Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Xây dựng chương trình nâng cao nhận thức cho đối tượng thiếu nhi tại phường 3 và phường 7, quận 6 trong công tác bảo vệ môi trường kênh tàu hủ bến nghé

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 42 trang )

1

MỞ ĐẦU
I.

SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) là khu vực có mạng lưới sông ngòi chằng

chịt. Ngoài các con sông chính là sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, phải kể đến lưu
vực các kênh rạch như Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Kênh Tàu Hủ - Bến Nghé,
Kênh Tân Hóa – Lò Gốm, Kênh Tham Lương – Bến Cát. Với chiều dài tổng cộng
khoảng 2,000 km, các kênh rạch trong thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò quan
trọng trong việc tiêu thoát nước cũng như có những đóng góp không nhỏ trong việc
phát triển kinh tế trên địa bàn thành phố. Áp lực của sự phát triển kinh tế - xã hội,
tốc độ đô thị hóa quá nhanh đã khiến cho chất lượng môi trường của các kênh rạch
ngày càng suy giảm.
Tàu Hủ - Bến Nghé là một trong năm lưu vực kênh rạch lớn nhất của Thành
phố cũng được triển khai dự án cải tạo, nạo vét lòng kênh. Dự án Cải thiện môi
trường nước đã góp phần giải quyết ngập nước, xử lý ô nhiễm cho lưu vực Bắc
kênh Tàu Hủ - Bến Nghé thuộc các quận 1, 3, 4, 5, 6, 8 và 10. Lượng nước thải của
các hộ dân thuộc lưu vực kênh Tàu Hủ - Bến Nghé không xả trực tiếp xuống kênh
mà được thu gom đưa về xử lý tại Nhà máy xử lý nước thải Bình Hưng, huyện Bình
Chánh. Tuy nhiên, khi đi dọc theo kênh Tàu Hủ, càng về phía quận 8, rác xuất hiện
trên mặt kênh ngày càng nhiều. Các tàu thuyền buôn bán ở khu vực bến Bình Đông
cũng như sinh hoạt của người dân ven kênh là một trong những nguyên nhân chính
gây ra tình trạng này. Như vậy, có thể thấy rằng một trong những nguyên nhân gây
ô nhiễm kênh rạch là do ý thức của người dân chưa cao, xả rác bừa bãi gây tắc
nghẽn dòng chảy. Hiện nay, trung bình mỗi ngày có 9 -10 tấn rác được vớt từ các
kênh rạch chính. Việc xả rác không những gây ô nhiễm nguồn nước và tắc nghẽn hệ
thống thoát nước mà còn là nguyên nhân chính khiến tỷ lệ người mắc bệnh cấp tính
như sốt xuất huyết…ngày càng tăng. Ngoài ra, sự tắc nghẽn của hệ thống thoát


nước kết hợp với chế độ thủy triều của thành phố dẫn đến thực trạng nước ô nhiễm
tràn ngược vào khu dân cư, thậm chí nhà dân. Đây chính là một trong những yếu tố


2

khiến tỷ lệ người dân mắc các chứng bệnh về đường ruột, lao, đau mắt đỏ hay sốt
xuất huyết…liên tục gia tăng tại Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gân đây.
Một trong những giải pháp đang được nhiều quốc gia triển khai nhằm “cứu lấy
trái đất” là chuyển chiến lược phát triển thiếu kiểm soát lâu nay sang chiến lược
Phát triển bền vững “Phát triển bền vững là phát triển nhằm đáp ứng được nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng được nhu cầu của
các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường". Như vậy, để phát triển
bền vững, bên cạnh phát triển kinh tế – xã hội, cần phải quan tâm xây dựng một môi
trường sống an toàn không chỉ ở hiện tại mà cho cả các thế hệ tương lai. Bảo vệ môi
trường không còn là nhiệm vụ của một tổ chức hay cá nhân riêng lẻ nào mà là trách
nhiệm của toàn xã hội. Chính vì vậy cần phải đẩy mạnh công tác "giáo dục môi
trường", phải làm sao cho ý thức bảo vệ môi trường trở thành nếp sống thường nhật
của mỗi người. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã dạy “Thiếu niên, nhi
đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các
cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiêm trì, bền bỉ….
Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm
chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”. Chính vì vậy, với những mục đích nói
trên, đề tài “Xây dựng chƣơng trình nâng cao nhận thức cho đối tƣợng thiếu
nhi tại phƣờng 3 và phƣờng 7, quận 6 trong công tác bảo vệ môi trƣờng kênh
Tàu Hủ – Bến Nghé” là cần thiết nhằm từng bước nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường của đối tượng thiếu nhi đồng thời duy trì và phát huy kết quả của các dự án
cải tạo kênh rạch mà Thành phố đã đầu tư.


II.

MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Nâng cao nhận thức của đối tượng thiếu nhi trong công tác bảo vệ môi trường
kênh Tàu Hủ – Bến Nghé.
- Xây dựng chương trình nâng cao nhận thức cho đối tượng thiếu nhi tại phường 3,
7, quận 6 trong công tác bảo vệ môi trường kênh Tàu Hủ – Bến Nghé.


3

III.

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1.

Đối tƣợng nghiên cứu: Thiếu nhi phường 3 và phường 7, quận 6.

3.2.

Phạm vi nghiên cứu: : Phạm vi nghiên cứu của đề tài này tập trung thực

hiện tại lưu vực kênh Tàu Hủ – Bến Nghé (phường 3, 7, quận 6).

IV.

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


4.1.

Phương pháp tham khảo tài liệu: Thu thập, tổng hợp tài liệu liên quan đến đề

tài.
4.2.

Xây dựng phiếu điều tra, thu thập ý kiến của thiếu nhi.

4.3.

Sử dụng phần mềm Microsoft Excel để thống kê, xử lý, phân tích kết quả.

4.4.

Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia có chuyên

môn để xây dựng chương trình nâng cao nhận thức thiếu nhi trong công tác bảo vệ
môi trường kênh rạch Tp.HCM.

V.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

5.1.

Tổng quan tài liệu kênh Tàu Hủ – Bến Nghé.

5.2.


Tổng quan điều kiện tự nhiên hiện trạng môi trường, kinh tế - xã hội tại kênh

Tàu Hủ – Bến Nghé.
5.3.

Xây dựng chương trình nâng cao nhận thức dành cho đối tượng thiếu nhi cho

khu vực nghiên cứu.
5.4.

Triển khai chương trình nâng cao nhận thức dành cho thiếu nhi cho khu vực

nghiên cứu (10 tháng).
5.5.

Đánh giá kết quả triển khai chương trình nâng cao nhận thức dành cho đối

tượng thiếu nhi trong việc bảo vệ môi trường kênh Tàu Hủ – Bến Nghé.

VI.
6.1.

ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Ý nghĩa khoa học của đề tài
Về mặt khoa học, đề tài sẽ xây dựng chương trình nâng cao nhận thức dành cho

đối tượng thiếu nhi trong việc bảo vệ môi trường kênh Tàu Hủ – Bến Nghé. Đây


4


cũng là cơ sở khoa học, góp phần hỗ trợ chính quyền địa phương trong việc triển
khai chương trình bảo vệ môi trường, hạn chế ô nhiễm kênh Tàu Hủ – Bến Nghé
đồng thời có giá trị tham khảo cho các hướng nghiên cứu tiếp theo.
6.2.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Về mặt thực tiễn, quá trình triển khai thực tiển đề tài cũng góp phần nâng cao ý

thức bảo vệ môi trường cho đối tượng thiếu nhi sinh sống tại khu vực, từ đó tác
động đến các thành viên còn lại trong gia đình giúp người dân hiểu rõ sự ảnh hưởng
của ô nhiễm môi trường đến chất lượng cuộc sống và có ý thức bảo vệ môi trường.
6.3.

Hiệu quả đào tạo
Đề tài tạo điều kiện cho 02 sinh viên ngành Khoa học Môi trường bước vào lĩnh

vực nghiên cứu khoa học.


5

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN

1.1.

TỔNG QUAN VỀ CÁC KÊNH RẠCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

HỒ CHÍ MINH

Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, Sài Gòn – nơi một thời được mệnh
danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" đã là trung tâm thương mại và là nơi hội tụ của
nhiều dân tộc anh em, mỗi dân tộc có tín ngưỡng, sắc thái văn hoá riêng góp phần
tạo nên một nền văn hoá đa dạng.
Đặc trưng văn hoá của vùng đất này là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống dân
tộc với những nét văn hoá phương Bắc, phương Tây, góp phần hình thành lối sống,
tính cách con người Sài Gòn. Đó là những con người thẳng thắn, bộc trực, phóng
khoáng, có bản lĩnh, năng động, dám nghĩ, dám làm.
Về sông ngòi, Tp. HCM có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc với chiều dài
gần tám nghìn km, diện tích mặt nước chiếm khoảng 16% diện tích thành phố.
Trong đó, nhiều tuyến sông, kênh như kênh Tẻ, kênh Tàu Hủ, rạch Tân Hóa - Lò
Gốm... rất thuận lợi để phát triển vận tải đường thủy và du lịch. Có một thời hoạt
động giao thương chủ yếu của người dân Lục tỉnh với khu Chợ Lớn - Sài Gòn Gia
Ðịnh chủ yếu bằng giao thông đường thủy. Thuyền bè qua lại tấp nập, kẻ bán người
mua. Nhiều hệ thống kênh lớn còn đóng vai trò là cửa ngõ nối Sài Gòn - Gia Ðịnh
với các vùng phụ cận phục vụ hoạt động giao lưu, vận tải hàng hóa. Hiện nay, hệ
thống cảng, bến thủy nội địa, thành phố có khoảng 320 cảng, bến, trong đó có bốn
cảng lớn là Sài Gòn, Tân Cảng, Bến Nghé và Nhà Bè. Riêng cảng Sài Gòn là một
trong những cảng lớn nhất nước về năng lực chứa đựng hàng hóa. Có hơn 50 bến đò
lớn nhỏ đủ điều kiện để phát triển dịch vụ vận chuyển hành khách. Các con sông ở
thành phố cũng cho phép nhiều tàu, thuyền từ 20 tấn trở lên qua lại thuận lợi, lợi thế
này gấp nhiều lần so với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tp. HCM còn có một
mạng lưới đường thủy nội ô phong phú. Tiềm năng này nếu được quy hoạch và đầu
tư hợp lý sẽ góp phần giảm tải tình trạng quá tải của giao thông đường bộ hiện nay.


6

Lợi thế là vậy, nhưng trong những năm qua, khi các ngành kinh tế - xã hội khác
phát triển thì tiềm năng về giao thông đường thủy lại dần bị lãng quên. Sông ngòi,

kênh rạch tuy nhiều nhưng một số tuyến đã bị "xóa sổ" bởi việc san lấp bừa bãi.
Trung bình, mỗi ngày, kênh rạch phải hứng chịu khoảng 40 tấn rác đổ xuống, làm
cạn dần dòng chảy, gây khó khăn trong việc lưu thông của tàu, thuyền. Nhiều tuyến
đã bị biến thành... kênh rác. Toàn thành phố hiện có 244 bến, cảng. Ngoài một số
cảng lớn, số còn lại cũng phát triển manh mún, nhỏ lẻ, chưa được quan tâm đúng
mức vì vậy không phát huy hết được tiềm năng dồi dào vốn có.
Nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai, Tp. HCM có mạng lưới sông ngòi,
kênh rạch khá chằng chịt và rất đa dạng về qui mô cũng như chức năng sử dụng.
Các tuyến sông chính, quan trọng trên địa bàn Tp. HCM gồm sông Đồng Nai, sông
Sài Gòn, sông Nhà Bè – Soài Rạp, sông Lòng Tàu, sông Thị Vải và có 5 hệ thống
kênh rạch chính với tổng chiều dài khoảng hơn 100 km bao gồm: Hệ thống kênh
Nhiêu Lộc – Thị Nghè, hệ thống kênh Tân Hoá – Lò Gốm, hệ thống kênh Tàu Hủ –
kênh Đôi – kênh Tẻ, hệ thống kênh Bến Nghé, hệ thống kênh Tham Lương – Bến
Cát – Vàm Thuật. Các hệ thống này vừa là nguồn cung cấp nước cho sinh hoạt và
sản xuất thành phố, vừa là nguồn tiếp nhận nước thải từ các hoạt động kinh tế – xã
hội trên lưu vực đổ ra…
Độ dốc của phần lớn các kênh rạch này là rất nhỏ, đáy kênh thì bị lấp đầy bởi
các vật chất lắng đọng do đó khả năng thoát nước rất kém. Nét đặc trưng của hệ
thống kênh rạch thành phố là bị ảnh hưởng mạnh bởi thuỷ triều, một vài kênh còn bị
ảnh hưởng bởi nhiều hướng chảy. Kết quả là các chất ô nhiễm tồn đọng lại trong
kênh và đang bị tích tụ dần. Sự ô nhiễm nước và tích tụ bùn lắng trên các kênh rạch
này không chỉ làm xấu cảnh quan đô thị, đặc biệt khu vực gần phía trung tâm thành
phố, mà còn ảnh hưởng không tốt đối với sức khoẻ cộng đồng.
Các kênh rạch thuộc vùng trung tâm thành phố đa phần bị bồi lắng và ô nhiễm
do nước thải từ các khu dân cư, khu công nghiệp chưa qua xử lý đổ trực tiếp vào.
Mặt khác do nhà cửa lấn chiếm, rác thải cản trở, không đảm bảo khả năng tiêu
thoát.


7


Theo Trung tâm chống ngập Tp. HCM, đến tháng 1/2014, đã có 4 dự án cải tạo
môi trường kênh kênh rạch, cụ thể được thể hiện ở bảng 1.1
Bảng 1.1. Các dự án cải tạo môi trƣờng kênh rạch
Tên dự án

STT
1

Nhiêu Lộc – Thị Nghè

2

Tân Hóa – Lò Gốm

3

Tàu Hủ - Bến Nghé – Đôi – Tẻ

4

Kênh Ba Bò

Tổng mức đầu tƣ
GĐ1: 8,700 tỷ đồng
GĐ2: 470 triệu USD
146 triệu đồng
GĐ1: 4164 triệu đồng
GĐ2: 8,200 tỷ đồng
1100 tỷ đồng


(Nguồn: Trung tâm chống ngập thành phố Hồ Chí Minh, 1/2014)

1.2.

TỔNG QUAN VỀ KÊNH TÀU HỦ - BẾN NGHÉ

1.2.1. Vị trí địa lý
Kênh Tàu Hủ - Bến Nghé là chi lưu lớn của sông Sài Gòn ở phía Nam khu vực
trung tâm thành phố, chảy qua các quận 1, 4, 5, 6, 8. Kênh bị giới hạn bởi rạch Cần
Giuộc và sông Sài Gòn ở hai đầu. Hệ thống này có các phụ lưu như kênh Tân Hóa –
Lò Gốm, kênh Hàng Bàng, rạch Bà Tàng, rạch Bà Lớn, rạch Xóm Củi, sông

ng

Lớn. Tổng chiều dài của tuyến kênh là 25400m, diện tích lưu vực 4100 ha, kích
thước BTB = 75 m, HTB = 4 - 6 m.


8

Hình 1.1. Bản đồ vị trí địa lý của tuyến kênh Tàu Hủ - Bến Nghé
(Nguồn: Google map)
1.2.2. Điều kiện tự nhiên
1.2.2.1.

Chế độ thủy văn

Cũng như mạng lưới sông ngòi, kênh rạch khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, chế độ thủy văn của tuyến kênh Tàu Hủ – Bến Nghé phức tạp, chịu sự chi

phối đồng thời bởi nhiều yếu tố với các mức độ khác nhau:
 Chế độ nước từ thượng nguồn các sông lớn đổ về (chế độ nước nguồn);
 Chế độ thủy triều của biển Đông;
 Lượng mưa và lượng bốc hơi tại chỗ;
 Cân bằng động giữa hệ thống nước mặt và nước ngầm tại chỗ;
 Các hoạt động khai thác nước và tiêu thoát nước trên địa bàn.
1.2.2.2.

Chế độ nguồn

Lượng nước ngọt từ thượng nguồn đổ về tuyến kênh Tàu Hủ – Bến Nghé chủ
yếu từ các sông lớn như sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông, và bị
chi phối mạnh mẽ bởi sự điều tiết nước của các công trình ở phía thượng lưu. Các
công trình hồ chứa trên lực vực sông Đồng Nai (Đơn Dương, Đại Ninh, Đồng Nai
2, 3, 4, Trị An (trên sông Đồng Nai); Thác Mơ, Cần Đơn, Srok Phu Mieng…) có
nhiệm vụ tích trữ nước trong mùa mưa lũ để điều tiết phân phối lại cho khu vực hạ
lưu trong mùa khô, do đó chế độ nước nguồn đổ về tuyến kênh Tàu Hủ – Bến Nghé
hiện nay không phải là chế độ nước tự nhiên mà là một chế độ có điều tiết.


9

1.2.2.3.

Chế độ thủy triều

Trên hệ thống kênh Tàu Hủ – Bến Nghé do tác động truyền triều từ nhiều
hướng (từ sông Sài Gòn và sông Cần Giuộc) nên nhìn chung chế độ thủy văn – thủy
lực trong khu vực này khá phức tạp, hình thành nhiều vùng giáp nước nghịch pha
hay lệch pha, khiến cho biên độ triều trên hệ kênh này tắt giảm rất nhanh so với khu

vực khác, gây ô nhiễm tích tụ lại và khó tháu rửa. Chính chế độ phức tạp này gây
khó khăn cho việc tiêu thoát nước đô thị ở các quận 4, 5, 6, 7, 8.
Trên hệ thống kênh Đôi – Tẻ, Tàu Hủ - Bến Nghé và sông Cần Giuộc – Chợ
Đệm ở khu vực phía Nam thành phố, do tác động truyền triều từ nhiều hướng nên
nhìn chung chế độ thủy văn – thủy lực trong khu vực này khá phức tạp. Do triều
cùng lúc truyền từ sông Sài Gòn vào qua cửa Khánh Hội và Tân Thuận, từ sông
Nhà Bè – Soài Rạp lên qua nhiều nhánh khác nhau (rạch Phú Xuân, rạch Cát,…), và
từ sông Vàm Cỏ Đông qua theo tuyến sông Bến Lức, nên ở hệ thống này hình thành
nhiều vùng giáp nước nghịch pha hay lệch pha, khiến cho biên độ triều trên hệ kênh
này tắt giảm rất nhanh so với khu vực các cửa. Chế độ phức tạp này gây khó khăn
cho việc tiêu thoát nước đô thị ở các quận 4, 5, 6, 7, 8, 11.
1.2.3. Tình hình kinh tế - xã hội
1.2.3.1.

Tình hình dân cƣ và xã hội

Hình 1.2. Bản đồ các điểm dân cƣ đông đúc dọc 2 bờ kênh Tàu Hủ - Bến Nghé
(Nguồn: Google map)


10

Quận 6 có tổng diện tích tự nhiên là 7,14 km2, chiếm 0,34% diện tích tự nhiên
của toàn thành phố. Dân số hiện nay của Quận 6 là 252.811 người (thời điểm Tổng
điều tra dân số tháng 4 năm 2011), mật độ dân số bình quân 35.408 người/km2,
trong đó nữ chiếm 53%. Địa bàn Quận 6 được chia thành 14 phường (Phường 01 –
Phường 14 với 74 khu phố và 1311 tổ dân phố); thành phần dân tộc, người Kinh
chiếm 73,31%, người Hoa chiếm 26,10%, còn lại là người Chăm, Khơ - me, Tày,
Nùng…Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “thương mại - dịch vụ - công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp” đã được Đảng bộ Quận 6 xác định từ nhiệm kỳ VII

(1996 - 2000), qua đó đã tạo sự chuyển biến rõ nét, tích cực trong phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương giai đoạn 2000 - 2010.
Theo đó, trong suốt quá trình phát triển của Thành phố, hệ thống kênh Tàu Hủ Bến Nghé đã từng (và vẫn tiếp tục) là nguồn tiếp nhận chất thải nói chung của mọi
hoạt động dân sinh, dịch vụ, thương mại, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên
lưu vực. Thế nhưng tất cả các chất thải đó đến nay hầu như vẫn chưa được xử lý mà
thải trực tiếp vào kênh rạch gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng. Hơn
thế nữa, nạn lấn chiếm lòng kênh rạch để xây cất nhà ở (hệ quả của quá trình đô thị
hoá và phát triển dân số thiếu quy hoạch) của hàng vạn căn nhà ổ chuột trên hệ
thống này hằng ngày đã thải trực tiếp các loại rác như phân, rác, xác súc vật xuống
mặt nước càng làm tăng thêm mức độ ô nhiễm nguồn nước, thu hẹp dòng chảy gây
bít tắt dòng chảy và làm mất vẻ mỹ quan đô thị một cách trầm trọng.
1.2.3.2.

Tình hình kinh tế

Do tuyến kênh chảy qua các quận thuộc khu vực trung tâm thành phố nên chịu
tác động mạnh mẽ bởi sự phát triển kinh tế của khu vực, đặc biệt là sự phát triển của
các ngành công nghiệp và giao thông. Dọc hai bờ kênh là các nhà máy, công xưởng,
chợ, cơ sở y tế phát triển mạnh mẽ, hằng ngày thải hàng tấn mét khối nước thải đổ
xuống tuyến kênh. Do đó, giai đoạn trước năm 2009 Tàu Hủ - Bến Nghé là một
trong những tuyến kênh đen của thành phố.
Cùng với quá trình đô thị hóa kênh bị rác thải "xâm chiếm" dày đặc khiến dòng
nước chuyển màu, tình trạng ô nhiễm ngày càng trở nên nghiêm trọng, rác thải do


11

người dân sinh sống ven kênh rạch ném xuống vô tội vạ, tạo thành tầng tầng lớp
lớp, bốc mùi hôi thối, nguồn nước ô nhiễm và ẩn chứa nhiều dịch bệnh phát sinh.
Theo Chi cục Bảo vệ môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường TP. HCM, không ít

doanh nghiệp, cơ sở sản xuất vi phạm luật môi trường xả chất thải chưa qua xử lý
cũng "góp phần" làm con kênh thêm ô nhiễm trầm trọng hơn. Tuyến kênh này ngoài
nhiệm vụ thoát nước còn giữ chức năng rất quan trọng là giao thông thuỷ. Nhưng
lưu lượng tàu thuyền đi lại trên tuyến đã bị giảm sút rõ rệt vì rạch đã bị cạn, không
đảm bảo độ sâu chạy tàu, thời gian chờ tàu khá lâu và thường bị kẹt rác.
Theo kết quả khảo sát mới đây của Chi cục Bảo vệ Môi trường Tp. HCM thực
hiện tại hơn 450 doanh nghiệp cho thấy: Một ngày, tổng lượng nước thải từ các
doanh nghiệp này là 61000 m3, chưa kể hơn 100000 m3 nước thải từ chăn nuôi và
sinh hoạt của người dân đã đổ thẳng vào sông Sài Gòn, mà sông Sài Gòn lại thông
với kênh Tàu Hủ - Bến nghé. Trong số các doanh nghiệp được kiểm tra chỉ có hơn
một nửa có xây dựng hệ thống xử lý chất thải nhưng phần lớn chưa đạt yêu cầu.
Theo các con số đo đạc, hàm lượng các chất ô nhiễm vi sinh, dầu, nhớt... trên tuyến
đang ngày càng tăng và vượt tiêu chuẩn cho phép.
1.2.4. Hiện trạng môi trƣờng kênh Tàu Hủ - Bến Nghé
Để đánh giá hiện trạng môi trường kênh Tàu Hủ - Bến Nghé, 9 vị trí lấy mẫu
dưới đây (Giao Rạch Nước Lên và Rạch Chợ Đêm, cầu Bà Tràng, cầu Số 1, cầu
Hiệp Ân, cửa xả Nguyễn Tri Phương, cầu Chữ Y, cầu

ng Lãnh, Tôn Đản và cầu

Tân Thuận) được chọn và so sánh với QCVN 08:2008, B2 vào tháng 7 của một số
năm 2009, 2010, 2011 và 2012.
Bảng 1.2. Vị trí lấy mẫu trên kênh Tàu Hủ - Bến Nghé
Vị trí lấy mẫu

STT

Ký hiệu

1


Giao Rạch Nước Lên – Rạch Chợ Đêm

35KR

2

Cầu Bà Tàng

36KR

3

37KR

4

Cầu Số 1
Cầu Hiệp Ân

5

Cửa xả Nguyễn Tri Phương

39KR

38KR


12


1.2.4.1.

6

Cầu Chữ Y

40KR

7

Cầu ng Lãnh

41KR

8

Tôn Đản

43KR

9

Cầu Tân Thuận

44KR

pH

Giá trị pH của nước kênh Tàu Hủ - Bến Nghé tại một số vị trí lấy mẫu vào

tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012 được thể hiện tại hình 1.3

Hình 1.3. pH nƣớc tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012
pH nước vào tháng 7 của các địa điểm trên kênh Tàu Hủ - Bến Nghé đều nằm
trong giới hạn cho phép so với QCVN 08:2008, B2 (pH = 5.5 – 9.0).
1.2.4.2.

DO nƣớc kênh Tàu Hủ - Bến Nghé

Giá trị DO của nước kênh Tàu Hủ - Bến Nghé tại một số vị trí lấy mẫu vào
tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012 được thể hiện tại hình 1.4

Hình 1.4. DO nƣớc tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012


13

Từ năm 2009 đến năm 2011, nhìn chung tại hầu hết các địa điểm đều tăng dần
và đạt theo QCVN 08:2008, B2 (DO = 2 mg/L). Tuy nhiên đến năm 2012 thì giảm
xuống và thấp hơn QCVN, đều đó có thể cho thấy nước trên kênh đang dần ô nhiễm
trở lại.
1.2.4.3.

TSS nƣớc kênh Tàu Hủ - Bến Nghé

Giá trị TSS của nước kênh Tàu Hủ - Bến Nghé tại một số vị trí lấy mẫu vào
tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012 được thể hiện tại hình 1.5

Hình 1.5. TSS nƣớc tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012
TSS nước kênh Tàu Hủ - Bến Nghé tháng 7 các năm nhìn chung có xu hướng

giảm và đến năm 2012 thì hầu như đều đạt QCVN 08:2008, B2 (TSS = 100 mg/L),
trừ tại vị trí 44KR cao hơn.
1.2.4.4.

Các chất hữu cơ

Giá trị các chất hữu cơ của nước kênh Tàu Hủ - Bến Nghé tại một số vị trí lấy
mẫu vào tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012 được thể hiện tại hình 1.6 và
1.7

Hình 1.6. BOD5 nƣớc tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012


14

Hình 1.7. COD nƣớc tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012
Càng về các năm gần đây, nồng độ BOD5 và COD nước kênh Tàu Hủ - Bến
Nghé ở hầu hết các vị trí đều giảm ở hầu hết các vị trí lấy mẫu, tuy nhiên vẫn còn
một số nơi cao hơn QCVN 08:2008, B2 (BOD5 = 25 mg/L và COD = 25 mg/L).
1.2.4.5.

Các chất dinh dƣỡng

Giá trị các chất dinh dưỡng của nước kênh Tàu Hủ - Bến Nghé tại một số vị trí
lấy mẫu vào tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012 được thể hiện tại hình 1.8,
1.9 và 1.10

Hình 1.8. N-NH4+ nƣớc tháng 7 các năm 2009, 2010, 2011 và 2012

Hình 1.9. N-NO3- nƣớc tháng 7 các năm 2009, 2011 và 2012



15

Hình 1.10. PO43- nƣớc tháng 7 các năm 2011 và 2012
Nhìn chung tháng 7 các năm, N-NH4+ đều đạt so với QCVN 08:2008, B2 (NNH4+ = 1 mg/L). N-NO3- vào năm 2011 cao hơn QCVN (NO3- = 15 mg/L) nhưng
sau đó giảm vào năm 2012. PO43- ở hầu hết các vị trí lấy mẫu giảm dần từ 2011 về
2012, trừ 35KR, 43KR, 44KR vẫn cao hơn QCVN (PO43-= 0.5 mg/L).

1.3.

CHƢƠNG TRÌNH NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO ĐỐI TƢỢNG

THIẾU THI TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
1.3.1. Quản lý môi trƣờng dựa vào cộng đồng
1.3.1.1.

Khái niệm quản lý môi trƣờng dựa vào cộng đồng

Theo Arnstein (1969), các hình thức quản lý khác nhau nằm trong hai hình thức
cơ bản là quản lý hành chính nhà nước và quản lý cộng đồng. Ngoài ra, đồng quản
lý hay quản lý nguồn lợi dựa vào cộng đồng (QLNLDVCĐ) là hình thức quản lý
trung gian giữa hai hình thức trên. QLNLDVCĐ là một hình thức hợp tác giữa cộng
đồng và nhà chức trách trong việc chia sẻ quyền và trách nhiệm trong quản lý và lợi
ích (Pomerroy,1995).
Quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (Community – Based Environment
Management – CBEM) là phương thức bảo vệ môi trường trên cơ sở một vấn đề
môi trường cụ thể ở địa phương, thông qua việc tập hợp các cá nhân và tổ chức cần
thiết để giải quyết vấn đề đó. Phương pháp này sử dụng các công cụ sẵn có để tập
trung cải tạo hoặc bảo vệ một tài nguyên nào đó hay tạo ra lợi ích về môi trường



16

như dự án tái tạo năng lượng, phục hồi lưu vực v.v... Và đồng quản lý tài nguyên đó
thông qua sự hợp tác giữa các đối tác chính quyền, doanh nghiệp, các tổ chức phi
chính phủ và cộng đồng dân cư.
1.3.1.2.

Các nghiên cứu trƣớc đây về quản lý môi trƣờng dựa vào cộng đồng

a) Tình hình nghiên cứu trong nước


Mô hình quản lý và giữ gìn vệ sinh môi trƣờng dựa vào cộng đồng tại xã

Nhị Mỹ và thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Nhằm huy động cộng đồng cùng tham gia giải quyết các vấn đề môi trường
phát sinh, ngăn ngừa, giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường trong quá trình
phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả cải thiện và quản lý môi trường địa phương
trong giai đoạn sắp tới theo hướng phát triển bền vững của huyện Cao Lãnh, Viện
Môi trường và Tài nguyên – Đại học Quốc gia Tp. HCM đã phối hợp cùng Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp đã triển khai thực hiện dự án “Trình diễn mô
hình quản lý và giữ gìn vệ sinh môi trường dựa vào cộng đồng tại xã Nhị Mỹ và thị
trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp – giai đoạn 2”. Dự án đã tiến hành
những công việc sau:


Thành lập tổ tự quản về bảo vệ môi trường tại 2 địa bàn là xã Nhị Mỹ và


khóm Mỹ Tây – thị trấn Mỹ Thọ. Vai trò của các thành viên tổ tự quản được đánh
giá cao, đây là những đối tượng đi sâu sát vào cộng đồng, trực tiếp hướng dẫn cộng
đồng nhận thức được những vấn đề môi trường phát sinh đồng thời huấn luyện
những kỹ năng thiết yếu trong bảo vệ môi trường sống xung quanh.


Triển khai các hoạt động như tổ chức lớp tập huấn nâng cao nhận thức bảo

vệ môi trường cho cộng đồng dân cư, lớp tập huấn cho cán bộ tổ tự quản. Lớp tập
huấn đã thu hút được đông đảo người dân trên 2 địa bàn tham gia (80/100 người
được mời). Qua buổi tập huấn, kiến thức về bảo vệ môi trường và giữ gìn vệ sinh
môi trường của người dân đã được nâng cao rõ rệt. Người dân đều nhận thức được
tầm quan trọng của việc bảo vệ và giữ gìn vệ sinh môi trường sống, những ảnh
hưởng tiêu cực khi môi trường sống không được đảm bảo và tất cả người dân sau
khi tham gia lớp tập huấn đều sẵn sàng tham gia các hoạt động bảo vệ và giữ gìn vệ


17

sinh môi trường tại địa phương và cùng tích cực tuyên truyền ý thức bảo vệ môi
trường cho những người khác.


Xây dựng, triển khai thực tiễn mô hình cấp nước sạch, mô hình tích hợp

giảm thiểu ô nhiễm do chăn nuôi và hố xí hợp vệ sinh, mô hình thu gom rác thải.


Soạn thảo, in ấn tài liệu hỗ trợ kèm theo cho người dân khi tham gia các lớp


tập huấn; các tài liệu truyền thông như pa-nô, băng-rôn tuyên truyền nâng cao nhận
thức bảo vệ môi trường được phổ biến rộng rãi đến cộng đồng dân cư.


Tổ chức Ngày Chủ nhật xanh (03/10/2010) với sự tham gia đông đảo của

quần chúng nhân dân, góp phần làm địa bàn xanh – sạch – đẹp và đưa công tác bảo
vệ môi trường vào thực tế. Tổ chức các hội thảo góp ý hoàn thiện quy chế tổ tự
quản, hội thảo rút kinh nghiệm.


Mô hình quản lý môi trƣờng dựa vào cộng đồng cho hoạt động du lịch

tại khu vực bán đảo Bình Quới – Thanh Đa
Để phát triển du lịch tại bán đảo Bình Quới – Thanh Đa một cách bền vững, cần
quan tâm đến vấn đề môi trường và đặc biệt là sự đóng góp ý kiến của cộng đồng
dân cư sinh sống quanh khu vực. Căn cứ vào tình hình thực tế, đề tài triển khai các
chương trình hành động áp dụng trong mô hình như sau:


Chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng: phổ biến và nâng cao kiến thức

về bảo vệ môi trường và mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng cho toàn
thể cộng đồng địa phương, từ đó phát triển ý thức và thói quen các hoạt động có
trách nhiệm đối với môi trường địa phương.


Chương trình đào tạo và nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng về

quản lý môi trường cho đội ngũ cán bộ phụ trách chính quyền địa phương nhằm

đảm bảo thực hiện công tác quản lý và bảo vệ môi trường tại địa phương càng tốt
hơn.


Chương trình khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý

môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001:2004 đã giảm được lượng lớn chất phát thải
phát sinh, góp phần sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và hạn


18

chế, ngăn ngừa các rủi ro môi trường có thể xảy ra trong quá trình hoạt động du
lịch.


Hướng dẫn doanh nghiệp gia cố kè đúng kỹ thuật quy định đã mang lại các

lợi ích cho cính quyền và doanh nghiệp như:
 Chính quyền: quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp có nhu cầu gia cố kè; hạn
chế việc tự ý gia cố không đúng kỹ thuật, càng làm sạt lỡ nghiêm trọng hơn, nâng
cao ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường, ngăn ngừa sự cố môi trường.
 Doanh nghiệp: được hỗ trợ về trình tự, thành phần hồ sơ xin gia cố kè; hạn
chế và ngăn ngừa các sự cố do sạt lỡ gây ra; tiết kiệm tiền của, nâng cao tính an
toàn và uy tín doanh nghiệp; đảm bảo tuổi thọ và chất lượng công trình gia cố và
các công trình lân cận bờ sông phục vụ du lịch.


Công tác bảo vệ môi trƣờng kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè
Công trình nghiên cứu “Cơ hội và thách thức trong bảo vệ môi trường kênh


rạch ở TP.HCM với sự tham gia của cộng đồng - Trường hợp nghiên cứu ở kênh
Nhiêu Lộc - Thị Nghè.” (Phạm Thị Anh, Trần Thị Mỹ Diệu, 2012). Đề án này được
thực hiện dựa trên phương pháp tiếp cận cộng đồng thông qua 14 buổi tham vấn.
Trong đó, đa phần được thực hiện tại 5 quận gồm quận 1, 3, Bình Thạnh, Phú
Nhuận, Tân Bình với hơn 950 người tham gia. Nội dung mỗi buổi tham vấn bao
gồm nhận xét, nhận thức của cộng đồng về vấn đề bảo vệ môi trường; cung cấp
thông tin về ô nhiễm môi trường; giải pháp giảm phát sinh chất thải… Các buổi
tham vấn không những dừng lại ở việc khảo sát, đánh giá mà còn là phương tiện
hiệu quả để cư dân bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, đóng góp tiếng nói của họ để giữ
con kênh mãi xanh, sạch, đẹp. Qua đó, các nhà quản lý có thể xem xét, áp dụng vì
những ý kiến này đều xuất phát trên cơ sở thực tiễn.


Dự án cải tạo kênh Tân Hóa – Lò Gốm
Kênh Tân Hóa – Lò Gốm (chảy qua 4 quận: Tân Bình, Tân Phú, 11 và 6) là một

trong những dòng kênh ô nhiễm nặng nề nhất nằm phía Tây thành phố, ước tính gần
1 triệu dân chịu ảnh hưởng trực tiếp (chủ yếu là cư dân nghèo). Sau hàng chục năm
bị bỏ quên, bị lấn chiếm trái phép, kênh Tân Hóa - Lò Gốm nhỏ hẹp vì người dân


19

lấn chiếm và ô nhiễm nghiêm trọng. Từ cầu Lò Gốm thuộc quận 6 chạy ngược lên
thượng nguồn về phía quận Tân Phú, Tân Bình dòng kênh càng nhỏ lại, nước đen
mùi hôi khó chịu. Đến địa bàn quận Tân Phú, dòng kênh chỉ còn là con lạch nhỏ.
nhiễm đã trở thành nỗi ám ảnh đối với hàng ngàn gia đình sống ven kênh.
Để cải tạo và trả lại dòng kênh sạch đẹp, dự án “Nâng cấp đô thị và làm sạch
kênh Tân Hóa – Lò Gốm” (Dự án 415) đã được đầu tư và tiến hành thực hiện việc

cải tạo. Theo Ban Quản lý Dự án nâng cấp đô thị Tp. HCM, chủ đầu tư dự án, công
trình tập trung vào hai hạng mục chính là đặt cống hộp đoạn từ đường Âu Cơ (Tân
Phú) đến cầu Hòa Bình (quận 11) dài 3km và cải tạo 7,4km tuyến kênh Tân Hóa Lò Gốm, 12km đường được làm mới. Ngoài ra, mục tiêu của dự án là mở rộng
kênh, nắn dòng chảy (xây cống hộp kín), nạo vét bùn, đắp bờ kênh, xây tường ngăn
lũ, cải tạo đường rộng từ 6 đến 20m, xây mới 10 cầu qua kênh, chỉnh trang 4 khu
cảnh quan dọc tuyến với tổng mức đầu tư gần 2.000 tỷ đồng.
Theo đơn vị đầu tư, việc đặt cống hộp thay cho kênh mở có nhiều ưu điểm như
giải quyết ngay nạn ô nhiễm, số hộ dân bị giải tỏa ít, số tiền đầu tư cũng ít hơn và
thành phố có thêm một con đường đẹp. Cụ thể như đường Đồng Đen quận Tân
Bình, đoạn từ đường Âu Cơ đến đường Đồng Đen dài 700m thay vì đầu tư nạo vét,
mở rộng tuyến đường hai bên kênh, quận Tân Bình đã chọn giải pháp đặt cống hộp,
biến đoạn kênh thành đường Đồng Đen. Người dân ở hai bên con đường mới từ khi
quận đầu tư cải tạo con kênh, người dân không những có con đường lớn mà tình
trạng ô nhiễm, hôi hám cũng không còn. Toàn bộ nước thải sinh hoạt của dân cư,
của các cơ sở sản xuất vốn gây ô nhiễm cho dòng kênh nay được chảy ngầm trong
lòng cống.


Mô hình bảo vệ môi trƣờng với sự tham gia của cộng đồng
Với mong muốn của người dân phường 3 quận 11 về cải thiện điều kiện vệ sinh

môi trường, cụ thể gắn bó mật thiết tới tình hình vệ sinh môi trường khu vực sinh
sống. Đề tài ”Nghiên cứu trình diễn mô hình quản lý môi trường với sự tham gia
của cộng đồng – trường hợp cụ thể Phường 3, Quận 11, Tp. HCM” (2005) do Viện


20

Môi trường và Tài nguyên – ĐH Quốc Gia Tp. HCM được thực hiện với các vấn đề
chính như sau:



Thành lập đội công tác xã hội “Môi trường xanh” cùng với các hoạt động cụ

thể của đội trong việc bảo vệ và quản lý môi trường tại địa phương. Từ khi thành
lập, đội công tác môi trường đã thực hiện một số các hoạt động như: tổ chức Chủ
nhật xanh 2 tuần/1 lần; phát 523 phiếu bướm có nội dung tuyên truyền về việc
không xả rác gây ô nhiễm dòng chảy của kênh rạch, gây mất vệ sinh đường phố;
dọn dẹp lòng lề đường và vận động các hộ dân buôn bán trên tuyến đường văn minh
Lạc Long Quân không gây mất vệ sinh môi trường; vận động nhân dân trồng cây
kiểng tạo cảnh quan môi trường; tổ chức các cuộc thi thời trang môi trường, tặng
sách về khoa học, môi trường dưới dạng hình ảnh vui nhộn cho thiếu nhi.


Triển khai mô hình “Phân loại rác tại nguồn” tại một số tổ dân phố, thực hiện

kiểm toán chất thải với mục đích nâng cao nhận thức cộng đồng, phổ biến khái
niệm phân loại rác cho người dân đồng thời đánh giá thái độ của họ đối với vấn đề
này, tạo cơ sở khi tiến hành nhân rộng.


Thực hiện khẩu hiệu “Sạch từ trong nhà ra ngoài ngõ”, mô hình “Tuyến

đường không có rác” được tiến hành song song với mô hình “Phân loại rác tại
nguồn”. Chọn đường Lạc Long Quân (một trong 2 tuyến đường chính trong quận
11, được nhà nước đầu tư xây dựng vỉa hè) trong địa bàn phường 3 thực hiện mô
hình “Tuyến đường không có rác”. Ngày 22/4/2005 triển khai lắp đặt 08 thùng rác
công cộng trên đường, mỗi thùng đều có khóa (tránh tình trạng mất cắp) đồng thời
phát 50 thùng rác cho các hàng quán buôn bán trên tuyến đường này. Ngày
30/7/2005 triển khai lắp đặt thêm 06 thùng rác công cộng trước cổng trường

Nguyễn Văn Phú và hẻm 207 – Lạc Long Quân. Ngày 11/10/2005 triển khai lắp đặt
tiếp tục 04 thùng rác tại hẻm 152.


Công tác tuyên truyền

Về công tác tuyên truyền, Chi cục BVMT Tp. HCM đã tổ chức nhiều chương trình
nhằm góp phần vào nâng cao nhận thức cộng đồng vào công tác bảo vệ môi trường:


21



Chương trình truyền thông nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi

trường của doanh nghiệp. Chi cục BVMT đã tổ chức tập huấn SXSH (sản xuất sạch
hơn) cho khoảng 900 lượt doanh nghiệp với hơn 2000 người tham dự; hướng dẫn
triển khai áp dụng sản xuất sạch hơn cho 56 doanh nghiệp trong và ngoài địa bàn
thành phố; Tiến hành biên soạn và phát hành 06 sổ tay hướng dẫn đánh giá SXSH
và kiểm toán năng lượng; tổ chức giải thưởng “Doanh nghiệp xanh” nhằm tôn vinh
những doanh nghiệp có quan tâm và thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường, cụ
thể trong giai đoạn 2011- 2012 đã có 50 doanh nghiệp được công nhận là “Doanh
nghiệp xanh”. Ngoài ra còn tổ chức các hội thảo đóng góp ý kiến và chia sẻ kinh
nghiệm về sản xuất sạch hơn giữa các doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà quản lý;
thiết kế và in ấn 500 tờ rơi và 4000 túi giấy tuyên truyền về sản xuất sạch hơn cho
doanh nghiệp và công nhân lao động.


Chi cục BVMT đã xây dựng lực lượng tuyên truyền viên nòng cốt:

 Lực lượng tuyên truyền viên nòng cốt đóng một vị trí quan trọng trong hoạt

động nâng cao nhận thức cộng đồng về Bảo vệ môi trường. Việc bồi dưỡng kiến
thức về môi trường và các kỹ năng truyền thông là điều rất cần thiết. Từ năm 2004
đến nay, Chi cục đã phối hợp tổ chức 572 đợt tập huấn với 52.706 lượt người tham
dự là hội viên của Ủy ban Mặt trận tổ Quốc, hội Liên hiệp Phụ nữ, hội Nông dân,
hội Cựu Chiến binh, Đoàn viên thanh niên, Liên đoàn lao động, Ban điều hành Khu
phố, Tổ dân phố. Các hội viên được trang bị kiến thức cơ bản về môi trường,
nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng;

nhiễm trong nhà; Tác hại

của rác thải và phân loại rác tại nguồn; Sống thân thiện môi trường; Kỹ năng truyền
thông môi trường; nước sạch và vệ sinh môi trường, Khai thác, bảo vệ và sử dụng
nước ngầm; Luật Bảo vệ môi trường; Kỹ năng điều hành câu lạc bộ và chương trình
Hưởng ứng năm văn minh đô thị & đường phố không rác. Hướng dẫn xây dựng
Khu phố không rác theo mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng. Riêng các
hội viên Hội Nông dân được trang bị thêm kiến thức về Sử dụng an toàn thuốc bảo
vệ thực vật; Giới thiệu mô hình ủ biogas, làm phân compost từ phân gia súc và rác
thải nông nghiệp…


22

 Chi cục Bảo vệ môi trường đã phối hợp với Liên đoàn lao động thành phố tổ
chức tập huấn cho 745 cán bộ công đoàn, cán bộ bảo hộ lao động, cán bộ môi
trường của các doanh nghiệp với kiến thức cơ bản về môi trường; Ảnh hưởng của ô
nhiễm môi trường đến sức khỏe công nhân lao động, các biện pháp giảm thiểu ô
nhiễm công nghiệp; Phân loại rác tại nguồn, Kiến thức cơ bản về sản xuất sạch hơn,
Kỹ năng truyền thông về môi trường; Luật Bảo vệ môi trường và các quy định về

môi trường.
 Tổ chức 15 đợt tập huấn cho 1.105 công nhân vệ sinh của Tổ Rác dân lập về
phân loại chất thải rắn tại nguồn và giới thiệu mô hình hợp tác xã thu gom rác thải
sinh hoạt.
 Tập huấn cho 388 hiệu phó, giáo viên các trường Trung học cơ sở, Tiểu học,
Mầm non, giáo viên phụ trách phong trào đội của các trường về Kiến thức cơ bản về
môi trường, thực hành kỹ năng truyền đạt kiến thức cơ bản về môi trường cho học
sinh;

nhiễm nước, thực hành kỹ năng truyền đạt kiến thức về ô nhiễm nước; Rác

thải, thực hành kỹ năng truyền đạt kiến thức về rác thải; Giới thiệu một số công cụ
giảng dạy về môi trường cho học sinh tiểu học; Tham quan thực tế và các kỹ năng
hướng dẫn nhóm học sinh tham quan.
 Ngoài ra, Chi cục còn biên soạn và phát hành các tài liệu tuyên truyền.
 Biên soạn chuyên đề: Để phục vụ cho công tác tập huấn về bảo vệ môi
trường trên địa bàn thành phố, hằng năm Chi cục Bảo vệ môi trường đã mời cộng
tác viên là các chuyên gia trong lĩnh vực truyền thông môi trường, các giảng viên
khoa môi trường của các trường đại học tham gia biên soạn các chuyên đề phục vụ
tập huấn nâng cao nhận thức cộng đồng. Đến nay, chương trình đã nghiệm thu được
25 chuyên đề về môi trường với những thông tin đa dạng và thiết thực.
 Phát hành tờ bướm, áp-phích, panô tuyên truyền: Việc biên soạn và phát
hành tờ rơi, áp-phích, panô tuyên truyền nhằm cô đọng các thông tin về bảo vệ môi
trường cho cộng đồng, và gây sự chú ý tại các khu vực công cộng qua các chiến
dịch, phong trào môi trường. Từ đó nhắc nhở cộng đồng cùng tham gia Bảo vệ môi
trường. Qua 6 năm tuyên truyền, Chi cục đã biên soạn 35 mẫu tờ bướm, áp-phích,


23


panô với số lượng phát hành bao gồm: 2.384.000 tờ bướm, 41.540 áp-phích và 61
panô với nội dung súc tích, dễ nhớ và dễ hiểu nhằm tuyên truyền về các biện pháp
giảm thiểu rác thải, hướng dẫn xử lý rác tại hộ gia đình, Vì đường phố không rác Vì đô thị văn minh, tuyên truyền giao rác đúng giờ, lời khuyên về sử dụng nước
sạch, 21 điều bạn có thể làm để tránh lãng phí nước, sử dụng và bảo vệ nước ngầm,
hãy cứu lấy kênh rạch Tp. HCM, bảo vệ môi trường trong sản xuất công nghiệp,
bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp, học sinh tham gia bảo vệ môi
trường, bảo vệ đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, lịch sử ngày môi trường thế giới
và chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn…
 Phát hành phim tuyên truyền về môi trường: Chi cục đã phối hợp với các đạo
diễn, nhà xuất bản phim dàn dựng 4 phim tuyên truyền ngắn về môi trường với thời
lượng trung bình khoảng 30 phút, phát hành tổng cộng 670 đĩa phim các loại và
cung cấp về cho các đơn vị triển khai tuyên truyền. Ngoài các phim tự xuất bản, Chi
cục đã mua 50 phim phóng sự, tuyên truyền về môi trường từ Tổng cục môi trường
để đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của các đơn vị khi cần thiết.
 Thu thập sách, truyện tranh về môi trường: Tính cho tới thời điểm này, Chi
cục đã thu thập khoảng 400 đầu mục sách, truyện tranh, tạp chí các loại về môi
trường. Do kinh phí mua sách, truyện tranh, tạp chí khá lớn nên không thể mua với
số lượng nhiều để phục vụ mọi đối tượng, các đầu sách trên được sử dụng cho mục
đích triển lãm, cung cấp cho các bạn đọc mượn về tham khảo.


Xây dựng và nhân rộng các mô hình làm điểm về môi trƣờng
Qua các năm, Chi cục đã phối hợp triển khai xây dựng và nhân rộng nhiều mô

hình làm điểm về môi trường, cụ thể:


Từ năm 2007, Chi cục đã phối hợp với Ủy ban Mặt trận tổ quốc thành phố

xây dựng 4 mô hình làm điểm phong trào Toàn dân tham gia bảo vệ môi trường,

đến nay đã nhân rộng thành 13 mô hình tại các quận/huyện 4, 5, 6, 8, Thủ Đức,
Bình Chánh… và phong trào đã được phát triển thành cuộc vận động Toàn dân
tham gia Bảo vệ môi trường, nhiều quận/huyện sau khi thí điểm đã nhân rộng cho
các phường tham gia thực hiện.


24



Năm 2008 – năm thực hiện nếp sống văn minh đô thị, Chi cục đã phối hợp

với UBND các quận/huyện 1, 5, 8, Bình Thạnh, Hóc Môn xây dựng các hô hình làm
điểm về môi trường như: Quận 1 “Văn minh – xanh – sạch”, Triển khai mô hình
“Chợ không rác” tại chợ Bến Thành, “Công viên không rác” tại công viên Lý Tự
Trọng và 10 “tuyến đường không rác” tại 10 phường. Quận 6 “Cửa nhà không rác,
thu gom đúng giờ” nhằm tập trung chấn chỉnh hoạt động thu gom rác, thí điểm
chuyển đổi giờ thu gom rác cho phù hợp và nhân rộng mô hình trên toàn địa bàn.
Quận 8 “Phường không rác” (Thí điểm tại Phường 5): áp dụng mô hình Quản lý
môi trường dựa vào cộng đồng vào cải thiện ô nhiễm và giữ gìn vệ sinh môi trường
tại Phường 5. Bình Thạnh “Chung sức vì kênh rạch xanh”, cải thiện một số tuyến
kênh rạch thông qua tổ chức tuyên truyền và ra quân tổng vệ sinh, vớt rác, nạo vét
tạo thông thoáng dòng tuyến rạch Bùi Hữu Nghĩa, rạch Lăng và rạch Xuyên Tâm.
Hóc Môn “Xác định điểm nóng, xử lý tồn đọng”: Tuyên truyền, vận động người dân
giữ gìn vệ sinh môi trường; hướng dẫn người dân cách thức xử lý rác tại hộ gia
đình; khảo sát xác định và phân cấp giải quyết các điểm ô nhiễm.
b)

Tình hình nghiên cứu trên thế giới




Mô hình phát triển bền vững với sự tham gia của cộng đồng Châu Âu, được

xây dựng thực nghiệm tại Mallorka, Tây Ban Nha – một trung tâm du lịch lớn nhất
Châu Âu. Mô hình gắn kết 3 mục tiêu: bền vững về mặt sinh thái, bền vững về văn
hóa – xã hội và bền vững về kinh tế.


Tại Hoa Kỳ: Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng được xây dựng

và triển khai thực hiện ở nhiều địa phương, tiểu bang của Hoa Kỳ. Từ năm 1995, tổ
chức bảo vệ môi trường Hoa Kỳ đã tiến hành xây dựng các nguyên tắc và đề xuất
các cách tiếp cận hợp lý để đạt tới mục tiêu bảo vệ môi trường dựa vào sự tham gia
của cộng đồng.


Tại Thụy Điển: Vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường được thể

hiện thông qua việc chính phủ tạo điều kiện cho cộng đồng cùng tham gia vào đánh
giá tác động môi trường. Quá trình đánh giá tác động môi trường mang lại hiệu quả
cao khi hướng đến mục tiêu trở thành một quá trình dân chủ.


25



Tại Nhật Bản: Để vận động cộng đồng tham gia vào việc thu gom chất thải


và xây dựng xã hội tái chế, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành những chủ trương,
chính sách thúc đẩy và khuyến khích việc quản lý chất thải rắn dựa trên cơ sở của
sự tham gia tích cực và tự nguyện của các cộng đồng dân cư khác nhau.


Tại Ấn Độ: Chính quyền địa phương trao cho cộng đồng quyền được kiểm

soát những đối tượng gây ô nhiễm môi trường, bất kể đối tượng đó là cơ quan,
doanh nghiệp thuộc nhà nước hay tư nhân. Các cơ quan có trách nhiệm kiểm tả ô
nhiễm môi trường phải có kế hoạch kiểm tra môi trường cụ thể và thông báo cho
cộng đồng dân cư được biết, đồng thời phải xây dựng các báo cáo đánh giá tác động
môi trường với ngôn ngữ dễ hiểu, mạch lạc, thông báo về các kết quả giám sát môi
trường, khi đó cộng đồng dân cư có thể kiểm tra lại chất lượng môi trường thực tế
và có quyền kiện các cơ quan, tổ chức thiếu thực tế sai khác với bảng đánh giá tác
động môi trường đã xây dựng.


Tại Brazil: Cộng đồng tham gia vào việc đổi mới, thay đổi cơ bản hệ thống

cống rãnh bằng cách lựa chọn mức dịch vụ vận hành và bảo dưỡng cơ sở hạ tầng hệ
thống cống. Các gia đình có thể tự do lựa chọn phương án cải thiện hệ thống vệ sinh
hiện có của mình hoặc là đấu nối vào hệ thống thoát nước thông thường (một cống
lộ thiên ở đường phố) hoặc đấu nối vào hệ thống thoát nước chung.


Tại Philippines: Cộng đồng tham gia vào việc xây dựng kế hoạch và tìm

kiếm các giải pháp làm thông thoáng các dòng chảy đã mang lại các kết quả khả
quan trong việc giải quyết các vấn đề về thủy lợi. Cộng đồng tiến hành đóng góp
ngày công lao động và một phần kinh phí, đồng thời khuyến khích người sử dụng tự

nguyện trả các khoản tiền dịch vụ, nâng cao ý thức người dân trong bảo vệ môi
trường.
1.3.2. Một số chƣơng trình nâng cao nhận thức cho đối tƣợng thiếu nhi trong
công tác bảo vệ môi trƣờng
1.3.2.1.

Mô hình “Thiếu nhi tham gia bảo vệ môi trƣờng” của Liên đội

trƣờng Tiểu Cái Nƣớc 1 – Thị trấn Cái Nƣớc


×