Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tình hình lạm phát của Việt Nam trong năm 2010 – 2014? Nguyên nhân và biện pháp khắc phục lạm phát ở Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.18 KB, 39 trang )

BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

LỜI MỞ ĐẦU
Trong đời sống hằng ngày, lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ
mô, nó trở thành mối quan tâm lớn của các nhà chính trị và công chúng. Lạm phát
giờ đây đã trở thành vấn đề toàn cầu chứ không phải là vấn đề riêng của Việt
Nam. Các quốc gia trên thế giới đều gặp rủi ro lạm phát ở những mức độ khác
nhau và đang dùng nhiều bài thuốc khác nhau để chống lại lạm phát. Lạm phát
như 1 căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là 2 vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi
mỗi quốc gia phải có sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn
đạt kết quả tốt. Kiểm soát lạm phát là nhịêm vụ hàng đầu của chính phủ .
Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên đến mức báo động là 2 con số,
vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Diễn biến
phức tạp của lạm phát đang tác động đến đời sống thường ngày của người dân,
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cũng như gây khó
khăn đối với kinh tế vĩ mô. Đây cũng là một vấn đề trọng tâm mà Chính phủ
đang tâm trung theo dõi, nghiên cứu để tiếp tục thực hiện các giải pháp điều
hành. Để có thể nhận định và đưa ra những chính sách kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô hợp lý và hiệu quả, cần phải phân tích, nghiên cứu thật rõ
Tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây ra sao? Các nguyên
nân gây nên lạm phát và các biện pháp khắc phục lạm phát ở Việt Nam?
Qua bộ môn kinh tế vĩ mô, tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích đề tài
“Tình hình lạm phát của Việt Nam trong năm 2010 – 2014? Nguyên nhân và
biện pháp khắc phục lạm phát ở Việt Nam” nhằm phục vụ cho việc học tập,
chia sẽ thông tin, đưa ra những quan điểm của em đến với mọi người.
Em xin trân thành cảm ơn!

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn



Page 1


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG
1.1 Giới thiệu chung về kinh tế học
Kinh tế học được định nghĩa là môn học nghiên cứu cách thức chọn lựa
của xã hội trong việc sử dụng nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra sản
phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Kinh tế học là một “khoa học về sự lựa chọn”?
a, Sản xuất ra cái gì và sản xuất bao nhiêu?
Xuất phá từ: nguồn tài nguyên là có hạn >< nhu cầu của con người là vô hạn
b, Sản xuất như thế nào?
Nguồn tài nguyên có hạn, sản xuất thế nào để mang lại hiệu quả cao
c, Sản xuất cho ai hay phân phối như thế nào?
Việc phân phối có liên quan hết sức mật thiết đến thu nhập sở thích.
1.2. Kinh tế học vĩ mô
Kinh tế vĩ mô nghiên cứu hoạt động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và
quan tâm đến những vấn đề mà bất cứ quốc gia nào trong cơ chế thị trường đều
gặp phải, đó là: Làm thế nào để tăng trưởng nhanh và ổn định; Làm thế nào để
kiềm chế lạm phát; Làm thế nào để tạo ra nhiều việc làm cho người lao động;
Làm thế nào để ổn định tỷ giá hối đoái và cân bằng cán cân thanh toán; làm thế
nào để phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và phân phối của cải một cách công
bằng giữa các thành viên trong xã hội.
Đối tượng nghiên cứu của Kinh tế học vĩ mô.

Kinh tế vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học nghiên cứu sự vận động
và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao
gồm: mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá cả chung và cán cân thương mại của
một nền kinh tế. Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải đáp câu hỏi: Điều gì

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 2


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quyết định sự thay đổi
của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn?
Nói cách khác, kinh tế vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của một quốc gia
trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát,
thất nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hóa và tư bản, sự phân phối nguồn lực và phân
phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tùy thuộc vào các ràng
buộc về nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song sự lựa chọn đúng
đắn nào cũng cần đến sự hiểu biết sâu sắc về các hoạt động mang tính khách
quan về hệ thống kinh tế.
Phương pháp nghiên cứu.
Kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng
thể. Theo phương pháp này, kinh tế vĩ mô xem xét sự cân bằng đồng thời của tất

cả các thị trường (thị trường hàng hóa, thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường
tài chính), xem xét đồng thời khả năng cung cấp sản lượng của toàn bộ nền kinh
tế, khả năng tiêu dùng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời mức giá
cả và sản lượng cân bằng của nền kinh tế. Đây là nhân tố quyết định đến hiệu
quả của hệ thống kinh tế.
Thực chất, việc khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian
khác nhau hiện tại, ngắn hạn, dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta
phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định đến các
biến số kinh tế vĩ mô này. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và
công cụ phân tích kinh tế thích hợp. Những kiến thức và công cụ phân tích này
đã được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học kinh tế
thuộc nhiều thế hệ khác nhau.
Ngoài ra, kinh tế vĩ mô còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân
tích phổ biến như tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình toán và

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 3


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

đặc biệt là các mô hình kinh tế lượng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong
phân tích kinh tế vĩ mô.
1.3. Cơ sở lý luận chung về lạm phát
1.3.1 Các khái niệm
Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.

Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua
của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá
tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa
đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh
tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một
loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay
một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định giá cả".
Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên
tục. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với tỷ lệ mang giá trị âm. Giảm phát
thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn.
Giảm lạm phát là sự sụt giảm của tỷ lệ lạm phát. Nghĩa là mức giá chung
vẫn tăng lên nhưng với mức độ thấp hơn trước, tức là tốc độ tăng giá trở nên
chậm lại.
1.3.2 Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
1.3.2.1. Xét về mặt định luợng
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm ,người ta chia lạm
phát ra thành:
Lạm phát vừa phải: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 0.3 đến
dưới 10% một năm. Đây mà mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được,với
mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể.

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 4


BÀI TẬP LỚN
3


Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Lạm phát cao (Lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng
giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi
mã.
Siêu lạm phát: Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng
giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Là loại lạm phát trên bốn số, tức
tỷ lệ lạm phát lên đến hàng ngàn phần trăm.
1.3.2.2. Xét về mặt định luợng
+ Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng;
- Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy loại lạm
phát này không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động
- Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứngvới thu
nhập trên thực tế lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
+ Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
- Lạm phát dự đoán trước: đây là loại lạm phát xảy ra trong một thời gian
tương đối dài với tỷ lệ lạm phát tăng hàng năm khá đều đặn và ổn định. Do vậy
người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo. Về
mặt tâm lý, người dân đã quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có
những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này.
- Lạm phát bất thường: Là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó
chưa từng xuất hiện. Do vậy tâm lý, cuộc sống và thói quen của người dân đều
chưa thích ứng được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế
và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền.
1.3.3 Nguyên nhân lạm phát
1.3.3.1. Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn
dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ ADAS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho
mức giá và sản lượng cùng tăng. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn


Page 5


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới
cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
1.3.3.2. Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một
mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá
cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt
hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng
cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
1.3.3.3. Lạm phát do chi phí đẩy
Hay lạm phát do cung xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng, hoặc khi năng
lực sản xuất của quốc gia giảm sút.
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, giá nguyên liệu, thuế,… thì chi phí sản
xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của
mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng
tăng.
1.3.3.4. Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao
động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công
cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành
kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều
đó.

1.3.3.5. Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm
được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong
nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung
và tổng cầu mất cân bằng.
1.3.3.6. Lạm phát do nhập khẩu

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 6


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá
nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC
quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản
phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá
nhập khẩu đội lên.
1.3.3.7. Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để
giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do
ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho
lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. Lạm phát
loại này nguyên nhân là do lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều, vượt quá
mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị của nền kinh tế
. Có thể do ngân hàng trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn trong nền kinh tế

bằng các nghiệp vụ thị trường mở hay chính sách tiền tệ lới lỏng. Khi lượng tiền
lưu thông quá lớn, ví dụ trong tay bạn có nhiều hơn 100 triệu..., thì sự tiêu dùng
theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. Áp lực cung hạn chế dẫn tới tăng giá trên thị
trường, và do đó sức ép lạm phát tăng lên.
1.3.3.8. Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ,
giá tăng lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền không ổn định thì
giá cả sẽ tăng cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở
nên cao hơn tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên
vậy là gây ra lạm phát.
Trên lý thuyết thì như vậy, còn trên thực tế thì thế nào? Nguyên nhân lạm
phát có đơn giản là do cầu kéo, chi phí đẩy … hay không? Hay còn nhiều
nguyên nhân khác hoặc là sự hỗn hợp của nhiều nguyên nhân với nhau? Hãy
cùng tôi nhìn lại lạm phát 2010 - 2014 để cùng phân tích về gốc rễ, về nguyên

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 7


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

nhân lạm phát. Để có thể đưa ra chính sách, biện pháp tốt nhất điều khiển kinh tế
vĩ mô của Việt Nam hiện nay.

CHƯƠNG 2:
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VIỆT NAM 2010 – 2014, NGUYÊN NHÂN

GÂY LẠM PHÁT VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
2.1. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 - 2014
2.1.1. Tình hình lạm phát trong năm 2010
Năm 2010, lạm phát cả nước ở mức 11,75%: Chỉ số tiêu dùng (CPI)
tháng 12/2010 của cả nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát năm của cả
nước 2010 lên 11,75% so với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu
được Quốc hội đề ra hồi đầu năm (khoảng 8%).
Trong khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng (cách tính mới của Tổng
cục thống kê) thì lạm phát năm 2010 tăng 9.19% so với năm 2009.

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 8


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Biểu : Chỉ số giá tiêu dùng năm 2010 ( nguồn: Tổng cục thống kê)

Ta có thể thấy lạm phát tăng cao trong các tháng đầu năm và cuối năm,
mức tăng có độ vênh lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến
hơn 1,5%. 3 tháng đầu năm CPI tăng cao nhưng ngay sau đó có liền 5 tháng tăng
thấp về gần mức 0%, sau đó lại vượt lên trên 1% vào 4 tháng còn lại của năm.
Các tháng từ tháng 9 đến tháng 11, mức tăng đều đạt mức kỉ lục của 15 năm trở
lại đây.
Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là
hàng ăn (16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành Giao thông,

hàng hóa & dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn
thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Chỉ số
giá vàng tăng 36,72%, chỉ giá USD tăng 7,63%.Về CPI của các vùng miền, đáng
chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%; cao hơn 1,87% của
khu vực thành thị.
2.1.2. Tình hình lạm phát trong năm 2011
Chỉ số giá tiêu dùng khẳng định xu hướng tăng nhẹ trong quý IV khi công
thêm 0,53% trong tháng 12. Tính chung trong cả năm 2011, lạm phát cả nước
đạt 18,58%.
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 9


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Tổng cục Thống kê vừa công bố số liệu chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả
nước trong tháng 12 và cả năm 2011. Theo đó, CPI trong tháng cuối năm tăng
0,53%, cao hơn 2 tháng trước đó. Con số này đưa chỉ số giá tiêu dùng tháng
12/2011 tăng cao hơn 18,13% so với cùng kỳ 2010. Tuy nhiên, tính chung trong
cả năm 2011, mặt bằng giá đã tăng 18,58% so với 2010.

Biểu: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2011. Số liệu: GSO

Trong rổ hàng hóa, lương thực là phân nhóm có tốc độ tăng giá mạnh nhất
trong tháng 12 khi tăng 1,4%. Giá thực phẩm cũng tăng trở lại 0,49% sau 3
tháng giảm liên tiếp. Cùng với khu vực ăn uống ngoài gia đình (0,57%), 2 nhóm

này đẩy chỉ số của hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,69% và đóng góp chủ yếu
vào đà tăng của CPI.
Tăng giá mạnh nhất trong tháng là các mặt hàng may mặc - mũ nón - giầy
dép (0,86%) chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ tại miền Bắc vào mùa đông. Các mặt
hàng khác như nhà ở - vật liệu xây dựng (tăng 0,51%), thiết bị - đồ dùng gia
đình (0,68%) và hàng hóa - dịch vụ khác (0,6%) cũng tăng giá tương đối mạnh
theo quy luật tiêu dùng cuối năm.

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 10


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Ở hầu hết các nhóm hàng còn lại, mức tăng giá trong tháng đều dưới 0,5%
do chưa chịu tác động của đợt tăng giá điện mới đây. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm giá gần 0,1%.
2.1.3. Tình hình lạm phát trong năm 2012
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12
năm nay tăng 0,27% so với tháng 11 và tăng 6,81% so với tháng 12/2011. CPI
bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân năm 2011.

Biểu: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2012. Số liệu: GSO

Tháng 12 so với tháng 11, nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng mạnh
nhất, tới 1,17%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng cao hơn mức tăng
chung nhưng cũng đều dưới 1% là thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,59%, văn

hóa, giải trí và du lịch tăng 0,34%, đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%.
Nhóm có tỷ trọng lớn nhất trong “rổ” hàng hóa tính CPI là hàng ăn và
dịch vụ ăn uống chỉ tăng khiêm tốn là 0,28% (Lương thực tăng 0,13%; thực
phẩm tăng 0,28%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,4%).
Những nhóm hàng “nhạy cảm”, vốn tác động mạnh tới CPI trong nhiều
tháng trước thì ở tháng này, lại tăng thấp hơn cả mức tăng chung. Đó là nhà ở và
vật liệu xây dựng chỉ tăng 0,15%, nhóm giáo dục tăng 0,09% trong đó, dịch vụ
giáo dục tăng 0,05%, nhóm giao thông giảm 0,43%...
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 11


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Sau 2 tháng liên tiếp tăng kỷ lục tới 10-20%, Chính phủ yêu cầu giãn thời
gian tăng giá viện phí thì các thuốc và dịch vụ y tế chỉ còn tăng 0,14%, trong đó,
dịch vụ y tế tăng 0,03%.
Nhìn lại năm 2012, Tổng cục Thống kê đánh giá, lạm phát năm nay chỉ
“nhỉnh” hơn mức tăng 6,52% của năm 2009 – năm suy giảm kinh tế mạnh và
thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của
năm 2011.
Dù cách xa so với mục tiêu CPI đề ra ban đầu thì năm 2012 vẫn là năm
giá có nhiều biến động bất thường.
Cơ quan này phân tích, CPI tăng không quá cao vào hai tháng đầu năm
(tăng 1,0% vào tháng 1 và tăng 1,37% vào tháng 2) nhưng tăng cao nhất vào
tháng 9 với mức tăng 2,20%. Đây là tháng chịu tác động chủ yếu của nhóm

thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục.
Sau đó, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm dần trong những tháng
cuối năm. Trong năm, có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1% và hầu hết các tháng
chỉ tăng dưới 0,5%. Một điều khác thường nữa của thị trường giá cả trong nước
năm nay là CPI không giảm vào sau Tết âm lịch mà giảm vào hai tháng giữa
năm (Tháng 6 và tháng 7).
Chỉ số giá vàng tháng 12/2012 tăng 0,46% so với tháng trước; tăng 0,4%
so với tháng 12/2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2012 tăng 0,03% so với
tháng trước; giảm 0,96% so với tháng 12/2011.
2.1.4. Tình hình lạm phát trong năm 2013
Tổng cục Thống kê (TCTK) vừa công bố Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
12/2013 và cả năm 2013, theo đó, CPI tháng qua tăng chỉ 0,51%. Như vậy, cộng
dồn các tháng, CPI cả nước năm 2013 chỉ tăng 6,04%.
Mức tăng 6,04% của giá cả năm nay cũng được ghi nhận là thấp nhất
trong vòng 10 năm trở lại đây (Năm 2004 tăng: 9,5%; năm 2005: 8,4%; năm

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 12


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

2006: 6,6%; năm 2007: 12,63%; năm 2008: 19,89%; năm 2009: 6,52%; năm
2010: 11,75%; năm 2011: 18,13%; năm 2012: 6,81%; năm 2013: 6,04%).
TCTK phân tích CPI năm nay tăng cao vào quý I và quý III với mức tăng
bình quân tháng là 0,8%; quý II và quý IV, CPI tương đối ổn định và tăng ở mức

thấp với mức tăng bình quân tháng là 0,4%.
Theo TCTK, trong tháng 12-2013, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng lại là
nhóm có chỉ số giá tăng cao nhất với mức tăng 2,31%; may mặc, mũ nón, giày
dép tăng 0,57%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,49% (Lương thực tăng
1,22%; thực phẩm tăng 0,38%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,17%); văn hóa,
giải trí và du lịch tăng 0,13%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08% (Dịch vụ y tế
tăng 0,02%); giáo dục tăng 0,02%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ
số giá giảm (không đáng kể) gồm: Giao thông giảm 0,23%; bưu chính viễn
thông giảm 0,01%.
Theo TCTK, CPI năm nay tăng do một số nguyên nhân chủ yếu: Giá một
số mặt hàng và dịch vụ do Nhà nước quản lý được điều chỉnh theo kế hoạch và
theo cơ chế thị trường. Cụ thể, trong năm có 17 tỉnh, thành phố điều chỉnh giá
dịch vụ y tế làm cho CPI của nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng tới 18,97% so với
tháng 12 năm trước, đóng góp vào chỉ số chung cả nước gần 1,1%. Các địa
phương cũng tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí làm làm CPI nhóm giáo dục
tăng 11,71%, đóng góp vào chỉ số chung cả nước tăng khoảng gần 0,7%. Giá
xăng dầu dù được điều chỉnh tăng và giảm nhưng tựu chung lại vẫn tăng và cả
năm thực tế đã tăng giá 2,18%, góp tăng CPI chung cả nước 0,08%. Giá điện
năm qua thực tế đã được điều chỉnh tăng 10%, đẩy CPI chung tăng khoảng
0,25%. Bên cạnh đó, giá gas cả năm tăng gần 5%, đóng góp vào CPI cả nước
với mức tăng 0,08%...
Bên cạnh đó, TCTK cho rằng còn có các lý do khiến CPI tăng như: nhu cầu
hàng hóa tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng cho sản xuất tăng vào dịp cuối năm;
Ảnh hưởng của thiên tai, mưa bão...
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 13


BÀI TẬP LỚN

3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Biểu: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2013. Số liệu: GSO

2.1.5. Tình hình lạm phát trong năm 2014
Tổng cục Thống kê vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam
trong tháng 12/2014 đã tiếp tục giảm 0,24% so với tháng trước, qua đó CPI kết
thúc cả năm với mức tăng chỉ 1,84% - thấp nhất trong 13 năm qua.

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 14


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Biểu: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2014. Số liệu: GSO

Tính từ 1998 trở lại đây, việc CPI giảm ở tháng cuối năm mới chỉ xảy ra ở
2014 và 2008 - năm mà kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng nặng nề của
khủng hoảng kinh tế thế giới (xét dãy số liệu từ năm 1998, năm Việt Nam chính
thức tính toán CPI theo chuẩn quốc tế).
Như vậy, việc CPI năm nay tăng thấp kỷ lục đã lại phá vỡ "quy luật" tăng
ở tháng cuối năm.
So với các năm gần đây, ngoài các tác động từ diễn biến cung cầu của thị

trường, CPI năm nay tăng thấp còn nhờ vào tác động ít hơn từ các nhóm hàng do
nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế.
Năm 2014 chỉ còn 4 tỉnh điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo Thông tư
04/2012/TTLT-BYT-BTC và năm 2014 cũng là năm cuối của chu kỳ điều chỉnh
giá dịch vụ giáo dục theo Nghị định 49/2010/NĐ-CP nên mức độ điều chỉnh
thấp hơn nhiều so với những năm trước.
Tính chung cả năm 2014, chỉ số giá nhóm dịch vụ y tế và nhóm dịch vụ
giáo dục tăng lần lượt là 2,2% và 8,96% so với tháng 12 năm trước, thấp hơn
nhiều so với mức tăng 23,51% và 12,82% của năm 2013.

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 15


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

CPI tháng 12 năm nay giảm so với tháng trước chủ yếu do tác động của
các đợt giảm giá xăng dầu liên tiếp trong thời gian qua.
Ngoài tác động trực tiếp của xăng dầu trong CPI, cước vận tải bằng các
phương tiện như xe khách và taxi đã bắt đầu giảm theo khiến chỉ số giá nhóm
giao thông giảm 3,09%, mức giảm mạnh nhất trong tháng.
Xét cả năm 2014, đây cũng là nhóm có mức giảm mạnh nhất trong 11
nhóm hàng chính tính chỉ số giá với mức giảm 5,57% so với tháng 12 năm 2013.
Tác động của các đợt giảm giá xăng dầu còn thể hiện qua mức giảm của
nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng, điện, nước và chất đốt với mức giảm 0,99% so
với tháng trước.

Giá dầu thô thế giới đang lao dốc không chỉ khiến giá xăng dầu các loại
giảm mà còn khiến giá các sản phẩm chiết xuất từ dầu mỏ giảm theo. Giá gas
bán lẻ trong nước tiếp tục được điều chỉnh từ ngày 1/12/2014 khoảng 13 nghìn
về mức khoảng 330 nghìn/ bình 12 kg.
Ngoài ra, giá dầu hỏa giảm gần đây cũng tác động không nhỏ đến chỉ số
chung của nhóm trong khi các mặt hàng vật liệu xây dựng cơ bản không tăng giá
do đang không phải mùa xây dựng.
Đây cũng là hai nhóm duy nhất giảm giá trong tháng.
Ở phía còn lại, các mặt hàng tăng giá, xét về mức tăng, đáng chú ý nhất là
nhóm bưu chính viễn thông với mức tăng 0,8% so với tháng trước. Sau 4 năm
chỉ dao động không quá 0,2% thì trong tháng này, nhóm đã tăng mạnh mẽ nhất
kể từ năm 2008. Tuy nhiên, với quyền số nhỏ, ảnh hưởng của mức tăng này lên
chỉ số chung không nhiều.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã tăng trở lại ở mức 0,08% so với
tháng trước trong đó nhóm lương thực tăng 0,14%, thực phẩm tăng 0,05% và ăn
uống ngoài gia đình tăng 0,07% so với tháng trước.

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 16


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Theo đánh giá, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng thấp trong tháng
cuối năm cũng nhờ một phần vào việc giá xăng dầu giảm mạnh khiến chi phí
vận chuyển nhất là những mặt hàng tươi sống giảm đi.

Các nhóm hàng còn lại tăng nhẹ dưới 0,5% so với tháng trước.

2.2. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 2010 - 2014
2.2.1 Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao bằng mọi giá.
Ngày 08/11/2010 chính phủ đặt ra những chỉ tiêu phát triển không thực tế:
7%-7.5% mỗi năm trong 5 năm tới và 7%-8% trong 2011-2020. Trong khi đó,
kinh tế Việt Nam trải qua nạn lạm phát 11.75% vào năm 2010 cao hơn tất cả
những nước láng giềng. Nhà nước không thể nhắm vào mức phát triển kinh tế
cao trong khi cần phải chế ngự nạn lạm phát. Để đạt được mục tiêu phát triển,
chính phủ gia tăng chương trình đầu tư công qua các doanh nghiệp nhà nước và
hậu quả là làm tăng mức cầu về tín dụng. Do đó có thể nói rằng lạm phát hiện
nay phần lớn do sức cầu kéo và mãi đến ngày 18/10/2011 tại nghị quyết
10/2011/QH13, Chính phủ đề xuất giảm xuống còn 6-6.5% để ưu tiên ổn định
kinh tế vĩ mô.
2.2.2 Do tính quy luật về quan hệ cung cầu hàng hóa theo mùa trong năm
Nhìn vào diễn biến chỉ số CPI giữa các tháng trong năm 2010 –
2014( hình ở trên) cho thấy, chỉ số CPI tăng cao chủ yếu vào đầu năm và cuối
năm, tập trung là vào dịp trước và sau Tết Dương lịch cũng như Tết Nguyên
đán. Đây là khoảng thời gian cầu tăng mạnh do tiêu dùng cuối năm, dịp Tết,
nhưng cung hạn chế do thời tiết, do mùa vụ của sản xuất và một số yếu tố khác.
Tháng 12/ 2010 chỉ số CPI tăng cao nhất, tới gần 2%. Tháng 2, 3, 4 năm 2011
đều có mức tăng rất cao từ 2% - 3,32%...

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 17


BÀI TẬP LỚN
3


Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

2.2.3 Do chính sách xã hội hoá học tập và giá một số mặt hàng do nhà
nước quản lý định hướng giá sang cơ chế thị trường.
- Chính phủ cho phép điều chỉnh mức thu học phí từ tháng 9 và tháng 102010. Bước vào năm học mới, nhu cầu mua sắm đồ dùng học tập cùng với việc
thực hiện lộ trình xã hội hóa về học phí, phần lớn UBND các tỉnh đã điều chỉnh
tăng học phí lên mức khá cao, dẫn đến chỉ số giá của nhóm giáo dục tăng mang
tính đột biến. Năm 2010, đồ dùng học tập, học phí... là nhóm hàng tăng giá cao
nhất với mức tăng 19,38%...
- Việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ
như:
Điều chỉnh tăng giá điện từ ngày 1-3-2010;
Tăng giá nước sinh hoạt;
Xăng dầu: thực hiện ba lần điều chỉnh tăng giá trong năm 2010. Tăng đột
biến từ 16.400đ lên 19.300đ và lên 21.300đ trong năm 2011.
Tăng giá bán than.
Tăng mức lương cơ bản.
Cụ thể như sau:
Theo Nghị Quyết số 11/NQ-CP ban hành ngày 24/2/2011, nhà nước cho
phép gia tăng giá xăng dầu trong nước cho phù hợp với giá xăng dầu thế giới và
giá điện trong nước theo cơ chế thị trường. Tăng giá điện và xăng ảnh hưởng
đến tất cả mọi lãnh vực kinh tế và trực tiếp làm nạn lạm phát trầm trọng thêm.
Đây là một hiện tượng chi phí đẩy.

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 18



BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Biểu đồ giá xăng RON 92 từ đầu năm 2011 đến nay. Sau điều chỉnh, giá xăng RON 92
chiều nay còn 17.871 đồng một lít. (nguồn: Internet)

Việc tăng giá xăng là một việc không tránh được vì giá xăng dầu trên thế
giới tăng và Việt Nam là một nước nhập cảng xăng dầu nhiều hơn gấp bội lượng
xăng dầu xuất khẩu. Việc điều chỉnh giá xăng dầu được quy định theo Nghị
Định 84/2009 của nhà nước về kinh doanh xăng dầu. Theo nghị định này giá cơ
sở được tính theo công thức sau đây:
Giá CIF (bao gồm giá xăng dầu thế giới, phí bảo hiểm và chi phí vận
chuyển đến Việt Nam) + Thuế, phí + Chi phí kinh doanh định mức (600
đồng/lít) + Lợi nhuận định mức (300 đồng/lít) + Mức trích quỹ bình ổn giá (300
đồng/lít). Tuy nhiên, công thức này không áp dụng mạnh mẽ trong thời gian qua
cho đến gần đây. Vì ngân sách quốc gia thiếu hụt nghiêm trọng cộng thêm kinh
tế bất ổn nói chung mà nhà nước đã có quyết định không hợp thời là tăng giá
xăng liên tục.
Điện ở Việt Nam cũng được chính phủ bao cấp lâu nay. Giá thành cao hơn
giá bán. Giá điện trung bình tại Việt Nam hiện nay là 5.2 cent / kWh (tính theo
USD), chỉ bằng một nửa so với giá điện của các nước trong khu vực. Chi phí sản
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 19


BÀI TẬP LỚN
3


Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

xuất ra 1kWh điện trung bình từ 7 đến 12 cent. Việc hủy bỏ bao cấp là cần thiết
và nhà nước đã cho phép; EVN đã có dự thảo về phương án điều chỉnh giá điện
trong thời gian tới với tỷ lệ tăng tới 9,5% so với giá bình quân hiện nay. Xét về
giá trị tuyệt đối, giá điện bình quân mới dự kiến sẽ là 1.652,19 đồng/kWh, tăng
thêm 146,34 đồng/kWh so với hiện nay. Kể từ khi giá điện bắt đầu lộ trình thị
trường hoá năm 2007, đến nay, giá điện đã trải qua 9 lần tăng giá. Trong đó, 4
lần tăng liên tiếp trong 2 năm qua đều chỉ ở mức 5% mỗi lần tăng. Mức tăng cao
vọt gây bất ngờ lớn nhất là tăng tới 15,28% vào ngày 15/3/2011, tương đương
mức chênh lệch 162 đồng/kWh.
Từ năm 2011, mức lương tối thiểu mới thống nhất giữa doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) được lấy từ năm 2007 - 2013 cho thấy, từ 2012, tiền lương đã cao hơn tốc
độ tăng giá.

Nguồn: Bộ Lao động, thương binh và xã hội - BizLIVE

Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 20


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

Biểu: 9 lần thời điểm tăng giá bán điện của EVN (nguồn Internet )


2.2.4. Do thiên tai, dịch bệnh

Lúa ở miền Bắc bị sâu bệnh đặc biệt là bệnh rầy. Tiếp đến là vụ Đông ở
miền Bắc bị khô hạn nặng, rét đậm kéo dài. Miền Trung và Tây Nguyên bị bão
lụt gây thiệt hại nặng nề nhất từ hàng chục năm qua, mùa màng vừa bị thiệt hại,
thức ăn và vật tư nông nghiệp, máy móc thiết bị nông nghiệp bị mất hay hư
hỏng. Dịch cúm gia cầm, bệnh dịch lở mồm long móng…
Giá điện, phân bón, thức ăn chăn nuôi, xăng dầu, lãi suất vốn vay và chi
phí vốn vay tăng, chi phí đầu vào tăng. Trong năm 2010, giá bán lẻ thức ăn chăn
nuôi đã tăng tới 14 lần, riêng từ 15/9/2010 đến cuối tháng 12/2010 tăng tới 9 lần.
Giá thức ăn chăn nuôi tháng 1/2010 còn ở mức 187.500 đồng/bao loại 25 kg,
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 21


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

đến tháng 12/2010 đã tăng lên 264.000 đồng/kg. Giá đầu vào của thức ăn chăn
nuôi tăng dẫn đến giá thành sản phẩm từ chăn nuôi tăng theo, thêm vào đó chăn
nuôi bị dịch bệnh, bị thua lỗ, quy mô chăn nuôi bị thu hẹp, nguồn cung ra thị
trường bị hạn chế..., càng làm cho giá tăng lên. Cũng do chi phí đầu vào tăng
cao và hạn hán nặng, rét đậm kéo dài ở phía Bắc, nên nhiều vùng trồng rau màu
ven các đô thị lớn thu hẹp diện tích gieo trồng, nguồn cung giảm.

2.2.5 Do tác động của giá cả trên thị trường thế giới

Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia
đã lâm vào cảnh nợ công tăng cao và thất nghiệp gia tăng, nhiều năm liền đã sử
dụng chính sách tiền tệ nới lỏng để kích hoạt cho nền kinh tế. Đặc biệt với nền
kinh tế lớn nhất thế giới, khi Chính phủ Mỹ liên tục đổ tiền ra, cùng với chính
sách hạ thấp lãi suất cơ bản xuống còn 0,25%/năm thì giá trị đồng đô la cũng
liên tục “rơi” mạnh xuống so với các đồng tiền mạnh khác - một biểu hiện cụ thể
của cuộc chiến tiền tệ, gây hiệu ứng đến toàn cầu và tạo áp lực tăng giá vàng,
bạc, hàng hoá tiêu dùng khác tính bằng đồng đô la Mỹ. Áp lực lạm phát do đó
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 22


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

lại gia tăng, nhất là với đồng đô la Mỹ, cứ 3 đồng đưa vào lưu thông thì có tới
gần 2 đồng lưu thông ở ngoài lãnh thổ Mỹ. Nếu tiếp tục tăng nhập khẩu từ
những nền kinh tế có đồng tiền giảm giá thì nhiều quốc gia, trong đó có Việt
Nam lại phải “nhập khẩu lạm phát” và/hoặc gây ách tắc cho xuất khẩu đất nước.
Thiên tai xảy ra nặng nề tại nhiều nước, nhất là trong khu vực như Trung
Quốc, Pakistan, Thái Lan, Ấn Độ..., cộng với tình hình thời tiết khắc nghiệt tại
nhiều quốc gia khác làm cho sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại nghiêm trọng, dẫn
đến lượng cung cầu nhiều mặt hàng nông sản thực phẩm mất cân đối, cung
giảm, cầu tăng. Giá thế giới tăng, giá xuất khẩu các mặt hàng tương ứng của
Việt Nam tăng và giá thu mua trong thị trường nội địa cũng tăng.
Bình quân 8 tháng năm 2011, giá cả hàng hóa chung thế giới đã tăng
32,88% so với cùng kỳ năm 2010, cao hơn mức tăng của năm 2010 và 2009,

trong khi cán cân thương mại thâm hụt ở mức lớn và lạm phát các quốc gia có
thương mại lớn với Việt Nam đang gia tăng như lạm phát tháng 8-2011 của
Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, EU là 6,2%, 5,3%, 3,8% và 2,9% cao hơn nhiều so
với mức 3,5%, 2,6%, 1,1% và 2,0% của tháng 8-2010.
Giá nông sản, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc trừ
sâu, hóa chất khác phục vụ nông nghiệp và thuốc thú y... trên thị trường thế giới
tăng khá cao. Riêng giá cà phê tăng lên cao nhất trong 16 năm gần đây. Giá bông
tăng tới 60-70% so với cuối năm 2009. Giá cao su, hồ tiêu, điều, gạo, đường thô,
tinh bột sắn, hạt điều, chè, mặt hàng thủy sản chế biến... cũng tăng mạnh. Riêng
giá mủ cao su Trung Quốc mua của Việt Nam tăng gấp hơn 2 lần so với năm
2009.
Chính vì vậy hoạt động mua gom ngay từ đầu mối các mặt hàng: mủ cao
su tự nhiên, lợn hơi, thủy, hải sản, đường... của thương nhân Trung Quốc với giá
cao và khối lượng lớn tại nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá của Việt Nam,
càng tác động đến cung cầu, đến tâm lý và tác động đến giá cả các mặt hàng đó.
Cùng với diễn biến chung của giá cả thị trường thế giới thì tình trạng đầu cơ mặt
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 23


BÀI TẬP LỚN
3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

hàng nông sản thực phẩm tại Trung Quốc cũng đã tác động đáng kể đến giá cả
thị trường nước ta.
Giá dầu thô trên thị trường thế giới năm 2010-2011 biến động dữ dội làm
cho giá xăng dầu trong nước tăng lên đột biến. Các mặt hàng khác có liên quan

đến dầu mỏ như: khí đốt, gas, hóa chất, hạt nhựa, nhựa đường, than đá, chất dẻo,
phân bón... cũng tăng khá cao. Một số mặt hàng nguyên liệu khác trên thị trường
thế giới cũng tăng, như: sắt thép, đồng, nhôm, kẽm,... nhóm mặt hàng kim loại
nói chung trong năm 2010-2011 tăng khá cao. Các mặt hàng khác như: sữa bột,
thuốc chữa bệnh, vật tư và dụng cụ y tế... trên thị trường thế giới cũng biến động
đáng kể về giá.
2.2.6 Do tác động của quá trình đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng.
Trong xu hướng đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng, diện tích đất đai
tiếp tục bị thu hẹp. Các dự án nhà ở, khách sạn, du lịch sinh thái, sân golf, khu
công nghiệp, đường giao thông... Việc thu hồi đất nông nghiệp, đặc biệt là đất
canh tác màu mỡ của người dân ở ven các khu đô thị, làm cho diện tích đất trồng
trọt giảm, mặt khác, người dân có tiền từ giải phóng mặt bằng, đền bù tài sản và
hoa màu trên đất nên tăng tiêu dùng. Mặt khác, tình trạng đó làm hạn chế quy
mô sản xuất nông nghiệp, giảm nguồn cung ứng nông sản ra thị trường. Xu
hướng nói trên diễn ra trong nhiều năm qua, nhưng càng được đẩy mạnh và mở
rộng trong năm 2010, nên tác động đáng kể đến giá cả.
Cũng do quá trình đô thị hóa, giá thuê nhà trong năm 2010 bình quân tăng
trên 20%, nhất là giá nhà cho người có thu nhập thấp và trung bình thuê, như
sinh viên, người lao động... Giá nhà đất ở khu vực Hà Nội và một số tỉnh phía
Bắc tăng từ 30% - 60% tùy theo khu vực, dự án và vị trí.
Nhu cầu xây dựng tăng, tác động đến giá cả mặt hàng vật liệu xây dựng,
đặc biệt là các mặt hàng có tỷ lệ tăng khá cao là hàng nhập ngoại hay nguyên
liệu nhập ngoại, như thép và phôi thép, sơn nhà, nhôm, kính cao cấp và các loại
vật liệu khác....
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 24


BÀI TẬP LỚN

3

Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm

2.2.7. Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ) và xuất nhập khẩu.
Trong năm 2010 tỷ giá trên thị trường tự do tăng trên 10% và tỷ giá giao
dịch của các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng tăng 5,9%. Tỷ giá
chính thức từ cuối năm 2009 đến hết năm 2010 được ngân hàng nhà nước
(NHNN) điều chỉnh tăng hai lần. Riêng đợt điều chỉnh ngày 18/8/2010, tỷ giá
bình quân liên ngân hàng giữa Đồng Việt Nam và Đô la Mỹ tăng 2,1%, từ
18.544 VND/USD, lên mức 18.932 VND/USD. Mục tiêu của việc điều chỉnh
nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
Trong giai đoạn 2010 - 2011, Việt Nam đã phá giá VNĐ tất cả 4 lần và
trong khoảng thời gian này trị giá của VNĐ đã giảm tổng cộng khoảng 20% so
với đồng US dollar (USD). Trong lần thứ tư xẩy ra vào ngày 11/2/2011, VNĐ
sụt giá 9.3% so với USD. Hối suất chính thức của VNĐ tăng từ 18,932 lến đến
20,693 cho một USD NHNN quyết định phá giá VNĐ là để giảm bớt sự chênh
lệch giữa hối suất chính thức và hối suất chợ đen, đôi khi sự cách biệt lên đến
9% và làm giảm sự khan hiếm ngoại tệ. Sự phá giá VNĐ cũng giúp tăng xuất
khẩu và giảm chênh lệch cán cân thương mai vì làm giảm chi phí sản xuất trong
nước. Tuy nhiên, đồng Việt Nam mất giá cũng làm tăng lạm phát vì giá sản
phẩm và nguyên liệu nhập khẩu sẽ gia tăng tính theo VNĐ.
Đầu tư nhiều, trong khi nền kinh tế lại khá mở nên Việt Nam buộc phải
nhập khẩu nhiều để phục vụ đầu tư. Đó cũng chính là lý do khiến nhập siêu cũng
được cho là có tác động làm cho lạm phát cao (9 tháng năm 2011, thâm hụt
thương mại 7,59 tỷ USD)
Việc tỷ giá tăng tạo sức ép lên giá bán lẻ xăng dầu thị trường trong nước.
Đặc biệt là giá bán lẻ các mặt hàng khác nhập khẩu từ nước ngoài hay có phụ
tùng, nguyên vật liệu nhập khẩu, như: linh kiện máy tính, đồ điện tử, điện lạnh,
hoá chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, dược phẩm, thuốc chữa bệnh

và vật tư y tế, nguyên liệu hàng dệt may và giày da, vật liệu xây dựng cao cấp, ô
tô và phụ tùng ô tô, xe gắn máy và phụ tùng xe gắn máy, thiết bị máy móc và
Họ và tên: Nguyễn Nam Sơn

Page 25


×