LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, ngày
tháng
HỌC VIÊN
Nguyễn Nam Sơn
1
năm 2016
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin được bày tỏ lời cảm ơn chân
thành tới Ban giám hiệu, Viện Đào tạo Sau đại họctrường Đại Học Hàng Hải đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Đặng Công Xưởng đã hết
lòng giúp đỡ, hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã cho em
những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hải Phòng, ngày
tháng
Tác giả
Nguyễn Nam Sơn
2
năm 2016
MỤC LỤC
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Chữ viết tắt
Giải thích
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
GSTX
Giám sát từ xa
TCTD
Tổ chức tín dụng
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
2.1
2.2
Tên bảng
Số lượng các TCTD trên địa bàn Hải Phòng năm
2011 – 2015
Kết quả giám sát từ xa các TCTD trên địa bàn Hải
Phòng năm 2015
Trang
38
43
2.3
Số liệu hoạt động thanh tra tại chỗ từ năm 2011 2015
46
2.4
Số liệu hoạt động thanh tra tại chỗ dựa trên
kết quả giám sát từ xa qua các năm.
48
2.5
Kết quả đạt được hoạt động thanh tra tại chỗ từ năm
2011 - 2015
52
2.6
Tình hình xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực tiền
tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn Hải Phòng
năm 2011 - 2015
59
5
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình
2.1
2.2
2.3
Tên hình
Sơ đồ bộ máy tổ chức Ngân hàng Nhà nước Hải Phòng
Tổng nguồn vốn hoạt động của các TCTD qua các năm
Dư nợ tín dụng của TCTD qua các năm
6
Trang
37
39
40
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai đoạn 2011 – 2015, kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn không
chỉ từ bên ngoài mà còn từ chính nội tại nền kinh tế. Trong bối cảnh những bất ổn
kinh tế vĩ mô phát sinh với mức độ ngày càng lớn, đặc biệt là vấn đề trong lạm
phát và những rủi ro đối với hệ thống tài chính – ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) Việt Nam với vai trò là một cơ quan quản lý về tiền tệ, hoạt động ngân
hàng và ngoại hối của Chính phủ đã nỗ lực chèo lái hoạt động tiền tệ và ngân hàng
vượt qua những bất ổn, đảm bảo sự ổn định, thực hiện hiệu quả những các nhiệm
vụ chính trị được giao, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của quá trình đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2011 – 2015.
Ngành ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2011- 2015 đã thu được những
thành công được xã hội đồng thuận, ghi nhận và đánh giá cao, đó là: (i) đảm bảo sự
ổn định và an toàn hệ thống; (ii) thiết lập được kỷ luật và kỷ cương của thị trường;
(iii) nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tình minh bạch của các chính sách và công cụ
điều hành; (iv) tích cực hội nhập quốc tế thông qua việc từng bước áp dụng các
thông lệ, chuẩn mực quốc tế trong xây dựng khuôn khổ chính sách và điều hành;
(v) thiết lập các điều kiện nền tảng cho phát triển bền vững của hệ thống.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện các chiến lược
phát triển ngành ngân hàng, NHNN tất yếu cũng gặp những khó khăn, thách thức
trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng nói chung và
hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng nói riêng. Chất lượng công tác thanh tra,
giám sát các tổ chức tín dụng (TCTD) còn chưa đạt hiệu quả cao, chưa phù hợp với
thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế, phương pháp thanh tra chủ yếu thanh tra sự tuân thủ
quy định của pháp luật, chưa thực hiện được việc cảnh báo sớm các rủi ro trong
hoạt động tín dụng, tiền tệ và ngân hàng để các TCTD có biện pháp phòng ngừa.
Là cán bộ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh Hải Phòng, tôi chọn
đề tài “Biện pháp nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát các tổ chức
tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh Hải Phòng” với mong
8
muốn tìm ra được những giải pháp góp phần đổi mới hoạt động của Thanh tra,
giám sát ngân hàng NHNN nói chung và hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng
NHNN Chi nhánh Hải Phòng nói riêng cho phù hợp với thực tiễn phát triển của
các TCTD đồng thời đáp ứng được những nguyên tắc và chuẩn mực về Thanh tra,
giám sát ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động Thanh tra, giám sát
các TCTD của NHNN.
Phân tích và đánh giá thực trạng về hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD
của Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Hải Phòng từ đó rút ra kết quả đạt được và hạn
chế cần khắc phục.
Đề xuất các giải pháp và kiến nghị phù hợp nhằm nâng cao chất lượng công tác
thanh tra, giám sát các TCTD của Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Hải Phòng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD của NHNN.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD của Ngân
hàng Nhà nước - Chi nhánh Hải Phòng giai đoạn 2011-2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, suy luận logic kết hợp với
các phương pháp khác như thống kê, phân tích, đánh giá. Việc nghiên cứu theo các
phương pháp nêu trên được gắn với quan điểm thực tiễn về hoạt động của Thanh
tra, giám sát ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và bài học kinh nghiệm về hoạt động thanh tra,
giám sát các tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng công tác Thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Hải Phòng giai đoạn 2011-2015.
9
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám
sát các tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh Hải Phòng.
10
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM SÁT
CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
1.1. Tổng quan về Ngân hàng Nhà nước
1.1.1. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, NHNN Việt Nam là
cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng Nhà nước của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân hàng
Nhà nước về phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và cung ứng dịch vụ tiền tệ
cho Chính phủ. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng
tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD; bảo đảm sự
an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.[2, tr.1]
Trên cơ sở quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 quy định cụ thể chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo
đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 27 đơn vị trực thuộc, trong đó 20 đơn vị
giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước và
chức năng Ngân hàng trung ương, 7 đơn vị là tổ chức sự nghiệp. [4, Tr 2-3]
1.1.2. Những chức năng cơ bản của Ngân hàng Nhà nước
Để thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, bảo đảm sự an toàn hoạt
động ngân hàng và hệ thống các TCTD; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống
thanh toán quốc gia;góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, NHNN thực hiện các chức năng cơ bản sau: Phát hành tiền; Là
ngân hàng của các ngân hàng trung gian; Là ngân hàng của Chính phủ.
1.1.2.1. Chức năng phát hành tiền
Khi NHNN ra đời và hoạt động thì toàn bộ việc phát hành giấy bạc ngân
hàng được tập trung vào NHNNtheo chế độ Nhà nước độc quyền phát hành tiền.
NHNN trở thành trung tâm phát hành tiền của đất nước. Tiền do NHNN phát hành
11
là những phương tiện thanh toán, biện pháp duy nhất thay thế cho tiền thật là chức
năng phương tiện thanh toán và phương tiện lưu thông. Do đó việc phát hành tiền
của NHNN có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ, có nghĩa là làm
cho quan hệ tiền hàng thay đổi tác động đến mặt bằng giá cả. Mối quan hệ đó đòi
hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt để đảm bảo
cho việc phát hành tiền gắn với yêu cầu lưu thông hàng hóa và điều tiết khối lượng
tiền cung ứng phù hợp với quan hệ cung - cầu trong lưu thông. Những nguyên tắc
đó là:
Khối lượng tiền phát hành phải được bảo đảm bằng kim loại quý (dự trữ
vàng);
Khối lượng tiền phát hành phải được bảo đảm bằng hàng hóa thể hiện trên
mệnh giá kỳ phiếu thương mại (tín dụng chiết khấu).
Hoạt động cung ứng tiền của NHNN được thực hiện chủ yếu thông qua cơ
chế tái cấp vốn và hoạt động thị trường mở nhằm tác động một cách trực tiếp đến
độ tăng, giảm của tổng cung tiền tệ trong nền kinh tế, qua đó ảnh hưởng đến cả sản
xuất và tiêu dùng.
1.1.2.2. Chức năng Ngân hàng của các ngân hàng trung gian
Với vai trò là Ngân hàng trung tâm của các ngân hàng trung gian và hệ
thống tài chính trong mỗi quốc gia, NHNN thực hiện một số công việc quan trọng
cho các Ngân hàng trung gian đó là: (i) quyền cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ cho
các Ngân hàng trung gian, đồng thời chế tài các vụ vi phạm luật lệ Ngân hàng; (ii)
quyền quy định, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà các Ngân hàng trung gian phải
thi hành; (iii) tiến hành thanh tra, kiểm soát các Ngân hàng trung gian nhằm giúp
cho hệ thống Ngân hàng hoạt động lành mạnh, trên cơ sở đó bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền và lợi ích chung của nền kinh tế; (iv) ấn định các lãi suất, lệ phí, hoa
hồng áp dụng cho các Ngân hàng trung gian, quy định những thể lệ điều hành các
nghiệp vụ; (v) mở tài khoản giao dịch và tổ chức thanh toán bù trừ cho các Ngân
hàng trung gian; Là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán ngoại
hối và ngân hàng; (vi) chịu trách nhiệm ban hành các hình thức thanh toán các chế
12
độ, quy trình Kế toán thanh toán cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng áp dụng; (vii) tái
cấp vốn cho các Ngân hàng trung gian dưới các hình thức: cho vay thế chấp hay
ứng trước; chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá trị; (viii) cung cấp các thiết
bị Ngân hàng cho các Ngân hàng trung gian.
1.1.2.3. Chức năng Ngân hàng của Chính phủ
Là một định chế tài chính công cộng, NHNN được xác định ngay khi ra đời
là Ngân hàng của Chính phủ.Các giao dịch tiền tệ của Chính phủ trong và ngoài
nước thường phải thông qua NHNN, đồng thời NHNN phải thực hiện rất nhiều
công việc cho Chính phủ.Mở tài khoản và đại lý Tài chính cho Chính phủ. Thanh
toán cho kho bạc Nhà nước. Thay mặt Chính phủ quản lý các hoạt động tiền tệ, tín
dụng và Ngân hàng. Cố vấn cho Chính phủ về các chính sách kinh tế Tài chính tiền
tệ và đại diện cho Nhà nước tại các tổ chức Tài chính quốc tế. Quản lý dự trữ Quốc
gia về ngoại tệ, vàng bạc, kim khí đá quý. Tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong
những trường hợp cần thiết.
1.2. Tổng quan về tổ chức tín dụng
1.2.1. Khái quát về tổ chức tín dụng
Theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, Tổ chức tín dụng (TCTD) là
doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. TCTD
thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận
tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
TCTD bao gồm ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và
quỹ tín dụng nhân dân.
Ngân hàng: là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng theo quy định. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân
hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
TCTD phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một hoặc một số
hoạt động ngân hàng theo quy định , trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân
và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. TCTD phi ngân
hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng
13
phi ngân hàng khác.
Tổ chức tài chính vi mô là loại hình TCTD chủ yếu thực hiện một số hoạt
động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập
thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
Quỹ tín dụng nhân dân là TCTD do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự
nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân
hàng theo quy định nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất,
kinh doanh và đời sống. [1, tr. 1-2]
1.2.2. Chức năng cơ bản của tổ chức tín dụng
1.2.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, TCTD đóng vai trò là "cầu
nối" giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động
các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, TCTD hình thành nên
quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này, TCTD vừa
đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay.
Với chức năng trung gian tín dụng, TCTD đã góp phần tạo lợi ích cho tất
cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng thời thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế.
Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của
mình dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn
đảm bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán
tiện lợi.
Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi
tiêu, thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm
kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Đối với TCTD, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận
này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của TCTD.
Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
14
tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất
được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, ngân
hàng thương mại đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích
thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
TCTD vì nó phản ánh bản chất của TCTD là đi vay để cho vay, nó quyết định sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện các
chức năng khác.
1.2.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
TCTD làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu
cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán
hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây TCTD đóng vai trò là người
"thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi TCTD là người giữ tài khoản của
họ.
TCTD thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện
chức năng trung gian tín dụng vì tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua
ngân hàng chính là một phần tiền gửi trước đó. Việc các TCTD thực hiện chức
năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với
chức năng này, các TCTD cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán
thuận lợi. Nhờ đó, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian
đi tới gặp chủ nợ, người phải thanh toán và lại đảm bảo được việc thanh toán an
toàn. Qua đó, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh
toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời, việc
thanh toán không dùng tiền mặt qua các TCTD đã giảm được lượng tiền mặt trong
lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm
nhận, bảo quản tiền...
Đối với TCTD, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận thông qua việc
thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay của TCTD thể
15
hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng
chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của TCTD.
1.2.2.3. Chức năng tạo tiền
Khi có sự phân hoá trong hệ thống TCTD, hình thành nên TCTD phát hành
và các TCTD trung gian thì TCTD trung gian không còn thực hiện chức năng phát
hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung
gian thanh toán, TCTD có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây
chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.
Ban đầu từ những khoản tiền dự trữ tăng lên, TCTD sử dụng để cho vay
bằng chuyển khoản, sau đó những khoản tiền này sẽ được quay lại TCTD một
phần khi những người sử dụng tiền gửi vào dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn. Quá
trình này tiễp diễn trong hệ thống ngân hàng và tạo nên một lượng tiền gửi (tức
tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi
phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó chịu tác động bởi các
yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền
gửi thanh toán của công chúng.
Với chức năng "tạo tiền", hệ thống TCTD đã làm tăng phương tiện thanh
toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái
niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHN phát hành ra mà còn
bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các TCTD tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu
thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà TCTD cho vay ra làm tăng khả năng tạo
tiền của TCTD, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Các chức năng của TCTD có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở
cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi TCTD thực hiện tốt chức
năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn
tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng.
16
1.2.3. Những rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi. Kinh
tế thị trường làm đa dạng hóa các thành phần kinh tế, bình đẳng hóa hoạt động của
các thành phần này và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau. Rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên
quan đến một biến cố không mong đợi, song lại là hiện tượng đồng hành với các hoạt
động kinh doanh trong cơ chế thị trường, trong quá trình cạnh tranh. Rủi ro xuất hiện
ở những điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong phát triển kinh tế. Với hoạt động
đặc trưng cơ bản của các TCTD cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của kinh tế thị
trường, hoạt động ngân hàng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như môi trường, kinh
tế xã hội, pháp lý, cơ chế chính sách vĩ mô, vi mô... Do vậy, hoạt động ngân hàng
chứa đựng những tiềm ẩn rủi ro lớn. Một số những rủi ro chính trong hoạt động ngân
hàng:
(i). Rủi ro tín dụng: là rủi ro tiềm ẩn đối với thu nhập hay vốn phát sinh khi
đối tác không đáp ứng được các điều khoản của hợp đồng hay không thực hiện đầy
đủ các điều khoản như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, TCTD không dự kiến là khoản
cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro.
Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng tỉ lệ tổn thất dự
kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt
động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỉ lệ tổn thất dự kiến, TCTD coi đó là
một thành công trong quản lý. Có thể phân rủi ro tín dụng thành các loại sau:
Rủi ro đọng vốn: khi vốn bị tồn đọng lớn không cho vay và đầu tư làm thu
nhập của TCTD bị giảm sút.
Rủi ro mất vốn: đó là rủi ro tín dụng khi người vay không thực hiện được
nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng, bao gồm vốn gốc và/hoặc lãi vay.
(ii). Rủi ro thị trường: là rủi ro tiềm ẩn của một TCTD khi các biến động của
giá thị trường gây ra những tác động bất lợi lên vốn và thu nhập của TCTD. Bao
gồm các loại : Rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái và rủi ro về giá.
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài
17
dự tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản lẫn bên nguồn vốn) thường xuyên biến
động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất có liên quan
chặt chẽ với rủi ro tín dụng.
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất mà TCTD phải chịu khi tỷ
giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá
thường xuyên giao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của TCTD
tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ
giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
Rủi ro về giá là giá trị rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến thu nhập và vốn phát
sinh từ những thay đổi bất lợi (do thay đổi về giá trị hoặc giá thị trường) của: Giá
trị công cụ tài chính; các khoản đầu tư khác; hoặc các tài sản có của TCTD hoặc
các công ty con của TCTD.
(iii). Rủi ro thanh khoản: là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng xấu đến thu nhập và vốn
phát sinh do TCTD không thể đáp ứng các nghĩa vụ nợ khi đến hạn hoặc TCTD có
thể đáp ứng các nghĩa vụ nợ khi đến hạn nhưng phải chấp nhận tổn thất lớn. Nhưng
không phải một đơn vị có khả năng thanh khoản cao đã hẳn là tốt vì công cụ nào
càng có tính thanh khoản cao thì thường mức độ sinh lời càng kém hơn công cụ ít
thanh khoản hơn và ảnh hưởng đến lợi nhuận của TCTD.
(vi). Rủi ro hoạt động: là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng tới vốn và thu nhập của
TCTD phát sinh do các quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc bị lỗi, do con người,
do các hệ thống hoặc do các sự kiện bên ngoài.
Rủi ro hoạt động tồn tại trong hầu hết các bộ phận của các tổ chức TCTD có
thực hiện nghiệp vụ giao dịch kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc gánh chịu rủi ro.
Rủi ro hoạt động bao gồm : gian lận của nhân viên, các vụ trộm, lỗi hệ
thống, mất điện, lũ lụt, hoặc các lý do khác dẫn đến sai sót ở một TCTD mà không
thể phân loại vào các rủi ro khác.
(v). Rủi ro danh tiếng: là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến thu nhập và vốn phát
sinh từ quan điểm tiêu cực của công chúng về: Hình ảnh; thương hiệu; sản phẩm
của TCTD.
18
(vi). Rủi ro chiến lược: là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến thu nhập và vốn phát
sinh từ chiến lược, việc thực hiện chiến lược không đúng hoặc không có khả năng
thích nghi với những thay đổi trong môi trường kinh doanh.
(vii). Rủi ro tuân thủ: là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến thu nhập và vốn phát
sinh do việc không tuân thủ pháp luật, quy định, quy chế, thông lệ tốt, chính sách
và quy trình nội bộ hoặc các chuẩn mực đạo đức khác.
1.3. Hoạt động thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng của ngân hàng
Nhà nước.
1.3.1. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng
của Ngân hàng Nhà nước
1.1.3.1. Các khái niệm cơ bản về Thanh tra, giám sát
Thanh tra - tiếng Anh - Inspect - xuất phát từ gốc La tinh (In-Spectare) có
nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ sự xem xét, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt
động của một đối tượng nhất định.
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước, là hoạt
động kiểm tra xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý Nhà nước với việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân; được
thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định. Thanh tra, giám sát là một trong ba yếu tố cấu thành nên sự lãnh đạo, quản lý
đó là: Ban hành quyết định; tổ chức thực hiện quyết định và thanh tra kiểm tra việc
thực hiện quyết định. Có thể nói rằng ở đâu có sự lãnh đạo, quản lý thì ở đó có
hoạt động thanh tra, giám sát. Hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện
pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ để kiểm tra, kiểm
19
soát, phân tích và đánh giá trên nhiều lĩnh vực, phương diện để tìm ra những điểm bất
hợp lý, những sai phạm trong hoạt động nghiệp vụ, từ đó đề ra các giải pháp, kiến
nghị kịp thời nhằm phục vụ cho mục tiêu quản lý. Trong đó thanh tra, giám sát ngân
hàng là một công cụ có vị trí đặc biệt quan trọng. Hoạt động Thanh tra, giám sát ngân
hàng nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các
TCTD và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và
khách hàng của TCTD; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống
các TCTD; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng;
góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và
ngân hàng. [3, Tr1]
1.1.3.2. Sự cần thiết hoạt động Thanh tra, giám sát các Tổ chức tín dụng
củaNgân hàng Nhà nước.
Thanh tra là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với Nhà nước và là công cụ
phục vụ cho giai cấp thống trị xã hội, lịch sử phát triển của xã hội loài người đã
chứng minh điều đó. Tuy tên gọi và hình thức tổ chức có thể khác nhau nhưng thanh
tra đều là công cụ của cơ quan quản lý Nhà nước, là phương thức đảm bảo pháp chế,
tăng cường kỉ luật trong quản lý Nhà nước và thực hiện quyền dân chủ.
Hoạt động thanh tra không phải là hoạt động trực tiếp chỉ huy, quản lý điều
hành, không phải là hoạt động của cơ quan chuyên môn trong bộ máy quản lý Nhà
nước mà là hoạt động đảm bảo thực hiện chính sách, pháp luật, giữ gìn kỉ cương,
trật tự trong quản lý. Do vậy thanh tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ
các hoạt động của Nhà nước.
Đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, đó là một ngành kinh doanh đặc
thù trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến
các lĩnh vực khác trong hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Bởi do ngân hàng là
chiếc cầu nối giữa người gửi tiền và người cần vay vốn, quan hệ đó rất quan trọng
và gắn bó chặt chẽ với nhau.
20
Xét về phương diện tài chính quốc gia, ngân hàng chính là một khâu trọng
yếu. Vì vậy, khi một ngân hàng mất ổn định sẽ ảnh hưởng đến các khâu khác trong
toàn bộ hệ thống tài chính.
Xét về phương diện kinh doanh, hoạt động ngân hàng có những đặc thù
riêng biệt, khác hẳn các ngành nghề khác vì đó là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất.
Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế quốc gia, hoạt động của khu vực ngân
hàng càng ngày càng được mở rộng và phát triển cả về mặt quy mô và tính phức
tạp. Bên cạnh đó, quá trình quốc tế hóa dẫn đến sự xâm nhập ngày càng sâu rộng
giữa các thị trường tài chính quốc gia với thị trường tài chính khu vực và quốc tế,
góp phần tạo nên những rủi ro mới trong hoạt động của mỗi ngân hàng và hệ thống
ngân hàng, cũng như làm lan rộng và tăng cường các rủi ro vốn có trước đây.
Như vậy, khu vực ngân hàng càng phát triển, càng có khả năng đóng góp
nhiều cho nền kinh tế, thì ngược lại những yếu kém, sụp đổ trong khu vực này tạo
ra những ảnh hưởng tiêu cực càng lớn lên toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
thậm chí là cả chính trị và cái giá phải trả là rất đắt không chỉ trên phạm vi quốc
gia mà còn trên phạm vi quốc tế. Chính vì vậy, những yếu kém của từng ngân
hàng, hệ thống ngân hàng cần được đặc biệt quan tâm, để đảm bảo hoạt động của
từng ngân hàng nằm trong tầm kiểm soát và những rủi ro của ngân hàng không dẫn
đến hậu quả xấu cho bản thân ngân hàng, cho hệ thống ngân hàng, cũng như không
gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế. Chính vì lẽ đó mà hoạt động thanh
tra ngân hàng rất quan trọng, góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống các ngân
hàng thương mại, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Để thực hiện được vai trò này, NHNN phải tiến hành thanh tra đối với các
TCTD nhằm phát hiện ra những điểm yếu kém, dễ bị tổn thương của các TCTD, từ
đó có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời; đồng thời đánh giá mức độ tuân
thủ của các ngân hàng đối với hệ thống những quy chế, cơ chế đã được thiết lập.
Trên cơ sở đó, áp dụng các chế tài xử lý khi cần thiết để giải quyết những tình
huống xấu cũng như ngăn chặn sự tái lặp của các trường hợp tương tự. Mặt khác
21
hoạt động thanh tra còn nhằm tìm ra những sơ hở thiếu sót và chưa phù hợp của hệ
thống các chính sách hiện hành để từ đó cơ quan quản lý có những bổ sung, chỉnh
sửa cần thiết, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động ngân hàng cũng như để bảo
vệ tốt hơn cho các ngân hàng trước tác động bất lợi của môi trường bên trong và
bên ngoài, hướng tới mục tiêu cuối cùng là đảm bảo các ngân hàng hoạt động an
toàn, hiệu quả phục vụ tăng trưởng kinh tế.
Đạt được các mục tiêu trên, hoạt động thanh tra của NHNN sẽ tạo niềm tin
cho công chúng, nhà đầu tư. Cùng với chính sách kinh tế vĩ mô hiệu quả, thanh tra
ngân hàng trở thành một phần cốt yếu cho sự ổn định tài chính ở bất cứ quốc gia
nào.
1.3.2. Cơ sở pháp lý của hoạt động thanh tra, giám sát các tổ chức tín
dụng
Hoạt động thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước
dựa trên cơ sở pháp lý sau:
Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2010.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.
Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6
năm 2010. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.
Luật Ngân hàng Nhà nước số 46/2010/QH12 đã được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6
năm 2010. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.
Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam;
Nghị định số 26/2014/NĐ-CP ngày 07/4/2014 của Thủ tướng Chính Phủ quy
định về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngành ngân hàng.
Thông tư 03/2015/TT-NHNN ngày 20/3/2015 của Thống đốc Ngân hàng
22
Nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn thực hiện một số điều Nghị định số
26/2014/NĐ-CP ngày 07/4/2014 quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra,
giám sát ngành ngân hàng.
1.3.3. Hoạt động giám sát các tổ chức tín dụng
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, Giám sát các TCTD là hoạt động của Ngân
hàng Nhà nước trong việc thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về đối tượng
giám sát các TCTD thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời rủi ro gây mất an toàn hoạt động các TCTD, vi
phạm quy định an toàn hoạt động các TCTD và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.
1.3.3.1. Nội dung giám sát các tổ chức tín dụng
a) Thu thập, tổng hợp và xử lý các tài liệu, thông tin, dữ liệu của đối tượng
giám sát các TCTD theo yêu cầu giám sát; kết hợp giám sát an toàn toàn bộ hệ
thống các TCTD với giám sát an toàn của từng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài;
b) Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động
các TCTD và các quy định khác của pháp luật có liên quan; việc thực hiện kết
luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát
các TCTD;
c) Phân tích, đánh giá thường xuyên tình hình tài chính, hoạt động, quản trị,
điều hành và mức độ rủi ro của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, rủi ro
mang tính hệ thống; thực hiện xếp hạng các TCTD hằng năm theo mức độ an toàn;
d) Phát hiện, cảnh báo các yếu tố tác động, xu hướng biến động tiêu cực, rủi
ro gây mất an toàn hoạt động đối với từng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
và hệ thống các TCTD; các rủi ro, nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và
ngân hàng;
đ) Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các rủi ro,
vi phạm pháp luật của đối tượng giám sát ngân hàng theo quy định của pháp luật.
[5, Tr 14-15]
23
1.3.3.2. Hình thức giám sát các tổ chức tín dụng
a) Giám sát các TCTD được tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua
giám sát an toàn vĩ mô, giám sát an toàn vi mô và sử dụng các phương pháp, tiêu
chuẩn, công cụ giám sát và hệ thống thông tin, báo cáo do Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước quy định;
b) Giám sát an toàn vi mô là hình thức giám sát an toàn đối với từng đối
tượng giám sát riêng lẻ, được thực hiện trên cơ sở hệ thống xếp hạng, đánh giá đối
tượng giám sát các TCTD; hệ thống thông tin, báo cáo phục vụ giám sát an toàn vi
mô; các chuẩn mực an toàn; hệ thống quy trình, công cụ, tiêu chuẩn và các kỹ năng
phân tích tài chính, hoạt động; đánh giá, giám sát và cảnh báo các loại rủi ro, vi
phạm pháp luật của đối tượng giám sát các TCTD;
c) Giám sát an toàn vĩ mô là hình thức giám sát an toàn toàn bộ hệ thống các
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện trên cơ sở hệ thống chỉ
tiêu phản ánh mức độ lành mạnh tài chính và an toàn hoạt động; hệ thống thông
tin, báo cáo phục vụ phân tích và giám sát an toàn vĩ mô; hệ thống phương pháp,
công cụ, quy trình phân tích, giám sát, cảnh báo sự an toàn, ổn định của hệ thống
các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về an
toàn và ổn định hệ thống. [5, Tr 14-15]
1.3.3.3. Quy trình giám sát các tổ chức tín dụng
Bước 1:
Tiếp nhận và kiểm tra tính chính xác của thông tin: Hàng tháng thanh tra
viên tiếp nhận bảng cân đối kế toán bậc III quy đổi, các chỉ tiêu thống kê qua mạng
nội bộ NHNN, kiểm tra tính chính xác của đầu vào, chủ yếu kiểm tra đối chiếu
giữa báo cáo cân đối kế toán bằng văn bản với file, kiểm tra số dư cuối tháng trước
với số dư đầu tháng này có phù hợp không, kiểm tra các tài khoản lạ (mã số tài
khoản không đúng với quy định của NHNN). Nếu phát hiện sai sót phải tiến hành
tra soát với NHTM và yêu cầu NHTM sửa ngay để đảm bảo nguồn dữ liệu chính
xác khi thực hiện giám sát.
Bước 2:
24
Tiến hành xử lý dữ liệu: Sau khi kiểm tra tính chính xác của thông tin, tiến
hành thao tác xử lý số liệu theo phần mềm máy tính và in ra một số bảng biểu theo
thực đơn chỉ dẫn của chương trình. Các biểu ban đầu có thể in ra gồm: (1) Bảng
phân tổ Tài sản Nợ, Tài sản có; (2) Bảng phân tích dư nợ; (3) Bảng phân tích thu
nhập và chi phí; (4) Bảng các chỉ tiêu tài chính chủ yếu; (5) Bảng tổng hợp nguồn
vốn; (6) Bảng tổng hợp sử dụng vốn. Các bảng biểu trên chủ yếu có nguồn thông
tin ban đầu từ cân đối tài khoản bậc III của các NHTM, bảng phân tích các chỉ số
tài chính thông tin đầu vào là các chỉ tiêu thống kê.
Bước 3:
Thực hiện phân tích: Từ số liệu đã tập hợp theo nội dung trên, thanh tra tiến
hành viết báo cáo phân tích diễn biến của nguồn vốn, sử dụng vốn, về nợ quá hạn,
kết quả kinh doanh và việc chấp hành các tỷ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Bước 4:
Ra văn bản chấn chỉnh nhắc nhở đối với TCTD: Căn cứ vào kết quả giám sát
từ xa đối với các TCTD, Thanh tra, giám sát Chi nhánh thông báo đến giám đốc
các vấn đề bất thường về tăng giảm nguồn vốn, nợ quá hạn tăng, kinh doanh thua
lỗ, việc chấp hành chế độ báo cáo kế toán, thống kê.
Bước 5:
Căn cứ vào kết quả giám sát từ xa, tổng hợp báo cáo gửi Thanh tra NHNN
Việt Nam, Ban giám đốc NHNN và tổ thanh tra tại chỗ các TCTD.
1.3.4. Hoạt động thanh tra các tổ chức tín dụng
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 Thanh tra các TCTD là hoạt
động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các đối tượng thanh tra các TCTD
trong việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
1.3.4.1. Nội dung thanh tra các tổ chức tín dụng
a) Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, quy định khác
của pháp luật có liên quan, việc thực hiện các quy định trong giấy phép do Ngân
hàng Nhà nước cấp;
25