Quản trị Marketing
BÀI TẬP CÁ NHÂN
ĐỀ BÀI:
Phân tích chiến lược Marketing sản phẩm của Thép Việt – Ý và các đối
thủ cạnh tranh trên thị trường
I.
GIỚI THIỆU VỀ DOANH NGHIỆP
Công ty cổ phần thép Việt – Ý (VISCO) thuộc Tập đoàn Sông Đà sở hữu
thương hiệu thép VIS – thương hiệu đang từng bước khẳng định có chỗ đứng vững
chắc trên thị trường Việt Nam. VISCO chuyên sản xuất và kinh doanh các loại thép
xây dựng cán nóng có chất lượng cao và ổn định. Các loại thép xây dựng được sản
xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại của Danielli (Italy) với công suất 250.000
tấn/năm.
Sau gần một thập kỷ có mặt trên thị trường, VISCO ngày càng khẳng định vị
thế của mình trên thị trường thép trong nước và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
tăng trưởng ổn định, bền vững, lợi nhuận cao, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà
nước, thu nhập của cán bộ công nhân viên được nâng lên.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của VISCO trong những năm gần đây:
Hạng mục
Đơn vị tính
Giá trị các năm
2008
2009
2010
2011
Giá trị SXCN
Tỷ đồng
1.807
2.248
3.568
4.318
Doanh thu
Tỷ đồng
1.749
2.068
3.105
3.915
Lợi nhuận
Tỷ đồng
155
262,37
145,46
35,34
Thu nhập
Triệu
4,500
7,700
11,000
9,400
đồng/người
II.
MÔI TRƯỜNG NGÀNH THÉP TẠI VIỆT NAM
M0111
Quản trị Marketing
1)
Môi trường kinh tế xã hội
Ngành thép chịu ảnh hưởng rất nhiều từ môi trường kinh tế xã hội cũng như các
chính sách phát triển kinh tế của đất nước. Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển
mạnh mẽ tạo đà cho các ngành kinh tế phát triển. Cùng với sự phát triển đó, nhu cầu
thép để phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tăng với tốc độ khá cao.
Năm 2008, khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra trên toàn thế giới, trong đó có
tác động ít nhiều đến Việt Nam. Hàng loạt các công trình, dự án bị đình trệ, dở dang
ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành thép. Cũng như Chính
phủ của các nước khác, Việt Nam cũng có những biện pháp kích cầu như giảm thuế,
ưu đãi lãi suất.... và năm 2009 là năm làm ăn khá phát đạt của các doanh nghiệp thép
trong nước. Đến năm 2010, khi các ưu đãi không còn thì các doanh nghiệp thép trong
nước lại tiếp tục đối mặt với những thách thức khó khăn mới từ giá nguyên liệu tăng
(than, dầu, điện) cũng như các chính sách về thuế nhập khẩu phôi thép, tỷ giá hối đoái
và lãi suất ngân hàng.
Nhu cầu về thép trong nước tăng cao trong khi sản xuất thép mới đang ở giai
đoạn đầu, chủ yếu là sản xuất thép xây dựng và chỉ tập trung cho các công đoạn sản
xuất ở hạ nguồn (nhập phôi để cán sản phẩm). Vì vậy, lượng nguyên liệu và sản phẩm
thép nhập khẩu vào Việt Nam những năm gần đây tăng mạnh. Ngành thép trở thành
ngành kinh tế tiêu tốn lượng ngoại tệ lớn, tỷ lệ nhập siêu cao. Bên cạnh đó vì giá trị
sản xuất lớn nên chi phí vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
thép đóng vai trò quan trọng. Sự biến động của tỷ giá hối đoái, lãi suất thường xuyên
tác động đến giá thành sản xuất của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc điều hành hoạt động thương mạỉ trong nước không tốt làm ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Việc cung cấp thép vào các dự án
thường “vòng vo”, phải đi qua nhiều trung gian thương mại làm cho giá bán thép bị
đẩy lên mà các doanh nghiệp sản xuất cũng như người tiêu dung không được hưởng
lợi từ hoạt động này. Mặt khác, chính sách về thuế, hỗ trợ thương mại của Chính phủ
thường chậm chạp nên các doanh nghiệp cũng thường xuyên bỏ lỡ mất cơ hội kinh
doanh.
Năm 2011, Thép Việt Ý cũng phải chịu những tác động xấu không nhỏ trước
những áp lực của thị trường thép và sự bất ổn của nền kinh tế. Tuy nhiên, đánh giá
M0111
Quản trị Marketing
được những khó khăn, nắm bắt được những cơ hội kinh doanh và phát huy tối đa sức
mạnh nội lực, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của thép Việt – Ý trong năm
2011 đạt được khá tốt. Năm 2012, tình hình kinh tế thế giới và trong nước được dự báo
vẫn còn đầy rẫy khó khăn, thách thức khó lường. Theo dự bào của Hiệp hội thép Việt
Nam, trong năm 2012, thị trường thép sẽ tăng trưởng khoảng 4% thấp hơn nhiều so
với các năm trước đây.
2)
Áp lực về nguồn cung cấp nguyên vật liệu (phôi thép)
Đối với doanh nghiệp cán thép, phôi thép chiếm đến trên 95%, giá trị trong giá
thành sản phẩm. Theo Vụ Công nghiệp nặng (Bộ Công thương) hiện tại tổng công suất
cán thép xây dựng vẫn vượt gần 02 lần công suất luyện phôi. Hiệp hội Thép Việt Nam
(VSA) cho biết, năm 2009, lượng phôi tự sản xuất trong nước là 2,6 triệu tấn và lượng
phôi cần nhập khẩu là khoảng 2,2 triệu tấn nữa. Như vậy nguồn nguyên vật liệu phải
mua nhập khẩu đến 50%. Tuy nhiên nguồn nguyên liệu thượng nguồn là phế liệu để
luyện phôi hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu. Vì vậy khi giá cả thế giới biến động thì
có tác động ngay đến thị trường thép xây dựng trong nước. Thực tế cho thấy, nhiều
doanh nghiệp kinh doanh thép đã lỗ nặng, thậm chí phá sản sau mỗi lần giá nguyên
liệu tăng cao sau đó lại giảm đột ngột.
Lượng phôi thép mua nhập khẩu của VISCO trong các năm trước đây chiếm
đến 70%. Số còn lại mua trong nước nhưng chất lượng chưa được đảm bảo, chủng loại
phôi thép không đồng đều khiến cho sản phẩm thép cán mất cân đối. Bên cạnh đó, giá
cả nguyên vật liệu thường xuyên biến động và khó dự báo ảnh hưởng rất nhiều đến kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có những thời điểm giá phế liệu, phôi thép tăng rất
cao và việc mua hàng gặp rất nhiều khó khăn nhưng sau đó lại đột ngột giảm và giảm
mạnh. Nhận thức được những áp lực từ nguồn nguyên vật liệu, năm 2004, VISCO đã
đầu tư dây chuyền luyện phôi thép để chủ động hơn về nguyên vật liệu. Đến cuối năm
2009, sản phẩm phôi thép đầu tiên đã ra lò nhưng chất lượng chưa được ổn định.
3)
Áp lực từ việc giảm chi phí sản xuất
Năm 2010 ngành thép phải đương đầu với một số khó khăn mới như: giá
nguyên liệu quặng sắt, than, dầu, phôi thép, thép phế liệu, điện năng và một số loại
nguyên liệu khác cao hơn giá năm 2009; có một số sản phẩm thép theo lộ trình qui
định WTO sẽ không còn được hưởng ưu đãi và bảo hộ cao về thuế nhập khẩu, nên tính
M0111
Quản trị Marketing
cạnh tranh với sản phẩm thép nhập khẩu sẽ khốc liệt hơn. Chính vì thế, việc các doanh
nghiệp tập trung đầu tư công nghệ sạch, ngay từ bây giờ, được các chuyên gia cho
rằng là việc làm cần thiết, nhằm giữ vững thị phần trong nước, hướng đến quá trình
hội nhập, đồng thời đáp ứng được yếu tố bảo vệ môi trường, khi ngành sản xuất thép
được coi là lĩnh vực tiêu hao nhiên liệu và gây ô nhiễm môi trường lớn nhất trong các
ngành sản xuất công nghiệp hiện nay.
Tháng 11/2009, Nhà máy sản xuất thép Pomina đã đưa vào hoạt động mô hình
luyện thép theo công nghệ Consteel và cán thép Siemens-vai. Ông Chu Quang Vũ,
Giám đốc Sản xuất CTCP Thép Pomina cho biết, công nghệ tiết kiệm năng lượng mới
này đã giúp doanh nghiệp có những lợi thế nhất định về giá thành sản phẩm, nên chủ
động trong việc tiêu thụ sản phẩm trong nước, cũng như xuất khẩu sang thị trường
Campuchia và Lào với mức sản lượng tiêu thụ là 8% cho năm 2009. Tuy nhiên, với
tổng mức đầu tư khá cao, từ 300 triệu USD cho một lò luyện thép công suất 500.000
tấn/ năm, được xem là vượt ngoài khả năng tài chính của phần lớn các doanh nghiệp
sản xuất thép Việt Nam.
Cuối năm 2009, thép Việt – Ý cũng đã hoàn thành dự án đầu tư xây dựng trạm
khí than thay thế đốt lò bằng dầu FO sang đốt than với tổng giá trị trên 30 tỷ đồng.
Việc dùng than thay thế dầu FO đã làm chi phí sản xuất giảm khoảng 200.000
đồng/tấn sản phẩm do chênh lệch giá nguyên vật liệu và ít bị ảnh hưởng bởi biến động
giá dầu thô trên thế giới.
4)
Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Hiện tại ngành công nghiệp thép Việt Nam có nhiều dự án đầu tư là một dấu
hiệu đáng mừng, vì điều đó chứng tỏ nhu cầu thép phục vụ cho phát triển kinh tế đất
nước hứa hẹn có mức tăng trưởng cao. Theo Bộ Công thương, hiện có hàng trăm dự án
đầu tư thép đã được cấp phép và đưa vào hoạt động.
Tuy nhiên, theo dự báo của Hiệp hội thép thì việc đầu tư tràn lan sẽ dẫn đến hậu
quả là sản xuất thép trong nước sẽ dư thừa. Các doanh nghiệp thép trong tương lai sẽ
phải cạnh tranh khốc liệt với nhau để giành thị trường trong nước. Theo số liệu thống
kê của Hiệp hội thép Việt Nam, tính đến cuối năm 2009 thì công suất thiết kế của các
nhà máy cán thép đã lên đến 11 triệu tấn/năm, trong khi tiêu thụ cả nước chỉ khoảng 5
triệu tấn/năm. Hiện tại, tổng công suất cán thép xây dựng vượt gần 2 lần công suất
M0111
Quản trị Marketing
luyện, 80% sản lượng phôi thép hiện nay được sản xuất từ thép phế liệu. Thừa công
suất sản phẩm dẫn đến việc sử dụng công suất cán thép chỉ đạt khoảng 60 - 70%.
Nhiều nhà đầu tư thép, kể cả chủ những dự án liên hợp lớn cũng không phải là những
nhà luyện kim có uy tín và kinh nghiệm trên thế giới. Điều đáng nói là một số doanh
nghiệp không chuyên về thép cũng đầu tư vào các dự án thép. Nhiều doanh nghiệp
hiệu quả đầu tư thấp, nhập khẩu các công nghệ lạc hậu, thép sản xuất dư thừa không
bán được cho ai.
5)
Cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu
Do tác động của việc gia nhập WTO, mở rộng AFTA, thời gian qua, ngành thép
Việt Nam đang đứng trước sự cạnh tranh gay gắt với sản phẩm thép nhập khẩu. Theo
lộ trình quy định của WTO thì đến năm 2010, một số sản phẩm thép sẽ không được
hưởng ưu đãi và bảo hộ cao về thuế nhập khẩu. Như vậy, lượng thép từ các nước
ASEAN, Trung Quốc và Nga sẽ nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn (ít nhất
1% với mỗi mặt hàng).
Hiện nay ngành thép Việt Nam vẫn nhập siêu. Tỷ lệ xuất khẩu không đáng kể
so với nhập khẩu. Sau sự tăng đột biến về xuất khẩu vào năm 2008 khi lượng thép xuất
khẩu đạt hơn 1,7 triệu tấn, kim ngạch hơn 1,7 tỷ USD (chủ yếu là tái xuất nguyên liệu
phôi thép và thép cán nóng) thì xuất khẩu thép của Việt Nam trong năm 2009 đã giảm
sút đáng kể cả về kim ngạch và số lượng. Riêng năm 2009, Việt Nam đã nhập khẩu
391.989 tấn thép cuộn, 359.683 tấn thép mạ màu các loại. Ba tháng đầu năm 2010, đã
có 57.000 tấn thép cuộn và 68.000 tấn thép mạ các loại được nhập về trong tổng số 1,7
triệu tấn thép thành phẩm nhập vào Việt Nam. Điều này đã tạo sức ép rất lớn lên các
doanh nghiệp khiến họ gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất.
Mặt khác, các doanh nghiệp thép cũng đang phải đối mặt với thách thức từ
lượng thép được nhập vào Việt Nam, với giá thành thấp hơn sản xuất trong nước vào
khoảng 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng/tấn, tương đương với 10-20%. Nguồn thép
này chủ yếu đến từ Trung Quốc và Asean.
Vậy, câu hỏi làm thế nào để ngành thép trong nước cạnh tranh được với thép
ngoại nhập? Tuy thép của Trung Quốc, Asean có chất lượng thấp hơn thép trong nước
nhưng giá cả lại cạnh tranh hơn, trong khi giá thép của chúng ta đắt hơn lại chưa có
thương hiệu. Nhiều chuyên gia cho rằng, nguồn vốn đầu tư trong nước không thiếu
M0111
Quản trị Marketing
nhưng chúng ta lại đầu tư phân tán, thiếu tập trung và liên kết. Dẫn đến thực trạng vốn
nhỏ nhọt ở khắp nơi, thiếu đầu tư công nghệ và xử lý môi trường.
Ngành thép Trung Quốc đi lên từ dưới 50 triệu tấn/năm lên 550 triệu tấn/năm
nhưng chính sách của Trung Quốc là không có một công ty thép nào trong nước có
vốn đầu tư nước ngoài vượt quá 30%. Điều đó chứng tỏ Trung Quốc tận dụng triệt để
nguồn vốn trong nước, quản lý chặt chẽ và tập trung.
Cho phép doanh nghiệp thép trong nước đầu tư ra nước ngoài cũng được nhiều
doanh nghiệp đồng tình. Vì vậy, ngành thép nên được phép đầu tư ra nước ngoài, như
vậy nguồn vốn xoay vòng sẽ không chảy vào thị trường bất động sản.
III.
CHIẾN LƯỢC MARKETING CỦA ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
1)
Chiến lược Marketing của VISCO
Sản phẩm của VISCO thép xây dựng bao gồm thép cuộn tròn trơn cán nóng
φ6-φ8và thép thanh vằn cán nóng đường kính từ d10 đến d40 với nhiều chủng loại
mác thép theo tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn Nhật và tiêu chuẩn Mỹ. Trên các thanh
thép vằn cán nóng có in hình logo nổi “VIS” và đường kính của sản phẩm.
Giá bán của VIS được đánh giá là khá cao trên thị trường với ưu thế về thương
hiệu cũng như thế mạnh về các loại sản phẩm thép mác cao. Các chính sách hỗ trợ bán
hàng khác không được linh hoạt như các đối thủ cạnh tranh.
Thị trường tiêu thụ của VISCO tập trung chủ yếu thị trường miền Bắc và miền
Trung với đối tượng tiêu thụ là các dự án, chủ thầu xây dựng. Với ưu thế về sản phẩm
mác cao, sản phẩm thép Việt Ý đã được lựa chọn là vật liệu chính trong các dự án
trọng điểm quốc gia: Trung tâm Hội nghị Quốc Gia, Keangnam Lanmark Tower, Viện
Bảo tàng Hà Nội, Các khu đô thị (The Manor, Ciputra, Mỹ đình, Việt Hưng, Văn
Quán, Trung Hòa Nhân Chính….), các dự án giao thông chính (Cầu Bãi Cháy, Cầu
Thanh Trì, Cầu Vĩnh Tuy, đường cao tốc Sài Gòn - Trung Lương, đường Láng Hòa
Lạc…..), tất cả các nhà máy thủy điện tại Việt Nam và một số nhà máy thủy điện tại
Lào. VISCO cũng đã cấp thép cho công trình thuỷ điện Xêkamẳn bên Lào. Kế hoạch
tiêu thụ được định hướng rõ ràng cho từng khu vực thị trường và từng đơn vị trong
Công ty:
M0111
Quản trị Marketing
-
Thị trường dự án tiếp tục đóng vai trò chủ đạo (khoảng 80%), thép Việt – Ý sẽ
tập trung đẩy mạnh công tác tiêu thụ vào các dự án xây dựng hạ tầng, đặc biệt các
công trình giao thông, công trình giao thông ngầm, đường tren cao. Đối với thị trường
dân dụng, phấn đâu tăng tỷ trọng tiêu thụ lên 20%.
-
Sản lượng tiêu thụ được giao chi tiết cho từng đơn vị bán hàng, gắn trách nhiệm
và quyền lợi của đơn vị với sản lượng được giao.
Đối với thị trường phía Nam, VISCO cũng đã thâm nhập nhưng khối lượng tiêu
thụ không nhiều do chi phí vận chuyển quá cao.
Thường xuyên cập nhật các biện pháp cụ thể để thực hiện kế hoạch tiêu thụ:
-
Khai thác triệt để lợi thế về sản phẩm thép mác cao, sản phẩm mơi SD490,
RB500 để tiếp thị vào các công trình. Quyết tâm điều phối hàng hóa hợp lý, đáp ứng
tối đa nhu cầu của khách hàng.
-
Xây dựng chính sách giá hàng loạt, ưu tiên đối với khách hàng có tình hình
công nợ tốt, thanh toán nhanh. Điều chỉnh chính sách chiết khấu hấp dẫn hơn đối với
nhà phân phối ở khu vực thị trường dân dụng.
Mạng lưới phân phối của VISCO rộng khắp các tình thành. Để hỗ trợ cho các
hoạt động tiêu thụ, VISCO đã tổ chức các hoạt động như:
+
Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với các cửa hàng đại lý bán lẻ thép VIS,
tiếp tục duy trì mối quan hệ tốt với chủ đầu tư, tư vấn. Thiết lập và tăng cường mối
quan hệ với các đơn vị trong Bộ Giao Thông, Bộ Xây Dựng và một số bộ khác để tiếp
thị bán hàng vào các dự án của các Bộ này. Đặc biệt, đối với các dự án lớn, Công ty
xây dựng kế hoạch tiếp thị riêng.
+
Cung cấp các ấn phẩm quảng cáo: hồ sơ sản phẩm, catalogue, tờ rơi, thí
nghiệm thép, phiếu giao hàng, áo bảo hộ, áo mưa, …….
+
Thực hiện các hoạt động truyền thông qua các sự kiện: tài trợ giải các sự
kiện lớn của ngành và đất nước, tham gia các hội trợ triển lãm, quảng cáo trên
truyền hình, treo biển các cửa hàng...
M0111
Quản trị Marketing
+
Tổ chức các cuộc hội thảo về vât liệu xây dựng, thường xuyên tiếp xúc
và mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu với các chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn quản
lý dự án…
+
Tiếp tục phát triển hệ thống phân phối sản phẩm, không phát triển tràn
lan theo chiều rộng mà tập trung theo chiều sâu, tránh hiện tượng cạnh tranh
thiếu lành mạnh trong chính các nhà phân phối. Phấn đấu phát triển thêm 4-5
nhà phân phối mới có đủ năng lực tài chính để tiêu thụ 400 – 600 tấn/tháng
2)
Thép Thái Nguyên (TISCO)
TISCO với Slogan là “Lớn mạnh cùng đất nước” là thương hiệu của Công ty cổ
phần Gang thép Thái Nguyên, cái nôi của ngành công nghiệp luyện kim Việt Nam.
Sản phẩm của TISCO bao gồm thép cuộn, thép thanh tròn trơn, thép thanh vằn,
thép góc chữ L, thép chữ I, thép chữ C, gang. Sản phẩm của TISCO phong phú, phù
hợp với thị trường dân dụng hơn là thị trường dự án vì lợi thế về các sản phẩm thép
mác thấp, sản phẩm mác cao là điểm yếu của TISCO.
Giá thành của TISCO khá thấp được người dân quen dùng và chấp nhận.
TISCO đã trở nên nổi tiếng trong cả nước, được sử dụng vào hầu hết các Công trình
trọng điểm Quốc gia như thuỷ điện Hoà Bình, Yaly, Sơn La, đường dây tải điện 500
KV Bắc Nam, sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, cầu Thăng Long, Chương Dương, và
nhiều công trình khác; thâm nhập vào được thị trường Quốc tế như Canada, Indonesia,
Lào, Campuchia. Hệ thống phân phối sản phẩm rộng với 5 chi nhánh đặt tại Hà Nội,
Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Đà Nẵng, văn phòng bán hàng tại TP Hồ Chí Minh
và mạng lưới các nhà phân phối tại các Tỉnh và Thành phố trong cả nước.
Tuy nhiên, nhìn chung ngành thép Thái Nguyên vẫn ở tình trạng sản xuất thiếu
bền vững, chi phí sản xuất tương đối lớn, mức tiêu hao năng lượng cao, hiệu quả sản
xuất còn thấp. Năm 2009, thương hiệu thép TISCO đã được định giá là 54 tỉ đồng
trong 1.840 tỉ đồng tổng giá trị doanh nghiệp.Theo các chuyên gia kinh tế, mặc dù 54
tỉ đồng là con số khá ấn tượng cho một thương hiệu của Việt Nam nhưng tính trên tổng
giá trị doanh nghiệp thì giá trị của một thương hiệu đã tồn tại 50 năm như thép Thái
Nguyên chỉ được xác định chưa bằng 3% giá trị doanh nghiệp là quá thấp.
3)
Thép Việt Úc (VINAUSTEEL)
M0111
Quản trị Marketing
VINAUSTEEL được thành lập vào năm 1994 theo Luật Đầu tư Nước Ngoài.
Hiện Công ty làm chủ và điều hành xưởng cán thép VINAUSTEEL tại Hải Phòng, một
trong những thành phố cảng lớn nhất tại Việt Nam.
Xưởng cán thép có công suất 180.000 tấn/ năm, với sản phẩm chính là thép cốt
bêtông cán nóng có kích cỡ từ 10mm đến 41mm. Đây là loại thép đạt các tiêu chuẩn về
chất lượng của Quốc tế và Việt Nam.
Chất lượng dịch vụ của VINAUSTEEL tạo ra sự khác biệt với các đối thủ khác.
Đội ngũ nhân viên bán hàng, dịch vụ khách hàng và tiếp thị của VINAUSTEEL được
đào tạo thuần thục bởi các chuyên gia trong mọi lĩnh vực nghiệp vụ, từ quá trình làm
quen với công việc đến việc đào tạo tại chỗ, đến các khóa huấn luyện chính quy để
hiểu được và bảo đảm thỏa mãn được mọi nhu cầu kinh doanh của khách hàng.
Chính sách giá của VINAUSTEEL được đánh giá là rất linh hoạt bao gồm giá
bán tốt, dịch vụ hoàn hảo đáp ứng đúng yêu cầu đặc thù của từng khách hàng, khiếu
nại của khách hàng được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện.
Mạng lưới bán hàng và dịch vụ của VINAUSTEEL bao trùm cả nước. Hệ
thống các đại lý của VINAUSTEEL luôn có mặt tại chỗ để giúp khách hàng đạt được
những quyết định phù hợp nhất cho công ty của mình. Dù đó là quyết định về loại thép
thích hợp cho dự án của khách hàng, phương thức giao hàng hoặc các điều kiện thanh
toán ưu đãi, nhân viên của VINAUSTEEL luôn có mặt để phục vụ.
Với phương châm “Hoàn hảo về chất lượng và dịch vụ”, VINAUSTEEL đã
không ngừng đầu tư cải tiến hệ thống quản lý và kỹ thuật công nghệ, là doanh nghiệp
đầu tiên trong ngành thép đạt hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002: 1994 năm 1998
và ISO 9001: 2000 vào năm 2001, đạt hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 năm
2002, và đạt các tiêu chuẩn về hệ thống quản lý phòng thử nghiệm, phần mềm
Solomon, hệ thống mã vạch.
VINAUSTEEL thường xuyên mời các chuyên gia quốc tế về quản trị làm cố
vấn về lãnh vực quản trị và thực hiện quy trình kiểm tra chất lượng trong dây chuyền
cán thép nhằm đảm bảo chất lượng luôn nhất quán. Phương châm của VINAUSTEEL
bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động, từ quản lý chiến lược, kế hoạch kinh doanh, phương
pháp lãnh đạo đến sự phát triển con người. Phương châm này cũng là nguyên lý nền
tảng thúc đẩy VINAUSTEEL không ngừng hoàn thiện trong việc cung cấp dịch vụ
M0111
Quản trị Marketing
trước và sau bán hàng, trong công nghệ sản xuất tiên tiến, trong chất lượng sản phẩm
và cả trong giao hàng đúng hạn. Nói cách khác, đây là phương châm được
VINAUSTEEL áp dụng trong mọi việc làm.
Từ năm 1999 trở lại đây, VINAUSTEEL luôn luôn ở tốp dẫn đầu với tốc độ
tăng trưởng với mức tăng bình quân với sản xuất tăng 16%, tiêu thụ tăng 27%, nộp
ngân sách tăng 52%. Đời sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện.
Công ty Liên doanh Thép Việt-Úc đang từng bước khẳng định vị thế của mình
trên thị trường, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
4)
Thép Pomina
Công ty Thép Pomina được thành lập năm 1999 tại Bình Dương, chuyên sản
xuất sắt thép với công suất 300.000 tấn/năm. Năm 2004, nhà máy 2 của công ty ra đời,
công suất nâng lên gấp đôi 600.000 tấn/năm, nâng tổng số vốn đầu tư lên hơn 1.000 tỷ
đồng.
Với dây chuyền công nghệ cán thép hàng đầu Vai-Pomini và Simac của Italy,
Pomina sản xuất các loại sản phẩm thép cuộn, thép trơn và đặc biệt là thép thanh vằn
với các mác thép: SD390, SD490, Gr60 có đóng hình quả táo nổi, logo của công ty và
dấu nổi mác thép trên từng mét sản phẩm. Bên cạnh các sản phẩm chiến lược này,
công ty còn đa dạng hóa sản phẩm với các loại thép hình: thép góc, thép dẹp, thép U, I,
V... Tất cả các loại sản phẩm của công ty luôn đạt tiêu chuẩn mang tính chuẩn mực của
Nhật Bản (JIS), Hoa Kỳ (ASTM), Việt Nam (ASTM) về giới hạn chảy, giới hạn đứt,
độ dãn dài, khả năng uốn... Pomina là nhà máy đầu tiên ở khu vực phía Nam đạt 2
chứng chỉ chứng nhận chất lượng và môi trường ISO 9001, ISO 14001.
Với chất lượng sản phẩm luôn ổn định, kèm theo chính sách giá phù hợp và
các chính sách chăm sóc khách hàng tận tình, chu đáo, hiệu quả kinh tế của Pomina
không ngừng tăng cao.
Ngoài việc tiêu thụ sản phẩm mạnh trong nước, từ một hội chợ triển lãm tại
Campuchia vào năm 2003, Pomina còn xuất khẩu sản phẩm qua nước bạn
Campuchia. Và chất lượng sản phẩm của Pomina đã dần chinh phục được người dân
của xứ sở chùa Tháp. Sản lượng xuất khẩu tăng nhanh, năm sau tăng gấp đôi, gấp ba
M0111
Quản trị Marketing
năm trước. Năm 2006, doanh số xuất khẩu sang Campuchia là 20 triệu USD. Hiện
Pomina đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường ở đây. Và đâu chỉ dừng chân ở Campuchia,
với việc nâng cao sản lượng bằng đầu tư xây dựng nhà máy mới, để đáp ứng nhu cầu
xây dựng đang bùng phát mạnh mẽ.
Chỉ sau hơn 10 năm, Pomina đã khẳng định thương hiệu, duy trì tốc độ phát
triển thị phần rất cao tại thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Với ngành
công nghiệp sản xuất thép, đây là một sự bứt phá trong phát triển và mở rộng quy mô
hoạt động.
IV.
KẾT LUẬN
Mặc dù tăng trưởng với mức khá trong những năm qua và có nhiều triển vọng
trong những năm tới từ quá trình phát triển chung của đất nước nhưng ngành thép Việt
Nam cũng sẽ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn như đã phân tích ở trên. Đó là
những khó khăn xuất phát từ quá trình hội nhập, từ những chính sách phát triển chưa
đúng quy hoạch, từ quy luật khan hiếm nguồn nguyên liệu...
Xác định được những tác động tiêu cực và tích cực của môi trường ngành cũng
như vị trí của doanh nghiệp để xây dựng chiến lược phát triển của doanh nghiệp là một
bài toán khó đối với lãnh đạo doanh nghiệp.
V.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Quản trị Marketing
2. Các bản tin nội bộ của Hiệp hội thép Việt Nam (VSA)
3. Các bản tìn tại các website: vietbao.vn, www.tisco.com.vn, www.pomina-
steel.com, vinausteel.com.vn, www.satthep.com.vn, www.vinametal.com
4. Các báo cáo nội bộ của VISCO năm 2008, 2009, 2010, 2011
M0111