Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

tiểu luận áp dụng pháp luật trong GQTC trong TM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.66 KB, 7 trang )

Tiểu luận môn: giải quyết tranh chấp thương mại.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TIỂU LUẬN:

MÔN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG THƯƠNG MẠI

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI
Giảng viên:

TS. Nguyễn Văn Tiến

Nhóm IV:

Nguyễn Thanh Long
Hoàng Kim Khánh
Phạm Xuân Chiến
Nguyễn Thế Dương
Võ Đức Lợi
Đoàn Mỹ Trang

Năm 2016

Nhóm IV, Lớp Luật kinh tế K15TN


1


Tiểu luận môn: giải quyết tranh chấp thương mại.

TIỂU LUẬN:
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm:
Tranh chấp thương mại
Điều 238 Luật thương mại Việt Nam nêu ra khái niệm về tranh chấp
thương mại "là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng trong hoạt đồng thương mại".
Tại Khoản 2 - Điều 5 cũng quy định "hoạt động thương mại là việc
thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến
thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách
kinh tế xã hội".
Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh từ những quan hệ có
do ngành luật thương mại điều chỉnh, vì vậy nó có những đặc trưng khác biệt
so với tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động.
Thứ nhất, tranh chấp thương mại thường là nguyên nhân phát sinh
thiệt hại về vật chất đối với các bên khi các bên có sự thoả thuận thông nhất
một cách giải quyết có lợi nhất cho cả hai bên. Khác với các tranh chấp khác,
tranh chấp thương mại thường có giá trị lớn được phát sinh trong việc đầu tư
vốn, tài sản nhằm thu lợi nhuận. Tranh chấp nảy sinh sẽ ảnh hưởng đến hoạt
động kinh tế của không những các đương sự mà còn ảnh hưởng đến các chủ
thể kinh doanh khác.
Thứ hai, quan hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ
thương mại là điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Hoạt động thương

mại của doanh nghiệp là hoạt động thiết lập một mạng lưới các hành vi
thương mại, mà mục tiêu của các bên khi tham gia vào các quan hệ này là lợi
nhuận. Các bên tuy hợp tác, song vẫn canh tranh nhau để thu về được lợi ích
nhiều nhất. Chính vì thế sẽ không tránh khỏi những mâu thuẫn bất đồng trong
việc giải thích về quyền và nghĩa vụ, cũng như quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ đó của các bên - đó chính là những tranh chấp thương mại.
Thứ ba, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các chủ
thể được Nhà nước thừa nhận quyền doanh nghiệp có chức năng kinh doanh
đó là các doanh nghiệp. Vì vậy không phải tranh chấp nào phát sinh từ hoạt
động kinh doanh cũng là tranh chấp thương mại. Là tranh chấp thương mại
khi các đơn vị kinh tế có đăng ký kinh doanh thuộc tất cả các thành phần kinh
tế (các doanh nghiệp Nhà nước, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Doanh

Nhóm IV, Lớp Luật kinh tế K15TN

2


Tiểu luận môn: giải quyết tranh chấp thương mại.

nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hộ kinh doanh cá
thể ).
Thứ tư, tranh chấp thương mại có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh
chấp này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của
các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị
trường. Mặt khác, mua bán trao đổi là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên
tục, các chủ thể cùng một lúc có thể thiết lập nhiều mối quan hệ kinh tế khiến
cho những mối quan hệ này tạo thành một chuỗi quan hệ có liên quan đến
nhau khiến cho nếu tranh chấp phát sinh ở quan hệ này sẽ rất có thể dẫn đến
tranh chấp trong mối quan hệ khác.

2. Luật áp dụng giải quyết tranh chấp (Đ14 LTTTM)
- Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp
dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
- Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng
pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp
dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng
tài cho là phù hợp nhất.
- Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không
có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài
được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc
hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam.
3. Thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại
Việc áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực thương
mại được thông qua nhiều hoạt động khác nhau như: Xem xét cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép thành lập và hoạt động, hay cấp giấy
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh
doanh cá thể; giải quyết tranh chấp trong thương mại; giải quyết yêu cầu mở
thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã…
Trong quá trình tiến hành hoạt động thương mại, các bên tham gia (chủ
yếu là các thương nhân - tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh
doanh) khó tránh khỏi những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ trong
những quan hệ cụ thể. Khi có tranh chấp xảy ra, để đảm bảo quyền lợi của
mình các bên đều muốn giải quyết tranh chấp nhanh chóng, thuận lợi, có hiệu
quả và không ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh của mình. Theo quy định
tại Điều 317 Luật Thương mại năm 2005 (viết tắt LTM), các hình thức giải
quyết tranh chấp, là:
-Thương lượng giữa các bên.


Nhóm IV, Lớp Luật kinh tế K15TN

3


Tiểu luận môn: giải quyết tranh chấp thương mại.

-Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được
các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
-Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Có thể thấy, đây cũng là các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
phổ biến ở các nước trên thế giới. So với các hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại khác.
Tuy toà án là cơ quan tài phán có sức mạnh cưỡng chế giúp đôi bên có
thể giải quyết tranh chấp một cách triệt để, nhưng phương thức giải quyết
tranh chấp này cũng bộc lộ ra nhiều hạn chế:
+ Đầu tiên, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà
án, các bên phải nắm rõ đươc bản chất, vì việc giải quyết tranh chấp của toà
án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức của pháp luật
tố tụng, và đặc điểm này đôi khi có thể gây trở ngại cho các bên tranh chấp vì
tính chất của hoạt độngkinh doanh, thương mại đòi hỏi mọi thủ tục phải rất
linh hoạt và mềm dẻo.
+ Một điều bất lợi nữa của toà án, đó là nguyên tắc xét xử công khai.
Điều này xuất phát từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ pháp chế và
duy trì công lý đã được pháp luật quy định, xã hội thừa nhận. Mặt khác, hoạt
động xét xử công khai của toà án còn có tác dụng răn đe, cảnh cáo những
hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, để giữ bí mật
nhà nước hoặc bí mật nghề nghiệp theo yêu cầu chính đáng của đương sư, toà
án có thể xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Các doanh nghiệp làm ăn
trên thương trường đều không muốn mang dấu đen phải ra toà để giải quyết

tranh chấp, nó có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, cho nên
khuyết điểm này có thể coi là lớn nhất.
+ Mặc dù nguyên tắc xét xử nhiều cấp đảm bảo cho quyết định của toà
án là chính xác, công bằng. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng sẽ khiến cho vụ
việc có thể bị kéo dài, xử đi xử lại nhiều lần gây bất lợi cho đương sự, nhất là
những tranh chấp kinh tế có giá trị lớn đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng,
dứt điểm. Việc dây dưa, kéo dài vụ việc sẽ gây căng thẳng tâm lý, làm mất
thời giờ, tiền bạc của doanh nghiệp và có khi phải bỏ lỡ một cách đáng tiếc
các cơ hội kinh doanh.
+ Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế, đôi
lúc nó không thể hiện được hết nguyện vọng của các bên tranh chấp.
Thông thường, hình thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua
toà án được lựa chọn khi việc áp dụng cơ chế thương lượng hoặc hoà giải
không có hiệu quả và các bên tranh chấp không có thoả thuận giải quyết tranh
chấp tại trọng tài.
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án có thể rút ra
những vướng mắc chủ yếu hiện nay mà toà án nhân dân các cấp gặp phải
trong việc áp dụng pháp luật, đó là, còn lúng túng trong việc áp dụng quy định
Nhóm IV, Lớp Luật kinh tế K15TN

4


Tiểu luận môn: giải quyết tranh chấp thương mại.

của BLDS và các luật chuyên ngành khi giải quyết vụ án kinh doanh, thương
mại. Tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo quy
định tại Điều 30 BLTTDS rất đa dạng, phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực
kinh tế. Trong đó, việc giải quyết tranh chấp vừa có thể áp dụng BLDS vừa có
thể áp dụng các luật chuyên ngành khác. Hiện tượng này thường nảy sinh khi

giải quyết các tranh chấp sau:
+ Các tranh chấp về hợp đồng mua bán, được quy định trong BLDS về
hợp đồng mua bán tài sản và quy định trong LTM về hợp đồng mua bán hàng
hoá.
+ Các tranh chấp về hợp đồng dịch vụ, được quy định trong BLDS về
hợp đồng dịch vụ và được quy định trong LTM về hợp đồng cung ứng dịch
vụ.
+ Các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm được quy định trong BLDS và
trong Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
Ngoài ra, việc áp dụng quy định của luật chuyên ngành, hay BLDS của
một số toà chưa thống nhất như: Có toà áp dụng quy định của BLDS, có toà
áp dụng quy định của luật chuyên ngành, có nơi áp dụng đồng thời quy định
của BLDS và quy định của luật chuyên ngành. Vấn đề này, theo nguyên tắc áp
dụng LTM và pháp luật có liên quan trong việc điều chỉnh hoạt động thương
mại được quy định rất rõ tại Điều 4 LTM về áp dụng LTM và pháp luật có liên
quan:
“1. Hoạt động thương mại phải tuân theo Luật thương mại và pháp
luật có liên quan.
2. Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp
dụng quy định của luật đó.
3. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại
và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.”
Hoạt động thương mại phải tuân theo Luật Thương mại (LTM), vì LTM
là luật “riêng” áp dụng cho hoạt động thương mại. Hoạt động thương mại đặc
thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó. Đối với
những vấn đề điều chỉnh hoạt động thương mại không được quy định trong
luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của bộ luật dân
sự. Ví dụ, đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đại lý bảo hiểm thì
trước tiên phải áp dụng các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng đại lý bảo
hiểm được quy đinh trong Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ

sung năm 2010), những vấn đề gì mà Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy
định thì áp dụng LTM, những vấn đề gì mà LTM không quy định thì áp dụng
BLDS.
Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM) vẫn còn có những quy định
liên quan đến vấn đề hủy phán quyết của trọng tài chưa cụ thể, rõ ràng, dẫn
đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất và tòa án có thể dễ dàng hủy phán
Nhóm IV, Lớp Luật kinh tế K15TN

5


Tiểu luận môn: giải quyết tranh chấp thương mại.

quyết trọng tài, đặc biệt với căn cứ hủy do vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài.
Quy định về căn cứ hủy quyết định trọng tài có phạm vi quá rộng so với quy
định của pháp luật về trọng tài của các nước, quy tắc tố tụng của các thiết chế
trọng tài quốc tế, là nguy cơ rủi ro tiềm ẩn cho doanh nghiệp khi lựa chọn
trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh. Để
cải thiện tình trạng trên, ngày 20 tháng 03 năm 2014, Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2014 hướng dẫn thi
hành một số quy định của Luật TTTM có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm
2014 (viết tắt Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP) nhằm giải quyết một số vấn đề
còn chưa rõ của Luật TTTM như phân định thẩm quyền giữa trọng tài và tòa
án, việc hỗ trợ và giám sát của tòa án đối với hoạt động trọng tài nước ngoài
trên lãnh thổ Việt Nam, các vấn đề về thỏa thuận trọng tài hay làm rõ các căn
cứ hủy phán quyết trọng tài, đặc biệt là khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam”. Gần đây nhất, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
Công văn 246/TANDTC-KT ngày 25 tháng 07 năm 2014 về việc giải quyết
yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài. Công văn này đã hướng dẫn cụ thể về

nghĩa vụ chứng minh của bên phải thi hành phán quyết trọng tài; việc xác
định luật áp dụng cho tố tụng trọng tài, luật áp dụng để xác định năng lực ký
kết thỏa thuận trọng tài, căn cứ xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng
tài và một số vấn đề khác liên quan đến việc công nhận và cho thi hành phán
quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam quy định tại Chương XIX BLTTDS.
Công văn cũng nhấn mạnh rằng khi xem xét việc công nhận và cho thi hành
phán quyết trọng tài nước ngoài Hội đồng xét đơn không xét xử lại nội dung
vụ tranh chấp mà chỉ kiểm tra, đối chiếu quyết định của Trọng tài nước ngoài,
các giấy tờ, tài liệu kèm theo với các quy định của BLTTDS, các quy định
khác của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập có liên quan để giải quyết. Mặc dù mới có hiệu lực trong thời gian
ngắn nên thực tiễn áp dụng của các văn bản hướng dẫn nêu trên còn cần phải
được kiểm chứng, tuy nhiên có thể thấy nội dung xuyên suốt của các văn bản
này thể hiện tinh thần ủng hộ hoạt động trọng tài của Tòa án Nhân dân tối
cao. Hơn nữa, Công văn 246 cũng nhận được sự ủng hộ rất tích cực từ các luật
sư, trọng tài viên, cộng đồng các doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài và được coi là một dấu hiệu đáng mừng để cải thiện những ấn tượng
xấu trước đây trong việc hủy phán quyết trọng tài trong nước và không công
nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài như trước đây.Bên
cạnh đó, trong quá trình soạn thảo trước đây cũng như tổng kết thực tiễn thi
hành Luật TTTM hiện nay cũng còn có một số ý kiến về việc phải tuân thủ
Điều 3 Công ước New York năm 1958 về việc công nhận và thi hành phán
quyết trọng tài nước ngoài mà Việt nam là một thành viên ký kết trong đó có
yêu cầu các quốc gia thành viên: Không được đặt các điều kiện về căn bản
nặng hơn hoặc các phí hay chi phí cao hơn cho việc công nhận và thi hành các
quyết định trọng tài mà Công ước này áp dụng tới so với việc công nhận và
thi hành các quyết định trọng tài trong nước. Tuy nhiên ở Việt Nam, việc công
Nhóm IV, Lớp Luật kinh tế K15TN

6



Tiểu luận môn: giải quyết tranh chấp thương mại.

nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài không nằm trong Luật trọng
tài mà lại được quy định trong BLTTDS do đó tạo nên những khuôn khổ pháp
lý khác nhau giữa phán quyết của trọng tài trong nước và phán quyết trọng tài
nước ngoài. Do đó, chúng tôi cho rằng cần nghiên cứu xem xét việc chuyển
nội dung phần công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài vào
Luật TTTM mại để nhằm tạo sự thống nhất xuyên suốt trong cơ chế pháp lý
đối với trọng tài. Điều này cũng phù hợp với Luật mẫu của Ủy ban Luật
thương mại quốc tế của Liên Hiệp Quốc (UNCITRAL) về Trọng tài thương
mại quốc tế cũng như pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới./.

Nhóm IV, Lớp Luật kinh tế K15TN

7



×