Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghiên cứu hiện trạng, làm cơ sở đề xuất giải pháp bảo tồn các loài thuộc ngành hạt trần (gymnospermae) tại khu bảo tồn thiên nhiên xuân liên, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.99 KB, 81 trang )

B GIO DC V O TO

B NễNG NGHIP V PTNT

TRNG I HC LM NGHIP
========

MAI VN CHUYấN

Nghiên cứu hiện trạng, LàM C S XUT
giảI pháp bảo tồn Các LOài THUC NGàNH hạt
trần (GYMNOSPERMAE) Tại khu bảo tồn thiên
nhiên xuân liên, tỉnh Thanh Hoá

LUN VN THC S KHOA HC LM NGHIP

H NI - 2010


B GIO DC V O TO

B NễNG NGHIP V PTNT

TRNG I HC LM NGHIP
========

MAI VN CHUYấN

Nghiên cứu hiện trạng, LàM C S XUT
giảI pháp bảo tồn Các LOài THUC NGàNH hạt
trần (GYMNOSPERMAE) Tại khu bảo tồn thiên


nhiên xuân liên, tỉnh Thanh Hoá

Chuyờn ngnh: Qun lý bo v ti nguyờn rng
Mó s:

60.62.68

LUN VN THC S KHOA HC LM NGHIP

NGI HNG DN KHOA HC :
PGS.TS. TRN MINH HI

H NI - 2010


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vùng Trường Sơn Bắc, hiện là một trong những khu vực có độ che phủ cao
nhất của rừng tự nhiên trong toàn quốc. Thanh Hóa là tỉnh phía Bắc của vùng này
với độ che phủ của rừng đạt 46,7 % [50]. Khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Xuân
Liên với quy mô 26.303,6 ha, cách thành phố Thanh Hoá 70 km về phía Tây Nam
được biết đến bởi giá trị lớn về đa dạng sinh học [2]. Là khu vực có tính đa dạng
sinh học (ĐDSH) cao, là nơi cư trú của rất nhiều loài động, thực vật quý hiếm và
đặc hữu; trong đó có nhiều loài đang đứng trước nguy cơ biến mất không chỉ Việt
Nam mà còn trên toàn thế giới. Là nơi còn giữ được rừng thường xanh có sự phân
bố của 752 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 440 chi, 130 họ và 38 loài thực
vật có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và thế giới [54] như: Pơ mu (Fokienia
hodginssi (Dunn) A. Henry & Thomas), Bách xanh (Calocedrus macrolepis
Kurz), Sa mộc dầu (Cunninghamia konishii


Hayata), Dẻ tùng sọc trắng

(Amentotaxus argotaenia (Hance) Pilg.), Thông nàng (Dacrycarpus imbricartus
(Blume) de Laub)...., Các loài cây này không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà
còn có giá trị kinh tế rất cao, các loại gỗ như Pơ mu, Sa mu dầu, ... gỗ bền, ít mối
mọt, có hoa vân và màu sắc rất đẹp nên rất được ưa dùng để làm các đồ thủ công
mỹ nghệ, làm các vật dụng trong gia đình, làm nhà.
Do gỗ tốt, có giá trị kinh tế, thẩm mỹ cao nên chúng đang là đối tượng bị chú
trọng khai thác. Theo kết quả điều tra đánh giá đa dạng sinh học, nhu cầu bảo tồn từ
năm 2000- 2009 của một số nhà khoa học và một số chương trình nghiên cứu của
Khu BTTN Xuân Liên, thì số lượng cá thể của các loài không nhiều, chỉ có quần
thể Pơ mu (Fokienia hodginssi (Dunn) A. Henry & Thomas), Sa mộc dầu
(Cunninghamia konishii Hayata) là loài có số lượng lớn hơn cả, với đường kính từ
1- 1,5 m, chúng tập trung phân bố từ độ cao 900 - 1500 m trên các sườn dông và
đỉnh núi [2], một số cá thể đã và đang bị chết tự nhiên còn một số cá thể khác vẫn
đang là đối tượng khai thác của người dân. Hơn nữa, dưới tán rừng ít gặp các cá thể
cây con của các loài tái sinh tự nhiên, đặc biệt là loài cây Sa mộc dầu
(Cunninghamia konishii Hayata). Vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các loài


2

thuộc ngành hạt trần là vấn đề hết sức bức thiết, có ý nghĩa rất lớn trong việc phát
triển nguồn gen thực vật quý hiếm ở nước ta cũng như góp phần vào việc bảo tồn
tính đa dạng thực vật ở khu BTTN Xuân Liên.
Mặt khác, sau khi khu BTTN Xuân Liên được thành lập và đi vào hoạt
động, mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng tập thể, cán bộ khu bảo tồn mới chỉ dừng
lại ở công tác bảo vệ nguyên vẹn, hạn chế sự thất thoát tài nguyên ra khỏi khu bảo
tồn. Cho nên tài nguyên rừng và giá trị của các loài thực vật Hạt trần vẫn đang bị

đe doạ nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân khác nhau, mà nguyên nhân trực tiếp
suy giảm nguồn tài nguyên này là do khai thác các loài Pơ mu, Sa mộc dầu trong
thập kỷ 90 phục vụ xuất khẩu; khai thác gỗ trái phép; cháy rừng; thu hái lâm sản
ngoài gỗ; xây dựng hạ tầng (đập thuỷ lợi - thuỷ điện Cửa Đạt, đường giao thông
miền núi); đường tuần tra biên giới kết hợp phát triển dân sinh kinh tế xã Bát
Mọt... Do địa bàn phức tạp, trình độ dân trí còn thấp, nghèo đói, lạc hậu đã dẫn
đến một bộ phận không nhỏ người dân địa phương vẫn lén lút vào rừng khai thác
trộm gỗ của các loài hạt trần để bán kiếm sống. Một nguyên nhân khác ảnh hưởng
đến việc bảo tồn các loài Hạt trần là còn tồn tại nhiều bất cập từ công tác quản lý
và bảo tồn vẫn đang tồn tại ở Việt Nam, ví dụ như chưa có sự hiểu biết đầy đủ về
các đặc điểm sinh thái, phân bố thực tế của các loài Hạt trần ở trong khu bảo tồn
… Chính vì thiếu các thông tin này, đã dẫn đến việc quy hoạch thiếu hoặc sai
vùng bảo tồn thích hợp cho các loài Hạt trần hoặc chưa có các hoạt động bảo vệ
thích hợp cho sự tồn tại của chúng.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn trên, việc thực hiện đề tài "Nghiên
cứu hiện trạng, làm cơ sở đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài thuộc ngành
Hạt trần (Gymnospermae) tại khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, tỉnh Thanh
Hóa" là cần thiết, có cơ sở khoa học, phù hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn ở
địa phương, góp phần bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học của tỉnh Thanh Hóa
nói riêng và trên bình diện quốc gia, quốc tế nói chung.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU6
1.1. Tin
̀ h hin
̀ h nghiên cứu trên thế giới
Thế giới thực vâ ̣t thâ ̣t phong phú và đa da ̣ng với khoảng 250.000 loài

thực vâ ̣t bâ ̣c cao, trong đó thực vâ ̣t ha ̣t trầ n chỉ chiế m có trên 600 loài, mô ̣t
con số đáng khiêm tố n [16], [37].
Cây hạt trần là những loài cây có nguồn gốc cổ xưa nhất, khoảng trên
300 triệu năm. Các vùng rừng cây hạt trần tự nhiên nổi tiếng thường được
nhắc tới ở Châu Âu với các loài Vân sam (Picea), Thông (Pinus); Bắc Mỹ với
các loài Thông (Pinus), Cù tùng (Sequoia, Sequoiadendron) và Thiết sam
(Pseudotsuga); Đông Á như Trung Quốc và Nhật Bản với các loài Tùng bách
(Cupressus, Juniperus) và Liễu sam (Cryptomeria). Các loài cây hạt trần đã
đóng góp một phần không nhỏ vào nền kinh tế của một số nước như Thụy
Điển, Na Uy, Phần Lan, New Zealand... Lịch sử lâu dài của Trung Quốc cũng
đã ghi lại nguồn gốc các cây hạt trần cổ thụ hiện còn tồn tại đến ngày nay mà
có thể dựa vào nó để đoán tuổi của chúng. Chẳ ng hạn trên núi Thái Sơn (Sơn
Đông) có cây Tùng ngũ đại phu do Tần Thủy Hoàng phong tặng tên; cây
Bách Hán tướng quân ở thư viện Tùng Dương (Hà Nam), cây Bạch quả đời
Hán trên núi Thanh Thành (Tứ Xuyên); cây Bách nước liêu (còn gọi là Liêu
bách) trong công viên Trung Sơn (Bắc Kinh)... Đồng thời, nhiều nơi khác trên
thế giới cũng có một số cây cổ thụ nổi tiếng như cây Cù tùng (Sequoia) có tên
‘cụ già thế giới” ở California (Mỹ) đã trên 3000 năm tuổi, cây Tuyết tùng
(Cedrus deodata) trên đảo Ryukyu (Nhật Bản) qua máy đo đã 7200 năm tuổi.
Tại Li băng hiện còn một đám rừng gồm 400 cây Bách libăng (Cedrus) nổi
tiếng từ thời tiền sử, trong đó có 13 cây cổ địa có hàng nghìn năm tuổi [37].


4

Cây hạt trần là một trong những nhóm cây quan trọng nhất trên thế giới.
Các khu rừng cây Hạt trần rộng lớn của Bắc bán cầu là nơi lọc khí Cacbon, giúp
làm điều hòa khí hậu thế giới. Rất nhiều dãy núi trên thế giới gồm rừng các loài
cây hạt trần chiếm ưu thế đóng một vai trò quyết định đối với việc điều hòa nước
cho các hệ thống sông ngòi chính. Những trận lụt lội khủng khiếp gần đây ở các

vùng thấp như ở các nước Trung Quốc và Ấn Độ có quan hệ trực tiếp tới việc khai
thác quá mức rừng cây hạt trần phòng hộ đầu nguồn. Rất nhiều loài thực vật, động
vật và nấm phụ thuộc vào cây hạt trần để tồn tại, do đó không có cây hạt trần thì
những loài này sẽ bị tuyệt chủng. Cây hạt trần cung cấp một phần chính gỗ cho
xây dựng, ván ép, bột và các sản phẩ m giấy của thế giới. Nhiều loài còn cho gỗ
quí với những công dụng đặc biệt như dùng đóng tàu hay làm đồ mỹ nghệ. Phần
lớn cây hạt trần có gỗ dễ gia công, bền. Ở Chi Lê cây Fitzroya cupressoides là
một loài cây hạt trần rừng ôn đới có chiều cao đạt tới trên 50 m và tuổi trên 3600
năm. Thân cây này được tìm thấy từ các đầm lầy nơi chúng đã bị chôn vùi từ trên
5000 năm trước nhưng gỗ vẫn có giá trị sử dụng tốt. Loài cây được dùng trồng
rừng nhiều nhất trên thế giới là Thông Pinus radiata, là nguyên liệu cơ bản cho
công nghiệp rừng của châu Úc, Nam Mỹ và Nam Phi, với tổng diện tích lớn hơn
cả diện tích Việt Nam. Tại sinh cảnh nguyên sản của cây ở California loài chỉ có ở
5 đám nhỏ còn sót lại và đang bị đe do ̣a nghiêm trọng. Cây hạt trần còn là nguồn
cung cấp nhựa quan trọng trên toàn thế giới. Hạt của nhiều loài còn là nguồn thức
ăn quan trọng cho dân địa phương ở các vùng xa như ở Chi Lê, Mexico, Úc và
Trung Quốc. Phần lớn các cây hạt trần có chứa các hoạt chất sinh hoá mà đang
ngày càng được sử dụng làm thuốc chữa các căn bệnh thế kỷ như ung thư hay
HIV. Cây Hạt trần còn có vai trò quan trọng trong các nền văn hoá cả ở phương
Đông và phương Tây. Các dân tộc Xen-tơ và Bắc Âu ở châu Âu thờ cây Thông đỏ
Taxus baccata như một biểu tượng của cuộc sống vĩnh hằng. Người Anh Điêng ở


5

Pehuenche, Chi Lê tin rằng các cây đực và cây cái loài Bách tán (Araucaria
araucana) mang các linh hồn tạo nên thế giới của họ [16],[37].
Hiện tại có trên 200 loài cây hạt trần được xếp là bị đe doạ tuyệt chủng ở
mức toàn thế giới [37]. Rất nhiều loài khác bị đe doạ trong một phần phân bố tự
nhiên của loài. Những đe do ̣a hay gặp nhất là việc khai thác quá mức lấy gỗ hay các

sản phẩm khác, phá rừng làm bãi chăn thả gia súc, trồng trọt và làm nơi sinh sống
cho con người cùng với sự gia tăng tần suất của các đám cháy rừng. Tầm quan
trọng đối với thế giới của cây Hạt trần làm cho việc bảo tồn chúng trở nên có ý
nghĩa đặc biệt. Sự phức tạp trong các yếu tố đe doạ gặp phải đòi hỏi cần có một loạt
các chiến lược được thực hành để bảo tồn và sử dụng bền vững các loài cây này.
Bảo tồn tại chỗ thông qua các cơ chế như hình thành các Vườn quốc gia và khu bảo
tồn thiên nhiên là một giải pháp tốt, có hiệu quả đối với những khu vực lớn còn
rừng nguyên sinh. Công tác bảo tồn đòi hỏi sự cộng tác của mọi người từ các ngành
nghề và tổ chức khác nhau. Những nguời làm công tác này đều phụ thuộc vào việc
định danh chính xác loài cây mục tiêu hay các sinh vật khác có liên quan và vào các
thông tin cập nhật ở các mức độ địa phương, khu vực, quốc gia và quốc tế.
1.2. Tin
̀ h hin
̀ h nghiên cứu ta ̣i Việt Nam
Số lượng các loài cây hạt trần bản địa của nước ta ước tính khoảng 30 loài và
khoảng trên 20 loài được nhập vào nước ta để trồng thử nghiệm, trồng rừng diện
rộng hoặc làm cây cảnh [37]. Mặc dù chỉ dưới 5% số loài cây hạt trần đã biết trên
thế giới được tìm thấy ở Việt Nam nhưng cây Hạt trần Việt Nam lại chiếm đến
27% số các chi và 5 trong số 8 họ đã biết. Tất cả các loài cây Hạt trần ở Việt Nam
đều có ý nghĩa lớn. Hai chi đơn loài Bách vàng (Xanthocyparis) và Thuỷ tùng
(Glyptostrobus) cũng là các chi đặc hữu của Việt Nam. Chi Bách vàng mới chỉ
được phát hiện vào năm 1999 trong khi chi Thuỷ tùng chỉ còn ở 2 quần thể nhỏ với
tổng số cây ít hơn 250 cây thuộc tỉnh Đắc Lắc. Loài này là đại diện cuối cùng cho
một dòng giống các loài cây cổ. Hoá thạch của những cây này đã được tìm thấy ở


6

những nơi cách rất xa như ở nước Anh. Năm 2001 một quần thể nhỏ gồm hơn 100
cây của chi đơn loài Bách tán đài loan (Taiwania cryptomerioides) được tìm thấy ở

tỉnh Lào Cai. Trước đây chi này chỉ được biết có ở Đài Loan, Vân Nam và Đông
Bắc Myanma. Những quần thể lớn loài Sa mộc dầu Cunninghamia konishii, một
chi cổ khác chỉ gồm 2 loài, vừa được tìm thấy ở Nghệ An và các vùng phụ cận của
Lào. Bốn trong số 6 loài Dẻ tùng (Amentotaxus) được biết (họ Thông đỏ Taxaceae) đã thấy có ở Việt Nam. Hai loài trong số đó là cây đặc hữu (Dẻ tùng pô
lan A. poilanei và Dẻ tùng sọc nâu A. atuyenensis) và những quần thể chính của hai
loài khác cũng nằm ở Việt Nam (Dẻ tùng sọc trắng A. argotaenia và Dẻ tùng vân
nam A. yunnanensis). Thậm chí những loài cây không phải là đặc hữu của Việt
Nam nhưng vẫn có ý nghĩa lớn. Thông ba lá (Pinus kesiya) gặp từ Đông Bắc Ấn Độ
qua Philipin nhưng các xuất xứ ở Việt Nam lại cho thấy có năng suất cao nhất trong
các khảo nghiệm ở châu Phi và châu Úc. Những thực tế này thể hiện tầm quan
trọng của các loài cây Hạt trần Việt Nam đối với thế giới [16],[37].
Ở Việt Nam, theo các nhà khoa học tầm quan trọng của cây hạt trần được
xác định bởi tính ổn định tương đối về địa chất và khí hậu của Việt Nam trong
vòng hàng triệu năm, kết hợp với địa mạo đa dạng hiện tại của đất nước và nhiều
kiểu dạng sinh cảnh kèm theo. Nhìn chung, khí hậu trái đất đã trở nên khô và lạnh
hơn, nhiều loài cây hạt trần vốn thích nghi với điều kiện ấm và ẩm bị tuyệt chủng.
Tuy vậy, một số loài đã di cư được đến các vùng thích hợp hơn như ở Tây Nam
Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam. Sa mô ̣c (Cunninghamia), Bách tán đài loan
(Taiwania) và Dẻ tùng (Amentotaxus) là những ví dụ của những chi trước đây có
phân bố rất rộng trên thế giới. Phạm vi vĩ độ của Việt Nam (8o - 24o) gồm các nơi
từ gần xích đạo cho đến vùng cận nhiệt đới cùng với phạm vi độ cao của các hệ
núi chính có nghĩa là các sinh cảnh thích hợp vẫn còn tồn tại và các loài như vậy
có khả năng sống sót. Các thay đổi khí hậu trên Bắc bán cầu có ảnh hưởng đến các
nhóm cây Hạt trần rất khác nhau. Một số bị tuyệt chủng hay phải di cư tới các


7

vùng mà còn có khí hậu thích hợp, trong khi đó một số loài khác tiến hoá và đã có
thể sống được ở những sinh cảnh đã thay đổi trong điều kiện khí hậu mới. Các loài

Thông ở Việt Nam là ví dụ cho cả hai hình thức này. Loài Thông lá dẹt (Pinus
krempfii) được coi là một loài cây cổ tàn dư còn lại mà không có loài nào có quan
hệ gần gũi còn sống sót, trong khi đó Thông ba lá (P. kesiya) là loài mới tiế n hóa
gầ n đây. Trong những điều kiện môi trường khắc nghiệt với tầng đất mỏng, nước
thoát nhanh và các thời kỳ mùa khô tương đối dài đòi hỏi các cây Hạt trần có khả
năng cạnh tranh được với các loài cây Hạt kín và hình thành thảm thực vật ưu thế.
Khí hậu của vùng này thường là khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh và
mùa hè nóng. Nhiều loài chỉ gặp ở vùng này như Bách vàng (Xanthocyparis
vietnamensis), Thiết sam giả (Pseudotsuga sinensis), Hoàng đàn (Cupressus
funebris) và Dẻ tùng sọc nâu (Amentotaxus hatuyensis). Các cây hạt trần khác như
Thông pà cò (Pinus kwangtungensis), Thông đỏ trung quốc (Taxus chinensis) và
Dẻ tùng sọc trắng (Amentotaxus argotaenia) còn thấy ở những đỉnh núi riêng biệt
khác nằm xa khu vực núi đá vôi chính của Đông Bắc (ví dụ như ở Mộc Châu).
Những cây thuộc họ Thông (Pinaceae), thường là những loài cây có phân bố
chính ở Trung Quốc, được gặp nhiều nhất ở vùng Đông Bắc Việt Nam cho dù các
loài Dẻ tùng vân nam (Amentotaxus yunnanensis) và Thông tre lá ngắn
(Podocarpus pilgeri) có thể là phổ biến ở một số địa phương, nhìn chung quần thể
của tất cả các loài luôn rất nhỏ. Kế t quả nghiên cứu cho thấ y các loài thông Viê ̣t
Nam phân bố ở 4 vùng chính sau (hình 1.1)


8

Hình 1.1: Các vùng phân bố
2

1

chính của Thông ở Việt Nam.
1: Đông Bắc

2: Hoàng Liên Sơn

3

3: Tây Bắc và Bắc Trung bộ
4: Tây Nguyên
4

(Nguồn: Cây lá kim Việt Nam)
Hầu như tất cả các loài Thông nói riêng và Hạt trần tự nhiên nói chung
của Việt Nam đều bị đe doạ ở những mức độ nhất định. Phần lớn các loài này
cho gỗ quí rất thích hợp cho sử dụng làm đồ mỹ nghệ (Pơ mu Fokienia, Bách
vàng Xanthocyparis) hay cho xây dựng (phần lớn các loài Thông Pinus, Du sam
Keteleeria, Pơ mu Fokienia, Sa mộc dầu Cunninghamia), trong khi đó các loài
khác lại có giá trị làm hương liệu quí (Hoàng đàn Cupressus, Pơ mu Fokienia,
Bách xanh Calocedrus) hoặc được dùng làm thuốc cả trong y học truyền thống
(Kim giao Nageia) hay y học hiện đại (Thông đỏ Taxus). Một số loài chỉ được
sử dụng tại địa phương nhưng thường đây là những loài có phân bố hạn chế (ví
dụ nhu Bách vàng Xanthocyparis). Đe doạ do khai thác trực tiếp còn kèm theo
việc biến đổi những diện tích rừng lớn thành đất nông nghiệp, đặc biệt ở các
vùng núi có độ cao khoảng 800 đến 1500 m nơi mà các loài cây Hạt trần như Du
sam (Keteleeria) và Bách xanh (Calocedrus) thường sinh sống. Việc chia cắt rời


9

rạc các cánh rừng là một vấn đề có liên quan khác. Các đám rừng nhỏ còn sót lại
dễ bị cháy hơn và dễ bị ảnh hưởng do tính di truyền suy giảm, các loài có các
quần thể tự nhiên nhỏ đặc biệt rất nhạy cảm với những đe doạ này. Những loài
có các quần thể phân bố rộng (ví dụ như phần lớn các loài thuộc họ Kim giao Podocarpaceae), trong một số trường hợp còn phân bố cả ở nước khác (như Du

sam Keteleeria), có thể tạo ra cảm tưởng rằng loài ít bị đe doạ hơn so với thực tế
vì việc khai thác quá mức và nạn phá rừng là những vấn đề của tất cả các nước ở
Đông Nam Á, hiện tại trong vòng 5 năm qua mới chỉ tìm thấy được 1 cây còn lại
trong tự nhiên. Các cây khác đều đã bị chặt lấy gỗ và bị đào rễ làm hương. Thuỷ
tùng (Glyptostrobus pensilis) là loài chỉ được biết ở hai khu bảo tồn nhỏ của tỉnh
Đắc Lắc. Phần lớn những cây còn lại (số này ít hơn 250 cây) đều đã bị ảnh
hưởng của lửa rừng. Hầu như toàn bộ sinh cảnh của loài trên đầm lầy đã bị
chuyển thành vườn cà phê và không thấy có cây tái sinh, hai loài này đang nằm
đứng trước sự tuyệt chủng. Tình trạng của một loạt các loài khác (như Bách tán
đài loan Taiwania cryptomerioides và Bách vàng Xanthocyparis vietnamensis)
có thể sẽ trở nên ở mức tương tự nếu không có những hành động bảo tồn toàn
diện được tiến hành. Trong vòng 15 năm qua có nhiều Vườn quốc gia và khu
bảo tồn đã được thiết lập ở Việt Nam. Một số nơi này có các quần thể cây hạt
trần bị đe doạ. Bên ngoài các khu vực này các qui định pháp luật được ban hành
nhằm ngăn chặn việc khai thác trái phép. Mặc dù vậy, việc khai thác tại địa
phương, cả hợp pháp và trái phép vẫn còn là vấn đề nan giải. Các loài có giá trị
kinh tế cao hay có công dụng đặc biệt thường là những loài có nguy cơ lớn. Vì
vậy, bảo tồn tại chỗ cần được bổ sung bởi bảo tồn chuyển vị và các chương trình
lâm sinh chung. Những chương trình này cần gồm cả kế hoạch về giáo dục cũng
như thu hái và bảo quản hạt giống, trồng phục hồi và làm giàu rừng trong và
xung quanh các khu bảo tồn. Các loài cây dẫn nhập có thể có vai trò trong việc
hỗ trợ cho bảo tồn tại chỗ. Như vậy đã có 2 loài cây hạt trần đang trên bờ vực


10

tuyệt chủng và việc ngăn chặn những loài cây khác tiếp tục nhập vào danh sách
này là mối quan tâm của tất cả mọi người.
Việc nghiên cứu hiện trạng các loài hạt trần ở Việt Nam trong các năm
qua đã được nhiều nhà khoa học, nhiều tổ chức trong nước và quốc tế quan

tâm nghiên cứu, hỗ trợ. Điển hình là các nhà khoa học như Phan Kế Lộc,
Nguyễn Tiến Hiệp, Tiến sỹ Leonid Averyanov, Jacinto Regalado... các tổ
chức như Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật (Viện Khoa học Công nghệ
Việt Nam), Viện Điều tra Quy hoạch rừng, Tổ chức bảo tồn động thực vật
quốc tế (FFI)... đã góp phần thực thi các chương trình bảo tồn các loài thuộc
ngành hạt trần, giảm áp lực đến nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này.
Nhiều loài Thông có ý nghĩa kinh tế và khoa học đã được nghiên cứu
phục vụ công tác bảo tồn và trồng rừng. Trong số 30 loài Thông được biết ở
Việt Nam đã có hơn một nửa số loài được thử nghiệm nhân giống bằng giâm
hom. Kỹ thuật giâm hom cành đã được sử dụng tích cực trong việc bảo tồn
ngoại vi các loài Thông quí hiếm, đặc biệt là các loài thuộc họ Hoàng đàn
(Cupressaceae) và Thông đỏ (Taxaceae). Phần lớn các thử nghiệm được tiến
hành vào thời gian từ mùa thu đến đầu mùa xuân trước khi các loài Thông kết
thúc giai đoạn ngừng sinh trưởng và nhú chồi mới [10].
Hai tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa, Trần Văn Tiến cho thấy tại Lâm Đồng
đã tiến hành thử nghiệm nhân giống bằng hom cho các loài Bách xanh
(Calocedrus macrolepis), Pơ mu (Fokienia hodginsii) và Thông đỏ (Taxus
wallichiana) với vật liệu hom Bách xanh thu hái từ cây 2 tuổi và 7-8 tuổi, Pơ mu
cây non 1 tuổi và Thông đỏ từ cây lớn tuổi trong rừng tự nhiên và các hom được
xử lý với nhiều loại chất điều hòa sinh trưởng với các nồng độ khác nhau. Kết
quả nghiên cứu cho thấy: Bách xanh có khả năng nhân giống bằng hom, tỷ lệ ra
rễ có công thức đạt tới 85% ở cây 7-8 tuổi, 95% ở cây 2 tuổi và chất điều hòa
sinh trưởng phù hợp là IBA và ABT; Pơ mu tỷ lệ ra rễ cao nhất đạt 90%, chất


11

điều hòa sinh trưởng phù hợp là ANA, ABT; Thông đỏ tỷ lệ ra rễ cũng rất cao
(85-90%) phù hợp với cả 4 loại chất điều hòa sinh trưởng là IBA, ABT, IAA và
ANA. Các hom sau khi giâm đã được gây trồng tại Lâm Đồng cho thấy sinh

trưởng khá tốt [33]. Lê Đình Khả, Đoàn Thị Bích cũng đã nghiên cứu nhân
giống từ hom loài Bách xanh (Calocedrus macrolepis) tại Ba Vì cho thấy hom
thu hái từ cây càng trẻ thì tỷ lệ ra rễ cao hơn cây già, chất điều hòa sinh trưởng
thích hợp nhất là IBA nồng độ 1,0%, thời gian ra rễ kéo dài 4 tháng [23].
Loài Phỉ ba mũi (Cephalotaxus manii) đã được tiến hành nghiên cứu nhân
giống bằng hom tại Vườn Quốc gia Ba Vì cho thấy có thể nhân giống bằng hom
(tỷ lệ ra rễ cao nhất đối với 1 công thức đạt tới 90,9%), đối với loài này với thời
gian ra rễ của hom giâm kéo rất dài (trên 5 tháng) và mức độ thành công (tỷ lệ ra
rễ của hom) phụ thuộc rất lớn vào vị trí lấy hom, tuổi cây mẹ lấy hom, loại chất
điều hòa sinh trưởng và nồng độ khi xử lý hom, đặc biệt tỷ lệ ra rễ cao hơn khi
hom được thu hái từ cây mẹ còn trẻ và hom từ chồi thân có khả năng ra rễ tốt
nhất ngay cả khi không có xử lý chất điều hòa sinh trưởng [46].
Huỳnh Văn Kéo, Lương Viết Hùng, Trương Văn Lung đã nghiên cứu
giâm hom loài Hoàng đàn giả (Dacrydium elatum) đã sử dụng IBA với các
nồng độ khác nhau làm chất điều hòa sinh trưởng cho thấy với loài Hoàng đàn
giả có khả năng nhân giống bằng hom và tỷ lệ ra rễ của hom thu hái từ cây
trưởng thành thấp hơn cây non [22].
Nguyễn Đức Cảnh, khi nghiên cứu khả năng nhân giống vô tính (giâm
hom) Bách vàng (Xanthocyparis vietnamensis Farjon & Hiep) tại khu BTTN Bát
Đại Sơn, tỉnh Hà Giang cho biết sau 4 tháng giâm hom Bách vàng có khả năng
nhân giống từ các cây trưởng thành mọc trong tự nhiên. Khả năng ra rễ của hom
Bách vàng giảm theo kích thước đường kính của cây. Hai cấp đường kính chính
có số cá thể nhiều trong quần thể là từ 6-14 cm có tỷ lệ ra rễ 35% và 30-38 cm có
tỷ lệ ra rễ 11%. Kết quả giâm hom 26 dòng Bách vàng cũng như phân tích thí


12

nghiệm giâm hom cho 4 dòng ở độ tuổi có đường kính 7-15 cm đều cho thấy tỷ
lệ ra rễ biến động theo dòng, kể cả đối với các dòng có đường kính tương tự

nhau. Đối với những cây ở độ tuổi này khả năng ra rễ không nhất thiết phụ thuộc
vào dạng lá của hom giâm [7]
Nói chung, để phục vụ cho công tác bảo tồn, các nhà khoa học đã cố
gắng nghiên cứu các biện pháp nhân giống và gây trồng và đã có kết quả
tương đối khả quan đối với các loài Bách xanh, Bách vàng, Thông đỏ, Phỉ ba
mũi, Du sam,... Các chất điều hòa sinh trưởng sử dụng chủ yếu và có hiệu quả
đối với các loài Thông là ABT, IBA.
Bên cạnh những nghiên cứu khoa học nhằm bảo tồn cho các loài cây có
nguy cơ bị đe dọa thì hàng loạt các Chính sách có liên quan đến công tác bảo tồn
cũng đã được Nhà nước công bố thông qua các Bộ luật, Nghị định, Quyết định,...
như Luật bảo vệ và phát triển rừng, Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn
thiên nhiên Việt Nam và gần đây nhất là Nghị định số 32/2006/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 30 tháng 3 năm 2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý, hiếm. Trong Nghị định này có công bố danh sách các loài động,
thực vật rừng nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, trong đó
có 7 loài Thông trên tổng số 15 loài thực vật, chiếm tới 46,67%, đó là các loài:
Hoàng đàn, Bách đài loan, Bách vàng, Vân sam phan xi păng, Thông pà cò,
Thông đỏ nam và Thông nước. Nhóm hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích
thương mại có 9 loài Thông trong tổng số 37 loài thực vật, chiếm 24,32%, đó là
các loài: Đỉnh tùng (Phỉ ba mũi), Bách xanh, Bách xanh đá, Pơ mu, Du sam,
Thông đà lạt -Thông 5 lá, Thông hai lá dẹt, Thông đỏ bắc và Sa mô ̣c dầu.
1.3. Tin
̀ h hin
̀ h nghiên cứu tại khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên
Năm 1998, Viện Điều tra quy hoạch rừng phối hợp với tổ chức bảo tồn
Chim quốc tế (Birdlife International) tiến hành nghiên cứu, đánh giá bước đầu
đa dạng sinh học khu BTTN Xuân Liên.


13


Năm 1999, Viện Điều tra quy hoạch rừng phối hợp với Chi cục Kiểm lâm
Thanh Hóa tiếp tục tổ chức khảo sát đa dạng sinh học và kinh tế xã hội ở khu
vực này, kết quả nghiên cứu, đánh giá đa dạng sinh vật tại khu BTTN Xuân Liên
chỉ ra hệ thực vật Xuân Liên gồm 752 loài, 440 chi, 130 họ thuộc 3 ngành [50].
Gần đây nhất, năm 2008 chương trình điều tra, đánh giá sơ bộ phân bố 2 loài Pơ
mu (Fokienia hodginsii (Dunn) Henry et Thomas) và Sa mô ̣c dầu
(Cunninghamia konishii Hayata) với sự hỗ trợ của các chuyên gia thực vật thuộc
Trường Đại học Lâm nghiệp đã thu thập được mẫu vật của 7 loài thực vật hạt
trần lưu giữa tài phòng Khoa học - Kỹ thuật, khu BTTN Xuân Liên đó là.
- Bách xanh (Calocedrus macrolepis (Kurz) Benth.&Hook.)
- Dẻ tùng sọc trắng (Amentotaxus argotaenia (Hance) Pilg).
- Sa mô ̣c dầu (Cunninghamia konishii Hayata).
- Thông nàng (Dacrycarpus imbricatus (Blume) D. Laub).
- Pơ mu (Fokienia hodginsii (Dunn) Henry et Thomas).
- Kim giao núi đấ t (Nageia wallichiana (C.Presl) O.Kuntze).
- Thông tre lá dài (Podocarpus neriifolius D. Don).
Sau mười năm được thành lập, mặc dù có nhiều nỗ lực nhưng công tác quản
lý, nghiên cứu thực vật ở khu BTTN Xuân Liên mới chỉ dừng lại ở việc bảo vệ
nguyên vẹn tài nguyên rừng hiện có với các hoạt động chủ yếu: tham mưu cho cấp
uỷ, chính quyền địa phương thực hiện đầy đủ và hiệu quả các nội dung quản lý nhà
nước về rừng và đất lâm nghiệp theo Quyết định 245/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ; phối hợp với các ngành, các đoàn thể trên địa bàn triển khai đồng bộ các
giải pháp quản lý bảo vệ rừng, bảo vệ an toàn diện tích rừng đặc dụng; thực hiện dự
án 661 với các hạng mục lâm sinh như bảo vệ rừng 15.000 ha, khoanh nuôi tái sinh
2.500 ha, trồng mới và chăm sóc rừng trồng 150 ha; xây dựng, hoàn thiện 32 hồ sơ
quản lý bảo vệ rừng theo tiểu khu, tổ chức giao cho cán bộ, kiểm lâm viên khu bảo
tồn tổ chức quản lý, theo dõi và nghiên cứu lâu dài [1],[2].



14

Công tác nghiên cứu thực vật luôn là mục tiêu hàng đầu trong công tác bảo
tồn thiên nhiên, tuy nhiên kết quả chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Hoạt
động nghiên cứu mới dừng lại ở một số nội dung như: thu thập được 100 mẫu thực
vật; liên kết với Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản (Viện khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam) quy hoạch, điều tra bảo tồn 120 cá thể Giổi xanh gắn với phát triển
nguồn giống; nghiên cứu, chuyển hoá 10 ha rừng giống Keo lai phục vụ trồng rừng
tập trung và phân tán trên địa bàn. Trên thực tế cho thấy các nghiên cứu mới dừng
lại ở mức phát hiện loài, hiện chưa có công trình cụ thể nào đi sâu nghiên cứu về
đặc điểm phân bố, sinh thái và tình trạng bảo tồn các loài cây quý hiếm này tại khu
BTTN Xuân Liên, để từ đó có một hành động cụ thể bảo tồn chúng.


15

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài thuộc ngành Hạt trần hiện có tại khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên.
2.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu về hiện trạng các loài thuộc ngành
Hạt trần tại khu BTTN Xuân Liên.
- Trên cơ sở hiện trạng, đề xuất các biện pháp bảo tồn, phát triển các
loài thuộc ngành Hạt trần hiện có.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu đặc điểm phân bố, sinh thái, khả năng tái sinh của các loài
cây hạt trần (Gymnospermae) ở khu BTTN Xuân Liên.

- Xác định vùng phân bố của các loài hạt trần.
+ Thiết lập các tuyến điều tra.
+ Thành phần các loài hạt trần phân bố trên các khu vực.
- Đă ̣c điểm phân bố của các loài hạt trần.
- Đă ̣c điểm sinh thái của các loài hạt trần.
- Đă ̣c điểm tái sinh và khả năng tái sinh tự nhiên của các loài hạt trần hiện có.
- Xác định tính cạnh tranh của các loài đối với từng loài hạt trần.
2.3.2. Xác định sự phân bố của các loài hạt trần (Gymnospermae) theo đai cao.1515
2.3.3. Xác định diện tích và trữ lượng của các loài Hạt trần hiện có trong khu bảo tồ n.
2.3.4. Thử nghiệm khả năng nhân giống loài Pơ mu (Fokienia hodginssi
(Dunn) Henry et Thomas) và Sa mộc dầu (Cunninghamia konishii Hayata) bằ ng
phương pháp nhân giống vô tính.
2.3.5. Đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài thuộc ngành hạt trần.16
2.4. Phương pháp nghiên cứu


16

2.4.1. Phương pháp kế thừa số liệu
- Những tư liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thủy văn, đất đai, địa
hình, tài nguyên rừng.
- Thông tin, tư liệu về điều kiện kinh tế, điều kiện xã hội: dân số, lao
động, thành phần dân tộc, tập quán canh tác.
- Những kết quả nghiên cứu, những văn bản có liên quan đến các loài
cây thuộc ngành Hạt trần ở Việt Nam
2.4.2. Phương pháp thu thập, điều tra, khảo sát thực địa
2.4.2.1.Phương pháp điều tra thu thập số liệu theo tuyến.
- Điều tra theo tuyến vạch sẵn trên bản đồ địa hình, tuyến cần được
lựa chọn dựa trên các đường mòn có sẵn để dễ tiếp cận khu vực hơn.
- Các tuyến điều tra có chiều dài không giống nhau được xác định đảm

bảo đi qua tất cả các trạng thái rừng. Tuyến điều tra được đánh dấu trên bản
đồ và đánh dấu trên thực địa bằng sơn hoặc dây nilon có màu dễ nhận biết.
a/ Thiết lập các tuyến điều tra:
Căn cứ vào điều kiện thời gian cùng như về nhân lực, vật lực cần thiết
phục vụ công tác điều tra, nhằm thực hiện hiệu quả các nội dung của đề tài đề ra
nhưng vẫn đảm bảo về mặt thời gian và các điều kiện cần thiết khác. Công tác
chuẩn bị nội nghiệp đóng góp một phần rất quan trọng, sau khi xem xét tất cả
các yếu tố có liên quan như: hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp khu BTTN Xuân
Liên, điều kiện địa hình và ý kiến góp ý của lãnh đạo, cán bộ khoa học-kỹ thuật
đã nhiều năm làm công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại khu BTTN Xuân Liên,
chúng tôi xác lập các tuyến điều tra chính và một số tuyến điều tra phụ.
Yêu cầu tuyến điều tra chính là phải điều tra xác định tất cả các loài cây
hạt trần (Gymnospermae) theo các nội dung đề ra.


17

Đối với tuyến phụ là chỉ điều tra xác định các loài chỉ định nhờ thực hiện
công tác thu thập nội nghiệp qua tài liệu và tập trung vào việc xác định vùng
phân bố, diện tích, trữ lượng của các loài hạt trần hiện có trong khu vực.
b/ Các tuyến điều tra chính
- Tuyến số 1: Bản Vịn - Sườn Huối Pà, chiều dài 0,800 km
- Tuyến số 2: Sườn Huối Pà-Huối Pà, chiều dài 2,100 km
- Tuyến số 3: Huối Pà - Đỉnh Trại Keo, chiều dài 1,234 km.
- Tuyến số 4: Đỉnh Trại Keo - Trại Keo, chiều dài 1,957 km
- Tuyến số 5: Huối Pà - Đỉnh Huối Cò - Huối Cò, chiều dài 1,131 km
- Tuyến số 6: Yên Ngựa Huối Cò - Bản Vịn, chiều dài 0,61 km
- Tuyến số 7: Huối Pà - Đỉnh Hang Ong, chiều dài 1,871 km
- Tuyến số 8: Đỉnh Hang Ong - Pù Nậm Mua, chiều dài 1,863 km
- Tuyến số 9: Thác Tiên - Hang Ong, chiều dài 1,643 km

- Tuyến số 10: Pù Nậm Mua - Đỉnh Hón Cà, chiều dài 2,707 km
- Tuyến số 11: Đỉnh Đại Bàng - Thác Đàn Bà, chiều dài 2,8 km
- Tuyến số 12: Thác Tà ản - Đỉnh Pù Gió, chiều dài 4,706 km
- Tuyến số 13: Đỉnh Pù Gió - Lán Hai O, chiều dài 1,100 km
- Tuyến số 14: Lán Hai O - Hón Yên, chiều dài 5,700 km
- Tuyến số 15: Lán Hai O - Ngã Ba suối Pựa, chiều dài 2,500 km.
c/ Các tuyến điều tra phụ
- Tuyến 9a: Hang Ong - Sườn Hang Ong, chiều dài 0,6 km
- Tuyến 9b: Sườn Hang Ong - ngã ba suối Tiên, chiều dài 0,845 km
2.4.2.2. Phương pháp điều tra thu thập số liệu trong điều tra lâm học.
a/ Điều tra cá thể tầng cây cao.
- Điều tra, thu thập tiêu bản đo tính tất cả các cá thể loài hạt trần được
tìm thấy có đường kính ngang ngực (D1.3) lớn hơn hoặc bằng 6cm
- Đo D1.3 bằng thước kẹp kính


18

- Đo chiều cao vút ngọc (Hvn) và chiều cao dưới cành (Hdc) bằng
thước đo cao Blummleiss.
- Đo đường kính tán (Dt) bằng thước dây theo hai chiều Đông Tây - Nam
Bắc.
Đối với những cây khó tới gần (do địa hình hiểm trở) sử dụng phương
pháp mục trắc theo kinh nghiệm từ những cây đã đo.
b/ Điều tra, đo đếm cây tái sinh.
- Điều tra các loài hạt trần tái sinh tự nhiên theo tuyến.
- Điều tra các loài hạt trần tái sinh tự nhiên quanh gốc cây mẹ.
Thiết lập các ô dạng bản kích thước 4m2 (2m x 2m) quanh gốc cây mẹ
theo bốn hướng, 04 ô trong tán, 04 ô ngoài tán.
- Xác định 20 ô nhỏ (quadrat) 2x2m dọc theo đường chéo của ô tiêu

chuẩn (đối với loài Pơ mu). Trong các ô nhỏ cần ghi các thông tin:
+ Số lượng cây mầm và cây con của các loài cây gỗ ở các tầng trên.
+ Độ che phủ đất của tầng thực bì.
Như vậy thuộc phạm vi đề tài này, chúng tôi đưa ra 03 phương pháp điều
tra cây tái sinh khác nhau và căn cứ vào tình hình thực tế mà việc điều tra có thể
áp dụng một phương pháp hay áp dụng tổng hợp hai, ba phương pháp khác nhau
cho một loài.
c/ Xác định sự phân bố theo đai cao.
Sử dụng định vị toàn cầu (GPS) để xác định độ cao phân bố của từng cá
thể các loài hạt trần. Căn cứ vào kết quả điều tra sự phân bố của các loài và
bản đồ địa hình đã được số hoá theo các độ cao khác nhau để phân chia theo
các đai cao phù hợp và chính xác.
d/ Xác định loài cạnh tranh.
Sử dụng công thức của Hegyi (1974) áp dụng để tính chỉ số cạnh trạnh
cho cây trung tâm:


19

Trong đó:
- CI là chỉ số cạnh tranh của loài cây j đối với cây trung tâm, CI càng
lớn cạnh tranh với cây trung tâm càng mạnh
- Dj là các đường kính ngang ngực của cây cạnh tranh j
- Di là đường kính ngang ngực của cây trung tâm
- Lij là khoảng cách từ cây trung tâm đến cây cạnh tranh j
Bán kính của ô = đường kính tán lớn nhất có thể của cây trung tâm [9],[11].
2.4.2.3. Phương pháp xử lý số liệu.
- Số liệu được xử lý trên phần mềm Excel.
- Tính trị số trung bình của các cá thể Pơ mu và Sa mu. Các chỉ tiêu cần
tính D1.3(cm), Hvn (m), Hdc (m), Dt (m).

- Xác định trữ lươ ̣ng loài theo công thức:
Trong đó:

Vi = Gi x Hivn x f

V: là trữ lươ ̣ng cây thứ i
Gi: tiế t diêṇ ngang của cây thứ i ta ̣i vi tri
̣ ́ 1,3m
Hivn: là chiề u cao vút ngo ̣n của cây thứ i.
f: chỉ số đô ̣ thon (f=0,45)

- Dùng phương pháp so sánh cặp đôi để đánh giá kết quả
Sử dụng các cấp đánh giá của Sách đỏ Việt Nam, 2007 (Phần II-Thực vật),
các tiêu chuẩn đánh giá của IUCN (2000), quy định của pháp luật Việt Nam tại
Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ và Quyết định
74/2008/QĐ-BNN ngày 20/6/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành Danh
mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục của Công
ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; của Quốc
tế tại Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp
(CITES).
2.4.2.4. Phương pháp chuyên gia


20

Tham vấn các nhà lãnh đạo địa phương, các chuyên gia đầu ngành, các
nhà khoa học chuyên môn liên quan đến các vấn đề nghiên cứu ....
2.4.2.5. Phương pháp nghiên cứu có sự tham gia của cộng đồng và phương
pháp đánh giá nhanh nông thôn thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn trực
tiếp người dân địa phương.

PRA (Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân), sử
dụng nhiều công cụ (cách) tiếp cận cho phép người dân cùng chia sẻ, nâng
cao và phân tích kiến thức của họ về đời sống và điều kiện nông thôn để lập
kế hoạch và hành động. Cần phải kết hợp cả phương pháp này để phát huy tối
đa năng lực của cộng đồng thông qua sự tham gia tích cực của họ vào hoạt
động điều tra trên thực địa, đồng thời phân tích những áp lực lên tài nguyên
rừng và tìm các giải pháp bảo tồn và phát triển.
RRA (Đánh giá nhanh nông thôn): là quá trình nghiên cứu được coi
như là điểm bắt đầu cho sự hiểu biết tình hình địa phương. Sử dụng phương
pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) với công cụ chính là bảng câu hỏi phỏng
vấn bán cấu trúc để phỏng vấn các đối tượng sau: lâm dân, dân sống sát rừng;
cán bộ quản lý, bảo vệ rừng; cán bộ, lãnh đạo chính quyền địa phương; cán bộ
quản lý khu BTTN Xuân Liên; kiểm lâm; cán bộ khoa học kỹ thuật.
- Kết quả điều tra phỏng vấn được xử lý theo phương pháp thống kê,
tên các loài được hiệu đính theo các tài liệu: Danh mu ̣c các loài thực vâ ̣t Viêṭ
Nam 2001, tâ ̣p I và Tên cây rừng Việt Nam 2000.
2.4.2.6. Phương pháp thống kê, phân tích đánh giá thực trạng tài nguyên
thiên nhiên, kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu.
2.4.2.7. Phương pháp thực hành trên mô hình thí điểm ở vùng nghiên cứu.
2.4.2.8 . Phương pháp bản đồ, sơ đồ.
2.4.3. Phương pháp nhân giống vô tính 02 loài hạt trần Pơ mu (Fokienia hodginssi
(Dunn) Henry et Thomas) và Sa mộc dầu (Cunninghamia konishii Hayata)


21

a/ Vật liệu giâm hom
- Dùng kéo kỹ thuật sắc thu hái hom ở những cây chưa đến tuổi thành thục
tại khu vực nghiên cứu.
- Chọn những hom không quá già, không quá non, không có biểu hiện

sâu bệnh hại.
- Hom sau khi cắt khỏi cây mẹ cho vào xô nước để giảm thoát hơi nước.
b/ Xử lý nền giâm hom
- Sử dụng cát mới cho vào bể để làm nền giâm hom.
- Dùng dung dịch Benlate có nồng độ 15% tưới vào nền giâm vào thời
gian trước khi cắm hom 8- 12 giờ để xử lý nấm bệnh của nền giâm.
c/ Xử lý hom giâm
- Hom sau khi cắt khỏi cây mẹ, tiến hành chọn và cắt lại lần hai. Khi cắt
không làm giập phần gốc của hom (nếu giập hom sẽ bị thối và chết), tỉa bớt
một ít lá ở phía trên rồi cho vào nước. Khi số lượng đủ lớn thì vớt ra để ráo
nước. Sau đó nhúng hom vào dung dịch xử lý nấm bệnh.
d/ Thuốc kích thích ra rễ: Sử dụng các loại thuốc dạng bột sau: ABT (Acid tri
odobenzoic, là chất kích thích ra rễ thương phẩm của Trung Quốc, tổng hợp pha trộn
giữa IAA và IBA), NAA (Acid naphtalen axetic) đối với Pơ mu và sử dụng thuốc
dạng bột TTG (Trung tâm giống cây rừng Trung ương, là sản phẩm thương phẩm có
nguồn gốc từ IBA - Indole -3-butyric acid 1% dạng bột) đối với Sa mộc dầu.
e/ Phương pháp giâm hom: Cắt hom có chiều dài 10- 15cm. Chấm phần
gốc của hom vào thuốc kích thích ra rễ rồi cắm vào nền cát sạch, sau khi cắm
hom dùng ni lông trong suốt phủ kín luống giâm.
Dùng hệ thống phun sương mù điều chỉnh lượng nước phun cho phù
hợp, luôn giữ chế độ cân bằng nước trong hom, làm cho hom không bị khô
hoặc không quá ướt. Nếu quá khô hoặc quá ướt hom sẽ bị chết.


22

Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên

3.1.1. Vị trí địa lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên thuộc địa bàn hành chính huyện
Thường Xuân, cách Thành phố Thanh Hoá 60km, về hướng Tây Nam với toạ
độ địa lý: 190052' – 200002' độ vĩ Bắc và 1040058' – 1050015' độ kinh Đông
Ranh giới hành chính:
- Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, xã Vạn Xuân, huyện Thường Xuân.
- Phía Bắc giáp xã Lương Sơn, Yên Nhân, Bát Mọt.
- Phía Tây giáp tỉnh Nghệ An, xã Bát Mọt
- Phía Đông giáp xã Xuân Cẩm và Xuân Cao.
Với vị trí địa lý tiếp giáp khu BTTN Pù Hoạt (Nghệ An) và khu BTTN
Nậm Xam nước CHDCND Lào đã tạo ra một tam giác khu hệ động thực vật
phong phú và đa dạng.
- Diện tích rừng đặc dụng là 26.303.6 ha thuộc địa bàn 5 xã (Bát Mọt,
Yên Nhân, Vạn Xuân, Xuân Cẩm, Lương Sơn), gồm có:
+ Diện tích đã quy hoạch giao quản lý sử dụng ổn định: 23.475.0 ha.
+ Diện tích ngập nước lòng hồ đang đất tạm giao: 2.828.6 ha (Diện tích
ngập nước hồ Cửa Đạt).
- Diện tích rừng sản xuất giao ổn định lâu dài: 819,6 ha.
- Vùng đệm: quy hoạch với diện tích 36.420,59 thuộc diện tích còn lại
của 5 xã quy hoạch cho khu bảo tồn: Bát Mọt, Yên Nhân, Vạn Xuân, Xuân
Cẩm, Lương Sơn.
3.1.2. Địa hình, địa mạo 9


23

Địa hình khu bảo tồn bị chia cắt mạnh do lịch sử kiến tạo địa chất và
tạo sơn. Toàn bộ khu vực thuộc vùng núi thấp miền Trung, nhưng có đặc thù:
núi thấp, dốc ngắn, chia cắt sâu... trong phạm vi hẹp có đại diện núi đá xen
núi đất và thung lũng sâu, hẹp. Dãy núi trung lưu sông Chu chạy từ Sầm Nưa

ở Nước CHDCND Lào qua huyện Thường Xuân về đến huyện Như Xuân, có
khá nhiều đỉnh cao nổi trội như đỉnh Pù Ta Leo (1.400 m), núi Bù Gió (1.563
m), Bù Hòn Hàn (1.208 m) và một ngọn núi không có tên cao đến 1.605 ở
phía nam Bản Vịn là đỉnh cao nhất trong khu bảo tồn thiên nhiên. Phần lớn
các dãy núi này đều được cấu tạo bằng đá Riolit, Granit với đỉnh nhọn, đường
dông sắc và sườn dốc hơn các dãy núi xung quanh [54].
Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên có các kiểu địa hình chính sau:
- Vùng núi trung bình: có độ cao 800-1700m. Phân bố giữa hai thung
lũng sông Khao và Nậm Boong. Đây là vùng bị chia cắt mạnh, độ dốc phổ
biến > 350. Xen vào giữa dãy núi là các thung lũng hẹp, sâu, dốc lòng theo
chiều nước chảy (gần như từ Tây sang Đông). Tổng diện tích khoảng 4.000 ha
chiếm 15,2% tổng diện tích khu vực.
- Vùng núi thấp và đồi cao: dưới 800m, tập trung về phía Đông (hạ lưu
sông Khao và phía Nam giáp tỉnh Nghệ An. Độ cao, độ dốc địa hình có giảm,
mức độ chia cắt đỡ phức tạp hơn vùng trên. Độ dốc trung bình từ 20 0 - 250.
Vùng đồi núi cao địa hình thoải hơn, độ dốc bình quân từ 15 0 - 200, tổng diện
tích khoảng 17.000 ha chiếm 64,6 % tổng diện tích tự nhiên khu bảo tồn.
Ngoài 2 kiểu địa hình chính đã mô tả ở trên, trong khu vực còn phân bố
giải rác các kiểu địa hình có diện tích nhỏ, phân tán, xen kẽ với vùng đồi núi
trong vùng chiếm 20,2% tổng diện tích tự nhiên, đó là:
+ Địa hình núi đá vôi (Karst) khá hiểm trở, rất khó đi lại. Độ cao từ
700-1000m, độ dốc có thể lên tới 600 - 700, nhiều chỗ vách núi dựng đứng.


×