Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

“Tăng cường công tác quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu của Cục Hải quan Hải Phòng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.93 KB, 85 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình khóa luận tốt nghiệp của tôi, có sự hỗ
trợ từ PGS.TS. Đặng Công Xưởng hướng dẫn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
thể hiện trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào.
Hải Phòng, ngày

tháng

Tác giả

Nguyễn Văn Bình

i

năm 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
tận tình của PGS.TS. Đặng Công Xưởng trong suốt quá trình viết và hoàn thành
luận văn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong Hội đồng khoa học
Trường Đại học Hàng Hải Việt Nam, Khoa Quản lý kinh tế, Viện đào tạo Sau đại học,
Trường Đại học Hàng Hải đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Hà nội, ngày

tháng

năm 2016


Tác giả

Nguyễn Văn Bình

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................................................i
MỤC LỤC.................................................................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU..............................................................................iv
DANH MỤC CÁC BẢNG.........................................................................................................................v
DANH MỤC CÁC HÌNH.........................................................................................................................vi
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1................................................................................................................................................5
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG................................................................................5
NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU.........................................................................................................................5
CHƯƠNG 2..............................................................................................................................................24
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CỦA CỤC HẢI QUAN.......................................................24
HẢI PHÒNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU......................................................24
QUA CẢNG HẢI PHÒNG......................................................................................................................24
2.2. Thực trạng hoạt động quản lý nhập khẩu phế liệu qua cảng Hải Phòng của Cục Hải quan hải
quan
25
2.3. Thực trạng vi phạm trong hoạt động nhập khẩu phế liệu qua cảng Hải Phòng...................31
CHƯƠNG III...........................................................................................................................................59
BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ..............................................................................................59
NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU QUA CẢNG HẢI PHÒNG.........................................................................59
3.2. Phương hướng quản lý phế liệu nhập khẩu của Cục Hải quan Hải Phòng..........................61
3.2.2.1. Mục tiêu tổng quát.........................................................................................................61

3.2.2.2. Mục tiêu và các chỉ tiêu cụ thể.......................................................................................62
b, Tuyên truyền, giáo dục tuân thủ cho DN NK, kinh doanh phế liệu..........................................72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................78

iii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Chữ viết tắt
CBCC
CFR
CBL & XLVP
HQĐT
KTSTQ
KSHQ
QLRR
TCHQ
TNHH
UBND
VACNE

Giải thích
Cán bộ Công chức
Code of Federal Regulations
Chống buôn lậu và xử lý vi phạm
Hải quan điện tử
Kiểm tra sau thông quan
Kiểm soát Hải quan
Quản lý rủi ro

Tổng cục Hải quan
Trách nhiệm hữu hạn
Ủy ban nhân dân
Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8

Tên bảng
Số liệu về lượng sắt thép phế liệu nhập qua cảng Hải
Phòng giai đoạn 2013 đến nay
Số liệu về lượng nhựa phế liệu nhập qua cảng Hải
Phòng giai đoạn 2013 đến nay
Bảng số liệu vụ vi phạm đã phát hiện trong nhập khẩu
phế liệu qua cảng hải Phòng
Bảng số container phế liệu nhập khẩu tồn đọng tại
cảng Hải Phòng quá 90 ngày không có người nhận
Đánh giá doanh nghiệp có rủi ro trong nhập khẩu phế
liệu qua địa bàn Cục Hải quan Hải Phòng

Kim ngạch nhập khẩu phế liệu tại Cục Hải quan Hải
Phòng
Số liệu tờ khai nhập khẩu phế liệu tại Cục Hải quan
Hải Phòng
Tình hình kiểm tra phế liệu nhập khẩu của Cục Hải
quan Hải Phòng

v

Trang
24
25
32
33
39
40
42
44


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình
1.1
1.2

Tên bảng
Quy trình thủ tục HQĐT
Mô hình đánh giá rủi ro trong thông quan hàng hóa
XK, NK


vi

Trang
14
18


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường đang nhức nhối hiện nay thì trong
những năm trở lại đây, ở các quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát triển đã
bắt đầu biết tái chế và sử dụng nguyên liệu tái chế ở rất nhiều lĩnh vực trong cả sản
xuất và đời sống hàng ngày. Việt Nam chúng ta một quốc gia mà công nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế cũng không thể đứng ngoài cuộc. Nhưng
nguồn nguyên liệu này trong nước ta thường không đáp ứng đủ nên phải tiến hành
nhập khẩu từ các nước khác. Mặt khác,một số quốc gia phát triển đã lợi dụng sự
thiếu thốn của các quốc gia nghèo trong đó có cả Việt Nam tìm cách xuất khẩu vào
đó các loại chất thải độc hại đặc biệt là chất thải rắn, chất thải độc hại giả dạng
dưới dạng phế liệu.
Để ngăn chặn việc chuyển khẩu chất thải, đồng thời khuyến khích tái sử
dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất một cách an toàn Việt Nam cũng đã tham
gia vào một số thỏa thuận, hiệp ước quốc tế về bảo vệ môi trường và có những cơ
chế chính sách để quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu.Nước ta đã nghiên cứu và
ban hành một số quy định về điều kiện và tiêu chuẩn phế liệu được phép nhập khẩu
làm nguyên liệu sản xuất. Nhưng nếu chỉ ban hành những quy phạm pháp luật thôi
thì chưa đủ. Công cuộc quản lý hoạt động này có hiệu quả hay không còn phải dựa
vào hoạt động của các cơ quan có liên quan. Và một trong những cơ quan góp lần
lớn nhất trong quản lý phế liệu nhập khẩu là cơ quan hải quan. Cơ quan hải quan
bằng những nghiệp vụ của mình có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa
xuất nhập khẩu nói chung và phế liệu nhập khẩu nói riêng.Tuy nhiên, hiện nay

chưa có sự thống nhất đồng bộ giữa các quy định pháp lý cũng như những vấn đề
trên thực tế nên việc kiểm soát, quản lý phế liệu nhập khẩu của cơ quan hải quan
vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến việc biến nhập khẩu phế liệu trở thành một điểm
đen về môi trường.
Thời gian vừa qua, lợi dụng kẽ hở của luật pháp trong nhập khẩu, tạm nhập
tái xuất, nhiều doanh nghiệp đã nhập khẩu rác thải công nghiệp, hóa chất độc hại

1


vào nước ta. Cảng Hải Phòng là càng biển lớn nhất miền Bắc hàng năm đón hàng
trăm ngàn container từ khắp các nơi trên thế giới. Bởi vậy đây cũng là đơn vị còn
số lượng container nhập lậu chất thải giả dạng phế liệunhiều nhất. Cục Hải quan
Hải Phòng đã khám xét ra hơn 1000 container chứa những rác thải cũ nát nhưng
hiện nay vẫn chưa có cách giải quyết thỏa đáng không những vậy hành vi gian lận
này đang có chiều hướng gia tăng. Đây là vấn đề nhức nhối cho hoạt động của tất
cả các cơ quan quản lý có liên quan nói chung và cơ hải quan nói riêng cần phải
sớm có phương án giải quyết triệt để tránh những tác hại do những lô phế liệu dởm
này đem đến cho môi trường nước nhà. Vì vậy việc nghiên cứu về thực trạng công
tác quản lý nhập khẩu phế liệu của cơ quan Hải quan nói chung và Hải quan Hải
Phòng nói riêng để thấy được những khe hở trong các quy định của pháp luật từ
đó có những biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động này trong thời gian tới
để đảm bảo hài hòa lợi ích cho cả nền kinh tế cũng như môi trường Việt Nam. Đề
tài “Tăng cường công tác quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu của Cục Hải
quan Hải Phòng” được thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về hoạt động nhập khẩu phế liệu đã được nghiên cứu dưới nhiều
góc độ, nhiều đề tài đã viết về vấn đề này. Trong đó phải kể đến:
- Báo cáo tổng kết khoa học đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học về tiêu chuẩn
phế liệu và đề xuất các giải pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động

nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất” của Tổng cục Môi trường.
- Luận văn: Quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam
- Bài viết: Phế liệu và bản chất pháp lý của phế liệu, Ths Nguyễn Văn
Phương, Đại học Luật Hà Nội, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 1(38)/2007.
Những đề tài trên đều đã đề cập đến được những vấn đề chung về phế liệu,
mặt lợi, mặt hại hay các công cụ quản lý của nhà nước hiện nay. Nhưng chưa đề tài
nào phân tích kỹ về hoạt động nghiệp vụ của cơ quan Hải quan đặc biệt là Cục Hải
quan Hải Phòng trong công tác quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu. Đề tài
“Tăng cường công tác quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu của Cục Hải

2


quan Hải Phòng” sẽ làm rõ được những nghiệp vụ hải quan cụ thể khi quản lý
phế liệu nhập khẩu và đưa ra những kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm hướng tới những mục tiêu sau:
- Hệ thống hóa các văn bản liên quan trong hoạt động nhập khẩu phế liệu;
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý của Cục Hải quan Hải Phòng đối với
hoạt động nhập khẩu phế liệu qua Cảng Hải Phòng giai đoạn 2013 đến nay;
- Đánh giá được những vướng mắc trong các quy định pháp luật về công tác
quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu;
- Đề xuất các biện pháp làm nâng cao hiệu quả công tác quản lý của Cục Hải
quan Hải Phòng đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu qua cảng Hải Phòng trong
thời gian tới.
4. Đối tượng
- Các văn bản chính sách hiện hành liên quan đến nhập khẩu phế liệu.
- Hoạt động của Cục Hải quan Hải Phòng trong công tác quản lý phế liệu
nhập khẩu.
5. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dụng: Đề tài tập trung làm rõ thực trạng hoạt động nhập khẩu
phế liệu qua càng Hải Phòng và công tác quản lý nhập khẩu phế liệu của
Cục Hải quan Hải Phòng.
- Phạm vi về không gian: Cửa khẩu Cảng Hải Phòng.
- Phạm vi về thời gian:
+ Trong khâu đánh giá, nghiên cứu: chọn giai đoạn từ 1/1/ 2013 đến nay
(Thông tư liên tịch 34/2012/TTLT-BCT-BTNMT hướng dẫn về điều kiện
nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất có hiệu lực).
+ Về các giải pháp kiến nghị: giai đoạn từ tháng 4/2016 trở đi.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó tập trung
chủ yếu vào các phương pháp:

3


- Thu thập số liệu về tình hình nhập khẩu phế liệu qua Cảng Hải Phòng
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong tổng hợp các số liệu về tình hình
nhập khẩu phế liệu qua Cảng Hải Phòng và công tác của Hải quan Hải
Phòng khi quản lý hoạt động này và các thông liên liên quan khác.
- Phương pháp phân tích về công tác quản lý của cục Hải quan Hải Phòng với
hoạt động nhập khẩu phế liệu qua cảng Hải Phòng.
7. Nội dụng, bố cục của Báo cáo:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của báo cáo thực tập được chia
thành 3 chương chính
Chương 1: Lý luận chung về công tác quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý của cục Hải quan Hải Phòng đối với
hoạt động nhập khẩu phế liệu qua cảng Hải Phòng ( từ năm 2013 đến nay).
Chương 3: Giải pháp nâng cao công tác quản lý nhập khẩu phế liệu qua cảng
Hải Phòng.


4


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU
1.1. Những khái niệm trong bài
1.1.1

Khái niệm phế liệu
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phế liệu. Theo từ điển Tiếng

Việt của Viện ngôn ngữ học định nghĩa "Phế liệu là vật bỏ đi từ những nguyên liệu
đã qua chế biến” [27]. Theo cách hiểu này, tất cả những vật chất phát sinh sau quá
trình sử dụng bị chủ sở hữu bỏ đi đều trở thành phế liệu.
Về mặt pháp lý, khái niệm phế liệu được định trong Luật Bảo vệ môi
trường 2005 (Luật BVMT 2005) tại khoản 13 Điều 3: "Phế liệu là sản phẩm, vật
liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng được thu hồi để dùng làm
nguyên liệu sản xuất" [4, tr.1]. Luật Bảo vệ môi trường (Luật BVMT 2014) mới
được ban hành cũng có giải thích phế liệu như sau:“Phế liệu là vật liệu được thu
hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật liệu, sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản
xuất hoặc tiêu dùng để sử dụng làm nguyên liệu cho một quá trình sản xuất khác. ”
[5, tr.1].
Có thể thấy tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng bản chất pháp lý của phế
liệu được nêu ra ở những văn bản trên là không có sự khác biệt. Vật chất muốn trở
thành phế liệu thì cần đáp ứng các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Là sản phẩm hoặc vật liệu.
“Sản phẩm” là những thứ do lao động của con người tạo ra. Các sản phẩm
mà con người tạo ra có thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể. Dưới góc độ

luật môi trường thì đó chỉ có thể là những sản phẩm tồn tại dưới dạng vật thể thuộc
thành phần môi trường. Do đó, những sản phẩm phi vật thể không thuộc khái niệm
phế liệu.
“Vật liệu” là chất hoặc hợp chất được được con người dùng để làm ra
những sản phẩm khác. [20]
Thứ hai: Bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng

5


"Bị loại ra" được hiểu là các sản phẩm hoặc vật liệu được đưa ra khỏi quá
trình sản xuất hoặc tiêu dùng do không còn phù hợp với quá trình sản xuất và tiêu
dùng. Tức là nó đã bị chủ sở hữu “từ bỏ khai thác giá trị, công dụng”. Đối với hoạt
động tiêu dùng, được coi là “bị loại ra” khi chủ sở hữu không đưa nó vào khai thác
giá trị, công dụng của vật chất đó nữa. Một vật chất tồn tại dưới dạng phế liệu hay
không phụ thuộc vào hành vi của chủ sở hữu (hoặc người đại diện hợp pháp) sản
phẩm hoặc vật liệu đó.[20]
Thứ ba: Được thu hồi dùng làm nguyên liệu
Đây là một đặc điểm vô cũng quan trọng của phế liệu. Không phải bất cứ
loại sản phẩm hay vật liệu nào bị loại ra đều trở thành phế liệu.Trong trường hợp
chủ sở hữu "từ bỏ ý định khai thác giá trị, công dụng" nhưng sau đó lại đưa nó vào
sử dụng làm nguyên liệu sản xuất hoặc bán cho người khác làm nguyên liệu thì
nómới trở thành phế liệu. Sản phẩm hoặc vật liệu có trở thành phế liệu hay không
phụ thuộc vào việc đánh giá trên thực tế đối với hành vi "từ bỏ ý định khai thác giá
trị, công dụng" của chủ sở hữu và phải được xem xét một cách cụ thể đối với từng
trường hợp, như thu hồi để bán dưới hình thức hàng hóa, để sử dụng làm nguyên
liệu hoặc để xử lý [27].
1.1.2 Phân biệt phế liệu và chất thải
Bên cạnh việc hiểu như thế nào là phế liệu thì ta còn phải phân biệt rõ giữa
khải niệm phế liệu và chất thải vì trên thực tế việc nhập nhằng không rõ ràng giữa

hai khái niệm này đã góp phần tạo khe hở cho hoạt động nhập khẩu chất thải trái
phép vào Việt Nam.
Ở khía cạnh pháp lý, chất thải được định nghĩa tại khoản 10 Điều 3 Luật
BVMT 2005 như sau: “Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản
xuất, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.” [4, tr.1]. Theo định nghĩa này, vật
chất sẽ trở thành chất thải khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí:
Thứ nhất, chất thải là vật chất, có thể tồn tại dưới những dạng như rắn,
lỏng, khí hoặc các dạng khác. Những yếu tố phi vật chất không thể là chất thải.

6


Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với những yếu tố cấu thành môi trường theo
pháp luật môi trường.
Thứ hai, vật chất bị coi là chất thải khi bị chủ sở hữu thải ra trong các hoạt
động của mình, cả trường hợp chủ động và bị động, sẽ trở thành chất thải. Nó
không còn giá trị sử dụng với cơ thể, hệ thống sinh ra nó.
Thứ ba, vật chất được thải ra và sau đó chủ sở hữu thông qua hành vi của
mình, không biểu hiện ý định sử dụng hoặc chuyển giao cho người khác sử dụng
thì vật chất đó mới là chất thải [19, tr.43].
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy rõ ràng phế liệu và chất thải là hai
khái niệm khác nhau, không phải là một như nhiều người vẫn nhầm. Xét về góc độ
pháp lý, thì nó có những sự khác biệt chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các yếu tố có thể trở thành chất thải bao gồm các loại vật chất
trong đó có sản phẩm và vật liệu, là yếu tố có thể trở thành phế liệu.
Thứ hai, với trường hợp trở thành phế liệu, việc từ bỏ giá trị, công dụng
của chủ sở hữu vật chất mang tính chủ động. Trong trường hợp chất thải, việc từ bỏ
giá trị công dụng của chủ sở hữu vật chất bao gồm cả trường hợp chủ động và bị
động.
Thứ ba, khái niệm chất thải không đề cập tới mục đích sau quá trình thải

ra và pháp luật coi thu hồi là một trong những nghĩa vụ của người sản sinh chất
thải. Trong khi đó, mục đích "được thu hồi dùng làm nguyên liệu sản xuất" là một
tiêu chí của khái niệm phế liệu [4, tr.1].
Còn Pháp luật quốc tế về môi trường và pháp luật các quốc gia không phân
biệt phế liệu với chất thải mà chỉ sử dụng khái niệm duy nhất: chất thải (tiếng
Anh: waste, tiếng Đức: Abfall), kể cả trong trường hợp thu hồi để tái chế, tái sử
dụng và trường hợp thu hồi để xử lý. Công ước Baselvề kiểm soát vận chuyển chất
thải nguy hiểm qua biên giới và việc tiêu hủy chúng (Công ước Basel) định nghĩa
"Chất thải" là các chất hoặc các đồ vật mà người ta tiêu huỷ, có ý định tiêu huỷ
hoặc phải tiêu huỷ chiếu theo các điều khoản của luật lệ quốc gia. Căn cứ vào khả
năng sử dụng của chất thải, có thể phân loại chất thải thành hai loại: chất thải

7


không còn giá trị sử dụng (chất thải cuối cùng) và chất thải còn khả năng sử dụng
vào sản xuất (phế liệu) [20]. Theo CFR của Mỹ thì cũng không nhắc đến khái niệm
phế liệu mà chỉ định nghĩa “solid waste” và “hazardous waste”. Họ không phân
biệt ra khái niệm phế liệu và chất thải như chúng ta.
Từ đây có thể khẳng định rằng, nội hàm của khái niệm chất thải rộng hơn
và bao trùm cả khái niệm phế liệu. Hay nói một cách khác, phế liệu là một dạng
của chất thải.
1.2. Sự tác động của việc nhập khẩu và sử dụng phế liệu phục vụ sản xuất
1.2.1. Tác động về mặt kinh tế
Việc sử dụng phế liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất mang lại cả tác động tích
cực cũng như tiêu cực cho kinh tế của doanh nghiệp và cả nền kinh tế của nước ta.
Thứ nhất, xét về mặt kinh tế của doanh nghiệp thì việc được lợi từ việc
dùng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất là rất rõ ràng. Sử dụng nguyên
liệu là phế liệu sẽ tạo ra hiệu quả sử dụng những yếu tố đầu vào. Như đã nêu ở trên
thì việc sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất thì rẻ hơn so với việc khai thác,

lựa chọn và sử dụng nguyên liệu nguyên sinh.Tái chế phế liệu còn giảm chi phí thu
gom và xử lý rác thải. Như vậy về mặt kinh tế dùng phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, tạo ra khả năng giảm giá thành
sản phẩm, góp phần vào ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Nhưng mặt khác doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí khai thác, chế biến các
nguyên liệu nguyên sinh thì lại phải bỏ ra một khoán không hề nhỏ để xử lý và tái
chế nguyên liệu là phế liệu. Hiện tại thì máy móc công nghệ xử lý ở nước ta vẫn
còn đang rất lạc hậu, nên việc xử lý có thể khiến doanh nghiệp tốn kém một khoán
lớn và thậm chí mất rất nhiều thời gian để giải quyết vấn đề này.
Thứ hai, xét về khía cạnh nền kinh tế, khi các doanh nghiệp có thể tiết kiệm
được chi phí và nâng cao năng lực sản xuất nhờ chủ động nguồn nguyên liệu từ
phế liệu thì kết quả tất yếu là các ngành sản xuất trong nước cũng sẽ phát triển theo
sản xuất trong nước phát triển cùng với sự hình thành của các công ty chuyên về
xử lý chất thải, phế liệu đã tạo ra hàng trăm, hàng ngàn việc làm, giúp giảm bớt

8


những gánh nặng xã hội cho đất nước. Việc nhập khẩu phế liệu giúp các doanh
nghiệp phát triển cũng góp phần làm tăng số thu ngân sách nhà nước. Thế nhưng
việc sử dụng nguồn nguyên liệu phế liệu này cũng có thể gây tổn thất rất lớn. Hàng
năm tình trạng vi phạm về phế liệu nhập khẩu vẫn diễn ra không ngừng, hệ quả là
còn rất nhiều phế liệu còn nằm kẹt ở cảng, trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà
nước để xử lý.
1.2.2. Tác động về mặt môi trường
Phế liệu nhập khẩu đã có những tác động tích cực đến môi trường như: nó
góp phần làm giảm khai thác tài nguyên thiên nhiên và giảm lượng rác thải ra môi
trường. Phế liệu chính là vật liệu được thu hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật
liệu, sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng. Nên thay vì việc
thải ra môi trường trở thành rác thải thì phế liệu được sử dụng lại làm nguyên liệu

cho một quá trình sản xuất khác [25].
Nhưng xuất phát từ đặc điểm là những vật đã bị loại ra từ sản xuất, tiêu
dùng ở nước ngoài đồng thời chứa những tạp chất nên phế liệu nhập khẩu có thể
gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường nước ta. Phế liệu nhập khẩu về có
thể đủ tiêu chuẩn theo quy định nhưng vì những nguyên do khác nhau như: sử
dụng phế liệu nhập khẩu không đúng mục đich, trong phế liệu nhập khẩu có chứa
những chất độc hại hay năng lực xử lý các vấn đề môi trưởng chưa tốt…lại khiến
cho phế liệu thành tác nhân gây hại cho môi trường. Có rất nhiều loại phế liệu
được nhập khẩu về nhưng chỉ có ba loại chính được nhập với số lượng lớn là sắt
thép phế liệu, nhựa phế liệu và giấy phế liệu để làm nguyên liệu sản xuất Mỗi loại
phế liệu lại có thể gây ra sự tác động không tốt đến môi trường theo những cách
khác nhau.
1.3. Cơ sở pháp lý hoạt động nhập khẩu phế liệu về Việt Nam
Việt Nam là một nước đang trên đà phát triển lớn mạnh, chúng ta cần tận
dụng mọi biện pháp, nguồn lực để phát triển kinh tế nhưng nếu như không quản lý
chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu này thì việc nước ta biến thành bãi rác độc
hại là chuyên tất yếu trong tương lai. Vì vậy, nước ta đã cụ thể hóa việc quản lý

9


bằng cách quy định về các điều kiện để nhập khẩu phế liệu trong các văn bản pháp
luật. Chỉ những doanh nghiệp đủ điều kiện, hay những loại phế liệu được cho phép
thì mới có thể nhập khẩu vào nước ta để làm nguyên liệu sản xuất.
1.3.1. Điều kiện tổ chức, cá nhân (thương nhân) kinh doanh nhập khẩu phế liệu
Để quản lý được hoạt động nhập khẩu phế liệu thì đầu tiên cần phải quản lý
được chủ thể thực hiện hoạt động đó. Theo đó thì các điều kiện dành cho tổ chức,
cá nhân (thương nhân) kinh doanh nhập khẩu phế liệu đã được quy định rõ trong
Luật BVMT 2005 cũng như Luật BVMT 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ nhất, một cá nhân, tổ chức trước khi thực hiện nhập khẩu phế liệu thì

cần phải biết mình có đủ điều kiện để thực hiện hoạt động này không. Chỉ những
đối tượng thỏa mãn điều kiện sau thì mới là đối tượng được nhập khẩu phế liệu:
Thương nhân có cơ sở sản xuất trực tiếp sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên
liệu sản xuất, tái chế; Thương nhân nhập khẩu uỷ thác phế liệu cho thương nhân
trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế; Thương nhân nhập
khẩu phế liệu để phân phối cho thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên
liệu sản xuất, tái chế.
Khi đã là đối tượng được nhập khẩu thì các tổ chức, cá nhân còn cần đáp
ứng được các tiêu chí nhất định để có thể đảm bảo việc sử dụng phế liệu nhập khẩu
là an toàn.Trước đây theo Khoản 2 Điều 43 Luật BVMT 2005 có quy định thì: “Tổ
chức, cá nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế phải có
đủ các điều kiện sau đây mới được phép nhập khẩu phế liệu:
a) Có kho, bãi dành riêng cho việc tập kết phế liệu bảo đảm các điều kiện
về bảo vệ môi trường;
b) Có đủ năng lực xử lý các tạp chất đi kèm với phế liệu nhập khẩu;
c) Có công nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng phế liệu đạt tiêu chuẩn môi
trường.” [4, tr.21].
Để hướng dẫn về về điều kiện nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất
Điều 4 Thông tư liên tịch 34/2012/TTLT-BCT-BTNMT quy định hướng dẫn về
điều kiện nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất (Thông tư liên tịch

10


34/2012/TTLT-BCT-BTNMT) cụ thể hóa rõ ràng hơn về điểu kiện quy định tại
Điều 43 Luật BVMT 2005 khi chia ra hai trường hợp khi nhập khẩu phế liệu đó là
thương nhân trực tiếp nhập khẩu về làm nguyên liệu sản xuất và thương nhân nhập
khẩu ủy thác. Hai trường hợp lại có những điều kiện khác nhau tùy theo tính chất
của hoạt động nhập khẩu của thương nhân.
Sau khi Luật BVMT 2014 ra đời thì điều kiện về tổ chức cá nhân nhập

khẩu phế liệu được cụ thể ở khoản 2 Điều 76 Luật BVMT 2014. Có thể thấy quy
định về điều kiện tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu phải đáng ứng trong Luật
BVMT 2014 gần như không có sự khác biệt lớn so với Luật BVMT 2005. Các nhà
làm luật đã đưa ra những điều kiện dựa trên thực tế với tiên liệu đảm bảo rằng các
tổ chức, cá nhân khi đáp ứng thì sẽ có đủ khả năng để xử lý phế liệu không gây hại
gì đến môi trường.
1.3.2. Điều kiện đối với phế liệu được phép nhập khẩu
Phế liệu mà một loại mặt hàng rất đặc biệt, những tác động của nó lên môi
trường nếu không được xử lý đúng cách là rất nguy hiểm. Không những vậy sự dễ
nhầm lẫn giữa phế liệu và chất thải đã tạo cơ hội cho một số nước lợi dụng xuất
khẩu chất thải về dưới hình thức nhập khẩu phế liệu vào nước ta. Vì vậy việc xác
định loại phế liệu thì được nhập khẩu là hết sức cần thiết và quan trọng. Việc cho
phép nhập các phế liệu nào để tận dụng làm nguyên liệu sản xuất thì cần phải cân
nhắc để phù hợp với yêu cầu của bảo vệ môi trường và yêu cầu về tiêu chuẩn của
các loại phế liệu được nhập khẩu cũng phải thật chặt chẽ.
Theo Khoản 1 Điều 43 Luật BVMT 2005 quy định: “Phế liệu nhập khẩu
phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường sau đây:
a) Đã được phân loại, làm sạch, không lẫn những vật liệu, vật phẩm, hàng
hoá cấm nhập khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
b) Không chứa chất thải, các tạp chất nguy hại, trừ tạp chất không nguy hại
bị rời ra trong quá trình bốc xếp, vận chuyển;

11


c) Thuộc danh mục phế liệu được phép nhập khẩu do Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định.” [4, tr.21].
Trong Thông tư liên tịch 34/2012/TTLT-BCT-BTNMT cũng có quy định
hướng dẫn về vấn đề này tại Điều 5:“1. Phế liệu phải thuộc Danh mục phế liệu

được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất do Bộ Tài nguyên và Môi trường
ban hành đồng thời phải đáp ứng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối
với phế liệu nhập khẩu hoặc các yêu cầu về mô tả phế liệu tương ứng trong Danh
mục phế liệu được phép nhập khẩu; 2. Đối với những loại phế liệu mới phát sinh
do nhu cầu sử dụng làm nguyên liệu sản xuất nhưng chưa có trong Danh mục phế
liệu được phép nhập khẩu, Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét từng trường hợp
cụ thể để bổ sung vào Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu.” [13, tr.3].
Còn theo Luật BVMT 2014 mới nhất hiện nay thì chỉ quy định ngắn gọn:
“1. Phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam phải đáp ứng quy chuẩn kỹ
thuật môi trường và thuộc danh mục phế liệu được phép nhập khẩu do Thủ tướng
Chính phủ quy định.” [5, tr.31]. Quy định này đã rút ngắn hơn rất nhiều so với quy
định trong Luật BVMT 2005 nhưng không phải là kém chắt chẽ. Có thể hiểu các
quy chuẩn kỹ thuật môi trường ở đây là toàn bộ những Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về môi trường đối với phế liệu nhập khẩu hoặc các yêu cầu về mô tả phế liệu
tương ứng trong Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu. được quy định. Phế liệu
phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật quy định vậy là cũng đã bao gồm cả các
tiêu chí như “được phân loại, làm sạch, không lẫn những vật liệu, vật phẩm, hàng
hoá cấm nhập khẩu”. Quy định tại Luật BVMT 2014 mang tính khái quát hơn và
không theo kiểu liệt kễ dễ dẫn thiếu sót như trong Luật BVMT 2005.
Như đã nêu ở trên thì phế liệu nhập khẩu cần đáp ứng các quy chuẩn kỹ
thuật môi trường và hiện nay thì các quy chuẩn này được quy định chi tiết trong
Thông tư 43/2010/TT-BTNMT quy định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường (Thông tư 43/2010/TT-BTNMT). Còn Danh mục phế liệu được phép nhập
khẩu đã được quy định trong Thông tư 01/2013/TT-BTNMT quy định về phế liệu
được phép nhập khẩu để làm nguyên liệu sản xuất do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và

12


Môi trường ban hành (Thông tư 01/2013/TT-BTNMT). Trong Thông tư này thì phế

liệu được nhập khẩu bao gồm loại một là phế liệu được nhập khẩu từ nước ngoài
để làm nguyên liệu sản xuất và loại hai là phế liệu thu được trong quá trình sản
xuất của doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp trong khu phi thuế quan được phép
nhập khẩu vào nội địa để làm nguyên liệu sản xuất.Mới đây nhất thì Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 73/2014/QĐ-TTg quy định danh mục phế liệu
được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất (Quyết định
73/2014/QĐ-TTg). Đây là danh mục mới nhất được ban hành về các loại phế liệu
được phép nhập khẩu từ nước ngoài về làm nguyên liệu sản xuất. Theo đó có tổng
cộng 36 loại phế liệu được quy định trong danh mục giảm đi một loại so với danh
mục tại Phụ lục I Thông tư 01/2013/TT-BTNMT trước đây.
1.3.3. Giấy chứng nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu
Khi được kiểm định đã thỏa mãn các điều kiện được quy định thì cá nhân,
tổ chức tiến hàng hoạt động sẽ được cấp một “giấy chứng nhận” để minh chứng
cho điều này mà ở đây chính là “giấy chứng nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế
liệu”. Về thẩm quyền cấp và tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đã được quy
định tại Điều 6 Thông tư liên tịch 34/2012/TTLT-BCT-BTNMT theo đó giao cho
Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kiểm tra
các điều kiện theo quy định và cấp Giấy chứng nhận. Còn về thẩm quyền tước
quyền sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu lại được giao cho
một cơ quan khác là Cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực bảo vệ môi trường, thương mại, hải
quan.

13


1.4. Quản lý hải quan trong hoạt động nhập khẩu phế liệu

Hình 1.1: Quy trình thủ tục hải quan điện tử
1.4.1. Hồ sơ hải quan

Hoạt động ngoại thương của nước ta trong thời kỳ hội nhập cũng tăng lên
đáng kể góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế. Việc quản lý các hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hóa của nước ta được thực hiện bởi cơ quan Hải quan. Điều
12 Luật Hải quan 2014, nhiệm vụ của Hải quan: “Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ
thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng, chống buôn lậu,
vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hóaxuất khẩu, nhập khẩu
theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; kiến nghị
chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu [6, tr.6-7].
Khi đi làm thủ tục hải quan hồ sở hải quan là một căn cứ quan trọng mà các
doanh nghiệp phải chuẩn bị. Việc làm thủ tục của cơ quan hải quan sẽ dựa chủ yếu
trên các thông tin tại hồ sơ hải quan để quyết định xem hàng hóa có được thông
quan không. Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng với cả doanh nghiệp cũng như
14


cơ quan hải quan trong việc thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu. Theo Khoản 1
Điều 24 Luật Hải quan 2014: “1. Hồ sơ hải quan gồm:a) Tờ khai hải quan hoặc
chứng từ thay thế tờ khai hải quan; b) Chứng từ có liên quan;tùy từng trường hợp,
người khai hải quan phải nộp hoặc xuất trình hợp đồng mua bán hàng hóa, hóa đơn
thương mại, chứng từ vận tải, chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa, giấy phép
xuất khẩu, nhập khẩu, văn bản thông báo kết quả kiểm tra hoặc miễn kiểm tra
chuyên ngành, các chứng từ liên quan đến hàng hóa theo quy định của pháp luật có
liên quan.” [6, tr.13-14]. Cũng tại Điều 24 Luật Hải quan 2014 thì khoản 2 đã
hướng dẫn rõ về chứng từ cần phải nộp đó là: “Chứng từ thuộc hồ sơ hải quan là
chứng từ giấy hoặc chứng từ điện tử. Chứng từ điện tử phải bảo đảm tính toàn vẹn
và khuôn dạng theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.” [6, tr.13]. Hồ sơ
hải quan được nộp, xuất trình cho cơ quan hải quan tại trụ sở cơ quan hải quan.

Ngoài những yêu cầu về hồ sơ hải quan theo quy định của Luật Hải quan
2014, khi làm thủ tục nhập khẩu phế liệu bộ hồ sơ còn cần đáp ứng các yêu cầu tại
Điều 9 Thông tư liên tịch 34/2012/TTLT-BCT-BTNMT, cụ thể:
“1. Đối với thương nhân trực tiếp nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản
xuất: a) Giấy chứng nhận còn hiệu lực (bản sao có xác nhận và đóng dấu sao y bản
chính của thương nhân); b) Bản Thông báo nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản
xuất (theo mẫu tại Phụ lục 3 của Thông tư này); c) Bản cam kết pháp lý về tài
chính (theo mẫu tại Phụ lục 4 của Thông tư này).
2. Đối với thương nhân nhận uỷ thác nhập khẩu: a) Giấy chứng nhận còn
hiệu lực của thương nhân ủy thác nhập khẩu (bản sao có xác nhận và đóng dấu sao
y bản chính của thương nhân); b) Bản Thông báo nhập khẩu phế liệu làm nguyên
liệu sản xuất (theo mẫu tại Phụ lục 3 của Thông tư này); c) Bản cam kết pháp lý về
tài chính (theo mẫu tại Phụ lục 4 của Thông tư này).” [13, tr.5-6]
1.4.2. Hoạt động kiểm tra, thông quan, xử lý phế liệu nhập khẩu
1.4.2.1. Hoạt động kiểm tra
Để có thể thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động xuất nhập khẩu thì cơ quan
Hải quan thực hiện “kiểm tra hải quan là việc kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng

15


từ liên quan, kiểm tra thuế và kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải về
hoạt động kiểm tra với phế liệu nhập khẩu, cơ quan hải quan sẽ thực hiện cả kiểm
tra hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế hàng hóa” [6, tr.3].
a) Kiểm tra hồ sơ hải quan
Ngoài việc kiểm tra thực tế thì một bước quan trọng cần thực hiện đó là
kiểm tra hồ sơ hải quan mà các doanh nghiệp khi làm thủ tục phải chuẩn bị.Kiểm
tra hồ sơ hải quan tức là kiểm tra tờ khai hải quan và chứng từ có liên quan có
đúng và phù hợp hay không. Theo Điều 32 Luật Hải quan 2014 thì kiểm tra hồ sơ
hải quan là: “cơ quan hải quan kiểm tra tính chính xác, đầy đủ, sự phù hợp của nội

dung khai hải quan với chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, kiểm tra việc tuân thủ chính
sách quản lý hàng hóa, chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và
quy định khác của pháp luật có liên quan.Kiểm tra hồ sơ hải quan được thực hiện
thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan hoặc trực tiếp bởi công chức hải
quan.” [6, tr.18]. Tức là những thông tin được ghi trên tờ khai hải quan phải trùng
khớp với những chứng từ liên quan nếu không hàng hóa sẽ không được cho phép
thông quan. Về địa điểm, khoản 2 Điều 22 Luật Hải quan 2014 quy định: “Địa
điểm tiếp nhận, đăng ký và kiểm tra hồ sơ hải quan là trụ sở Cục Hải quan, trụ sở
Chi cục Hải quan” [6, tr.11].
b) Kiểm tra thực tế hàng hóa
Về hoạt động kiểm tra thực tế hàng hóa theo Khoản 5 Điều 33 Luật Hải
quan 2014 thì : “Việc kiểm tra thực tế hàng hóa do công chức hải quan thực hiện
trực tiếp hoặc bằng máy móc, thiết bị kỹ thuật, các biện pháp nghiệp vụ khác.” [6,
tr.18]. Các hình thức kiểm tra thực tế hàng hóa được quy định tại Khoản 4 Điều 29
Nghị định 08/2015/NĐ-CP ngày 21/1/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và biện
pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải
quan (Nghị định 08/2015/ NĐ-CP) bao gồm: “a) Công chức hải quan kiểm tra trực
tiếp; b) Kiểm tra bằng các phương tiện kỹ thuật, các biện pháp nghiệp vụ khác; c)
Kiểm tra thông qua kết quả phân tích, giám định hàng hóa.” [8, tr.22-23]. Trong
quá trình kiểm tra thực tế hàng hóa nếu cần thiết phải thay đổi hình thức kiểm tra

16


hàng hóa thì Chi cục trưởng Chi cục Hải quan nơi kiểm tra thực tế hàng hóa quyết
định. Kết quả kiểm tra thực tế bằng máy soi, thiết bị soi chiếu kết hợp với cân điện
tử và các thiết bị kỹ thuật khác là cơ sở để cơ quan hải quan ra quyết định việc
thông quan.
Riêng đối với mặt hàng đang được nghiên cứu ở đây là phế liệu thì kiểm tra
thực tế hàng hóa là yêu cầu bắt buộc. Vấn đề này không được nêu cụ thể trong

Thông tư liên tịch 34/2012/TTLT-BCT-BTNMT nhưng lại được quy định tại
Thông tư 43/2010/TT-BTNMT quy định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường. Tại mục 3.1.1 có quy định “Cơ quan hải quan kiểm tra trực tiếp bằng mắt
thường tại chỗ” với phế liệu nhập khẩu. Nhưng do thực tế kiểm tra có nhiều vướng
mắc nên TCHQ đã có ý kiến chỉ đạo quyết định không chỉ thực hiện kiểm tra các
container phế liệu bằng mắt thường mà có thể kiểm tra cả bằng phương tiện kỹ
thuật. Vừa qua vào đầu năm 2015, để làm rõ hơn cho quy định trên, TCHQ đã ra
Quyết định 08/QĐ-TCHQ ngày 21/01/2015 trong đó nêu rõ phải tiến hành “Kiếm
tra thực tế 100% các lô hàng phế liệu nhập khẩu”. Theo đó 100% hàng khai báo là
phế liệu nhập khẩu trên toàn quốc, hệ thống Hải quan tự động phân luồng đỏ và
phải kiểm tra thực tế hàng hóa. Còn về mức độ kiểm tra đối với từng lô hàng
Khoản 2 Điều 29 Nghị định 08/2015/NĐ-CP quy địnhChi cục trưởng Chi cục Hải
quan nơi tiếp nhận, xử lý hồ sơ hải quan quyết định mức độ kiểm tra thực tế hàng
hóa.
Nội dung kiểm tra thực tế hàng hóa phải thực hiện theo Khoản 1 Điều 29
Nghị định 08/2015/NĐ-CP: “Nội dung kiểm tra gồm: Kiểm tra tên hàng, mã số, số
lượng, trọng lượng, khối lượng, chủng loại, chất lượng, xuất xứ, trị giá hải quan
của hàng hóa. Kiểm tra đối chiếu sự phù hợp giữa thực tế hàng hóa với hồ sơ hải
quan.” [8, tr.22]. Còn về thẩm quyền quyết định hình thức, mức độ kiểm tra thực tế
hàng hóa như đã nêu thì Khoản 2 Điều 29 Nghị định 08/2015/NĐ-CP quy định:
“Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải kiểm tra thực tế, Chi cục trưởng Chi
cục Hải quan nơi tiếp nhận, xử lý hồ sơ hải quan căn cứ quy định tại Khoản 4 Điều
26 Nghị định này và thông tin liên quan đến hàng hóa để quyết định hình thức,

17


mức độ kiểm tra thực tế hàng hóa. Thời hạn hoàn thành việc kiểm tra thực tế hàng
hóa thực hiện theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 23 Luật Hải quan. Trường
hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan, Chi cục trưởng Chi cục Hải

quan nơi tiếp nhận, xử lý hồ sơ hải quan, Chi cục trưởng Chi cục Hải quan nơi lưu
giữ hàng hóa hoặc thủ trưởng cơ quan Hải quan quản lý địa điểm kiểm tra hàng
hóa tập trung quyết định thay đổi mức độ, hình thức kiểm tra thực tế hàng hóa và
chịu trách nhiệm về quyết định của mình.” [8, tr.22]. Còn về mức độ kiểm tra thực
tế hàng hóa theo Khoản 3 Điều 29 Nghị định 08/2015/NĐ-CP: “Việc kiểm tra thực
tế hàng hóa được thực hiện cho đến khi đủ cơ sở xác định tính hợp pháp, phù hợp
của toàn bộ lô hàng với hồ sơ hải quan. Công chức hải quan thực hiện kiểm tra
thực tế hàng hóa theo quyết định của Chi cục trưởng Chi cục Hải quan và căn cứ
thông tin liên quan đến hàng hóa tại thời điểm kiểm tra; chịu trách nhiệm về kết
quả kiểm tra đối với phần hàng hóa được kiểm tra.” [8, tr.22].
1.4.2.2. Thủ tục thông quan, xử lý phế liệu nhập khẩu
a) Thủ tục thông quan phế liệu nhập khẩu

Hình 1.2: Mô hình đánh giá rủi ro trong thông quan hàng hóa XK, NK
Cũng như các loại hàng hóa khác, khi muốn nhập khẩu phế liệu về làm
nguyên liệu sản xuất thì chủ thể phải tuân theo quy trình làm thủ tục hải quan để
hàng hóa được thông quan.
Khi tờ khai đã được đăng ký, đến bước 4 hệ thống tự động phân luồng.
Với mặt hàng là phế liệu thì hệ thống sẽ phân vào luồng đỏ. Theo đó thì sẽ phải
18


tiến hành kiểm tra hồ sơ, kiểm tra thực tế hàng hóa. Thủ tục để thông quan hàng
hóa phế liệu nhập khẩu thực hiện theo Khoản 1 Điều 10 Thông tư liên tịch
34/2012/TTLT-BCT-BTNMT. Theo đó, thủ tục hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
được phép thực hiện tại Chi cục hải quan thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố cửa
khẩu nhập nguyên liệu, vật tư.
b) Xử lý phế liệu nhập khẩu
Trên thực tế, không phải tất cả những lô hàng phế liệu khi làm thủ tục đều
được thông quan ngay. Những trường hợp còn nghi vấn chưa thể ra quyết định

thông qua hoặc buộc tái xuất, cơ quan hải quan có thể áp dụng phương pháp trưng
cầu ý kiến chuyên gia thông qua tư vấn của Hội đồng kiểm tra phế liệu nhập khẩu
để đánh giá sự tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu
nhập khẩu của lô hàng phế liệu nhập khẩu (Theo mục 3.1.2 Thông tư 43/2010/TTBTNMT).Trường hợp này cũng được nhắc đến trong Khoản 2 Điều 10 Thông tư
liên tịch 34/2012/TTLT-BCT-BTNMT khi phế liệu nhập khẩu cần thẩm định
chuyên ngành trước khi cơ quan hải quan quyết định việc thông quan.
Trường hợp kiểm tra trực tiếp bằng mắt thường chưa xác định được lô hàng
nhập khẩu có đáp ứng đủ điều kiện đối với phế liệu nhập khẩu, Cơ quan hải quan
áp dụng một hoặc một số phương thức trưng cầu giám định về môi trường đối với
lô hàng phế liệu nhập khẩu như sau theo mục 3.1.3 Thông tư 43/2010/TT-BTNMT:
“a) Lấy mẫu ngẫu nhiên từ một số công ten nơ hoặc từ một số điểm khác nhau
thuộc khối hàng rời của lô hàng nhập khẩu. Trong trường hợp nghi ngờ khối hàng
phế liệu nhập khẩu có lẫn tạp chất nguy hại hoặc các vật liệu, vật phẩm cấm nhập
khẩu, cơ quan kiểm tra có thể lấy mẫu tại các điểm nghi ngờ để gửi trưng cầu giám
định; b) Lấy mẫu đại diện từ tất cả các công ten nơ hoặc từ các điểm khác nhau
thuộc khối hàng rời của lô hàng nhập khẩu. Trong trường hợp nghi ngờ khối hàng
phế liệu nhập khẩu có lẫn tạp chát nguy hại hoặc các vật liệu, vật phẩm cấm nhập
khẩu, cơ quan kiểm tra có thể lấy thêm mẫu tại các điểm nghi ngờ để gửi trưng cầu
giám định.; c) Yêu cầu một hoặc nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ giám định hàng

19


×