt quá 100C. P.Saenger và cộng sự (1983) (trích dẫn từ Nguyễn
Hoàng Trí, 1999) [41] đã giải thích sự có mặt thực vật ngập mặn ở một vùng nào đó
tùy thuộc nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước. A.N. Rao (1986) [64] nhận định
rằng trong các nhân tố khí hậu thì lượng mưa là nhân tố quan trọng với vai trò cung
cấp nguồn nước ngọt cho thực vật tăng trưởng và phát triển.
Trong các nhân tố sinh thái thì độ mặn là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng
đến tăng trưởng, tỷ lệ sống, phân bố các loài thực vật ở vùng nước lợ. De Hann (1931)
(trích dẫn từ Aksornkoae, 1993) [53] cho rằng rừng ngập mặn tồn tại, phát triển ở nơi
có độ mặn từ 10 ÷ 30‰ và các tác giả đã chia thực vật ngập mặn thành hai nhóm;
nhóm phát triển ở độ mặn từ 10 ÷ 30‰ và nhóm phát triển ở độ mặn từ 0 ÷ 10‰
Yếu tố giới hạn sự phân bố của rừng ngập mặn là sự thiếu vắng muối trong
đất và nước. Mỗi loại cây ngập mặn chịu đựng một độ mặn nhất định. Khi độ mặn

trong đất tăng và tầng bùn giảm thì cây còi cọc, cành ngắn, lá nhỏ và dày hơn (A.N.
Rao, 1986) [64]. Nhiều nghiên cứu cho thấy, cây ngập mặn có thể tồn tại được trong
nước ngọt một thời gian nào đó, nhưng sinh trưởng của cây giảm dần, sau vài tháng
nếu không được cung cấp một lượng muối thích hợp thì cây sinh trưởng rất kém, lá
cây có nhiều chấm đen và vàng do sắc tố bị phân hủy, lá sớm rụng. Hầu hết các cây
ngập mặn đều sinh trưởng tốt ở môi trường nước có độ mặn từ 25 ÷ 50‰ độ mặn
nước biển. Khi độ mặn càng cao thì sinh trưởng của cây càng kém, sinh khối của rễ,
thân và lá đều thấp dần, lá sớm rụng (Saenger và cộng sự, 1983) (trích dẫn từ
Nguyễn Hoàng Trí, 1999) [41].
Nhiều tác giả cho rằng đất là nhân tố chính giới hạn sự tăng trưởng và phân
bố cây ngập mặn (Gledhill, 1963; Giglioli và King, 1966; Clark và Hannonn, 1967;
S. Aksornkoae và cộng sự, 1985) (trích dẫn Aksornkoae, 1993) [53]. Đất rừng ngập
mặn là đất phù sa bồi tụ có độ muối cao, thiếu O2, giàu H2S, rừng ngập mặn thấp và
cằn cỗi trên các bãi lầy có ít phù sa, nghèo chất dinh dưỡng. A.Karim và cộng sự


9

cho biết sự phát triển của thực vật ngập mặn liên quan đến số lượng phù sa lắng
đọng và cây đạt chiều cao cực đại ở nơi có lớp đất phù sa dày.
S. Aksornkoae (1993) [53] nghiên cứu đất ngập mặn ở Thái Lan, còn A.
Karim (1983, 1988) nghiên cứu đất ngập mặn ở Sundarbans - Banglades có độ pH
từ 6,5 ÷ 8; độ mặn của đất từ 3,3 ÷ 17,3‰ và ông chia đất làm 3 loại: loại có độ
mặn thấp dưới 5‰, loại có độ mặn trung bình từ 5 ÷ 10‰ và loại có độ mặn cao
trên 15‰. J.K. Choudhury (1994) [56] nghiên cứu tính chất lý hóa của đất rừng
ngập mặn ở Sundarbans - Ấn Độ cho thấy đất ở tầng 0 ÷ 15cm có tỷ lệ cát từ 15,25
÷ 49,25%; độ pH từ 7 ÷ 8; N: 0,02 ÷ 0,09%; P: 0,1 ÷ 0,2%; CaO: 0 ÷ 6%; C: 0,5 ÷ 1,0%.
Nhìn chung, trên thế giới kết quả nghiên cứu về các lĩnh vực, như: điều kiện
đất đai, kỹ thuật trồng rừng cây ngập mặn, trồng rừng chống xói lở ven sông/kênh
rạch vùng nước lợ đã ít nhiều được quan tâm đề cập, tuy nhiên kinh nghiệm được

tổng hợp về vấn đề này còn hạn chế, mang tính chất nhỏ lẻ. Hơn nữa, các kết quả
nghiên cứu phần lớn chỉ mang tính địa phương, rất khó vận dụng từ quốc gia này
sang quốc gia khác, cùng này sang vùng khác. Vì vậy, việc nghiên phân chia điều
kiện lập địa phục vụ trồng rừng chống xói lở ở ven sông và kênh rạch vùng nước lợ
tại một địa phương cụ thể là việc làm rất cần thiết và cấp bách hiện nay.
1.2. Trong nước
1.2.1. Những nghiên cứu về lập địa và phân chia điều kiện lập địa
Những công trình nghiên cứu đầu tiên trong nước mang nội dung của lập địa
đó là: “Bước đầu nghiên cứu rừng miền Bắc Việt Nam” của Trần Ngũ Phương [26],
mặc dù thực chất của nghiên cứu này là phân loại rừng dựa vào sinh thái phát sinh
nhưng phần nào đã mang nội dung của lập địa đó là trạng thái đất đai tương ứng với
trạng thái rừng. Còn công trình “Thảm thực vật rừng Việt Nam” [44] của Thái Văn
Trừng đã đi sâu hơn Trần Ngũ Phương, đó là ngoài những nhân tố thuộc lập địa
theo nghĩa hẹp như: khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng. Tác giả còn sử dụng các nhân tố
thuộc lập địa theo nghĩa rộng đó là yếu tố thực vật và yếu tố nhân tác, vì thế khái
niệm lập địa là sinh địa quần thể nhân tác.


10

Đến cuối thập niên 60, việc nghiên cứu về lập địa để xác định loại hình thực
vật và loại cây trồng thích hợp được ngành Lâm nghiệp chấp nhận trên cơ sở
phương pháp điều tra lập địa tổng hợp của nước Đức. Tuy nhiên điều kiện lập địa
được nghiên cứu trên vùng đất rộng và gần như chưa đề cập đến điều kiện lập địa
của các vùng ngập mặn ven biển, cửa sông, kênh rạch.
Năm 1982, Labrousse đã dùng hai thành phần địa hình, địa mạo và thổ
nhưỡng để xác lập một bản đồ lấy tên chung là Land form map, trong đó địa hình,
địa mạo lấy yếu tố kiểu địa hình tổng hợp với 2 yếu tố của thổ nhưỡng là nền vật
chất tạo đất và độ dày tầng đất. Từ bản đồ này kết hợp với bản đồ kiểu khí hậu sẽ
thuyết minh được điều kiện lập địa ở từng địa bàn cụ thể. Trong các thành phần và

chỉ tiêu tham gia xây dựng bản đồ Land form thì vùng ven biển, cửa sông của Việt
Nam có được đề cập đến với đơn vị địa mạo thổ nhưỡng là đồng bằng phù sa
sông/biển; điều kiện thổ nhưỡng bao gồm (Đất Mangrove ngập theo triều, đất chua
phèn, đất mặn) và tương ứng là kiểu địa hình: Địa hình ngập mặn, địa hình trũng
bằng và địa hình bằng.
Năm 1985, Trectop đã nghiên cứu và phân loại các kiểu lập địa đất rừng Việt
Nam, trong đó có cũng có đề cập đến các kiểu lập địa ở vùng ven sông, ven biển đó
là những kiểu lập địa sau:
Kiểu lập địa

Đất

Thực vật

Đất thoát nước yếu vùng trũng thấp Đất phù sa glây tầng

Rừng kín thoát nước

và ven sông

mặt

kém ven bờ

Đất mặn glây

Rừng thưa cây tràm

Đất mặn glây


Rừng ngập mặn

Đất thoát nước yếu vùng trũng thấp
ven bờ biển
Đất đọng nước ven bờ biển

Những thành tựu trong nghiên cứu đất lâm nghiệp phải kể đến sự đóng góp
của Nguyễn Ngọc Bình (1970, 1979, 1986). Sự tổng quát hóa công trình nghiên cứu


11

đã cho thấy đặc điểm cơ bản của đất đai theo phát sinh học và tính quy luật của diễn
thế rừng trong tương lai. Quá trình hình thành đất gắn liền với sự hình thành và phát
triển của rừng theo một quy luật tự nhiên nhất định, trong lâm học gọi đó là vòng
tuần hoàn sinh học. Các nghiên cứu về đất của nhiều tác giả đã khẳng định vai trò
quyết định của chất hữu cơ trong quá trình hình thành độ phì đất, trong đó hàm
lượng mùn là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá độ phì đất, chọn đất cũng như các
mô hình, các kiểu sử dụng đất nông - lâm nghiệp phù hợp.
Một nghiên cứu ứng dụng quan trọng mở ra một hướng mới là việc xây dựng
quy trình điều tra lập địa đã được thực hiện và đưa vào áp dụng ở Việt Nam thuộc
Viện Điều tra quy hoạch rừng, các tác giả, như: Nguyễn Ngọc Nhị, Võ Văn Du,
Nguyễn Văn Thường, Đỗ Thanh Hoa (1971), từ đó ngành lâm nghiệp nước ta đã lấy
quy trình này và hoàn thiện dần vào các năm 1976, 1982, 1984, 1992 để phục vụ
kinh doanh rừng đặc biệt là phân chia điều kiện lập địa trồng rừng.
Năm 1996, Nguyễn Văn Khánh đã có những đóng đáng kể trong nghiên cứu
phân vùng lập địa lâm nghiệp của Việt Nam [22]. Những đóng góp đó là: (1) Lần
đầu tiên ở Việt Nam các cấp phân vị lập địa lâm nghiệp được xây dựng hoàn chỉnh
để sử dụng thống nhất cho cả nước; (2) Các cấp phân chia, các chỉ tiêu tương ứng
được xác lập và định lượng cụ thể; (3) Đưa mùa nhiệt (mùa nóng, mùa lạnh) và

mùa mưa ẩm (mùa mưa, mùa khô) vào tham gia phân chia và cải tiến bảng phân
kiểu khí hậu 3 yếu tố của Gausen và Legris thành bảng phân kiểu khí hậu thành 4
yếu tố; (4) Sử dụng kiểu địa hình để hỗ trợ cho việc nội suy khí hậu ở những nơi mà
trạm khí tượng thủy văn quá thưa hoặc không có vì sự đồng nhất về độ cao, độ chia
cắt,…. của địa hình phần nào quyết định sự đồng nhất của khí hậu; (5) Xây dựng
bản đồ lâm nghiệp Việt Nam đến cấp tiểu vùng với 4 bảng tra thuộc 4 thành phần:
Khí hậu, địa hình, đất và thực vật từ bản đồ và các bảng tra kèm theo có thể hiểu
được điều kiện lập địa ở một lãnh thổ cần thiết một cách nhanh chóng đồng thời
căn cứ vào đó để đề xuất ý kiến sử dụng.


12

Các nghiên cứu về phân chia điều kiện lập địa cho những vùng đất dốc, đồi
núi đã được nghiên cứu khá kỹ và đã được xây dựng thành quy trình còn những
vùng đất bằng, ven sông, ven biển mới chỉ dừng lại ở một số nghiên cứu mang tính
chất liên quan, phục vụ cho việc xác định điều kiện lập địa. Một số nghiên cứu điển
hình như sau:
Lê Văn Tự (1994) đã thiết lập bản đồ thổ nhưỡng hai huyện Nhà Bè và Cần
Giờ. Tác giả căn cứ vào tình trạng ngập mặn (thường xuyên hay theo con nước) và
tầng sinh phèn nông (0 ÷ 50 cm) hay sâu (trên 50 cm) đã chia nhóm đất mặn chủ
yếu ở Cần Giờ thành 7 loại, trong đó loại đất ngập mặn phèn tiềm tàng, tầng sinh
phèn nông nhiều bã hữu cơ ngập mặn thường xuyên chiếm 27.280 ha.
Nguyễn Ngọc Bình (1996) [3] đã nghiên cứu các loại đất ở rừng ngập mặn
Cà Mau, đất ngập mặn mùn rất loãng không có thực vật phân bố, đất ngập mặn mùn
loãng có Mắm trắng tiên phong cố định bãi bồi, đất ngập mặn dạng sét, đất ngập
mặn phèn tiềm tàng sét mềm có Đước, đất ngập mặn phèn tiềm tàng cứng có Đước,
Đà, Cóc trắng.
Đối với đất ngập mặn, Ngô Đình Quế và các cộng sự (2003) cho rằng: Chất
hữu cơ là một trong những nhân tố quyết định đến sinh trưởng của rừng, nếu hàm

lượng chất hữu cơ trong đất ngập mặn thấp hơn 1% thì sinh trưởng xấu, nhưng nếu
quá cao, lớn hơn 15% thì cũng kìm hãm sinh trưởng của cây và cũng có thể làm cây
trồng bị chết do môi trường đất bị ô nhiễm [29].
Ngô Đình Quế, Ngô An (2001) [28] đã cứu đề xuất các tiêu chuẩn phân chia
lập địa cho vùng ngập mặn ven biển với tỷ lệ bản đồ 1/10.000 – 1/25.000 phục vụ
cho công tác trồng rừng và kinh doanh rừng.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học về đất ngập mặn ở Việt
Nam thì nước ta gồm có các loại đất ngập mặn chính là:
- Đất ngập mặn không có phèn tiềm tàng;
- Đất ngập mặn phèn tiềm tàng;


13

- Đất ngập mặn than bùn phèn tiềm tàng.
Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp đã tiến hành xây dựng bản đồ đất ở
đồng bằng sông Cửu Long với tỷ lệ: 1/250.000 và đã phân chia đất ngập mặn thành
3 đơn vị chính là:
- Đất ngập mặn phần lớn dưới rừng ngập mặn (Gleyic-Salic-Fluvisols);
- Đất phèn tiềm tàng nông dưới rừng ngập mặn (Salic-Proto-ThionicFluvisols, Sulfidic material 0 ÷ 50cm);
- Đất phèn tiềm tàng sâu dưới rừng ngập mặn (Salic-Proto-ThionicFluvisols, Sulfidic material > 50cm).
Năm 2003, Ngô Đình Quế đã phân chia lập địa cho vùng ngập mặn ven biển
Việt Nam và phân chia lập địa ứng dụng cho vùng ngập mặn ven biển đồng bằng
sông Cửu Long. Trên cơ sở kết quả khảo sát nghiên cứu, phân tích kế thừa các
thành quả về đất rừng ngập mặn với các thảm thực vật và diễn biến của chúng. Tác
giả đã phân chia các cấp phân vị đối với đất vùng ven biển ngập mặn ở Việt Nam
theo hệ thống Miền - Vùng - Tiểu vùng - Dạng lập địa.
- Miền lập địa: là đơn vị lập địa lớn nhất được phân chia, dựa vào đặc điểm
khí hậu, chế độ nhiệt trong năm.
- Vùng lập địa: được phân chia dựa vào số tháng lạnh trong năm, lượng mưa

và phân bố của loài cây ngập mặn “thực thụ” chủ yếu để phân chia.
- Tiểu vùng lập địa: trong mỗi vùng tuỳ điều kiện cụ thể đưa vào 4 yếu tố sau
đây để phân chia thành các tiểu vùng:
+ Độ mặn của nước: chủ yếu là độ mặn và mức độ biến động về độ mặn của
nước trong năm, phụ thuộc vào ảnh hưởng của nước thượng nguồn nhiều hay ít.
+ Sản phẩm bồi tụ
+ Đặc điểm địa hình (bằng phẳng, ít dốc, dốc, lồi lõm)
- Dạng lập địa: đây là đơn vị phân chia lập địa nhỏ nhất, là đơn vị cơ sở để
chọn và bố trí cây trồng, xác định kỹ thuật, phương thức trồng và phục hồi rừng ở


14

mỗi địa phương cụ thể. Để phân chia dạng lập địa của vùng đất ngập mặn ven biển
Việt Nam tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng tiểu vùng có thể dựa vào các yếu tố sau
đây để phân chia:
+ Chế độ ngập triều
+ Độ thành thục của đất (kiểm tra bằng thực vật chỉ thị)
+ Loại đất (chính và phụ)
1.2.2. Nghiên cứu về thực trạng ven sông, kênh rạch vùng nước lợ
Vùng nước lợ của Việt Nam chủ yếu được phân bố ở vùng cửa sông và vùng
duyên hải, như: đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ. Đây cũng chính là những
vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau,
mà việc nghiên cứu về điều kiện lập địa, triển khai các dự án trồng rừng phòng hộ
ven bờ trong những vùng này ít được để ý và phát triển theo đúng tầm quan trọng
của nó. Vì vậy, cho tới nay, nhìn chung các nghiên cứu về lập địa phục vụ trồng rừng
ven bờ vùng nước lợ ở nước ta còn rất nhiều hạn chế. Phần lớn các kết quả nghiên
cứu nhỏ lẻ và thiếu tính hệ thống. Tuy vậy, cũng có một số nghịên cứu có giá trị thực
tiễn lớn trong việc khởi đầu và đặt nền móng cho hướng nghiên cứu này trong tương
lai. Các công trình liên quan được tổng hợp trong một số vấn đề chính dưới đây:

Vùng ven biển Việt Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long thường
là vùng nước lợ và đất có hàm lượng phèn cao. Độ mặn ở vùng cửa sông của nước
ta có nơi lên tới 40‰ ở cự ly 20 ÷ 115km so với bờ biển. Trong khi đó, độ mặn của
nước trên các kênh nội đồng vùng nước lợ ven biển (Bạc Liêu) thường dao động
trong khoảng từ 3 ÷ 26‰. Độ mặn thường xâm nhập sâu nhất vào mùa khô và bị
đẩy xa nhất vào mùa mưa lũ trong năm (Huỳnh Minh Hoàng, 2005 [15]; Nguyễn
Thị Phương, 2006) [27]. Tuy nhiên, trong những vùng đất lợ, phèn như vậy vẫn có
thể trồng các loài cây cỏ, như: cỏ Voi, Ghine, Ruzi và cây Trichanthera vừa có tác
dụng làm thức ăn cho gia súc, vừa có tác dụng bảo vệ đất giảm xói mòn bề mặt
(Phạm Đức Nghị, 2005) [24] .


15

Hiện tượng xói lở bờ sông, bờ biển là một dạng thiên tai xảy ra khá phổ biển
ở hầu hết vùng ven biển nước ta, gây hậu quả nặng nề về kinh tế - xã hội và môi
trường sinh thái (Đào Đình Châm, Nguyễn Văn Cư, 2007 [5]; Hà Quang Hải, 2007)
[12]. Xói lở thường xảy ra mạnh nhất ở những bờ lõm của các vùng uốn, nhất là ở
những nơi không có công trình bảo vệ. Bên cạnh đó, xói lở còn xảy ra ở đoạn sông
có cầu, hoặc nơi đoạn sông thẳng nhưng giữa lòng sông không có bãi cát nổi. Xói lở
có những nơi đạt 20 ÷ 30m/năm và độ dài xói lở có khi đạt tới trên 1000 m (vùng
cửa sông Thạch Hãn). Về bản chất, khi lượng bùn cát vận chuyển tới nhỏ hơn lượng
bùn cát được vận chuyển đi thì xảy ra xói lở. Vì vậy, hoạt động xói lở thường xảy ra
mùa đông và bồi tụ thường xảy ra vào mùa hè. Đối với các vùng hạ lưu, xói ngang
phổ biến hơn xói đáy và nhìn chung có xu hướng trượt xuôi theo dòng chảy (Đào
Đình Châm, Nguyễn Văn Cư, 2007 [5]; Phạm Huy Tiến, 2007)[39].
Nguyên nhân xói lở do các yếu tố nội sinh (như kiến tạo địa chất, đặc điểm
địa hình), ngoại sinh (như sóng và gió, lưu lượng dòng chảy và lượng vận chuyển
bùn cát), nguyên nhân nhân sinh (khai thác sa khoáng, phá rừng ven bờ, xây dựng
các công trình đập giữ nước…) (Đào Đình Châm, Nguyễn Văn Cư, 2007 [5]; Hà

Quang Hải, 2007) [12].
Các kết quả nghiên cứu của Phan Minh Thu và Jacques Populus (2007) [63]
về rừng cửa sông Mekong ở khu vực Trà Vinh đã cho thấy trong một khoảng thời
gian dài từ 1965 - 2001, diện tích rừng trong khu vực này đã bị giảm đáng kể làm
tăng thêm tác hại của hiện tượng xói lở đất, sự xâm mặn của sóng biển do hậu quả
của chiến tranh, khai thác và sử dụng quá mức cho các mục tiêu dân dụng và đặc
biệt phục vụ các vùng nuôi tôm với cường độ lớn.
Phương pháp nghiên cứu về xói lở ven bờ, cửa sông, ven biển chủ yếu bao
gồm: kế thừa, phương pháp khảo sát theo tuyến, sử dụng GIS - Viễn thám; Chuyên
gia, hội thảo, đánh giá tác động môi trường (Phạm Huy Tiến, 2006 [39]; Đỗ Quang
Thiên, 2007 [35]; Phan Minh Thu và Jacques Populus, 2007) [63].


16

Năm 2004, Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam thực hiện đề tài: “Xác định
phương pháp dự báo sạt lở và lập hành lang ổn định bờ sông phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bến Tre” [50]. Kết quả nghiên cứu sau khi phân tích các
diễn biến địa hình bờ, lòng sông, hình thái sông, đề tài đã xác định được nguyên
nhân gây ra hiện tượng xói lở bờ và bồi lắng lòng sông chính là do dòng nước. Nền
địa chất bờ sông khá mềm yếu thúc đẩy nhanh quá trình sạt lở. Dòng chảy ngầm từ
bờ là nguyên nhân tạo nên xâm thực ngang lòng sông đối với những nơi đất bờ sông
có kết cấu rời rạc. Ngoài ra, sóng do các loại tàu thuyền hoạt động trên sông với mật
độ lớn cũng làm tăng nhanh quá trình sạt lở bờ sông. Riêng hiện tượng bồi lắng
mạnh mẽ tại các vùng cửa sông phần lớn do phù sa từ thượng nguồn đổ về. Song
song với các nguyên nhân này, hiện tượng xói lở bờ sông còn do quá trình khai thác
các bãi bồi, khai thác cát trên sông, các công trình xây dựng dọc theo bờ sông làm
thay đổi điều kiện dòng chảy và lòng dẫn, gây mất ổn định hình thái lòng sông dẫn
đến tình trạng xói lở bờ ngày càng nghiêm trọng trên các tuyến sông, rạch. Cơ chế
của quá trình sạt lở xảy ra như sau: lớp đất mềm yếu, lớp cát phía dưới bị xói nhanh

hơn lớp đất mặt làm cho mái bờ sông dốc và bị sạt lở tạo cho mái bờ sông mới có
tính ổn định tạm thời. Sau đó lớp đất phía dưới bị xói nhanh hơn lớp đất trên mặt và
làm cho mái bờ sông lại trở nên dốc và tiếp tục cho một đợt lở mới. Sạt lở bắt đầu
từ hiện tượng xuất hiện các vết nứt trên mặt bờ sông với chiều dài từ 5m có nơi đến
20m, có khi sát mép nước có khi cách bờ từ 3 ÷ 15m.
Để phòng chống hiện tượng xói lở ven sông ở nước ta, Đinh Văn Ưu và cộng
tác viên (2005) [48] đã đề ra sự cần thiết phải kết hợp các biện pháp công trình
(trồng rừng, xây kè chống xói lở) và biện pháp phi công trình (theo dõi diễn biễn
xói lở, lập cơ sở dữ liệu, và dự báo; thông tin dự báo kịp thời, tuyên truyền; điều
chỉnh quy hoạch phát triển kinh tễ - xã hội cho phù hợp tình trạng và xu hướng xói
lở). Theo hướng này, Hoàng Văn Huân (2005) [20] đã nghiên cứu dự báo sạt lở, bồi
tụ hệ thống sông khu vực hạ du sông Đồng Nai - Sài Gòn trong các năm 2004,
2005, 2006, 2010 và đề xuất giải pháp phối hợp các công trình thượng nguồn; khai


17

thác hạ du; quy hoạch giao thông thủy; mở tuyến luồng; khai thác cát; giáo dục
cộng đồng trong phòng chống xói lở ven bờ.
Vũ Xuân Thường (1998) [36] khi nghiên cứu đề tài: “Điều tra hiện trạng và
xây dựng quy hoạch, kế hoạch nuôi trồng bảo vệ - khai thác một số sinh vật thuộc
60 ha nước lợ bãi ngoài đê sông Thái Bình, xã An Thanh, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải
Dương” đã cho thấy vùng nước lợ tuy được bồi đắp hàng năm nhưng địa hình thấp
trũng, chỉ cấy được 1 vụ lúa chiêm, thời gian còn lại trong năm bị bỏ hoang do nền
đất không ổn định và bị ngập nước nhiều. Trong phần đề xuất, tác giả cũng nhấn
mạnh sự cần thiết tiến hành công tác phòng chống xói lở và trồng cây ven bờ, ven
kênh rạch vùng nước lợ để đảm bảo phòng hộ cho nông nghiệp.
1.2.3. Nghiên cứu các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến phân bố, sinh trưởng của
thảm thực vật ven bờ vùng nước lợ
Trong luận án tiến sỹ khoa học “Sinh thái thảm thực vật rừng ngập mặn Việt

Nam” của Phan Nguyên Hồng (1991) đã đề cập đến vấn đề phân bố, sinh thái, sinh
lý, sinh khối … rừng ngập mặn Việt Nam [18]. Trong các nhân tố sinh thái thì khí
hậu, thủy triều, độ mặn và đất đóng vai trò quyết định sự sinh trưởng và phân bố
của thảm thực vật vùng ngập mặn. Các nhân tố khác góp phần tích cực trong việc
phát triển hay hạn chế của kiểu thảm thực vật này.
Theo Thái Văn Trừng (1998) [44] có 3 nhóm nhân tố sinh thái phát sinh rừng
ngập mặn: Thứ nhất là tính chất lý hóa của đất, thứ hai là cường độ và thời gian
ngập của thủy triều, thứ ba là độ mặn của nước.
Nguyễn Mỹ Hằng và Phan Nguyên Hồng (1995) [13] đã tìm hiểu về ảnh
hưởng nhiệt độ thấp đến sự sinh trưởng của Trang, Đâng, Đước đôi, Đưng ở miền
Bắc Việt Nam. Kết quả thí nghiệm cho thấy Đưng và Đước đôi sinh trưởng bình
thường vào mùa hè và mùa thu, nhưng đến mùa đông (t<110C) thì loài này chết đi,
trong khi đó Trang và Đâng vẫn vượt qua mùa đông giá rét.
Nguyễn Đức Tuấn (1994) [46] nghiên cứu về tăng trưởng và sinh khối của
Đâng, Đước, Trang, Vẹt dù lúc 1, 2, 3, 4 năm tuổi cho thấy trên thể nền bùn sét


18

mềm và cát thô thì cây sinh trưởng tốt hơn thể nền bùn pha nhiều cát thô, đất cao cứng.
Khi nghiên cứu về tăng trưởng của Trang ở các năm tuổi khác nhau trồng ở
Thái Bình, Lê Thị Vu Lan (1998) [23] cho thấy vào các tháng 12, 1, 2 có thời tiết
khắc nghiệt (lạnh, không mưa) cây vẫn tăng trưởng nhưng rất chậm, còn tháng 9,
10, 11 mưa nhiều, nhiệt độ ấm cây sinh trưởng tốt hơn.
Hoàng Công Đãng (1995) [7] theo dõi sự tăng trưởng của các loài Đước vòi,
Vẹt dù, Trang, Mắm biển và Sú ở giai đoạn vườn ươm nhận thấy ở Vẹt dù có sự tăng
trưởng kém nhất, còn những loài trồng bằng quả thì Mắm biển tăng trưởng tốt hơn Sú.
Nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn khác nhau, điều kiện chiếu sáng, phân
bón đến sự nảy mầm và sinh trưởng của Bần chua ở giai đoạn vườn ươm thì khi che
bóng Bần chua tăng trưởng kém hơn không che bóng và cây tăng trưởng tốt hơn ở

độ mặn từ 5 ÷ 10‰ (Hoàng Công Đãng, 1995 [7]; Lê Xuân Tuấn,1995) [47].
Mai Sỹ Tuấn (1980) [45] đã nghiên cứu phản ứng sinh lý, sinh thái của Mắm
biển con trồng thí nghiệm ở các độ mặn khác nhau trong nhà kính cho thấy trong
điều kiện thí nghiệm ở độ mặn nước biển 25‰ thì Mắm biển có sinh trưởng về
đường kính và chiều cao tốt nhất. Sự tăng trưởng về đường kính và chiều cao giảm
dần khi độ mặn nước biển tăng lên. Cây mọc ở môi trường không có muối thì tỷ lệ
sinh trưởng thấp nhất. Quá trình quang hợp tỷ lệ nghịch với độ mặn của môi trường:
Độ mặn càng cao thì quang hợp càng giảm nhưng cây ngập mặn vẫn duy trì năng
suất quang hợp dương ở các độ mặn thí nghiệm kể cả ở 150% độ mặn nước biển.
1.2.4. Loài cây trồng chính ở vùng cửa sông, kênh rạch
Nước ta có vùng duyên hải ven biển trải dài theo chiều dọc đất nước với hệ
thống cửa sông dày đặc. Vì vậy, chúng ta có hệ sinh thái rừng ngập mặn phong phú
với tính đa dạng rất cao và khả năng thích nghi với các tiểu hoàn cảnh rất lớn. Đây
chính là tiềm năng thuận lợi cho việc khảo sát chọn loài cây trồng thích hợp cho các
vùng nước lợ ven biển. Chỉ riêng hệ rừng ngập Cà Mau đã có tới 217 loài, trong đó
có 3 loài thân gỗ và thân bụi khá lớn đó là Tu hú (Gmelina clliptica) họ
Verbenaceae; Tra lâm vồ (Ficus rumphii) họ Moraceae; và Vẹt dù bông đỏ


19

(Bruguiera gymnorriza) họ Rhizophoraceae (Đặng Trung Tấn, 2003) [34]. Tại vùng
cửa sông Đồng Nai có tới 147 loài thuộc 55 chi, 18 họ, trong đó có 35 loài ở rừng
ngập mặn, 29 loài chịu mặn và 83 loài ở vùng đất cao với 11 quần xã thực vật
(Hoàng Đức Đạt, 2000) [10].
Mặc dù hệ sinh thái rừng cửa sông, ven biển của nước ta đa dạng nhưng việc
nghiên cứu về các loài cây đó còn rất hạn chế. Vì vậy, rừng trồng vùng cửa sông,
ven biển của chúng ta mới tập trung chủ yếu vào một số ít loài cây. Chẳng hạn, một
số loài cây chủ yếu vùng ven biển ở đồng bằng sông Hồng bao gồm Bần chua, Giá
biển trong khi ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là Tràm và Dừa nước (Ngô

Đình Quế và cộng tác viên, 2003). Các nghiên cứu của Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam cho thấy các loài tràm (Melaleuca sp.) có khả năng thích nghi với điều
kiện khí hậu, đất đai và cho sinh trưởng nhanh không thu kém bạch đàn. Những loài
này còn có khả năng chịu ngập và chịu môi trường lập địa có độ pH thấp, độ phèn
cao. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long với
mục tiêu chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cây Tràm đã được coi là một trong số các
loài cây mũi nhọn để phát triển trồng rừng trên các vùng đất phèn vừa đáp ứng được
mục tiêu che phủ đất, nhu cầu về gỗ, vừa giảm thiểu thiệt hại bởi lũ lụt, chống xói
lở và cải thiện môi trường (Fuminori Miyatake, Michio Matsuda, Phạm Thế Dũng,
Phạm Ngọc Cơ, 2003) [11].
Hoàng Công Đãng (2000) [9] đã chỉ ra rằng cây Bần chua là loài cây gỗ mọc
nhanh và rất thích hợp với vùng nước lợ. Từ lâu Bần chua đã được nhân dân ta sử
dụng để bảo vệ đê sông, đê biển và làng mạc trước sự tàn phá của gió, bão, nước
biển. Đồng thời còn là loài cây nuôi dưỡng nhiều loài hải sản có giá trị và mở rộng
diện tích lục địa. Tuy nhiên, rừng Bần chua ven biển nước ta đã bị phá nhiều, hiện
tượng xói lở bờ sông, bờ biển diễn ra khá phổ biến cho nên việc gây trồng lại các
dải rừng Bần chua ven sông, ven biển là cần thiết và cấp bách.
Các loài cây Đay và cây Phi lao cũng có khả năng sinh trưởng và phát triển
tốt ở môi trường nước lợ và nước mặn (Be’Land và cộng sự, 2006). Trong khi đó,


20

trong vùng nước lợ cửa sông Hồng của Việt Nam, các loài phân bố chủ yếu được
phát hiện và có triển vọng phòng hộ cao bao gồm Bần chua (Sonneratia
caeseolaris), Vẹt dù (Bruguiera gymnorhiza) và Sú (Aegiceras corniculatum)
(Wösten và cộng sự, 2003) [60].
Hiện nay, do ảnh hưởng của các hoạt động làm đầm tôm vùng nước lợ tạo ra
các bờ liếp cao, cho nên các loài cây trồng trên các bờ liếp không phải là các loài
cây trồng trên rừng ngập mặn mà là các loài cây gỗ (keo lá tràm, keo tai tượng, so

đũa, me, muồng đen,…), các loài cây ăn trái (ổi, táo, chuối, dứa, dừa,…) và rau củ
(dưa hấu, bí đỏ, bắp, khoai sọ…) (Đỗ Đình Sâm, 2003). Tuy nhiên, những kết quả
nghiên cứu trồng rừng Bần chua chống xói lở ở Mỹ Long cũng như rừng Bần chua
tái sinh chồi ở Trà Vinh trên một diện tích rộng, trồng Mắm đen ở Kiên Giang là
những kinh nghiệm quý để phát triển và gây trồng rừng phòng hộ ven biển tuân theo
quy luật tái sinh và diễn thế tự nhiên (Đỗ Đình Sâm, 2003) [32].
Ngô Đình Quế và các cộng tác viên (2006) [30] cũng chỉ ra rằng trên các bờ
bao đầm nuôi tôm ở đồng bằng sông Hồng đã trồng có kết quả các loài Keo lai,
Dừa, hoa Hoè. Trong khi đó, ở Cà Mau loài Tràm úc tỏ ra có triển vọng tốt với khả
năng mọc nhanh và chịu mặn cao.
Ngoài ra, các loài Bạch đàn, Tràm úc, Keo lai... cũng đều đã được Viện
Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam trồng thử nghiệm và đánh giá ở vùng đồng bằng
Nam Bộ nước ta. Tuy nhiên vẫn cần những nghiên cứu đánh giá tác động môi
trường của các loài cây này (Đỗ Đình Sâm, 2003) [32].
Kết quả phỏng vấn trực tiếp một số chuyên gia và nghiên cứu tài liệu tổng
quan đã cho thấy những loài sau có nhiều tiềm năng có thể nghiên cứu gây trồng
bảo vệ đất, chống xói lở ven bờ vùng nước lợ: Su ổi, Giá, Cóc vàng, cây côi, Tra
biển, Na biển, Vạng hôi, Võng cách, Giáng, Orô, Hết Hải Nam, Dứa dại, Vối rừng
.... Đặc biệt gần đây, Nguyễn Sơn Thuỵ, 2007 [38] đã công bố kết quả nghiên cứu
về 10 loài cây bản địa tại thành phố Hồ Chí Minh vừa có giá trị kinh tế vừa có khả
năng phòng hộ chống xói lở ven bờ sông, kênh rạch, bao gồm: Bần chua, Dừa nước,


21

Gõ nước, Gáo vàng, Nhạc ngựa nước, Tràm chua, Trâm, Vẹt đen, Xăng Máu và
Xăng trắng.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu tổng quan các công trình trên thế giới và trong
nước đã định hướng quan trọng cho việc xây dựng các nội dung, phương pháp
nghiên cứu cho đề tài này ở vùng cửa sông, ven biển. Các kết quả nghiên cứu về

thực trạng và nguyên nhân gây xói lở của Đào Đình Châm, Nguyễn Văn Cư, Hà
Quang Hải (2007); Huỳnh Minh Hoàng (2005); Nguyễn Thị Phương (2006); Trần
Đức Thạnh (2003); Phạm Huy Tiến (2006); Đỗ Quang Thiên (2007); Phan Minh
Thu và Jacques Populus (2007) và những nghiên cứu về biện pháp phòng chống xỏi
lở của Hoàng Văn Huân (2005); Vũ Xuân Thường (1998). Những nghiên cứu về
các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến phân bố, sinh trưởng thảm thực vật vùng cửa
sông, ven biển của Phan Nguyên Hồng (1991); Nguyễn Mỹ Hằng và Phan Nguyên
Hồng (1995); Nguyễn Đức Tuấn (1994); Kogo.M. (1995) Lê Thị Vu Lan (1998);
Hoàng Công Đãng (1995); Lê Xuân Tuấn (1995); Mai Sỹ Tuấn (1980). Nghiên cứu
về đất rừng ngập mặn và phân chia điều kiện lập địa vùng ven biển Việt Nam của
Lê Văn Tự (1994); Nguyễn Ngọc Bình (1996); Ngô Đình Quế (2003). Nghiên cứu
về loài cây trồng chính ở vùng cửa sông, ven biển của Đặng Trung Tấn (2003);
Hoàng Đức Đạt (2000); Ngô Đình Quế (2003); Fuminori Miyatake, Michio
Matsuda, Phạm Thế Dũng, Phạm Ngọc Cơ (2003) đều là những tài liệu quý giá cho
việc nghiên cứu phân chia điều kiện lập địa, đề xuất hướng sử dụng lập địa theo
hướng bền vững bằng việc lựa chọn loài cây thích hợp phục vụ trồng rừng chống
xói lở ven sông, kênh rạch vùng nước lợ tại địa điểm nghiên cứu.
Tuy nhiên, với nhiều lý do khác nhau mà các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực
này ở nước ta còn rất hạn chế. Đặc biệt, chúng ta gần như chưa có công trình nào
nghiên cứu về lập địa phục vụ trồng rừng chống xói lở ven sông, kênh rạch vùng
nước lợ. Các nghiên cứu về các tiêu chí cho phân chia lập địa ở những vùng này
cũng dừng lại ở mức rất khiêm tốn. Vì vậy, việc tiến hành nghiên cứu đề tài này là
cần thiết và cấp bách góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc trồng rừng chống
xói lở ven sông, kênh rạch vùng nước lợ.


22

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Về lý luận: Góp phần xây dựng cơ sở lý luận phục vụ trồng rừng chống xói
lở ven sông và kênh rạch vùng nước lợ.
- Về thực tiễn:
+ Xác định và phân loại được điều kiện lập địa cho những khu vực xói lở ven
sông và kênh rạch vùng nước lợ.
+ Đề xuất được hướng sử dụng lập địa phục vụ trồng rừng chống xói lở ven
sông và kênh rạch vùng nước lợ.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Điều kiện lập địa
vùng nước lợ tại vùng cửa
Ba Lạt - sông Hồng
2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm: Xã Nam
Phú - huyện Tiền Hải - tỉnh
Thái Bình
- Thời gian: Đề tài
được tiến hành nghiên cứu
từ tháng 12/2009 đến tháng
9/2010.

Hình 2.1. Hình ảnh địa điểm nghiên cứu


23

2.4. Nội dung nghiên cứu
2.4.1. Nghiên cứu đặc điểm lập địa ven sông, kênh rạch vùng nước lợ tại khu
vực.

- Nghiên cứu đặc điểm khí hậu, thuỷ văn: (nhiệt độ, cường độ mưa, độ ngập
triều, độ mặn của nước và biến động độ mặn của nước);
- Nghiên cứu địa hình, địa mạo, sự bồi tụ trầm tích;
- Nghiên cứu đặc điểm thổ nhưỡng;
- Nghiên cứu đặc điểm của lớp phủ thực vật;
- Nghiên cứu đặc điểm xói lở ven sông và kênh rạch.
2.4.2. Nghiên cứu phân chia điều kiện lập địa phục vụ cho việc trồng rừng chống
xói lở ven sông, kênh rạch vùng nước lợ tại khu vực.
- Xác định các tiêu chí phân chia điều kiện lập địa khu vực ven sông, kênh
rạch vùng nước lợ;
- Xây dựng bản đồ phân chia điều kiện lập địa khu vực nghiên cứu.
2.4.3. Nghiên cứu đề xuất hướng sử dụng lập địa ven sông, kênh rạch vùng nước
lợ tại khu vực theo hướng bền vững và hiệu quả.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp nghiên cứu tổng quát
Vùng đệm ven bờ luôn chịu sự tác động của những quá trình, những quy luật
tự nhiên và xã hội khác nhau. Vì vậy, cần phải áp dụng tổng hợp của nhiều ngành
khoa học, như: lâm nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi, kinh tế, xã hội học… Khi nghiên
cứu cần có sự kế thừa những tư liệu đã có kết hợp với điều tra khảo sát chi tiết
ngoài thực địa, phân tích trong phòng thí nghiệm, gắn liền với những phương
tiện/công cụ tương ứng thông qua các phần mềm chuyên dụng. Các bước nghiên
cứu tổng quát được thể hiện qua sơ đồ khung logic (hình 2.2).


×