Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

LVTS 2013 liên hợp quốc và vấn đề bảo vệ chủ quyền của việt nam trên biển đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
=====

VÕ THỊ KIM TUYẾN

LIÊN HỢP QUỐC VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN BÁ DIẾN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

VÕ THỊ KIM TUYẾN




MỤC LỤC
Trang phu ̣ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mu ̣c từ viế t tắ t
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LIÊN HỢP QUỐC ..............................6
1.1

GIỚI THIỆU VỀ LIÊN HỢP QUỐC ..............................................................6

1.1.1 Lịch sử hình thành Liên hợp quốc ...................................................................6
1.1.2 Hiến chương của Liên hợp quốc ......................................................................7
1.1.3 Mục đích và nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc ...................................8
1.2

CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA LIÊN HỢP QUỐC .............................................11

1.2.1 Đại Hội Đồng Liên hợp quốc .........................................................................11
1.2.2 Hội Đồng Bảo An Liên hợp quốc ..................................................................17
1.2.3 Tòa án Công lý Quốc Tế ................................................................................22
1.2.4 Ban Thư ký .....................................................................................................26
1.3

VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG THỰC TIỄN GIẢI
QUYẾT HÒA BÌNH CÁC TRANH CHẤP QUỐC TẾ ...............................28

1.3.1 Tranh chấp giữa Anh và Anbani năm 1947 ....................................................29

1.3.2 Tranh chấp giữa Anh và Argentina về chủ quyền đối với quần đảo
Malvinas/Falkland . ........................................................................................30
1.3.3 Tranh chấp giữa Anh, Pháp, Itxaren và Ai Cập tại kênh đào Suez năm 1956 .......32
1.4

CẢI TỔ LIÊN HỢP QUỐC PHÙ HỢP VỚI TÌNH HÌNH HIỆN NAY............33

1.4.1 Sửa đổi Hiến chương Liên hợp quốc .............................................................33
1.4.2 Cải tổ Hội đồng bảo an Liên hợp quốc ..........................................................35
1.4.3 Vấn đề thay đổi quyền phủ quyết...................................................................36
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................39
CHƢƠNG II: CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG ...............40
2.1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỂN ĐÔNG .....................................................40


2.1.1 Vị trí và tầm quan trọng của Biển Đông ........................................................40
2.1.2 Các tranh chấp trên Biển Đông giữa Việt Nam với các nước trong khu vực ....46
2.2

CƠ SỞ ĐỂ KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN
BIỂN ĐÔNG ..................................................................................................49

2.2.1 Biên giới và chủ quyền của Quốc gia trên biển. ............................................49
2.2.2 Cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông ..............57
2.2.3 Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa .....63
2.3

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG

CỦA VIỆT NAM ..........................................................................................70

2.3.1 Quan điểm của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông .....70
2.3.2 Giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam với các nước trong khu vực tại
các vùng biển chồng lấn trên Biển Đông .......................................................74
2.3.3 Giải quyết tranh chấp chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ......78
2.3.4 Những khó khăn và thách thức đối với Việt Nam trong việc giải quyết
tranh chấp trên Biển Đông .............................................................................80
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................87
CHƢƠNG III: BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN
ĐÔNG THÔNG QUA VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC .....................88
3.1

VAI TRÒ CỦA CÁC CƠ CHẾ LIÊN HỢP QUỐC TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG ....................................88

3.1.1 Vai trò của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong việc giải quyết tranh
chấp trên Biển Đông. .....................................................................................89
3.1.2 Vai trò của Hội Đồng Bảo An trong việc giải quyết tranh chấp trên
Biển Đông. .....................................................................................................93
3.1.3 Vai trò của Tòa án công lý quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp trên
Biển Đông. .....................................................................................................96
3.1.4 Vai trò của Tổng thư ký LHQ trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. ..100
3.2

KIẾN NGHỊ LIÊN HỢP QUỐC TRONG VIỆC BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG .......................................103


3.2.1 Đưa vấn đề tranh chấp trên Biển Đông ra thảo luận tại ĐHĐ và đạt

được một yêu cầu tư vấn của Tòa án công lý quốc tế ..................................103
3.2.2 Kiến nghị với Tổng thư ký LHQ về tình hình căng thẳng và bất ổn trên
Biển Đông hiện nay. .....................................................................................105
3.2.3 Kiến nghị với LHQ thành lập một ủy ban về tranh chấp Biển Đông. .........105
Kết luận chƣơng 3 .................................................................................................107
KẾT LUẬN ............................................................................................................108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................110
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ĐHĐ

Đại hội đồng

HĐBA

Hội đồng bảo an

LHQ

Liên Hợp quốc

TACLQT

Tòa án công lý quốc tế


UNCLOS

Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Biển Đông được đánh giá là vùng biển trọng yếu nhất trên thế giới vì nó nằm
ở vị trí chiến lược quan trọng nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Chính vì
nằm ở vị trí chiến lược và nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ tại Biển Đông nên
khiến cho vùng biển này luôn rơi vào tình trạng căng thẳng. Không những các Quốc
Gia trong khu vực mà còn cả các cường quốc lớn như Mỹ, Nhật Bản…cũng có lợi
ích thiết thực liên quan đến khu vực Biển Đông. Do vậy tranh chấp ở khu vực Biển
Đông không chỉ là tranh chấp giữa các Quốc Gia trong khu vực Biển Đông mà còn
ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh trên thế giới.
Hiện nay, Các vấn đề liên quan Biển Đông rất phức tạp, hệ trọng và nhạy
cảm đối với nhiều quốc gia liên quan. Các nước ven Biển Đông đang đẩy mạnh các
hoạt động thực hiện chủ quyền biển, đảo của mình. Do vậy có thể hiểu vì sao các
tranh chấp trên Biển Đông ngày càng căng thẳng và leo thang, nhất là khi Trung
Quốc ngày càng bộc lộ rõ tham vọng độc chiếm Biển Đông của mình thông qua yêu
sách hết sức phi lý là “đường lưỡi bò” hay còn gọi là “đường chín đoạn”. Yêu sách
này đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của 5 nước ASEAN đối với vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Chính vì vậy, mà Việt Nam, Malaysia,
Indonesia và Philippines lần lượt gửi công hàm đến Tổng thư ký Liên hợp quốc bác
bỏ yêu sách này. Việc Trung Quốc đưa yêu sách phi lý nói trên ra Liên hợp quốc và
tiến hành các việc làm gần đây ở trên thực địa nhằm theo đuổi yêu sách này đang
làm cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp hơn, gây lo ngại thực sự cho cộng
đồng Thế Giới và buộc dư luận phải lên tiếng. Không chỉ các Quốc Gia liên quan
tranh chấp ở Biển Đông mà dư luận của nhiều Quốc Gia khác cũng đã bày tỏ ý kiến

bất bình trước yêu sách này.
Do đó, Liên hợp quốc với vai trò là một tổ chức quốc tế phổ cập liên chính
phủ lớn nhất hiện nay, là sân chơi chung cho các Quốc gia yêu chuộng hòa bình và
vì sự phát triển chung của nhân loại. Liên hợp quốc có vị trí đặc biệt quan trọng
trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới nói chung và khu vực Biển Đông nói
1


riêng. Vậy Liên hợp quốc đã làm được gì với vai trò của mình đối với tranh chấp
trên Biển Đông hiện nay ? Việt Nam cần phải làm gì để bảo vệ chủ quyền của mình
trên Biển Đông thông qua các cơ chế của Liên hợp quốc ? Với mong muốn tìm ra
một giải pháp hiệu quả cho vấn đề Biển Đông hiện nay nên học viên đã lựa chọn đề
tài “Liên hợp quốc và vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông”
cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về “Liên
Hợp Quốc” cũng như về “vấn đề Biển Đông” được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành và các phương tiện thông tin khác, có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu sau đây:
- Tạp chí Luật học - Tập san về 60 năm Liên Hợp Quốc của Trường Đại Học
Luật Hà Nội năm 2005; trong đó có một số bài chuyên đề nói về vai trò của các cơ
quan chính của Liên Hợp Quốc trong giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế
như: “Vai trò của Tòa án quốc tế trong giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế”
của tác giả Vũ Thị Mai Liên; “ Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc và vấn đề duy trì
hòa bình và an ninh quốc tế ” của ThS. Nguyễn Thị Kim Ngân.
- “Phương hướng cải tổ Liên Hợp Quốc: Trường hợp Hội đồng bảo an
LHQ”, đề tài cấp viện của Viện Kinh tế và Chính trị thế giới năm 2005, do tác giả
Bùi Trường Giang thực hiện.
- “Vấn đề cải tổ Liên Hợp Quốc trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay” của
tác giả Đinh Quý Tộ. Nxb Khoa học xã hội năm 2007.

- “Hội đồng bảo an LHQ trong duy trì hòa bình và an ninh quốc tế”, luận
văn thạc sĩ ngành luật quốc tế của tác giả Nguyễn Thị Hoài Hương năm 2008.
- “ Đi tìm một giải pháp cho cuộc tranh chấp trên Biển Đông” của tác giả
Hoàng Việt đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2 năm 1009.
- “Tranh chấp Biển Đông và vai trò của Liên Hợp Quốc” của các tác giả:
Dương Danh Huy, Phạm Thu Xuân, Nguyễn Thái Linh, Lê Vĩnh Trương, Lê Minh
Phiếu – Quỹ nghiên cứu Biển Đông trên web: nghiencuubiendong.vn năm 2009.

2


- Tạp chí luật học – đặc san về luật Biển của trường ĐH Luật HN năm 2012;
trong đó có một số bài viết chuyên đề nói về tranh chấp trên Biển Đông giữa Việt
Nam và các quốc gia láng giềng như: “Phân định biển giữa Việt Nam với quốc gia
láng giềng” của hai tác giả Mạc Thị Hoài Thương và Hà Thanh Hòa; “Xác định các
vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam” của ThS. Lê Thị Anh
Đào năm 2012.
- “ Chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông – nhìn từ góc độ pháp lý, thực
tiễn và lời giải cho bài toán giải quyết tranh chấp trên Biển Đông ”, luận văn thạc sĩ
luật quốc tế của tác giả Trần Thị Họa My năm 2012.
Đặc biệt, trong các cuộc hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần 1 được
tổ chức tại Hà Nội ngày 26 và 27/11/2009, và lần 2 tại Thành phố Hồ Chí Minh
ngày 11và 12/11/2010, các học giả trong và ngoài nước đã đóng góp những tham
luận về hòa bình giải quyết tranh chấp trên Biển Đông hiện nay. Có thể kể ra như:
Liệu có thể giải quyết được các tranh chấp chủ quyền và phân định trên biển đối với
các đảo ở Biển Đông (GS Stein Tennesson – Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Na
Uy), Giải quyết các tranh chấp biển quốc tế thông qua các biện pháp tài phán
(Matthias Fueracker – Chuyên viên pháp luật của Tòa án quốc tế về Luật Biển),
Quyền tài phán biển và hợp tác Biển Đông (GS Ji Guo Xing – Trường các vấn đề
công và vấn đề quốc tế, Đại học Giao Thông Thượng Hải, Trung Quốc)…

Nhưng có thể thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện và tổng quát nhất về vai trò của Liên hợp quốc đối với vấn đề bảo vệ chủ
quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
Do đó đề tài:“ Liên Hiệp Quốc và vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam
trên Biển Đông” là một vấn đề hoàn toàn mới. Hi vọng luận văn sẽ có những đóng
góp nhất định về mặt khoa học cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trên Biển
Đông hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Trước vấn đề chung hết sức cấp thiết của toàn dân tộc - bảo vệ toàn vẹn chủ
quyền lãnh thổ quốc gia, là công dân Việt Nam và là một thạc sĩ luật học tương lai, tác

3


giả nhận thấy phần nào trách nhiệm của mình trong việc nghiên cứu, tổng hợp, phân
tích những luận chứng pháp lý, thực tiễn nhằm chứng minh và khẳng định chủ quyền
của Việt Nam trên Biển Đông nói chung, trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói
riêng. Từ việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, tác giả mong
muốn tìm ra được giải pháp hiệu quả trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên
biển thông qua việc nghiên cứu các cơ chế giải quyết tranh chấp của Liên Hợp Quốc.
Chính vì vậy, với đề tài luận văn này, tác giả hi vọng mình có thể đóng góp một phần
tiếng nói cũng như trí tuệ, giúp đặt thêm những viên gạch nhỏ xây nền tảng pháp lý
vững chắc nhằm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu:
Do các tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề rất rộng và phức tạp mà thời
gian và khuôn khổ luận văn có giới hạn, nên Luận văn không thể đi sâu phân tích tất
cả các tranh chấp trên Biển Đông hiện nay mà chủ yếu tập trung đề cập tới tranh
chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc, luận văn cũng không nghiên cứu về tổng thể
các giải pháp giải quyết tranh chấp trên Biển Đông mà chỉ cung cấp một cái nhìn
tổng quát nhất về vai trò của bốn cơ quan chính của Liên hợp quốc ( gồm Đại hội

đồng; Hội đồng bảo an; Tòa án công lý quốc tế và Ban thư ký) trong việc giải quyết
hòa bình các tranh chấp quốc tế nói chung và tranh chấp trên Biển Đông nói riêng.
Qua đó kiến nghị những giải pháp hiệu quả cho vấn đề bảo vệ chủ quyền Việt Nam
trên Biển Đông.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các nguyên tắc, phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, của tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác.
Quá trình nghiên cứu được bắt đầu bằng phương pháp thu thập thông tin qua
sách báo, tài liệu trong và ngoài nước nhằm tổng hợp, đánh giá và từ đó rút ra
những nhận định làm cơ sở lý luận có ý nghĩa về mặt khoa học cũng như thực tiễn.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả có sử dụng các bằng chứng, lập luận của
các nhà sử học, nhà nghiên cứu có kiến thức chuyên sâu về lịch sử Biển Đông, về

4


sự hình thành và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, sử dụng kiến
thức và khai thác ý kiến đánh giá của các chuyên gia có trình độ cao về luật biển để
từ đó đưa ra những nhận định mang tính cá nhân.
Để làm rõ vấn đề nêu trên, luận văn đã dùng các biện pháp quy nạp, phân
tích và diễn giải đồng thời dựa vào các cơ sở pháp lý và thực tiễn giải quyết tranh
chấp của Việt Nam trên Biển Đông cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp
quốc tế của các cơ chế của LHQ để qua đó rút ra những kiến nghị cần thiết cho Việt
Nam trong việc bảo vệ chủ quyền của mình trên Biển Đông.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Với những kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn góp phần đưa ra giải pháp
pháp lý hiệu quả cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển
Đông hiện nay. Mặc dù các kết luận đưa ra theo quan điểm cá nhân nhưng có tham
khảo ý kiến, bài viết của các chuyên gia về luật biển nên luận văn có thể được sử

dụng như tài liệu tham khảo cho các độc giả quan tâm và muốn tìm hiểu, nghiên
cứu giải pháp cho vấn đề Biển Đông dưới góc độ lý luận và khoa học.
7. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Nội Dung của
luận văn được kết cấu gồm ba chương:
Chương I: Khái quát chung về Liên hợp quốc
Chương II: Chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông
Chương III: Bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông thông qua vai
trò của Liên hợp quốc.

5


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LIÊN HỢP QUỐC
1.1 GIỚI THIỆU VỀ LIÊN HỢP QUỐC
1.1.1 Lịch sử hình thành Liên hợp quốc
LHQ chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương LHQ được
Trung Quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc Hoa kỳ và đa số
các quốc gia ký trước đó phê chuẩn. Tên gọi "LHQ" đã được Tổng thống Mỹ
Franklin D. Roosevelt sáng lập ra và được sử dụng lần đầu tiên trong "Tuyên ngôn
của LHQ" vào ngày 1/1/1942, trong đó 26 quốc gia đã khẳng định cam kết tiếp tục
cuộc đấu tranh chống lại các nước thuộc phe phát xít [55].
Việc LHQ ra đời là một sự kiện quan trọng và là sự kết hợp của nhiều yếu tố
khác nhau, như: vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc giữ gìn hoà
bình, an ninh quốc tế, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai cùng những hậu
quả thảm khốc đối với loài người và nỗ lực lớn lao của các nước trong việc thiết lập
một thể chế toàn cầu có vai trò hiệu quả hơn đối với hòa bình và an ninh quốc tế.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, hòa bình và an ninh
quốc tế luôn là nguyện vọng tha thiết, là nền tảng để phát triển quan hệ hữu nghị, hợp

tác giữa các quốc gia.
Sự thất bại của Hội Quốc Liên (tiền thân của LHQ) đã đặt ra yêu cầu phải
thiết lập một thể chế đa phương hữu hiệu có tính toàn cầu, nhằm duy trì hoà bình và
an ninh quốc tế. Trong một thời gian dài, hệ thống an ninh tập thể của Hội Quốc
Liên tỏ ra không hiệu quả vì không được sự quan tâm ủng hộ của các cường quốc.
Những nỗi kinh hoàng của Chiến tranh thế giới thứ nhất chưa đủ sức thuyết phục
các quốc gia hiểu rằng quyền lợi hoà bình của họ đòi hỏi cần có một trật tự quốc tế
với các quyền lợi quốc gia truyền thống làm ưu tiên hàng đầu. Hội Quốc Liên trở
thành một thể chế cứng nhắc, không thể hiện được chức năng dàn xếp hoặc thiết lập
các liên minh năng động, nhằm ngăn chặn các hoạt động bành trướng quyền lực của
một số cường quốc.

6


Với ý định chuẩn bị cho thời kỳ hậu chiến, nhằm loại trừ khả năng xảy ra
một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba và bảo đảm một thế cân bằng mới trong quan
hệ quốc tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh - Anh, Mỹ và
Liên Xô - đã tiến hành hai hội nghị thượng đỉnh quan trọng tại Tê-hê-ran (tháng
11/1943) và I-an-ta (tháng 2/1945). Nội dung trao đổi chính giữa Trớc-trin, Xta-lin
và Ru-dơ-ven bao gồm số phận châu Âu và tương lai của LHQ. Việc Liên Xô tán
thành thiết lập Tổ chức LHQ tại Hội nghị I-an-ta mở ra khả năng hợp tác giữa các
nước đồng minh trong việc xây dựng một trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Tại Ian-ta, ba cường quốc trên đã thống nhất với nhau về một số điểm then chốt trong
việc thiết lập tổ chức LHQ: chấp nhận ghế thành viên riêng rẽ của U-cờ-rai-na và
Bạch Nga (nay là Bê-la-rút), dành quyền phủ quyết cho các thành viên thường trực
của Hội đồng Bảo an, LHQ có quyền giám sát việc tạo dựng trật tự châu Âu. Đến
Hội nghị Pốt-xđam từ 17/7 đến 2/8/1945, ba cường quốc (thực chất chủ yếu là Mỹ
và Liên Xô, vì Anh đã bị suy yếu) thoả thuận thành lập cơ chế để giải quyết các vấn
đề sau chiến tranh, như vấn đề bồi thường chiến tranh của Đức và xác định lại biên
giới các quốc gia. Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp và

Trung Quốc được thành lập. Trên cơ sở thoả thuận tại Hội nghị I-an-ta, đại biểu của
50 quốc gia đã tham dự Hội nghị Xan Phran-xít-xcô tháng 4/1945 và dự thảo Hiến
chương LHQ. Trên cơ sở Hiến chương, Tổ chức LHQ đã chính thức được thành lập
với sự tham gia của 51 quốc gia sáng lập [55].Sự ra đời của LHQ đã chấm dứt hoàn
toàn cơ chế cân bằng quyền lực giữa các cường quốc châu Âu dựa trên cơ sở của
Hội nghị Viên năm 1815. Cân bằng quyền lực trên cơ sở LHQ là thế cân bằng linh
hoạt dựa trên tương tác trong từng vấn đề giữa ba cạnh: hoà hợp quyền lực giữa 5
thành viên thường trực Hội đồng Bảo an (còn gọi là P5), tập hợp các nước phương
Tây/phát triển, tập hợp các nước Á–Phi–Mỹ La-tinh/đang phát triển, trong đó tiếng
nói của các nước P5 có trọng lượng đặc biệt.
1.1.2 Hiến chƣơng của Liên hợp quốc
Trong quá trình chuẩn bị thành lập LHQ, Liên Xô đã kiên quyết yêu cầu đưa
vào dự án Hiến chương những nguyên tắc tiến bộ về quan hệ giữa các nước. Đó là

7


nguyên tắc bình đẳng, bình quyền giữa các nước, nguyên tắc dân tộc tự quyết,
nguyên tắc nhất trí giữa 5 nước lớn… Xét tại thời điểm lịch sử lúc đó, sự ra đời của
bản Hiến chương LHQ là thắng lợi to lớn của tất cả các lực lượng yêu chuộng hòa
bình trên toàn thế giới. Từ đó đến nay bản Hiến chương LHQ trở thành cơ sở pháp
lý quan trọng nhất cho tất cả các hoạt động của các cơ quan thuộc LHQ, mọi hành
động và việc làm của các cơ quan này phải phù hợp với quy định của Hiến chương.
Hiến chương LHQ gồm có lời nói đầu và 110 điều, chia làm 19 chương. Kèm
theo Hiến chương còn có Quy chế của Tòa án quốc tế gồm 70 điều nữa. Những quy
định của Hiến chương rất phức tạp, nhưng có thể tóm tắt những điểm chính như sau:
 Trong lời nói đầu và chương thứ nhất, Hiến chương quy định những mục
đích và nguyên tắc của LHQ. Đây là những điều quan trọng nhất của Hiến chương –
cơ sở cho mọi hoạt động của LHQ.
 Hiến chương quy định ra những thủ tục và biện pháp để ngăn ngừa chiến

tranh và trừng phạt những nước xâm lược.
 Hiến chương có đề ra cho các nước đế quốc những nhiệm vụ đối với các
nước thuộc địa và định ra một chế độ quản lý thuộc địa gọi là chế độ quản thác.
 Hiến chương cũng quy định những tiêu chuẩn để kết nạp những nước
thành viên mới và thủ tục kết nạp.
 Hiến chương còn quy định tỉ mỉ bộ máy của LHQ và quyền hạn, nhiệm vụ
của mỗi cơ quan LHQ.
Ngoài ra, Hiến chương còn quy định một số điều khoản về sự hợp tác quốc tế
về phương diện kinh tế, xã hội, những hiệp định khu vực, về những thủ tục sửa đổi
Hiến chương…
1.1.3 Mục đích và nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc
LHQ hoạt động theo các mục đích và nguyên tắc quy định trong Hiến chương
LHQ. Điều 1 của Hiến chương nêu rõ bốn (04) mục tiêu cơ bản của LHQ là:
(1) Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế;
(2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên
tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết;
8


(3) Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con
người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu
da, ngôn ngữ và tôn giáo;
(4) Xây dựng LHQ làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế vì các mục
tiêu chung.
Từ khi thành lập đến nay, mục tiêu quan trọng nhất mà LHQ theo đuổi vẫn là
duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Điều này được thể hiện rõ ngay trong Lời nói
đầu của Hiến Chương: “Chúng tôi, nhân dân các nước liên hợp lại, quyết tâm
phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh đã hai lần trong
một cuộc đời người gây cho nhân loại đau thương không kể xiết… Bày tỏ lòng

mong muốn cùng chung sống trong hòa bình trên tinh thần láng giềng thân thiện,
cùng chung nhau góp sức để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế…” [23].
Và 6 nguyên tắc hoạt động chủ yếu của LHQ là:
(1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia;
(2) Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia;
(3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế;
(4) Không can thiệp vào công việc nội bộ các nước;
(5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; và
(6) Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình.
Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của LHQ mang tính bao quát,
phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên này thay
đổi tuỳ theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên trong tổ chức này. Thời
gian đầu khi mới ra đời, cùng với sự tăng vọt về số lượng thành viên, LHQ tập
trung vào các vấn đề phi thực dân hoá, quyền tự quyết dân tộc và chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc Apácthai. Trong thời kỳ gần đây LHQ ngày càng quan tâm nhiều hơn
tới các vấn đề kinh tế và phát triển. Hoạt động của LHQ trong gần 70 năm qua cho

9


thấy trọng tâm chính của LHQ là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế và giúp đỡ sự
nghiệp phát triển của các quốc gia thành viên.
Đặc điểm bao trùm của LHQ là tổ chức này không phải là một nhà nước siêu
quốc gia. LHQ là tổ chức đa phương toàn cầu đầu tiên có những hoạt động thực
chất và đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp và điều tiết các mối quan hệ giữa
các quốc gia độc lập có chủ quyền trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền bình đẳng
của các quốc gia. Theo Điều 2 mục 7 của Hiến Chương, LHQ không được can thiệp
vào các vấn đề thuộc quyền tài phán nội bộ của các nước. Tất cả các quốc gia tham
gia LHQ theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền. Nguyên tắc này được phản ánh triệt

để nhất trong cơ chế tham gia bỏ phiếu các quyết định và nghị quyết tại Đại Hội
Đồng LHQ (các quốc gia lớn nhỏ đều có một phiếu).
Một đặc điểm nổi bật khác của LHQ là tổ chức này phản ánh sự dàn xếp và
cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực tế này được thể hiện
trong cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an LHQ - cơ quan chấp hành có thực
quyền nhất của LHQ và đảm nhiệm trách nhiệm hàng đầu của LHQ là duy trì hoà
bình và an ninh quốc tế. Chỉ các quyết định của Hội đồng Bảo an mới có tính
cưỡng chế thực hiện. Các nghị quyết tại các cơ quan chính khác của LHQ như Đại
hội đồng, Hội đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, và cả Toà án Quốc tế
chỉ có tính khuyến nghị, đạo lý và tạo sức ép dư luận. Để bảo đảm lợi ích và thu
hút sự tham gia của cho các cường quốc, Hội đồng Bảo an LHQ là cơ quan duy
nhất dành cho 5 cường quốc quyền phủ quyết (veto) khi thông qua các nghị quyết,
quyết định của Hội đồng. Quyền hạn của Hội đồng Bảo an tập trung vào hai lĩnh
vực hoạt động chính là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và tiến hành các
biện pháp cưỡng chế.
So với Hội Quốc Liên, LHQ chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất toàn cầu (thành
phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu lục) và đặc biệt là tính toàn
diện của nó: chương trình nghị sự không bó hẹp vào vấn đề duy trì hoà bình, an
ninh, mà bao gồm cả việc thúc đẩy hợp tác vì phát triển kinh tế–xã hội của cộng
đồng các dân tộc; bản thân LHQ bao gồm hàng loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ

10


chức chuyên môn tập trung vào mọi lĩnh vực của đời sống các quốc gia và quan hệ
quốc tế ngoài lĩnh vực chính trị - quốc phòng, từ tiền tệ đến nông nghiệp, văn hoá,
khoa học–kỹ thuật...
1.2 CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA LIÊN HỢP QUỐC
Theo quy định tại Điều 7, Hiến chương LHQ, cơ cấu tổ chức của LHQ gồm
6 cơ quan chính là: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế –Xã hội, Hội

đồng Quản thác, Toà án công lý Quốc tế, Ban Thư ký và các cơ quan chuyên môn
và các chương trình hợp tác phát triển (xem phụ lục bảng 1).
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ đi sâu phân tích thủ tục hoạt động
của một số cơ quan chính của LHQ có vai trò giải quyết hòa bình các tranh chấp
quốc tế.
1.2.1 Đại Hội Đồng Liên hợp quốc
Các qui định của Hiến chương liên quan đến Đại hội đồng được đề cập trong
chương IV (từ Điều 9 đến 22), đã xác định thành phần, chức năng quyền hạn, bầu
cử và thủ tục. Những qui định khác liên quan đến Đại hội đồng còn được nêu ở một
số điều khoản khác.
1.2.1.1 Thành viên
Đại hội đồng là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của LHQ. Từ 51 thành viên
ban đầu (những nước có đại diện dự Hội nghị tại Xan-Phran-xit-xcô hoặc đã ký
Tuyên ngôn của LHQ ngày 1/1/1942, và những nước đã ký và phê chuẩn Hiến
chương LHQ), hiện nay số thành viên LHQ là 193 thành viên [77]. Khác với Hội
đồng Bảo an, các thành viên Đại hội đồng đều là các thành viên bình đẳng, không
phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ, mỗi quốc gia thành viên đều được 1 phiếu bầu.
Các nước thành viên được chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi bầu
vào các cơ quan cơ chế LHQ. Hiện nay có 5 nhóm khu vực: châu Á, châu Phi, Mỹ
La-tinh và Ca-ri-bê, Đông Âu, Tây Âu và các nước khác.
1.2.1.2 Chức năng quyền hạn
Theo điều 10 đến điều 17 của Hiến chương LHQ, Đại hội đồng là cơ quan có
thẩm quyền rất rộng :

11


 Xem xét và kiến nghị về các nguyên tắc hợp tác trong việc duy trì hoà
bình và an ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc liên quan đến giải trừ quân bị và
các qui định về quân bị;

 Bàn bạc về các vấn đề liên quan tới hoà bình và an ninh quốc tế, trừ
trường hợp tình hình hoặc tranh chấp hiện đang được thảo luận tại Hội đồng Bảo
an, và đưa ra các khuyến nghị về các vấn đề đó;
 Bàn bạc và khuyến nghị về các vấn đề theo qui định của Hiến chương có
tác động đến chức năng, quyền hạn của các cơ quan thuộc LHQ;
 Nghiên cứu và khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác chính trị quốc tế, phát
triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế; thực hiện các quyền con người và các
quyền tự do cơ bản cho mọi người, và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, văn hoá, giáo dục và y tế;
 Khuyến nghị các giải pháp hoà bình cho mọi tình huống có thể làm
phương hại quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc;
 Nhận và xem xét các báo cáo của Hội đồng Bảo an LHQ và các cơ quan
khác thuộc LHQ;
 Xem xét, thông qua ngân sách LHQ và phân bổ đóng góp của các nước
thành viên;
 Bầu các thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, các thành
viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội,
Theo nghị quyết "Đoàn kết vì hoà bình" (Uniting for Peace) thông qua tại
Đại hội đồng tháng 11/1950, Đại hội đồng có thể hành động nếu Hội đồng Bảo an,
vì không đạt được sự nhất trí giữa các thành viên, không thể có hành động trong
một trường hợp có nguy cơ đe doạ hoà bình, phá vỡ hoà bình hoặc hành động xâm
lược. Đại hội đồng được quyền xem xét vấn đề ngay lập tức để có khuyến nghị với
các nước thành viên thực hiện các biện pháp tập thể, trong trường hợp phá hoại hoà
bình hoặc xâm lược, bao gồm biện pháp sử dụng vũ lực khi cần thiết, để duy trì và
khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế.
12


1.2.1.3 Các khoá họp của Đại hội Đồng
Có các loại của Đại hội đồng LHQ là: khoá họp thường kỳ, khoá đặc biệt

thường kỳ và khoá họp đặc biệt khẩn cấp
* Khoá họp thường kỳ: Theo Nghị quyết 57/301 (2002), Đại hội đồng quyết định
khoá họp thường kỳ hàng năm của Đại hội đồng sẽ bắt đầu vào ngày thứ 3 của tuần thứ 3
của tháng 9, tính từ tuần đầu tiên có ít nhất một ngày làm việc. Nghị quyết cũng quy định
buổi thảo luận chung của Đại hội đồng sẽ được tiến hành vào ngày thứ 3 sau khi khai
mạc khoá họp thường kỳ và sẽ kéo dài liên tục trong 9 ngày. Các quy định này được áp
dụng từ khóa họp thường kỳ thứ 58 của Đại hội đồng LHQ. Các khoá họp sẽ được tổ
chức tại trụ sở của LHQ ở New York, trừ khi tại khoá họp trước đó Đại hội đồng quyết
định hoặc đa số các thành viên LHQ yêu cầu tổ chức họp ở nơi khác. Mỗi khoá họp có
một Chủ tịch chủ trì, do các nhóm khu vực luân phiên đề cử. Sau tuần đầu thống nhất
chương trình nghị sự, Đại hội đồng sẽ tiến hành thảo thuận chung của các trưởng đoàn.
Cấp tham gia thường ở cấp cao như: Nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng, Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng, Thứ trưởng ngoại giao...Các nước thành viên bày tỏ lập trường quan điểm về
những vấn đề quốc tế quan tâm. Sau đó, 6 Uỷ ban của Đại hội đồng bắt đầu nhóm họp
song song với Đại hội đồng. Phần lớn các đề mục được thảo luận tại Uỷ ban trước khi
đưa ra Đại hội đồng, một số được thảo luận thẳng tại Đại hội đồng.
* Khoá đặc biệt thường kỳ: Do Tổng thư ký LHQ triệu tập, theo yêu cầu của
Hội đồng Bảo An hoặc đa số các nước thành viên LHQ. Khoá họp đặc biệt thường
kỳ sẽ được tổ chức trong vòng 15 ngày kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu trừ
khi Đại hội đồng đã ấn định ngày tổ chức khoá họp đặc biệt từ trước. Sau đó, Tổng
thư ký sẽ thông báo cho các nước thành viên ít nhất 14 ngày trước khi khai mạc
khoá họp đặc biệt, nếu không thì phải trước 10 ngày. Tính đến năm 2004, đã có 27
khoá họp đặc biệt thường kỳ trong đó chủ yếu là theo yêu cầu của Đại hội đồng.
Chủ đề của các khoá họp bao gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, môi trường, xã hội.
Từ năm 1990 trở lại đây, các khoá họp đặc biệt thường kỳ của Đại hội đồng chủ yếu
xoay quanh các vấn đề như: hợp tác kinh tế quốc tế, ma tuý, dân số, môi trường,
bình đẳng giới, HIV/AIDS [55]. Điều này cho thấy rõ xu thế của của LHQ sau chiến
tranh lạnh là tập trung bàn về vấn đề phát triển.

13



* Khoá họp đặc biệt khẩn cấp: Có thể được triệu tập trong vòng 24 giờ kể từ
khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu của Hội đồng Bảo an, hoặc yêu cầu hoặc thông
báo của đa số các nước thành viên LHQ. Khoá họp này phải được thông báo cho các
nước thành viên ít nhất trước 12 giờ. Tính đến năm 2004, đã có 10 khóa họp đặc biệt
khẩn cấp được triệu tập [55], trong đó đa số được triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng
Bảo an còn lại là của các nước đặc biệt quan tâm đến tình hình xung đột. Vì mang
tính khẩn cấp nên chủ đề của các khoá họp này cũng có những nét khác so với các
khoá họp đặc biệt thường kỳ ở chỗ các khoá họp đặc biệt khẩn cấp thường bàn về các
vấn đề chính trị cụ thể như giải quyết xung đột khu vực hoặc trong bản thân một nước
(vấn đề Trung đông 1956, Hungary 1956, Trung đông 1958, Congo 1960...).
Khi muốn yêu cầu triệu tập một khoá họp đặc biệt, Hội đồng Bảo an phải có
một quyết định chính thức về vấn đề này được 9 thành viên Hội đồng Bảo an bỏ
phiếu ủng hộ. Mặc dù Hiến chương quy định các khoá họp đặc biệt được triệu tập
theo yêu cầu của đa số thành viên LHQ nhưng trên thực tế cho đến nay chưa có một
yêu cầu nào được đưa ra và có chữ ký của đa số nước thành viên. Thay vào đó, một
nước thành viên sẽ trình yêu cầu triệu tập khoá họp đặc biệt lên Tổng thư ký LHQ.
Tổng thư ký sẽ ngay lập tức thông báo các nước thành viên khác và hỏi ý kiến của
họ về yêu cầu này. Nếu đa số các nước bỏ phiếu thuận trong vòng 30 ngày thì một
khoá họp đặc biệt sẽ được triệu tập.
* Kết quả của các khoá họp thể hiện bằng các nghị quyết và quyết định được
thông qua (các hình thức thông qua văn kiện được đề cập ở phần thủ tục hoạt động).
Các nghị quyết và quyết định này không có giá trị ràng buộc pháp lý mà chỉ có giá
trị khuyến nghị và đạo lý phản ánh ý chí, nguyện vọng chung của đông đảo các
nước thành viên LHQ.
1.2.1.4. Thủ tục hoạt động của Đại hội đồng Liên hợp quốc
a) Chương trình nghị sự
* Tại các khoá họp thường kỳ, thông thường, chương trình nghị sự của Đại
hội đồng LHQ gồm khoảng 150 đề mục, liên quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc sự

quan tâm của cộng đồng quốc tế.

14


* Chương trình nghị sự tạm thời của khoá họp thường kỳ do Tổng thư ký
soạn thảo và chuyển cho các nước thành viên chậm nhất là 60 ngày trước ngày khai
mạc, bao gồm:
+ Báo cáo của Tổng thư ký;
+ Báo cáo của các cơ quan chính của LHQ, các cơ quan thuộc Đại hội đồng
LHQ và các tổ chức chuyên môn thuộc LHQ;
+ Các đề mục do Đại hội đồng quyết định tại khoá họp trước;
+ Các đề mục do các cơ quan chính của LHQ kiến nghị;
+ Các đề mục do bất cứ thành viên nào đề nghị;
+ Các đề mục liên quan đến ngân sách;
+ Các đề mục thuộc Điều 35, đoạn 2 của Hiến chương do các nước không
phải thành viên đề nghị.
* Bổ sung đề mục
Các nước thành viên, các cơ quan chính của LHQ và Tổng thư ký được đưa
đề mục bổ sung 30 ngày trước khi khai mạc khoá họp.
* Thông qua chương trình nghị sự
+ Chương trình nghị sự tạm thời và danh sách đề mục bổ sung cùng báo cáo
của Uỷ ban chung (gồm Chủ tịch và các Phó chủ tịch Đại hội đồng) được chuyển
cho Đại hội đồng thông qua khi khai mạc.
+ Muốn đưa một đề mục phải kèm theo một bản giải thích hoặc dự thảo nghị quyết.
+ Việc sửa đổi hoặc gạt bỏ một đề mục phải do Đại hội đồng thông qua bằng
bỏ phiếu với số phiếu quá bán của những nước có mặt và tham gia bỏ phiếu.
b) Đoàn tham gia
* Mỗi nước thành viên gồm 5 đại biểu chính thức, 5 đại biểu dự khuyết và
không hạn chế số lượng cố vấn.

* Đại biểu dự khuyết có thể trở thành đại biểu chính thức theo bổ nhiệm của
trưởng đoàn.
* Uỷ nhiệm thư và danh sách thành viên phải được người đứng đầu Nhà
nước, Chính phủ hoặc Bộ trưởng Ngoại giao cấp và gửi cho Tổng thư ký LHQ một
tuần trước ngày khai mạc.

15


c) Các hình thức thông qua văn kiện
* Tại các Uỷ ban, các nghị quyết được thông qua bằng đa số thường hoặc
thông qua không cần bỏ phiếu.
* Các quyết định về các vấn đề quan trọng tại Đại hội đồng LHQ được thông
qua bằng đa số áp đảo (2/3) của các thành viên có mặt và tham gia bỏ phiếu. Các
vấn đề quan trọng gồm: các vấn đề liên quan đến các khuyến nghị về hoà bình, an
ninh quốc tế, bầu uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an, các thành viên Hội
đồng Kinh tế - Xã hội, Hội đồng Quản thác theo Điều 86, mục 1c của Hiến chương
LHQ, kết nạp thành viên mới, treo quyền thành viên, khai trừ thành viên và các vấn
đề ngân sách.
* Các vấn đề khác được thông qua bằng đa số thường.
* Khi có nhất trí cao, các nghị quyết có thể được thông qua không cần bỏ phiếu.
Tại Đại hội đồng LHQ có các hình thức bỏ phiếu: kín (bầu cử), công khai,
ghi tên, gọi tên.
d) Quy trình hội nghị
* Phát biểu
+ Chủ tịch có thể khai mạc phiên họp khi có ít nhất là 1/3 đại biểu.
+ Không đại biểu nào được phát biểu khi chưa được Chủ tịch cho phép. Chủ
tịch cho phép các đoàn phát biểu theo thứ tự đăng ký và có quyền yêu cầu các đại
biểu ngừng phát biểu khi vấn đề không liên quan tới chủ đề đang thảo luận.
+ Khi đã hết thời hạn đăng ký phát biểu, các đại biểu có thể được phát biểu

bằng cách sử dụng quyền trả lời.
* Kiến nghị về thủ tục (points of order): Trong quá trình thảo luận, đại biểu có
thể sử dụng kiến nghị về thủ tục và Chủ tịch sẽ quyết định ngay về việc này. Đại biểu
sử dụng kiến nghị về thủ tục không được phát biểu về nội dung vấn đề đang thảo luận.
* Thủ tục đưa ra hoặc rút các quyết định
+ Người đưa ra đề nghị (motion) có thể rút lại bất cứ lúc nào trước khi bắt
đầu bỏ phiếu, trừ trường hợp đề nghị đã được bổ sung. Đề nghị đã rút có thể được
đưa trở lại với bất cứ đại biểu nào.

16


+ Các đề nghị và các bổ sung phải được nộp cho Tổng thư ký bằng văn bản.
Theo quy định chung, không thảo luận và bỏ phiếu các đề nghị khi văn bản chưa
được Ban thư ký xem và gửi cho các đại biểu ngày hôm trước. Chủ tịch có thể cho
phép thảo luận và thông qua các đề nghị và bổ sung mặc dù văn bản sao mới phát
cho đại biểu trong ngày hôm đó.
+ Đề nghị đã thông qua hoặc bác bỏ có thể đem ra xét lại nếu 2/3 đại biểu có
mặt đồng ý. Về đề nghị xét lại quyết định, chỉ 2 đại biểu trong số các nước chống đề
nghị đó được quyền phát biểu.
1.2.2 Hội Đồng Bảo An Liên hợp quốc
Theo Điều 24 của Hiến chương LHQ, các nước thành viên LHQ trao cho Hội
đồng Bảo an trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế. Theo
đó, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp nhằm giải quyết hoà bình các tranh
chấp, xung đột và khi cần thiết, có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ
lực, nhằm loại trừ các mối đe doạ, phá hoại hoà bình, hoặc các hành động xâm lược.
Các quy định của Hiến chương liên quan đến Hội đồng Bảo an nằm trong
các chương V, VI, VII, VIII và XII.
1.2.2.1 Thành viên Hội đồng bảo an
Hội đồng Bảo an gồm 15 nước thành viên, trong đó có 5 nước uỷ viên

thường trực là: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và 10 thành viên không thường
trực do Đại hội đồng LHQ bầu ra với nhiệm kỳ hai năm trên cơ sở phân chia công
bằng về mặt địa lý và có tính tới sự đóng góp của những nước này cho tôn chỉ và
mục đích của LHQ và không được bầu lại nhiệm kỳ kế ngay sau khi mãn nhiệm.
10 nước thành viên không thường trực được bầu theo sự phân bổ khu vực địa
lý như sau: 5 nước thuộc châu Phi và châu Á (3 nước châu Phi, 2 nước châu Á); 1
nước thuộc Đông Âu; 2 nước thuộc vùng Mỹ Latinh và Caribê; 2 nước thuộc Tây
Âu và các nước khác.
1.2.2.2 Chức năng, quyền hạn của Hội đồng bảo an
Là một trong sáu cơ quan chính của LHQ, Hội đồng Bảo an được thành lập
nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Theo Điều 39 của Hiến chương LHQ,

17


Hội đồng Bảo an là cơ quan duy nhất của LHQ có quyền quyết định đánh giá thực
tại của các mối đe doạ đối với hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc hành động xâm
lược, và sẽ khuyến nghị hoặc quyết định các biện pháp cần được tiến hành phù hợp
với các Điều 41 và 42, để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. Trong
khi thực thi chức năng này, Hội đồng Bảo an được coi là hành động với tư cách
thay mặt cho tất cả các thành viên LHQ. Trên thực tế, những chức năng mà Hội
đồng Bảo an được trao có thể được coi là để nhằm 3 mục tiêu: gìn giữ hoà bình, vãn
hồi hoà bình và kiến tạo hoà bình.
Trong khi các cơ quan khác của LHQ chỉ có thể đưa ra các quyết định mang
tính khuyến nghị đối với các chính phủ của các quốc gia thành viên LHQ, các quyết
định và nghị quyết của Hội đồng Bảo an, theo chương VII Hiến chương, khi đã
được thông qua đều mang tính chất ràng buộc và tất cả các thành viên của LHQ đều
có trách nhiệm phải tôn trọng và thi hành.
Những quyền hạn cụ thể giao cho Hội đồng Bảo an được quy định ở các
chương VI, VII, XII của Hiến chương LHQ, song những điều khoản quan trọng

nhất có liên quan tới việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, đặc biệt là việc giải
quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và sử dụng những biện pháp cưỡng chế an
ninh tập thể, được quy định cụ thể và chi tiết nhất ở chương VI và VII.
Theo Hiến chương, Hội đồng Bảo an có thể tiến hành điều tra bất cứ một
tranh chấp nào hoặc bất cứ một tình thế nào có thể dẫn tới những xung đột quốc tế
hoặc đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế, và có thể đưa ra những khuyến nghị về các
phương thức cũng như nội dung cụ thể để giải quyết những xung đột đó. Những
xung đột và những tình huống có khả năng đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế có
thể do các nước thành viên LHQ, Đại hội đồng hoặc Tổng thư ký LHQ nêu ra trước
Hội đồng Bảo an. Một nước không phải thành viên LHQ cũng có thể đưa cuộc tranh
chấp, trong đó bản thân nước đó là một bên tham gia tranh chấp, ra trước Hội đồng
Bảo an để cơ quan này xem xét giải quyết, với điều kiện là nước đó phải thừa nhận
trước là sẽ tuân thủ trách nhiệm giải quyết hoà bình cuộc tranh chấp theo quy định
của Hiến chương LHQ.

18


Theo Hiến chương, tất cả các nước thành viên LHQ phải cam kết cung ứng
cho Hội đồng Bảo an, căn cứ theo những thoả thuận đặc biệt thông qua thương lượng
đối với những đề xuất của Hội đồng Bảo an, những lực lượng vũ trang, những trợ
giúp và các phương tiện cần thiết khác để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
1.2.2.3 Thủ tục hoạt động của Hội đồng Bảo an
Theo Hiến chương, Hội đồng Bảo an phải được tổ chức một cách phù hợp để có
thể hoạt động thường xuyên và liên tục nhằm ứng phó với các tình huống liên quan đến
hoà bình và an ninh quốc tế có thể đặt ra ở bất cứ thời điểm nào. Hiện tại, hoạt động
của Hội đồng Bảo an được tiến hành dựa trên Các qui tắc thủ tục tạm thời (gồm 61 qui
tắc) được Hội đồng Bảo an thông qua và liên tục cập nhật tại các phiên họp.
* Các phiên họp: Các hình thức họp của Hội đồng Bảo an bao gồm họp
chính thức, họp kín và trao đổi không chính thức. Hội đồng Bảo an có thể triệu tập

phiên họp bất thường (periodic meetings) theo yêu cầu của các quốc gia thành viên
LHQ hoặc của Tổng thư ký LHQ khi có những xung đột hoặc những tình huống có
khả năng đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế. Một nước không phải thành viên LHQ
cũng có thể đưa cuộc tranh chấp, trong đó bản thân nước đó là một bên tham gia
tranh chấp, ra trước Hội đồng Bảo an để cơ quan này xem xét giải quyết với điều
kiện là nước đó phải thừa nhận trước là sẽ tuân thủ trách nhiệm giải quyết hoà bình
cuộc tranh chấp theo qui định của Hiến chương LHQ. Sau khi nhận được yêu cầu
như vậy của các đối tượng trên, Chủ tịch Hội đồng Bảo an sẽ lập tức thông báo cho
các nước uỷ viên tình hình trên và tiến hành các thủ tục khác để tổ chức cuộc họp
của Hội đồng Bảo an để xem xét vấn đề. Ngoài những cuộc họp thuộc dạng trên,
Hội đồng Bảo an còn tiến hành các cuộc họp trên cơ sở thường xuyên (continuous
basis) nhằm có thể ứng phó được một cách nhanh chóng những biến chuyển của
tình hình và để kiểm phối các hoạt động gìn giữ hoà bình của LHQ trên cơ sở các
báo cáo của Tổng thư ký LHQ.
Các cuộc họp của Hội đồng Bảo an có thể được tổ chức tại trụ sở LHQ hoặc
ở bất cứ nơi nào ngoài trụ sở mà Hội đồng xét thấy thuận tiện.

19


×