Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tiểu luận vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.21 KB, 15 trang )

Tiểu luận Triết học

Lê Thị Bảo Ngọc

Mục lục

1


Tiểu luận Triết học

Lê Thị Bảo Ngọc

LỜI MỞ ĐẦU
Năm năm gia nhập WTO là một chặng đường đủ dài để chúng ta nhận ra
những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình hội nhập kinh tế.
Sự phát triển kinh tế đối ngoại trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết
sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước
ta. Lợi ích kinh tế xã hội mà kinh tế đối ngoại mang lại cho nền kinh tế quốc dân
và đời sống xã hội được thể hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội như phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất
lao động, tích luỹ ngoại tệ, tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước giải quyết việc
làm cải thiện đời sống nhân dân...Tuy nhiên, hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn
còn tồn tại những mặt hạn chế. Vì vậy việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại là vấn đề cấp bách và cần thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung và phát triển năm 2011) của Đảng đã ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy
chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của mình. Xuất phát từ nhận thức, những kiến thức được
học nên em lựa chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện


chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại”.
Bằng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lí luận và thực tiễn, phân và
tích tổng hợp, tiểu luận này giúp bạn đọc hiểu thêm về thành tựu cũng như hạn
chế, nguyên nhân cũng như giải pháp cho hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta
hiện nay.
Do sự hiểu biết và vận dụng lý luận của Mác – Lê-nin còn hạn chế nên
bài tiểu luận này của em không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy
cô giúp đỡ, góp ý để em hoàn thành bài tiểu luận này.
2


Tiểu luận Triết học
Em xin chân thành cảm ơn!

Lê Thị Bảo Ngọc

NỘI DUNG
I

Cơ sở lý luận

1.

Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật
Trong nhận thức và thực tiễn cần quán triệt quan điểm toàn diện.
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức các sự

vật, hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét sự vật như một chỉnh
thể của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ
của chúng trong bản thân sự vật; mối liên hệ giữa sự vật với các sự vật khác và với

môi trường xung quanh, kể cả các mặt các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
Trong nhận thức, tính toàn diện là yêu cầu tất yếu của cách tiếp cận khoa
học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động có thể có của đối tượng
nghiên cứu trong tính toàn vẹn của nó. V.I.Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được
sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiêm cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ
và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”; phải tính đến “tổng hoà những quan hệ
muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”. Nghĩa là phải xem xét khách thể
trong tất cả những mối liên hệ và quan hệ của nó với khách thể khác.
Tuy nhiên, theo V.I.Lênin: “Chúng ta không thể làm được điều đó một cách
hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi vật sẽ đề phòng cho
chúng ta không phạm sai lầm và sự cứng nhắc”. Sở dĩ chúng ta không làm được
điều đó một cách đầy đủ là với hai lý do:
Một là, sự vật trong quá trình tồn tại phải trải qua rất nhiều giai đoạn khác
nhau, trong mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển không phải bao giờ sự vật cũng bộc
lộ tất cả các mối quan hệ và liên hệ của nó cũng như các quan hệ của sự vật với các
sự vật khác, hơn nữa tất cả những mối quan hệ và liên hệ ấy chỉ được biểu hiện ra
trong những điều kiện nhất định.
3


Tiểu luận Triết học
Lê Thị Bảo Ngọc
Hai là, bản thân chúng ta - những chủ thể nhận thức - những phẩm chất và
năng lực của chúng ta luôn bị chế ước bởi những điều kiện xã hội lịch sử, do đó
không bao giờ có thể bao quát được hết những mối liên hệ và quan hệ của sự vật
với các sự vật khác.
Ví dụ, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
thực hiện còn sơ khai, các yếu tố của thị trường mới được tạo lập chưa đồng bộ, các
quan hệ thị trường đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, còn đang biến
động, do đó, nhận thức về kinh tế thị trường của chúng ta còn chưa đầy đủ. Do đó

quan điểm toàn diện gắn chặt với quan điểm lịch sử -cụ thể.
Tuy nhiên về mặt nguyên tắc, trong những điều kiện cho phép, cần phải nắm
được thông tin đầy đủ nhất về sự vật để có nhận thức toàn diện nhất và đúng đắn
nhất về sự vật.
Quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật chúng ta cần xem
xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Cùng một sự vật, xuất
phát từ nhu cầu khác nhau chủ thể sẽ phản ánh những mặt khác nhau của sự vật và
do vậy, nó biểu hiện ra là những cái khác nhau.
Mối liên hệ giữa sự vật với nhu cầu của chủ thể rất đa dạng, trong một hoàn
cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ xác định của sự vật với
nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức về sự vật cũng mang tính tương đối,
không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt
đối hoá những tri thức đã có về sự vật và tránh xem đó là những chân lý bất biến,
tuyệt đối cuối cùng về sự vật, không thể bổ sung, không thể phát triển.
Xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật đòi hỏi
phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như vậy chúng ta
mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá
trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật.
V.I.Lênin viết: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả
các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan
hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”.
4


Tiểu luận Triết học
Lê Thị Bảo Ngọc
Như vậy xem xét toàn diện nhưng không bình quân dàn đều mà có trọng
tâm, trọng điểm; phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng mối liên hệ ấy trong
tổng thể của chúng; phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến
chỗ khái quát để rút ra cái chủ yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự

tồn tại và phát triển của sự vật.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm phiến
diện chỉ thấy một mặt mà không thấy mặt khác, hoặc giả chú ý đến nhiều mặt
nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được bản chất của sự vật. Quan
điểm này cuối cùng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung. Chủ nghĩa
chiết trung cũng tỏ ra chú đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng lại
không biết cách rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản của sự vật, xem xét một
cách bình quân, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, tạo
thành một mớ hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương hướng
và bất lực trước chúng.
Trong tác phẩm “Lại bàn về công đoàn...”, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Sai lầm
của Bukharin về mặt lý luận- trong trường hợp này về mặt nhận thức luận- là đã
thay thế phép biện chứng bằng chủ nghĩa chiết trung”. Điều đó làm cho
Bukharin lung túng mất phương hướng và rơi vào chủ nghĩa công đoàn. Còn
“Sai lầm của Trốtxki là tính phiến diện, sự thiên lệch, thổi phồng, ngoan cố”.
V.I.Lênin cho rằng: “Nếu cứ giữ mãi sai lầm đó, thì kết quả không phải là cái gì
khác hơn là một thiên hướng công đoàn chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa cộng
sản”.
Thuật nguỵ biện cũng để ý đến nhiều mặt nhiều mối liên hệ khác nhau của
sự vật nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất
thành cái bản chất.
Cả chủ nghĩa chiết trung lẫn thuật nguỵ biện đều là những biểu hiện của
phương pháp luận sai lầm trong xem xét các sự vật, hiện tượng.
Vạch rõ đặc điểm của chủ nghĩa chiết trung và phép nguỵ biện khác với
phép biện chứng, V.I.Lênin viết: “Tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của các khái
5


Tiểu luận Triết học
Lê Thị Bảo Ngọc

niệm, áp dụng một cách chủ quan bằng chủ nghĩa chiết trung và nguỵ biện. Tính
linh hoạt áp dụng một cách khách quan nghĩa là phản ánh tính toàn diện của quá
trình vật chất và sự thống nhất của quá trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự
phản ánh chính xác sự phát triển vĩnh viễn của thế giới ”.
Trong bối cảnh quốc tế cuối những năm 1980 đầu những năm 1990 của
thế kỉ XX, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ và tan
vỡ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào khủng hoảng và thoái trào, một số nước tư
bản lại có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, lối xem
xét phiến diện, một chiều sẽ làm người ta dễ hoang mang dao động, phủ nhận
tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nội dung và tính chất của
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới.
Rõ ràng nguyên tắc toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn đều,
liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó; nó đòi hỏi
phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
Từ những phân tích trên cho thấy, lôgíc của quá trình hình thành quan
điểm toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn
cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối
liên hệ cụ thể của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật đó, và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri
thức về bản chất của sự vật.
Từ nguyên tắc toàn diện trong nhận thức, chúng ta đi đến nguyên tắc đồng
bộ trong hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này đòi hỏi muốn cải tạo sự vật, hiện
tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác
nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật.
Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt.
Nghĩa là phải kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có
trọng điểm” trong cải tạo sự vật.

6



Tiểu luận Triết học
Lê Thị Bảo Ngọc
2.
Khái niệm kinh tế đối ngoại và tính tất yếu khách quan của việc mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
1.1

Khái niệm
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là

tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia
nhất định với quốc gia khác còn lại hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác, được
thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và cơ sở phát triển của lực lượng sản
xuất và phân công lao động quốc tế.
2.1

Tính tất yếu của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu đối

với hầu hết các nước. Tính khách quan và phổ biến của nó bắt đầu từ yêu cầu
của quy luật về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân bố tài
nguyên thiên nhiên và sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh
tế - kỹ thuật giữa nước này với nước khác, dẫn đến nhu cầu sử dụng sao cho có
hiệu quả nguồn lực mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, dưới sự tác
động của cuộc cách mạng khoa học hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại ngày càng trở nên sôi động.
II


Cơ sở thực tiễn

1.

Hiện trạng hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay

1.1

Những thành tựu đã đạt được
Sau chặng đường 5 năm gia nhập WTO, kết quả đáng ghi nhận là kinh tế

nước ta đã phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong thương mại, dịch
vụ, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI).
Trong 5 năm 2006-2010, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
thực hiện 45 tỉ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch. Tổng số vốn FDI đăng ký mới
và bổ sung đạt 146 tỉ USD, gấp 7 lần so với giai đoạn 2001-2005.
7


Tiểu luận Triết học
Lê Thị Bảo Ngọc
Hội nhập, đã phá được thế bao vây cấm vận, tạo được sự bình đẳng trong
thương mại quốc tế. Hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó nòng cốt là ngoại
thương tiến bộ rõ rệt.
Thị trường được rộng mở tới 149 nền kinh tế thành viên. Kim ngạch xuất
khẩu liên tục tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu bình quân theo đầu người năm
2010 đạt 914,4 USD/người trong khi năm 2006 là 559,2 USD/người. Theo đà
diễn biến các tháng gần đây, đến thời điểm này đã khẳng định năm 2011 xuất
khẩu sẽ vượt năm 2010 rất ngoạn mục. Đến năm 2010 đã có 19 thị trường Việt
Nam xuất khẩu đạt từ 1 tỉ USD trở lên, trong đó đầu bảng là Hoa Kỳ, đạt 14,2 tỉ

USD, tiếp đến là Nhật Bản và Trung Quốc.... Cũng trong số 19 thị trường nói
trên có 6 tên tuổi thuộc khu vực ASEAN, lần lượt theo trị số kim ngạch từ lớn
đến nhỏ là Singapore, Malaysia, Philippines, Campuchia, Indonesia, Thái Lan.
Trên tổng thể cán cân thương mại của Việt Nam là nhập siêu, nhưng hiện có 6
thị trường ta xuất siêu là Hoa Kỳ, Thuỵ Sỹ, Campuchia, Anh, Hà Lan,
Philippines, như một tin báo tiệp rằng sẽ cân bằng xuất - nhập.
Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Số khách du lịch
quốc tế vào Việt Nam năm 2011 đã đạt mốc 6 triệu vào ngày 26/12 và hiện có
hàng trăm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, đem lại nguồn
thu nhập hàng tỷ USD hàng nam cho đất nước.
Các doanh nghiệp trong nước đã được quyền bình đẳng với doanh nghiệp
nước ngoài trong xuất khẩu, giảm thiểu sự phân biệt hoặc rào cản thương mại
bất hợp lý. Điều đó thể hiện rõ đối với doanh nghiệp dệt may khi đón nhận cơ
hội chuyển dịch sản xuất từ các nước phát triển sang những nước đang phát triển
thông qua làn song chuyển giao công nghệ, mẫu mã. Đặc biệt, vấn đề hạn ngạch
– vốn là rào cản, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong nhiều năm, được dỡ bỏ
bên cạnh việc doanh nghiệp được bình đẳng về thuế quan với doanh nghiệp các
nước. Một sân chơi mới, rộng lớn và song phẳng đã mở ra, tạo điều kiện cho
cộng đồng doanh nghiệp huy động, sử dụng các nguồn lực một cách chủ động
để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Quá trình hiện đại hóa trang bị, dây
8


Tiểu luận Triết học
Lê Thị Bảo Ngọc
chuyền sản xuất đã diễn ra với tốc độ cao ở hầu hết doanh nghiệp. Doanh nghiệp
đang kết hợp cả hoạt động gia công với việc tự sáng tạo mẫu mà, tự tìm thị
trường xuất khẩu và cạnh tranh có hiệu quả. Tác dụng to lớn về mặt xã hội từ
xuất khẩu hàng dệt may được xác nhận vì cứ một tỷ USD xuất khẩu bảo đảm
cho 150 ngàn người có việc làm ổn định. Việt Nam đang đứng trong số 10 nước

dẫn đầu về xuất khẩu dệt may, với tốc độ tăng trưởng bình quân 25%/ năm.
2.1

Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước ta ở cả 3 cấp quốc gia,

ngành hàng, doanh nghiệp còn kém, thể hiện là giá thành còn cao, phẩm cấp
thấp so với chuẩn quốc tế, chất lượng phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Nguyên
nhân của vấn đề này do chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các
quốc gia trong khu vực: tuy chí phí lao động thấp nhưng giá các dịch vụ như liên
lạc, viễn thông, hàng không, điện nước… đều cao, công nghệ được sử dụng
trong các doanh nghiệp Việt Nam thì chưa được gọi là tiên tiến.
Thứ hai, đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do.
Buôn bán quốc tế lớn đến thế, mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có
nghĩa là các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển
đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt
do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập
khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép ngân hàng cấp. Cung cấp tín dụng cho xuất
khẩu là một trong các yếu tố quyết định sự thành công của xuất khẩu, thế nhưng
ở nước ta việc cung cấp các tín dụng này, đặc biệt là cung cấp vốn lưu động cho
các nhà xuất khẩu gặp nhiều trở ngại. Những trở ngại này liên quan tới những
thủ tục vay vốn phiền hà, những quy chế phức tạp về thế chấp, nhất là trong điều
kiện thị trường bất động sản hoạt động rất kém, sự phân biệt đối xử đối với các
loại hình doanh nghiệp, và chưa có cơ chế tái chiết khấu các thương phiếu...
Việc cung cấp tín dụng yếu kém đã tác động xấu cả tới việc thu hút vốn FDI và

9


Tiểu luận Triết học

Lê Thị Bảo Ngọc
du lịch, vì các nhà đầu tư ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn trong nước để
phát triển kinh doanh.
Thứ ba, đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã tăng cả về
số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
Thứ tư, chưa nhận thức thật đầy đủ và thống nhất về hội nhập, chưa coi đây
là yêu cầu tất yêu trong xu thế toàn cầu hóa, nước ta không thể đứng ngoài.
Cũng có biểu hiện nóng vội có ngay sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế về vốn
và kĩ thuật công nghệ, quản lí tiên tiến để phát triển. Nhưng cũng có thiên hướng
chie lo lắng về thách thức, hoang mang khi thị trường quốc tế rung động, lập tưc
Việt Nam gặp khó khăn, khác xa với thời nằm im trong vỏ bọc bao cấp quốc tế.
Thứ năm, các doanh nghiệp thường ít khi phân tích, nghiên cứu dung lượng
của thị trường, các giới hạn của thị trường và khả năng thâm nhập tối đa của
hàng Việt Nam vào các thị trường đó. Điều này dẫn đến việc gia tăng quá mức
một mặt hàng nào đó, hay không ứng phó kịp với sự biến động của thế giới.
Thứ sáu, các vấn đề về tỷ giá, thuế quan, hải quan, những quy chế về đầu tư
nước ngoài, chính sách xuất nhập cảnh... còn nhiều phức tạp, nhiều thủ tục. Kinh
tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền kinh tế, vì vậy
những thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế đối nội phải thay đổi theo.
Chính sự tiến triển không kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở kinh tế đối ngoại
phát triển và ngược lại. Nước ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội không phát
triển kịp, cản trở kinh tế đối ngoại - luật pháp thay đổi chậm, các công ty chậm
đổi mới và yếu kém, điều hành của bộ máy quản lý kém hiệu lực...
Nguyên nhân sâu xa của những vấn đề còn tồn tại nêu trên là do kinh tế
nước ta còn yếu kém, chưa thể hấp thụ, chưa thể chuyển hóa cơ hội thành hiện
thực, bộ máy quản lí còn yêu kém, lao động Việt Nam tay nghề không cao, thể
chế hành chính luật pháp không minh bạch.
10



Tiểu luận Triết học
2.
Một số giải pháp

Lê Thị Bảo Ngọc

Thứ nhất, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng là một tiền đề để mở
rộng kinh tế đối ngoại. Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là
các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường
cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc,
viễn thông, cung cấp điện,... Người ta đã tính rằng có đến trên 70% những khác
biệt về giá trị xuất khẩu trên đầu người là phụ thuộc vào trình độ phát triển của
cơ sở hạ tầng. Nếu không có đủ cảng, sân bay quốc tế, điện, đường... thì có
nghĩa là chỉ có một bộ phận dân cư tham gia kinh tế đối ngoại.
Những yếu tố của cơ sở hạ tầng không những phải được xây dựng hiện đại mà
còn phải đồng bộ, và trong một thời hạn càng ngắn càng tốt. Chỉ cần một trong
các yếu tố trên khiếm khuyết cũng đủ gây tổn hại cho các hoạt động kinh tế đối
ngoại.
Cần phải có hàng chục tỷ USD để xây dựng những cơ sở hạ tầng trên đây.
Vốn ngân sách nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA cũng không thể đủ đáp ứng các
nhu cầu to lớn này. Do vậy cần phải có quy hoạch tổng thể về cơ sở hạ tầng, nhà
nước có thể tạm thời chuyển vốn đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất công
nghiệp sang xây dựng cơ sở hạ tầng. Mở rộng các hình thức huy động vốn đa
dạng, cần có chính sách để mọi thành phần kinh tế có thể tham gia kinh doanh
cơ sở hạ tầng. Ngay những nước giàu như Mỹ, Nhật, nhà nước cũng không đủ
tiền xây dựng các cơ sở hạ tầng, mà phải huy động các thành phần kinh tế khác.
Nước ta nghèo hơn nên càng phải sử dụng các thành phần ngoài nhà nước.
Thứ hai, khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối
ngoại. Các hoạt động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu, du lịch đến đầu tư

nước ngoài đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Không có đủ vốn, cũng có
nghĩa là kinh tế đối ngoại không hoạt động được. Những nguồn vốn này hiện
đang dư thừa cả trong và ngoài nước. Hàng năm, hàng tỷ USD tiền gửi tiết kiệm
11


Tiểu luận Triết học
Lê Thị Bảo Ngọc
đã không sử dụng được ở trong nước phải gửi ra các ngân hàng ở nước ngoài,
nếu tính cả số tiền gửi ra nước ngoài qua các kênh không chính thức thì số tiền
đó còn lớn hơn. Nguồn vốn tích trữ trong dân dưới nhiều dạng của cải khác nhau
còn khá lớn. Nguồn vốn dư thừa trên thế giới phải tính đến hàng ngàn tỷ USD.
Vấn đề là chúng ta chưa có một cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn này cho
hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trước hết cần mạnh dạn cho phép một số ngân hàng thương mại của ta liên
doanh với ngân hàng nước ngoài và cho phép các ngân hàng nước ngoài mở
rộng dịch vụ kinh doanh nội và ngoại tệ, cung ứng tín dụng cho hoạt động kinh
tế đối ngoại cho các công ty Việt Nam và công ty nước ngoài.
Tiếp theo, nên thúc đẩy thị trường vốn hoạt động tốt hơn theo hướng - một
mặt mở rộng diện cổ phần hoá và cho phép các công ty cổ phần được bán cổ
phiếu; đồng thời cho phép các công ty chưa cổ phần hoá nhưng kinh doanh tốt
có thể bán trái phiếu; cho phép các công ty hoạt động đối ngoại có thể huy động
vốn theo các dự án trên thị trường chứng khoán...
Thứ ba, các ngành dịch vụ phải được phát triển và hội nhập quốc tế. Ở các
nước phát triển, các ngành dịch vụ đã chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Vai trò của
nó cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là
trong thời đại chuyển sang nền kinh tế tri thức. Ở nước ta các ngành dịch vụ
hiện đại rất kém phát triển. Không những thế, quan niệm của xã hội ta vẫn xem
trọng sản xuất vật chất hơn dịch vụ, vẫn có xu hướng tập trung các nguồn lực
cho sản xuất vật chất, kể cả các nguồn lực bên ngoài. Sản xuất vật chất là quan

trọng, không ai phủ nhận, nhưng tầm quan trọng của nó không thể lấn át dịch vụ.
Nếu ta tập trung đầu tư vào sản xuất thép, xi măng... nhưng không đầu tư thích
đáng vào các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn... thì sản xuất thép,
xi măng... sẽ rơi vào tình trạng chi phí cao, chất lượng thấp, thiếu thị trường...
Một nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chỉ được khuyến khích đầu tư vào sản
xuất vật chất khi họ bí, cần tư vấn không có, cần vay vốn lại khó khăn, cần bảo
12


Tiểu luận Triết học
Lê Thị Bảo Ngọc
hiểm lại quá phức tạp, cần liên lạc viễn thông lại quá đắt... Do vậy đã có nhà đầu
tư nước ngoài nhận xét rằng phải có lòng dũng cảm mới dám đầu tư vào Việt
Nam. Môi trường dịch vụ hoạt động kém là một cản trở lớn đối với các nhà đầu
tư từ các nước phát triển, vì họ đã quen với môi trường đầu tư có hoạt động dịch
vụ rất tốt. Điều đó giải thích tại sao các nhà đầu tư Âu, Mỹ, Nhật lại do dự khi
đầu tư vào Việt Nam.
Thứ tư, cơ cấu nhập khẩu phải phù hợp với định hướng xuất khẩu và sự
phát triển có hiệu quả của nền kinh tế đất nước. Cơ cấu nhập khẩu của mỗi nước
khác nhau có thể khác nhau tùy theo trình độ phát triển và các điều kiện lịch sử
kinh tế, văn hóa, tự nhiên khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, cơ cấu này phải
phù hợp với cơ cấu xuất khẩu, phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới và
trong nước. Nghĩa là nó phải nhập những thứ để có thể sản xuất, gia công và
xuất khẩu có hiệu quả và do vậy đương nhiên là có thể đáp ứng nhu cầu thay thế
nhập khẩu.
Thứ năm, tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại.
Thứ sáu, sửa đổi và ban hành các luật pháp cần cho kinh tế đối ngoại và
phù hợp với các thông lệ quốc tế mà ta sẽ cam kết.
Trên đây là một số giải pháp mà tôi cho là thích hợp với hoạt động kinh tế đối
ngoại nước ta hiện nay.


13


Tiểu luận Triết học

Lê Thị Bảo Ngọc

KẾT LUẬN
Kinh tế đối ngoại nước ta hiện đã bước sang một giai đoạn mới - chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta đã học hỏi và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
của các quốc gia đi trước, đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trên lĩnh vực
kinh tế đối ngoại, đã có được những nền tảng bước đầu để có thể gia tăng hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn mới.
Đồng thời, những điều kiện quốc tế đã thay đổi, các quốc gia trong khu vực
đã tiến xa so với chúng ta trên con đường hội nhập quốc tế và đang đặt ra những
thách thức lớn. Trong bối cảnh đó, việc vận dụng đúng nguyên tắc toàn diện của
phép biện chứng duy vật sẽ giúp cho hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ ngày càng
được mở rộng và nâng cao, góp phần xây dựng và phát triển đất nước đi lên theo
con đường chủ nghĩa xã hội.

14


Tiểu luận Triết học

Lê Thị Bảo Ngọc

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo(2011), giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của

chủ nghĩa Mác – Lê-nin”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. PGS-TSKH Võ Đại Lược, “Kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay: tình hình
và giải pháp”, />3. Nguyễn Duy Nghĩa, “Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO”, báo Lao
động, 12/11/2011.
4. Bảo Minh, “5 năm gia nhập WTO: Hiểu mình, hiểu người, thiếu lực cạnh
tranh”, báo Sài Gòn Đàu tư, 12/03/2012.

15



×