Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.21 KB, 27 trang )

VIỆN HẦN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HIỀN

SỰ PHÁT TRIỂN NGỮ NGHĨA
CỦA NHÓM TỪ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 62.22.02.40

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS: Nguyễn Văn Hiệp

Phản biện 1: GS.TS. Lê Quang Thiêm
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Thiện Giáp
Phản biện 3: PGS.TS. Phạm Hùng Việt

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
vào hồi…giờ…phút, ngày…tháng…năm 201



Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
-

Thư viện Quốc gia Việt Nam

-

Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong ngôn ngữ học, nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN) luôn thu
hút sự chú ý đặc biệt của các nhà ngôn ngữ thuộc nhiều khuynh hướng khác. Cho
đến nay, đã có nhiều công trình sách, báo, bài viết ở trong và ngoài nước trình
bày nhiều nghiên cứu thú vị về nhóm từ này. Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu tiếp
cận nhóm từ này hoặc trên phương diện ngữ nghĩa đơn thuần, hoặc ở góc độ ngôn
ngữ tri nhận nhưng các kết quả nghiên cứu còn tương đối đơn lẻ, rời rạc và chưa
mang tính chất hệ thống. Cách tiếp cận như vậy chưa đạt tới bề sâu của vấn đề,
chưa trả lời được nhiều câu hỏi mang tính chất tri nhận. Vì vậy, trong luận án
này, chúng tôi đặc biệt chú ý tới cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận về hiện
tượng phát triển ngữ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến cách tiếp cận của ngôn ngữ học
tri nhận về ẩn dụ và hoán dụ - hai phương thức tri nhận cơ bản, cũng là hai con
đường phát triển ngữ nghĩa cơ bản của nhóm từ này.
Từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Sự phát triển ngữ
nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc độ ngôn ngữ học tri
nhận” với mong muốn đem đến một cái nhìn đa chiều về con đường phát triển
ngữ nghĩa và những chiều kích tâm lí, văn hóa dân tộc gắn với quá trình nghiệm
thân liên quan đến sự phát triển ngữ nghĩa. Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ

góp phần củng cố lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, làm rõ thêm một số vấn đề
ẩn dụ, hoán dụ tri nhận. Luận án cũng mong muốn góp phần thúc đẩy việc nghiên
cứu khuynh hướng lí thuyết về ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, chứng minh ẩn
dụ, hoán dụ tri nhận không chỉ là hình thái tu từ của thi ca mà còn là vấn đề của
tư duy, là một cơ chế cực kì quan trọng để con người nhận thức thế giới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ đặc điểm
chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt dưới ánh sáng của lí
thuyết Ngôn ngữ học tri nhận. Qua đó, luận án góp phần xác định đặc điểm tri
nhận, đặc trưng văn hóa dân tộc qua sự chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN
trong tiếng Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án tập trung giải quyết những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về nghĩa và sự phát
triển nghĩa của từ; tình hình nghiên cứu về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người
trong tiếng Việt.
- Làm rõ các khái niệm liên quan đến đề tài: khái niệm nghĩa của từ, sự
phát triển ngữ nghĩa của từ, các vấn đề lí thuyết thuộc Ngôn ngữ học tri nhận, các
vấn đề lí thuyết hữu quan giữa chuyển nghĩa và ngôn ngữ học tri nhận.
- Tìm hiểu phương thức chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt
theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận thông qua những việc làm cụ thể sau:

1


+ Thông qua tổ chức ý niệm của miền “BPCTN” xác định ý niệm điển mẫu
của miền. Nhận dạng sự phát triển nghĩa của từ qua mô hình tỏa tia của điển mẫu
và hệ thống ánh xạ từ miền nguồn “BPCTN” sang các miền đích khác.

+ Thống kê, phân loại, phân tích các ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm liên
quan “BPCTN” để làm rõ cơ sở chuyển nghĩa và đặc trưng chuyển nghĩa của
nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt.
- So sánh, đối chiếu với tiếng Anh, và một số ngôn ngữ khác trong trường
hợp giá trị tri nhận tương đương nhưng khác biệt về phương thức, hoặc phương
thức tri nhận tương đương nhưng khác biệt về ý nghĩa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành khảo sát sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN
trong tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận qua hai phương thức chuyển
nghĩa ẩn dụ và hoán dụ. Nguồn Ngữ liệu khảo sát: Để tìm hiểu quá trình chuyển
nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học
tri nhận, luận án khảo sát các biểu thức ẩn dụ và hoán dụ ý niệm trong các tác
phẩm văn học (luận án khảo sát khoảng 70 truyện ngắn, tiểu thuyết đương đại và
150 truyện cổ tích; 7.000 câu tục ngữ; 2129 câu ca dao; 1.620 câu đố thuộc nhiều
chủ đề khác nhau); các báo (Thể thao, dân trí, phụ nữ…); các truyện ngắn trên
các tạp chí văn học như Văn nghệ Quân đội, tạp chí Hội Nhà văn, tạp chí Văn
nghệ,… Từ điển tiếng Việt và nguồn ngữ liệu sinh động trong lời ăn tiếng nói
hằng ngày. Ngữ liệu tiếng Anh dùng để đối chiếu trong luận án được trích xuất từ
kho Ngôn ngữ khối liệu Anh (British National Corpus), một công cụ tra cứu văn
bản tại website />4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân tích, miêu tả
Đây là một trong những phương pháp chính để giải quyết các vấn đề của
luận án. Từ những nguồn ngữ liệu đã thu thập, chúng tôi tiến hành phân tích miêu
tả đặc điểm ngữ nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong
tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận.
4.2. Phương pháp phân tích nghĩa tố
Phương pháp phân tích nghĩa tố phân xuất ý nghĩa của từ thành các nghĩa
tố, từ đó nhận diện về sự biến đổi ý nghĩa cơ chế chuyển nghĩa, từ đó xác định mô
hình tỏa tia cơ của từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt. Phương pháp này cũng là
phương pháp nghiên cứu chính trong luận án.

4.3. Phương pháp phân tích ý niệm
Phương pháp này được sử dụng để phân tích các ý niệm miền BPCTN
trong tiếng Việt, từ đó tìm ra đặc trưng riêng trong cách ý niệm hóa miền BPCTN
trong tiếng Việt.
4.4. Phương pháp so sánh
Phương pháp này được sử dụng trong chương 2 và chương 3 nhằm mục
đích so sánh những điểm tương đồng và khác biệt về chuyển nghĩa thông qua quá
trình ý niệm hóa các từ chỉ BPCTN của cộng đồng người bản ngữ nói tiếng Việt
và một số ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Mĩ,... Với phương pháp này, sự phát

2


triển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN được nhìn nhận một cách đa chiều và được
bộc lộ rõ nét hơn.
4.5. Thủ pháp thống kê, phân loại
Luận án sử dụng thủ pháp này để thống kê, phân loại, hệ thống hóa các ẩn
dụ, hoán dụ ý niệm miền BPCTN trong tiếng Việt. Dựa trên kết quả đó, luận án
có thể rút ra một số nhận xét về đặc điểm chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN
trong tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận và xây dựng bức tranh ngôn
ngữ qua ý niệm BPCTN. Danh sách 1087 biểu thức ẩn dụ và hoán dụ ý niệm
được nhập vào máy trên chương trình Microsofl Excel với các thông tin:
STT Từ chỉ BPCTN
Loại (ẩn/ hoán)
Văn cảnh
Xuất xứ
1
xx
xx
xx

xx
Những thông tin này đảm bảo tính chính xác về mặt xuất xứ cũng như sự
rõ ràng về mặt ngữ nghĩa.
Ngoài phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích nghĩa tố, phương
pháp phân tích ý niệm, phương pháp so sánh, đối chiếu và thủ pháp thống kê,
chúng tôi còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học khác như:
phương pháp phân tích ngữ cảnh, phương pháp nghiên cứu trường hợp để giải
quyết các vấn đề cụ thể của luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án có thể được xem là công trình nghiên cứu mới nhất về sự chuyển
nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN nhìn từ bình diện ngôn ngữ học tri nhận. Luận án
chỉ ra cơ chế chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN dưới góc nhìn của ngôn ngữ
học tri nhận, từ đó, tìm ra đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua sự phát triển
nghĩa của nhóm từ này trong tiếng Việt. Các nghiên cứu trước đã tập trung
nghiên cứu sự chuyển nghĩa của nhóm từ này dưới ánh sáng của văn hóa nhưng
các nghiên cứu đó mới chủ yếu tập trung ở một vài thành tố đơn lẻ mà chưa có
tính hệ thống. Dưới ánh sáng của lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận, luận án khảo
sát hệ thống các ẩn dụ và hoán dụ ý niệm qua ngữ liệu để chứng minh tính phổ
quát và đặc trưng riêng về sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng
Việt.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lí luận
Luận án tập trung nghiên cứu chi tiết, toàn diện và hệ thống về sự phát
triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận.
Thực hiện được những nhiệm vụ đã đề ra, luận án sẽ có đóng góp nhất định vào
việc phân tích các đặc điểm chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trên cơ sở
mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và tri nhận, cung cấp thêm những nhận xét, những
ngữ liệu về hiện tượng chuyển nghĩa này trên cơ sở lí luận mới của ngôn ngữ học
tri nhận và trên ngữ liệu của các từ chỉ BPCTN. Luận án có thể góp phần cung
cấp tư liệu để làm phong phú thêm cho lí thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu và bổ

sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận. Luận án sẽ góp
phần thúc đẩy việc nghiên cứu khuynh hướng lí thuyết về ngôn ngữ học tri nhận
ở Việt Nam, góp phần chứng minh ẩn dụ, hoán dụ tri nhận không chỉ là hình thái
tu từ của thi ca mà còn là vấn đề của tư duy, là một công cụ quan trọng để con
3


người nhận thức thế giới.
6.2. Về thực tiễn
Luận án là công trình vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận vào thực
tiễn tiếng Việt, là những lí giải cụ thể về những hiện tượng ngôn ngữ có liên quan
đến ẩn dụ, hoán dụ ý niệm BPCTN trong thực tiễn giao tiếp. Kết quả nghiên cứu
của luận án sẽ giúp cho người bản ngữ có cái nhìn cụ thể hơn khi sử dụng nhóm
từ này trong ngôn cảnh, sử dụng chúng tốt hơn, đa dạng hơn, tinh tế hơn, đạt hiệu
quả giao tiếp cao. Mặt khác, các kết quả này có thể được sử dụng như một tài liệu
tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu hay giảng dạy tiếng Việt trong nhà
trường cũng như góp phần vào việc nghiên cứu, giới thiệu văn hóa Việt Nam.
Tóm lại: Luận án là công trình nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu
về sự phát triển nghĩa của từ chỉ BPCTN theo quan điểm của ngôn ngữ học tri
nhận. Trong khuôn khổ một luận án, chúng tôi cố gắng thực hiện triệt để mục
đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, hi vọng đóng góp vào quá trình phát triển
Ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo và nguồn tư liệu trích dẫn, luận án gồm ba chương sau đây:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2. Phương thức chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người
trong tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
Chương 3. Đặc trưng tri nhận của người Việt qua sự phát triển ngữ nghĩa của
nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Nghĩa của từ nói chung, sự chuyển nghĩa của từ nói riêng là một trong
những vấn đề trung tâm cơ bản của nghiên cứu ngôn ngữ. Cho đến nay, đã có rất
nhiều công trình đề cập đến nội dung này theo các góc độ khác nhau. Vì vậy,
trong chương này, luận án điểm lại một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
đề tài, từ đó xác định cơ sở lí luận có tính đường hướng cho đề tài.
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc
độ ngôn ngữ học cấu trúc
Luận án đã trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển lý thuyết
về nghĩa của từ, chuyển nghĩa của từ. Xuất phát từ những bài viết có tên
Semasiologi (ngữ nghĩa học) của tác giả người Đức Reizing Berary, các nghiên
cứu của tác giả Benjamin, tác phẩm Metaphisical Etymology của tác giả Horne
Tooke, tiếp đó là công trình nghiên cứu Science des significations của tác giả
người Pháp Michel Bréal - được coi là công trình đầu tiên xác lập ngữ nghĩa như
một bộ môm khoa học nhân văn.
Về sự chuyển nghĩa từ vựng, có thể kể đến một số công trình điển hình như:
Language change: Progress or Decay của Aitchison, An introduction to Historical
Linguistics của tác giả Crowley, hoặc Undersanding Language Change của tác giả
4


Mc. Mahon, An introduction to Language của tác giả Fromkin. Qua các tác phẩm
này, các tác giả đã tập hợp và hệ thống hóa những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi
ngôn ngữ.
Ở trong nước phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả: các
công trình của tác giả Đỗ Hữu Châu: Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng và Từ vựng
ngữ nghĩa tiếng Việt, Các công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thiện Giáp
với cơ sở ngôn ngữ, từ vựng học tiếng Việt; Tác giả Lý Toàn thắng với Mấy vấn

đề Việt Ngữ học và ngôn ngữ học đại cương, Dạy học tiếng Việt như một ngoại
ngữ: nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận và ngôn ngữ văn hóa,; Tác giả Nguyễn
Đức Tồn với cuốn Đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ và tư duy. Cùng hướng
nghiên cứu này, còn có các bài viết của các tác giả Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Đức
Dân, Hồ Lê, Cù Đình Tú....và một số luận án như: Luận án tiến sĩ Những đặc
trưng văn hóa của hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt (so sánh với tiếng
Nga) của tác giả Lê Thị Thanh Tâm, luận án Đặc điểm định danh và hiện tượng
chuyển nghĩa trong trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể người trong tiếng Lào
của tác giả Chăm Phommavông, Đặc điểm trường từ vựng ngữ nghĩa tên gọi động
vật của Nguyễn Thúy Khanh …
Tóm lại, theo quan sát của chúng tôi, “ nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của
từ” là một trong những vấn đề trung tâm của ngôn ngữ học cấu trúc. Hiện tượng này
được đề cập trong rất nhiều công trình nghiên cứu. Trong phạm vi của luận án, chúng
tôi chỉ đề cập những vấn đề có liên quan đến đề tài luận án
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc
độ ngôn ngữ học tri nhận
Trên thế giới, những nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm xuất hiện cùng với sự
hình thành của Ngôn ngữ học tri nhận những năm 70 của thế kỉ XX. Công trình
đầu tiên đánh dấu khuynh hướng này chính là Metaphors We Live By (Chúng ta sống
trong ẩn dụ) [125] của G. Lakoff và M. Johnson xuất bản năm 1980. Những năm
qua, Ngôn ngữ học tri nhận thế giới nói chung, nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm nói
riêng đã ghi danh tên tuổi G. Lakoff, M. Johnson, Z. Kovecses, G. Fauconnier, M.
Turner, C. Fillmore, J.E. Grady, M. Green… Các tác giả đã đưa ra một số lí
thuyết, khái niệm mới như nghiệm thân, khung tri nhận, ẩn dụ ý niệm, ánh xạ,
miền ý niệm, không gian tinh thần, pha trộn ý niệm…
Ở Việt Nam, Ngôn ngữ học tri nhận chính thức được quan tâm trong các
công trình nghiên cứu của các học giả Lý Toàn Thắng; Trần Văn Cơ; Nguyễn
Đức Dân, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Hiệp,…
Các nghiên cứu về ngôn ngữ tri nhận đã dành một khoảng khá lớn cho ẩn
dụ ý niệm. Một hướng đi khác là các luận án vận dụng Ngôn ngữ học tri nhận dành

một phần tương đối quan trọng cho nghĩa của từ nói chung và hiện tượng chuyển
nghĩa của từ nói riêng, có thể kể tên các công trình của các tác giả của Võ Thị
Dung [16], Nguyễn Ngọc Vũ [105], Phan Thế Hưng [44] Lê Thị Thanh Tâm [72],
và một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành của tác giả Trần Trọng
Hiếu [33]; Nguyễn Thị Hạnh Phương [68] Tạ Thanh Tân [73]…
Có thể nói, bức tranh toàn cảnh về Ngôn ngữ học tri nhận nói chung, nghĩa
và chuyển nghĩa dưới góc độ ngôn ngữ tri nhận nói riêng nói riêng ở Việt Nam và
5


trên thế giới ngày càng được mở rộng. Trong khuôn khổ và mục tiêu của luận án,
chúng tôi chỉ trình bày dưới đây vấn đề có liên quan trực tiếp nhất tới đề tài
nghiên cứu
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người
Các công trình và tác giả tiêu biểu, trước hết phải kể đến một số nghiên
cứu về chuyển nghĩa của một số bộ phận cơ thể con người trong tiếng Trung
Quốc của Ning Yu như “Body and emotion” (bộ phận cơ thể người và cảm xúc),
Metaphor, body, and culture: The Chinese under - standing of gallbladder and
courage (Ẩn dụ, thân thể và văn hóa: mối quan hệ giữa “gan” và “sự can đảm”,
The eye for sight and mind (Mắt để nhìn và để nhận thức); một số nghiên cứu của
Tomita Kenji về các từ chỉ bộ phận cơ thể người của tiếng Nhật và tiếng Việt
trong tương quan so sánh [dt 54, tr.34].
Nhóm từ chỉ BPCTN cũng được đề cập trong các công trình nghiên cứu
của các tác giả Trong các công trình nghiên cứu của tác giả Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán, Nguyễn Đức Tồn, Lý Toàn
thắng [74], [75] [77]. Tiếp tục hướng nghiên cứu đó, Chăn Phôm Ma Vông với
“Đặc điểm định danh và hiện tượng chuyển nghĩa của trường từ vựng tên gọi bộ
phận cơ thể người tiếng Lào” [4], Đặng Đức Hoàng trong luận án tiến sĩ “Đối
chiếu tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện chuyển đổi ngữ nghĩa”[39], tác giả
Nguyễn Văn Hải với luận án “Các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt

và các từ tương đương trong tiếng Anh”, tác giả Trần Thị Minh với luận văn thạc
sĩ “Hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng trong tiếng Anh và tiếng Việt (trường nghĩa:
người, thực vật)” [53], tác giả Trịnh Thị Thanh Huệ (2012) [41] đã chỉ ra sự
tương đồng và khác biệt trong cách tư duy của hai dân tộc Việt - Hán qua đề tài
“Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Hán từ góc độ
ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu bộ phận cơ thể người)”; luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Hoàng Linh (2013) với đề tài “Đặc trưng tri nhận văn hóa của người
Việt (Qua nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người” [51]); tác giả Lê Thị Khánh Hòa
với luận văn thạc sĩ (2011) “Về cấu trúc vị từ + tên gọi BPCTN (kiểu như Mát
tay, lên mặt, nóng ruột)” [37]; một số bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí
của tác giả Lê Thị Diên Anh [2], tác giả Nguyễn Ngọc Vũ [105]…. Hầu hết các
nghiên cứu này chủ yếu khai thác miền ý niệm là BPCTN, lí giải cơ chế tri nhận
của một số ẩn dụ và hoán dụ, có tham chiếu đến những yếu tố văn hóa, điều kiện
địa lí cũng như cách thức tư duy của từng dân tộc.
Như vậy, cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhóm từ chỉ
“bộ phận cơ thể người” theo những cách tiếp cận khác nhau. Qua đó, có thể nhận
thấy một số điểm như sau:
Một là, các từ chỉ BPCTN là một phần quan trọng và rất lí thú trong vốn từ
vựng của mỗi ngôn ngữ.
Hai là, các từ chỉ BPCTN được nghiên cứu không đồng đều, có những từ
được khảo sát rất sâu, có những từ mới chỉ được đề cập ở mức độ khái quát.
Ba là, nhóm từ chỉ BPCTN đã được nghiên cứu theo nhiều góc độ khác
nhau: có thể được nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học truyền thống, có tính đến
các nhân tố văn hoá, hoặc từ góc độ văn hoá học; hoặc theo hướng ngôn ngữ học
6


tri nhận; hoặc tiếp cận theo kiểu tâm lí ngôn ngữ dân tộc, hoặc từ góc nhìn của
ngôn ngữ văn hoá. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, sự phát
triển nghĩa của nhóm từ này diễn ra như thế nào? Theo những con đường nào?

Đặc điểm tri nhận của người bản ngữ qua sự chuyển nghĩa của nhóm từ này được
thể hiện như thế nào, thì chưa có công trình nào đề cập được một cách chi tiết và
hệ thống.
1.2. Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1. Một số lí thuyết cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận là một hướng nghiên cứu đặt ngôn ngữ trong mối
quan hệ với tâm lí. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi chỉ trình bày những
vấn đề lí thuyết là cơ sở trực tiếp cho quá trình nghiên cứu, các vấn đề khái quát
căn bản, được coi là hệ thống tri thức nền của khoa học tri nhận nói chung, Ngôn
ngữ học tri nhận nói riêng sẽ không được đề cập ở đây.
1.2.1.1. Tính nghiệm thân (Embodiment)
Nguyên lí cốt lõi của Ngôn ngữ học tri nhận là “Dĩ nhân vi trung”, tính
nghiệm thân là giả thuyết được nhiều tác giả quan tâm như Lakoff và Johnson
(1980), Margaret Wilson (2002), Tim Rohrer (2007), Lawrence Sapiro (2011).
Một cách khái quát, thân thể con người là yếu tố ảnh hưởng đến kinh nghiệm, là
cơ sở kích hoạt các ý niệm tạo thành ẩn dụ; mặt khác các kinh nghiệm đã có cũng
chi phối cách nhận thức thế giới, chế biến các kinh nghiệm mới của con người.
1.2.1.2. Ý niệm, ẩn dụ và hoán dụ ý niệm
a. Ý niệm
Ý niệm (concept) là đơn vị cơ bản của Ngôn ngữ học tri nhận, có đặc
trưng miêu tả, đặc trưng tình cảm, ý chí và hình tượng. Hệ thống ý niệm không có
ranh giới rõ rệt, cấu trúc ý niệm là cấu trúc trường-chức năng gồm có trung tâm
và ngoại vi. Ý nghĩa của ý niệm là tổng hòa hình bóng-hình nền. Có bốn kiểu mô
hình tri nhận thường gặp trong quá trình ý niệm hóa: mô hình mệnh đề, mô hình
sơ đồ hình ảnh, mô hình ẩn dụ, mô hình hoán dụ.
b. Ẩn dụ ý niệm
Ẩn dụ ý niệm là sự ý niệm hóa một miền tinh thần qua một miền tinh thần
khác, được gọi là sự ánh xạ (mapping) có hệ thống từ một miền nguồn sang một
miền đích nhằm tạo nên một mô hình tri nhận (mô hình ẩn dụ) giúp lĩnh hội miền
đích cụ thể, hiệu quả hơn. Ngôn ngữ học tri nhận phân biệt ẩn dụ ý niệm và ẩn dụ

ngôn ngữ (chỉ là hình thức của ẩn dụ ý niệm); và coi so sánh là thể yếu của ẩn dụ.
Ẩn dụ được phân loại thành: ẩn dụ cấu trúc; ẩn dụ bản thể và ẩn dụ định hướng.
c. Hoán dụ ý niệm
“Hoán dụ là một quá trình tri nhận trong đó một thực thể ý niệm (phương
tiện)cung cấp sự tiếp nhận tinh thần đến một thực thể ý niệm khác (đích) trong
cùng một miền hoặc cùng một mô hình tri nhận lí tưởng” [123, tr.145]. Có nhiều
cách phân loại, luận án vận dụng cách phân loại hoán dụ theo quan điểm của
Seto.
d. Phân biệt ẩn dụ và hoán dụ ý niệm
 Điểm giống nhau: Ẩn dụ và hoán dụ đều là công cụ nhận thức; Ẩn dụ
và hoán dụ đều là phép chiếu; Ẩn dụ và hoán dụ đều có thể qui ước hoá; Trong cả
7


hai trường hợp ẩn dụ và hoán dụ, những diễn đạt ngôn ngữ xác định các yếu tố
nguồn trong phép chiếu cũng định ra các yếu tố đích.
 Khác biệt giữa ẩn dụ và hoán dụ: - Số lượng miền, Khác chức năng.
Quan hệ giữa ẩn dụ và hoán dụ: 1) hoán dụ là một phần trong ẩn dụ (hoán
dụ là một yếu tố, là động cơ hay cơ sở của ẩn dụ); 2) ẩn dụ thuần túy và hoán dụ
thuần túy ở hai đầu và giữa là các trường.
1.2.1.3. Miền, miền nguồn, miền đích
a. Miền
Miền hay miền ý niệm là bộ tập hợp các ý niệm gần gũi về nội dung tinh
thần như các thực thể tri nhận, các thuộc tính, các quan hệ. Mỗi miền ý niệm
cũng gồm nhiều nhóm ý niệm thuộc các phạm trù khác nhau và tồn tại các điển
dạng.
b. Miền nguồn, miền đích
Miền nguồn (source domain) và miền đích (target domain) là thuật ngữ
quy chiếu tới các miền ý niệm trong cấu trúc ẩn dụ ý niệm. Miền nguồn thường
cụ thể, trực quan, dễ nhận biết; miền đích có xu hướng trừu tượng, khó xác định,

mới mẻ với nhận thức hoặc kinh nghiệm. Miền ý niệm có tính độc lập tương đối,
còn miền nguồn-đích gắn chặt với ẩn dụ ý niệm.
1.2.1.4. Ánh xạ
Ánh xạ (mapping) là sự phóng chiếu giữa những yếu tố của miền nguồn và
những yếu tố tương ứng của miền đích. Bản chất của ánh xạ là cố định, đơn tuyến
và cục bộ. Cơ chế của ánh xạ là được kích hoạt căn cứ vào cơ thể, kinh nghiệm
và tri thức. Thuyết pha trộn ý niệm là một cách nhìn khác hơn về ánh xạ. Đó là sự
tích hợp của bốn không gian tinh thần với quan hệ ánh xạ đa chiều.
1.2.1.5. Điển mẫu
Điển mẫu (prototype) là khái niệm gắn với phạm trù tri nhận và sự phạm
trù hóa. Đó là thành viên điển hình, ở vị trí trung tâm của phạm trù, đó là thí dụ
tốt nhất, nổi bật nhất.
1.2.1.6. Mô hình tri nhận
Mô hình tri nhận (cognitive model) những cách thức chung để ý niệm hóa
thế giới khách quan. Có bốn kiểu mô hình tri nhận:
- Mô hình mệnh đề.
- Mô hình sơ đồ hình ảnh.
- Mô hình ẩn dụ.
- Mô hình hoán dụ.
1.2.2. Sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận
1.2.2.1. Nghĩa của từ và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc độ cấu trúc luận
a. Quan niệm về nghĩa của từ
Luận án đưa ra một số quan niệm về nghĩa của từ của các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước, nhìn chung các ý kiến bàn về nghĩa của từ đồng quy ở hai
nội dung: Nghĩa của từ là một bản thể nào đó (đối tượng, khái niệm hay sự phản
ánh.. và Nghĩa của từ là một quan hệ nào đó (quan hệ của từ đối với đối tượng
hoặc quan hệ của từ đối với khái niệm ...)

8



Luận án thừa nhận quan điểm “Nói tóm lại, nghĩa của từ nói chung: a/ là
một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau; b/ Giá trị của nét
nghĩa không như nhau (giữa các nét nghĩa có quan hệ cấp bậc) biểu hiện ở khả
năng tham gia khác nhau vào việc thực hiện chức năng thông báo; c/ Các nét nghĩa
có tính độc lập tương đối…” [66, tr.15].
b. Nét nghĩa và cấu trúc nghĩa của từ
Nét nghĩa được hiểu là một dấu hiệu logic ứng với một thuộc tính chung của
sự vật, hiện tượng (biểu vật) được đưa vào nghĩa biểu niệm...” [10, tr.172].
c. Hiện tượng nhiều nghĩa và sự chuyển biến ý nghĩa của từ
Hiện tượng nhiều nghĩa của từ gắn liền với hiện tượng chuyển nghĩa của từ.
Quá trình chuyển nghĩa của từ là quá trình chuyển đổi ý nghĩa từ nghĩa này sang
nghĩa khác hoặc từ một nghĩa sang nhiều nghĩa. Các nhà ngôn ngữ thừa nhận trong
quá trình chuyển nghĩa, các nghĩa cũ và nghĩa mới của từ có mối quan hệ với
nhau theo cách nào đó.
1.2.2.2. Hiện tượng chuyển nghĩa nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
Dưới góc nhìn tri nhận, hiện tượng chuyển nghĩa của từ không chỉ là sự
thay đổi tên gọi một cách đơn thuần mà nó còn là hiện tượng mang tính ý niệm,
gắn với quá trình ý niệm hóa, là sự phóng chiếu từ miền ý niệm này sang miền ý
niệm khác.
1.2.2.3. Chuyển nghĩa xét trong mối quan hệ bộ ba: ngôn ngữ - tri nhận - văn hóa
Bộ ba ngôn ngữ - tư duy, ý thức (hay rộng hơn: tri nhận) - văn hóa có mối quan
hệ hết sức chặt chẽ. Ngôn ngữ tồn tại không độc lập hoàn tòn với văn hóa và tư duy,
trái lại chúng có ảnh hưởng và tác động qua lại.
1.2.3. Khái quát về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người
1.2.3.1. Số lượng tên gọi từ chỉ bộ phận cơ thể
Số lượng bộ phận cơ thể con người đã được tiếng Việt chia cắt định danh là
289. Để định danh 289 BPCTN, tiếng Việt đã sử dụng 397 tên gọi (gồm cả tên gọi
biến thể). Trong số 397 tên gọi BPCTN có 263 tên gọi thuần Việt và 134 tên gọi
vay mượn. Các tên gọi BPCTN không phải thuần Việt chủ yếu được vay mượn từ

tiếng Hán (132/134 từ). Số tên gọi được vay mượn từ ngôn ngữ Ấn - Âu trong tiếng
Việt không đáng kể (2 từ).
1.2.3.2. Phân lập tên gọi bộ phận cơ thể người
- Trường nghĩa chỉ các bộ phận thuộc phần đầu: Mặt, tóc, râu, ria, lòng,
môi, miệng, mồm, má, hàm, lợi, răng, lưỡi, cổ họng, cằm, mép, mũi, lỗ mĩ, sống
mũi, mắt, khóe mắt, mí, mày, khóe môi, cổ, yết hầu, họng, gáy, đỉnh, thóp, trốc,
chỏm, mai, mái, tái dương, mang tai, tai, chầm, trán, con ngươi, óc, não,đầu, sỏ,
sọ...
- Trường nghĩa chỉ các bộ phận thuộc phần nội tạng: Tim, lòng, dạ/ mề,
phổi, cật, thận, bụng, gan…
- Trường nghĩa chỉ các bộ phận thuộc phần còn lại: Thân, mình, eo, tay,
khuỷu, cùi, cánh tay, bắp, cẳng, cổ tay, ngón, đốt, móng, bàn, mu, vai, bả vai,
sườn, lườn, lưng, sống lưng, cật, thận, ngực, nách, vú, thắt lưng, hông, mông, đít,
bẹn, hang, mu, rốn, trôn, khớp. Đùi, cẳng, chân, giò, bắp, vế, đầu gối, cổ chân,
bàn chân, móng, ngón, đốt, gót, mu, ống, khoeo, bánh chè….
9


1.2.3.3. Đặc điểm cấu tạo và đặc điểm ngữ nghĩa của các từ thuộc trường nghĩa chỉ bộ
phận cơ thể người
Kết quả nghiên cứu trong công trình nghiên cứu “Đặc trưng Văn hóa - Dân
tộc của ngôn ngữ và tư duy” [92], tác giả đã chỉ ra:
Về đặc điểm cấu tạo của từ chỉ BPCTN: Trong trường từ vựng - ngữ nghĩa
tiếng Việt có gần 27% (108/309) tên gọi BPCTN là từ đơn tiết, được cấu tạo trên
cơ sở sử dụng một tổ hợp âm tố biểu thị đặc trưng nào đó được chọn lựa từ trong
số các đặc trưng của BPCT.
Về đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN: chúng tôi nhận thấy,
trong từ điển giải thích, về cơ bản các soạn giả đã áp dụng cách tường giải nghĩa
của nhóm từ này theo lối miêu tả, một số ít tên gọi còn lại được giải thích bằng
cách dùng từ đồng nghĩa. Trong cấu trúc nghĩa biểu niệm của nhóm từ này

thường chứa các nét nghĩa (semantic feature) về hình dáng, vị trí, chức năng, kích
thước, thuộc tính vật lí, màu sắc thời gian , cấu trúc, tính sở thuộc, trong đó, có
những nét nghĩa hạt nhân hình dáng, vị trí, chức năng và các nét nghĩa ngoại vi
như kích thước, màu sắc, tính sở thuộc…
Tiểu kết
Nghiên cứu về nghĩa của từ nói chung, và chuyển nghĩa của từ nói riêng là
vấn đề vô cùng phức tạp. Cho đến nay, đã tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về
nghĩa của từ. Các uqn điểm này xaoay quanh hai nội dung: nghĩa của từ đồng quy
ở hai nội dung: Nghĩa của từ là một bản thể nào đó (đối tượng, khái niệm hay sự
phản ánh; hoặc nghĩa của từ là một quan hệ nào đó (quan hệ của từ đối với đối
tượng hoặc quan hệ của từ đối với khái niệm ...).
Sự phát triển ngữ nghĩa của từ là hiện tượng mang tính phổ quát ở mọi
ngôn ngữ. Theo quan niệm của ngôn ngữ học truyền thống thì phát triển nghĩa
của từ là cách biến đổi từ nghĩa ban đầu, nghĩa gốc sang nghĩa mới, nghĩa chuyển
dựa trên hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản đó là ẩn dụ và hoán dụ. Theo quan
điểm của ngôn ngữ học tri nhận, phát triển nghĩa không chỉ là vấn đề của ngôn
ngữ mà còn là hiện tượng mang tính ý niệm. Khả năng tri nhận chủ yếu của con
người là sự ý niệm hóa kinh nghiệm để giao tiếp và sự ý niệm hóa các tri thức
ngôn ngữ mà chúng ta có nên cần phải nghiên cứu tất cả các phương diện của cấu
trúc ý niệm cũng như quá trình ý niệm hóa ở các hiện tượng từ vựng ngữ nghĩa
như đa nghĩa, sự chuyển nghĩa, các phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ.
Ngôn ngữ học tri nhận tiếp cận ngôn ngữ dựa trên kinh nghiệm và cách
thức con người tri giác, ý niệm hóa về thế giới. Đối tượng nghiên cứu quan trọng
nhất của ngôn ngữ học tri nhận đó là ý niệm, đó là đơn vị của ý thức bao hàm cả
nôi dung tri thức của khái niệm và các kinh nghiệm. Ý niệm được hình thành trên
một vùng tri nhận là kết quả của quá trình ý niệm hóa.
Ẩn dụ, hoán dụ ý niệm là sự ý niệm hóa một miền tinh thần qua một miền
tinh thần khác được gọi là sự ánh xạ (mapping) có hệ thống từ một miền nguồn
sang một miền đích nhằm tạo nên một mô hình tri nhận. Các khái niệm miền
nguồn - đích, ánh xạ là chìa khóa để nghiên cứu sự chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ

BPCTN dưới góc độ tri nhận.
Trong sự đối sánh với hoán dụ ý niệm, ẩn dụ có nét tương đồng cũng như
10


khác biệt. Ẩn dụ và hoán dụ đều là phương thức tri nhận, liên quan đến các thực
thể khác nhau nhưng ẩn dụ kết nối hai miền ý niệm khác biệt còn hoán dụ chỉ liên
quan tới một miền. Cơ chế của ẩn dụ là kinh nghiệm còn hoán dụ chịu chi phối
mạnh của hiệu lực điển mẫu. Tuy không phải là một, nhưng trong nhiều trường
hợp, sự phân biệt ẩn dụ và hoán dụ là tương đối phức tạp. Hơn thế, do quá trình ý
niệm hóa nhiều lần, số lượng các khung tri nhận hòa trộn tăng lên, dẫn tới hiện
tượng một mô hình tri nhận là sản phẩm của cả ẩn dụ và hoán dụ.
Luận án vận dụng lí thuyết về nghĩa của từ, sự chuyển nghĩa của từ và
những vấn đề có liên quan khác của ngôn ngữ học tri nhận để nghiên cứu sự
chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN ở các chương tiếp theo.
Chương 2
PHƯƠNG THỨC CHUYỂN NGHĨA CỦA NHÓM TỪ
CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TRONG TIẾNG VIỆT
TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Hệ thống ánh xạ từ ý niệm miền nguồn BPCTN đến các miền đích khác
phản ánh quá trình chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt. Theo
lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, ánh xạ cũng là căn cứ để xác định, phân loại
các ẩn dụ và hoán dụ ý niệm . Vì vậy, trước khi tìm hiểu hệ thống ẩn dụ, hoán dụ
ý niệm, luận án tập trung trình bày các nội dung có tính chất nền tảng như: tổ
chức ý niệm miền BPCTN trong tiếng Việt, xác định các điển mẫu từ đó xây
dựng các mô hình tỏa tia của điển mẫu; khảo sát hệ thống ánh xạ từ miền nguồn
BPCTN tới các miền đích khác.
2.1. Tổ chức ý niệm của miền “bộ phận cơ thể người”
2.1.1. Ý niệm “bộ phận cơ thể người”
2.1.1.1. Khái niệm hạt nhân của ý niệm “BPCTN

Hạt nhân của ý niệm này gồm 397 thành viên (tên gọi các BPCTN) như:
Đầu, mình, chân, tay, miệng, mũi, mắt , chân, lưng, bụng, mình, thân….
2.1.1.2. Các giá trị ngoại vi của ý niệm “bộ phận cơ thể người”
Ý niệm có cấu trúc trường - chức năng được tổ chức theo mô hình trung
tâm và ngoại vi. Nếu như ở trung tâm là khái niệm hạt nhân thì ở ngoại vi là một
dải các yếu tố văn hóa thống nhất với nhau tạo thành trường giá trị của ý niệm,
gồm: Văn hóa dân tộc, Văn hóa nhóm xã hội, Văn hóa cá nhân, Văn hóa vùng,
Văn hóa tộc người.
2.1.2. Các nhóm ý niệm của miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” và điển mẫu
2.1.2.1. Các nhóm ý niệm của miền ý niệm “bộ phận cơ thể người”
Trên cơ sở các căn cứ đã phân tích về thành tố của ý niệm “bộ phận cơ thể
người”, để thu được kết quả khách quan phục vụ mục đích của luận án, như đã có
dịp nói trong phần Mở đầu, chúng tôi đã lựa chọn các ngữ liệu để khảo sát thuộc
nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện hiện đại, truyện cổ tích, ca dao, tục
ngữ, câu đố, các loại báo (Văn nghệ quân đội, Thể thao, Tuổi trẻ…).
Kết quả khảo sát, chúng tôi thu được 1807 biểu thức chuyển nghĩa của
nhóm từ chỉ BPCTN, cụ thể về số lượng:
Bảng 2.1. Thống kê ý niệm thuộc miền “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt

11


STT

Số
lượng
736
612
459
1807


Nhóm

Tỉ lệ

1
Phần đầu (mặt, mũi, miệng, mồm...)
40,73%
2
Phần nội tạng (bụng, lòng, dạ, gan, tim, phổi…)
33,87%
3
Các bộ phận thuộc phần khác (tay, chân, vai, lưng...)
25,4%
Tổng
100%
2.1.2.2. Điển mẫu
a. Điển mẫu của miền ý niệm bộ phận cơ thể người
Điển mẫu là thành viên điển hình một tập hợp, đó là thí dụ tốt nhất. Thông
qua các tiêu chí khảo sát, 5 điển dạng của miền ý niệm BPCTN gồm: đầu, mặt,
tay, lòng, bụng
b. Sự vận động của các điển mẫu
Trên cơ sở xác định các nghĩa chuyển luận án đã thể hiện mối quan hệ
giữa các nghĩa theo mô hình tỏa tia. Mô hình tỏa tia của ý niệm (từ) BPCTN là
mô hình khái quát sự phát triển ngữ nghĩa của từ, dựa trên sự phân biệt của các
thành tố và mối liên hệ ý nghĩa của nguyên mẫu, ý nghĩa của các nhánh lớn và
các nét nghĩa phái sinh. Thành tố trung tâm là nghĩa gốc của từ, các nghĩa chuyển
ẩn dụ và hoán dụ có vai trò mở rộng mô hình tỏa tia.
Nhận xét :
Nhìn một cách khái quát, quá trình tỏa tia của các điển mẫu có một đồng

hình với cơ chế phát triển nghĩa từ vựng. Sự đồng hình này được thể hiện rõ ở:
phần lớn các nghĩa phái sinh trong mô hình tỏa tia là trùng với các nghĩa chuyển
của từ (theo quan điểm ngôn ngữ học cấu trúc) theo hai phương thức chuyển
nghĩa ẩn dụ và hoán dụ. Chẳng hạn, trường hợp của từ đầu: các nghĩa 1, 2
chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ; các nghĩa 3, 4, 5, 6, 7 chuyển nghĩa theo
phương thức ẩn dụ (nghĩa 3, 4 chuyển nghĩa theo nét nghĩa vị trí; nghĩa 5, 6, 7
chuyển nghĩa theo nét nghĩa chức năng). Tuy nhiên, sự đồng hình này không phải
là đồng nhất, bởi sự chuyển nghĩa theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận có
phạm vi rộng hơn, phong phú hơn. Điều này được thể hiện ở một số nghĩa phái
sinh có trong mô hình tỏa tia mà chưa được ghi trong hệ thống từ điển.
2.2. Ánh xạ giữa miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” tới các miền ý niệm khác
Sự chuyển nghĩa của hàng loạt từ từ miền nguồn BPCTN sang các miền
đích là một quá trình ánh xạ. Vì vậy, Trong phần này, luận án tập trung khảo sát
sự ánh xạ một chiều giữa miền ý niệm nguồn “BPCTN” tới các miền ý niệm khác

2.2.1. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền ý niệm “không gian”

Sự tri nhận về không gian của người Việt mang đậm dấu ấn của nguyên lí
“dĩ nhân vi trung”. Với tư cách là ý niệm miền nguồn, các BPCTN thường được
kích hoạt để tri nhận vị trí, hướng của không gian hình thành những “bản đồ
không gian”: trên đầu, dưới chân, trước mặt, sau lưng, mặt trước, mặt sau, mặt
trái, mặt phải hoặc không gian địa lí đầu thôn, đầu xóm, lưng trời, trong lòng,
trong bụng, đáy lòng… Cấu trúc này tạo nên một hệ thống thống nhất trong tri
nhận về thế giới khách quan. Chẳng hạn, theo vị trí của BPCTN, hình thành các

12


ánh xạ: TRONG LÀ RUỘT - NGOÀI LÀ DA; TRÊN LÀ ĐẦU - DƯỚI LÀ
CHÂN; TRƯỚC LÀ MẶT - SAU LÀ LƯNG….


2.2.2. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền ý niệm “thời gian”

Trong hệ thống ánh xạ từ miền “BPCTN” đến miền thời gian, thành tố
được kích hoạt chủ yếu nhất và có tính hệ thống là bộ phận “đầu” chẳng hạn:
đầu tiết học, đầu buổi, đầu tuần, đầu tháng, đầu năm, đầu mùa,…Trong những ý
niệm này, “đầu” được tri nhận là khoảng thời gian trước nhất. Ngoài ra, trong
các kết hợp khác, miền “BPCTN” còn ánh xạ lên một khoảng thời gian tâm tưởng
thông qua các ý niệm: lọt lòng (mới sinh), đầu xanh (thanh niên), tóc bạc da mồi
(thời gian về già), nhắm mắt xuôi tay (lúc chết).
2.2.3. Ánh xạ từ miền “bộ phận cơ thể người” tới miền “con người”
Trong xu hướng nhận thức về con người miền ý niệm “BPCTN” được huy
động hầu hết các thành viên để giúp cấu trúc hóa ý các ý niệm trừu tượng hơn.
Những ánh xạ này rất quen thuộc, không khó bắt gặp trong ngôn ngữ hằng ngày: đau
lòng, buồn lòng, đau tim, sợ mất mật, nóng mặt, mắt sáng lên, đau tim…
Theo kết quả khảo sát, các ý niệm ánh xạ từ miền nguồn là “BPCTN” đến miền
đích “con người” tạo thành các hoán dụ ý niệm có số lượng phong phú và phức tạp nhất
như: BPCTN LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC, BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI LÀ TÂM
TRẠNG CON NGƯỜI, BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI LÀ TÍNH CÁCH CON NGƯỜI….
Những ý niệm này sẽ được phân tích kĩ hơn qua các biểu thức ẩn dụ, hoán dụ trong
phần tiếp theo của luận án.
2.2.4. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền đích “đồ vật”
Lược đồ ánh xạ cho thấy một thực tế, ý niệm được tái cấu trúc chủ yếu chính
là các ý niệm là bộ phận của đồ vật. Điều này phản ánh sự tri nhận về đồ vật của
người. Đồ vật giống như một cơ thể sống động, nó cũng bao gồm các thành tố bộ
phận chân, tay, mặt, mắt, mũi…Vì vậy, những ánh xạ trên đây rất quen thuộc, được
sử dụng một cách phổ biến trong đời sống hằng ngày: mặt bàn, mặt tủ, mặt hồ, mặt
ao, chân bàn, chân ghế, chân trời, răng bừa, răng cưa, răng lược

2.2.5. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền đích “thực vật”


Phạm trù thực vật gồm các thành tố hết sức phong phú: bộ phận, chức
năng, đặc điểm, quá trình sinh trưởng và phát triển… Qua khảo sát, chúng tôi
nhận thấy, khi tri nhận ý niệm “thực vật”, các thành tố thuộc miền nguồn
“BPCTN” được kích hoạt chủ yếu là những bộ phận lộ diện, dễ dàng được con
người tri nhận như: mắt, tay, thân, đầu, sườn…. Các thành tố thuộc miền nguồn
này chủ yếu ánh xạ sang các bộ phận của thực vật tạo nên các biểu thức ẩn dụ
quen thuộc: đốt mía, đốt tre; mắt tre, mắt mía, mắt dứa, mắt na, mắt mầm của
củ khoai tây; tay bầu, tay bí; ruột tre, ruột nứa, ruột bí, ruột bầu,…
Nhận xét:
Sự phong phú, đa dạng của hệ thống ánh xạ phản ánh sự chuyển nghĩa,
chuyển trường một cách linh hoạt, phong phú của nhóm từ chỉ BPCTN.
Qua khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy các nhóm ý niệm miền “BPCTN” được
phóng chiếu lên rất nhiều các miền đích thuộc các lĩnh vực khác nhau. Các ánh
xạ ẩn dụ và hoán dụ này có mức độ phong phú khác nhau, tuy nhiên, số lượng
này không phản ánh giá trị của ánh xạ hay ẩn dụ và hoán dụ mà đó là biểu hiện
13


bản chất của các ánh xạ.
Sự ánh xạ đến - đi từ miền “BPCTN” không tách biệt hoàn toàn cũng
không nối tiếp nhau. Các ánh xạ bản thể hóa, ánh xạ định hướng giúp mở rộng
tri nhận về miền “BPCTN”. Nói cách khác, chúng được miền ý niệm này tiếp
nhận, dung nạp, chuyển hóa thành tri thức cơ sở để tiếp tục cấu trúc hóa cho các
miền đích khác.
2.3. Pha trộn miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” với các miền ý niệm khác
Trên ngữ liệu khảo sát thực tế, có những hiện tượng mà ánh xạ một chiều
thực sự không thể lí giải và đưa ra một mô hình tri nhận hợp lí. Những trường
hợp như vậy cần vận dụng lí thuyết pha trộn ý niệm
2.3.1. Mô hình ý niệm ba miền không gian pha trộn

Cấu trúc ý niệm kép thường mang lại một ý niệm hoàn toàn mới. Đó là
kiểu “dồn nén” ý niệm trong một không gian tinh thần cho phép. Trong phần
này, luận án chỉ quan tâm các ý niệm kép có liên quan tới miền “BPCTN”. Về
mặt ngôn ngữ, các cấu trúc này thường có dạng tên gọi “BPCTN + X” (mặt mo,
mặt thớt,...) hoặc “X + Tên gọi BPCTN” (rộng lòng, hẹp bụng,…) ,…). X có thể
là các danh từ, động từ hoặc tính từ. Điểm chung của các cấu trúc này là các ý
niệm kép đã tạo ánh xạ giữa hai miền không gian nhập, kết nối và lựa chọn các
yếu tố tương ứng để ánh xạ vào không gian pha trộn đem lại những kết hợp mới
cả về hiện thực khách quan cũng như các liên tưởng kèm theo.
2.3.2. Mô hình ý niệm bốn miền không gian pha trộn
Miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” có sự hoạt động pha trộn ý niệm theo mô
hình 4 miền, thường thể hiện qua một số cấu trúc như quen thuộc như: đầu Ngô mình
Sở, đầu chày đít thớt, miệng nam mô bụng bồ dao găm,…. Dưới đây là mô hình minh
họa ánh xạ ẩn dụ 4 miền trong cấu trúc “Anh em như thể chân tay”.
2.3.3. Mô hình ý niệm phức hợp
Các mô hình pha trộn nhiều khi cũng chỉ tồn tại ở dạng khái quát, các ẩn
dụ thực tiễn luôn phong phú, đa dạng hơn nhiều như sự xuất hiện của các mô
hình phức hợp liên quan đến ẩn dụ ý niệm “BPCTN”: ẩn dụ - hoán dụ, ẩn dụ
trùng phức.
2.4. Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ ý niệm miền “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt
2.4.1. Ẩn dụ ý niệm “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt
2.4.1.1. Ẩn dụ bản thể ý niệm “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt
“Ẩn dụ bản thể cho phép người nói hình dung những kinh nghiệm của mình
dưới dạng các thực thể, vật chất và vật chứa nói chung, không cần định rõ thêm loại
thực thể, vật chất hay vật chứa”vi [125, tr.328].
Theo kiểu ẩn dụ này, các BPCTN như là những vật chứa cảm xúc, tiền bạc, cơ
hội…
(a) LÒNG, BỤNG, GAN, LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC, SUY NGHĨ
- Hắn nghĩ bụng, bây giờ mà trời sáng, chắc cả làng nhận ra mình mất . (Tiếu
lâm Việt Nam – Tam Tam tuyển chọn)

- Tôi đem lòng yêu Nga ngay từ buổi đầu gặp cô ấy. (37 truyện ngắn –
Nguyễn Thị Thu Huệ)
(b) GAN LÀ VẬT CHỨA SỰ TỨC GIẬN
14


- Tức đầy gan đầy ruột. (Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 2,
Nguyễn Xuân Kính)
(c) ĐẦU/ NÃO/ ÓC LÀ VẬT CHỨA
- Tôi cóc sợ mà thiết nghĩ đầu óc nó chứa bã đậu hay thứ rác rưởi gì mà
dám lên đời đe dọa tôi…(Phải lấy người như anh – Trần Thu Trang)
(d) MẮT LÀ VẬT CHỨA
- Có những ngày dài lê thê, ánh hoàng hôn lặng lẽ phủ đầy đôi mắt . (Đi
tìm một nửa của mình – Thanh Lan)
(e) TAY LÀ VẬT CHỨA
- Nắm trong tay quyền lực tuyệt đối có thể lựa chọn đội thắng cuộc, liệu
HLV Cris Horwang sẽ “nể tình xưa” với Lukkade hay công bằng với những
người mới… (Báo dân trí)
(f) MIỆNG LÀ VẬT CHỨA
- Bệnh ngoài miệng chui vào, vạ trong miệng trào ra. (Tổng tập văn học
dân gian người Việt, tập 2, Nguyễn Xuân Kính)
2.4.1.2. Ẩn dụ định hướng
“Ẩn dụ ý niệm định hướng cho phép người nói xác lập một tập hợp các ý
niệm đích mạch lạc bằng một số định hướng không gian cơ bản của con người,
chẳng hạn trên - dưới, trong - ngoài, trung tâm - ngoại vi, và tương tự” [125,
tr.328].
(a) Định hướng lên - xuống
(a1) VUI LÀ ĐỊNH HƯỚNG LÊN CỦA CÁC BỘ PHẬN CƠ THỂ, BUỒN LÀ
ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG
- Cảm giác gì đó lạ lắm, vui, đúng rồi…. lòng hắn chắc hẳn đang bay

trên chín tầng mây (Truyện ngắn tình yêu - Thanh Lan).
- Nói lời chia tay Thanh, lòng cô nặng trĩu. (Cạm bẫy tuổi mới lớn –
Hoài Thương)
(a2) TỰ HÀO LÀ NGỬA MẶT LÊN, XẤU HỔ LÀ CÚI ĐẦU XUỐNG
- Làm kẻ cả phải ngửa mặt lên. (Tổng tập văn học dân gian người Việt,
tập 2, Nguyễn Xuân Kính)
- Nó òa khóc trong giây phút cha cúi đầu nhận tội. (Phút hối hận –
Khánh Ly)
(b) Định hướng ra – vào: ĐỊNH HƯỚNG VÀO CỦA BỘ PHẬN CƠ THỂ LÀ
SỰ TẬP TRUNG; ĐỊNH HƯỚNG RA LÀ SỰ LƠ LÀ THIẾU TẬP TRUNG
- Cả ngày chỉ thấy chú tôi cắm đầu cắm cổ vào cuốn sách để tìm một chi
tiết nhỏ ấy. (Tôi Thấy hoa vàng trên cỏ xanh – Nguyễn Nhật Ánh)
- Bọn trẻ con ngồi dưới lớp ra vẻ hiểu lắm, thế nhưng mắt chúng để
ngoài sân – nơi có những bong bóng mưa. (Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng –
Nguyễn Nhật Ánh)
(c) Định hướng trước - sau
(c1) CÔNG KHAI TRƯỚC MẶT, GIẤU GIẾM SAU LƯNG
- Anh đã có vợ sau lưng/ Có con trước mặt, anh đừng chơi hoa. ( Ca dao
- Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 2, Nguyễn Xuân Kính)
- Trước mặt vợ, anh ta tỏ ra là người chồng chung tình, thế nhưng sau
15


lưng anh ta lại lén lút hẹn hò với cô gái khác. (Ngoại tình hiện đại – Vy Oanh)
(c2) TƯƠNG LAI ĐỊNH VỊ Ở TRƯỚC MẮT, QUÁ KHỨ Ở SAU LƯNG:
- Bỏ lại quá khứ sau lưng, anh quyết tâm làm lại cuộc đời. (Lập thân –
Thanh Sơn)
- Trước mắt anh, ánh sáng le lói ngày mới đang ló rạng xa phía chân
trời…(Mảnh vỡ của đàn ông - Hồ Anh Thái)
2.4.1.3. Ẩn dụ cấu trúc

“Ẩn dụ ý niệm cấu trúc cho phép người nói hiểu miền đích dưới dạng cấu
trúc của miền nguồn. Cách hiểu này dựa trên một bộ những tương ứng ý niệm
giữa các thành tố của hai miền” [125, tr.329]. Qua khảo sát, chúng tôi phân chia
thành một số tiểu loại ẩn dụ cấu trúc sau:
(a) THỰC VẬT LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
(b) ĐỒ VẬT LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
(c) THỰC THỂ, HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
(d) KHÔNG GIAN, THỜI GIAN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
Tóm lại, ẩn dụ ý niệm “bộ phận cơ thể người” gồm ba loại ẩn dụ bản thể,
ẩn dụ định hướng, ẩn dụ cấu trúc. Nếu như việc phân loại cơ chế ánh xạ chỉ
mang tính tương đối thì hệ thống ẩn dụ ý niệm lại có tính rành mạch, có thể liên
hệ phức tạp nhưng không chồng lấn lên nhau. Sự phân tách này chính là hệ quả
của tính cố định, tính cục bộ của ẩn dụ ý niệm.
Hệ thống ẩn dụ ý niệm miền “BPCTN” trong tiếng Việt có tính tầng bậc
rõ nét, nhiều ẩn dụ là kết quả của sự cộng hưởng từ các hoán dụ và ẩn dụ khác
thuộc/không thuộc miền ý niệm “BPCTN”. Điều này cho thấy tính phức tạp của
tri nhận, sự xuyên thấm và chuyển hóa giữa các mô hình tri nhận nói chung, và
giữa ẩn dụ với hoán dụ nói riêng trong vị thế phân bố bổ sung.
Bên cạnh những đặc điểm chung như tất cả các loại ẩn dụ ý niệm, ẩn dụ
“BPCTN” có đặc điểm nổi bật là tính hệ thống ổn định về tư duy hài hòa với sự
sáng tạo trong văn học, giao tiếp.
2.4.2. Hoán dụ ý niệm “bộ phận cơ thể người”
2.4.2.1. Bộ phận cơ thể người đại diện cho người
(a) MẶT ĐẠI DIỆN CHO NGƯỜI
- Hôm nay, nhà trai đến xem mặt cô dâu (Báo)
(b) TAY ĐẠI DIỆN CHO NGƯỜI
- Đó là tay ghi ta rất chuyên nghiệp.
(a) TAY THAY CHO KĨ NĂNG
- Nữ tác giả “mát tay” ở nhiều lĩnh vực…(Báo)
2.4.2.2. Bộ phận cơ thể người đại diện cho tính cách, phẩm chất, ý chí của con người

(a) BỤNG, LÒNG ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH, PHẨM CHẤT CON NGƯỜI
(a1) BỤNG, LÒNG ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH NGAY THẲNG, THỦY CHUNG
- Bụng thẳng như tờ giấy phong. (Tổng tập văn học dân gian người Việt,
tập 2, Nguyễn Xuân Kính)
(a2) BỤNG ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH XẤU XA, ĐỘC ÁC
- Bụng gian miệng thẳng. (Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 2,
Nguyễn Xuân Kính)
16


Trong những biểu thức này, có sự tương tác giữa ẩn dụ BỤNG LÀ VẬT
CHỨA và BỤNG ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH CON NGƯỜI.
(b) TIM, GAN, LÒNG, DẠ ĐẠI DIỆN CHO Ý CHÍ CON NGƯỜI: Trong tiếng
Việt, kiểu hoán dụ này thường kết hợp với các ý niệm như: QUYẾT TÂM LÀ VẬT
CỨNG, TÌNH CẢM LÀ CÂY THẲNG ĐỨNG:
- Long thuyết phục Thùy đã nhiều lần, nhưng cô vẫn không xiêu lòng.
(Những mảnh ghép tình yêu – Thu Huệ)
(c) MẶT ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH CON NGƯỜI
(c1) MẶT ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH TRƠ LÌ
- Ông Hai quát ông ổng trong nhà thế mà thằng Hải con ông cứ trơ cái mặt
ra. (Gió về làng - Vũ Phong)
(c2) MẶT ĐẠI DIỆN CHO SỰ THAY ĐỔI VỀ BẢN CHẤT CỦA CON
NGƯỜI: giở mặt, sấp mặt, trở mặt,
(c3) MẶT ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH KIÊU NGẠO, HỢM HĨNH. Đây
cũng là trường hợp hoán dụ lấy kết quả để chỉ ra nguyên nhân. Các ví dụ loại
này gồm có: kênh mặt, lên mặt, vác mặt …
2.4.2.3. Bộ phận cơ thể đại diện cho kĩ năng và khả năng của con người
(a) TAY THAY CHO KĨ NĂNG
- Cô diễn lên tay, có nét hơn… (Báo). Hoán dụ này là sự kết hợp giữa
một ý niệm hoán dụ TAY THAY CHO NGƯỜI và một số ẩn dụ như: MÁT LÀ

TỐT (mát tay), CÂY CỐI LÀ KINH NGHIỆM (non tay, già tay), ĐỊNH
HƯỚNG LÊN LÀ TỐT (cao tay).
(b) BỤNG, LÒNG, DẠ ĐẠI DIỆN CHO KHẢ NĂNG NHẬN THỨC VÀ GHI NHỚ
CỦA CON NGƯỜI
- Thằng bé rất sáng dạ, tiếp thu bài rất nhanh bác ạ! (Chuyện học,
Quang Trinh)
(c) MẮT THAY CHO KHẢ NĂNG NHÌN NHẬN, ĐÁNH GIÁ
- Con Hai mồ côi từ nhỏ nhưng cũng gọi là có con mắt tinh đời khi
không lấy Thắng - kẻ lắm tiền nhiều của nhưng nghiện ngập và vũ phu (Hồng
Nhan đa truân - Thanh Lưu)
(d) TAI THAY CHO KHẢ NĂNG CHÚ Ý CỦA CON NGƯỜI
- Nhân dân là tai mắt của cơ quan an ninh. (Báo)
(e) MIỆNG, MÉP THAY CHO KHẢ NĂNG NÓI NĂNG, LẬP LUẬN CỦA
CON NGƯỜI
- Nhưng bây giờ thì cái sự “có duyên” ấy lại khiến tôi hết sức khó chịu…
Nhiều lần, tôi phải hét lên: “Anh có im đi không!? Tôi không thích một gã bẻm mép
như anh xuất hiện trong căn nhà này!” (Báo)
2.4.2.4. Bộ phận cơ thể đại diện cho tình cảm của con người
(a) BỘ PHẬN CƠ THỂ ĐẠI DIỆN CHO TỨC GIẬN
(a1) MẶT ĐẠI DIỆN CHO TỨC GIẬN
- Khuê cũng nổi nóng, anh đỏ mặt tía tai - Đưa quyển vở cho cô giáo. (Tình
yêu học đường - Lan Hương)
(a2) RUỘT, GAN ĐẠI DIỆN CHO GIẬN DỮ
- Fan Thái Lan lộn ruột khi để Việt Nam vượt mặt trên bảng xếp hạng
17


FIFA. (Báo Thể Thao)
(b) BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CHO NIỀM VUI
(b1) MẶT ĐẠI DIỆN CHO NIỀM VUI

- Con về làm rể nhà ấy thì mẹ cũng nở mày nở mặt, mà phần con ít nhất
hai vợ chồng cũng được vài ba mẫu ruộng. (Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam Nguyễn Đổng Chi)
(b2) RUỘT, LÒNG, DẠ ĐẠI DIỆN CHO NIỀM VUI
- Hữu Thắng khen bầu Đức mát lòng mát dạ trong ngày ra mắt. (Báo
Thể Thao)
(c) BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CHO NỖI BUỒN
(c1) MẮT ĐẠI DIỆN CHO NỖI BUỒN
(116) Mắt lưng tròng, con bé buồn lắm khi vài ngày sau con chó chết. (Con chó nhỏ mang giỏ
hoa hồng - Nguyễn Nhật Ánh)…
(c2) RUỘT, GAN, TIM ĐẠI DIỆN CHO NỖI BUỒN
- Tiếng hát của bà lão chết chồng trong mỗi chiều buồn sẫm đã làm nẫu
ruột nẫu gan người viết và lan truyền sầu cảm, nhớ thương sang người. (Gặp lại
một thuở - Đào Vũ)
(d) BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CHO SỢ HÃI
- Phương Hồi bị tát mạnh đến mức người loạng choạng, nửa bên mặt sưng
lên,... Người ngoài đứng xem và bạn tên tóc đỏ đều sợ tái mặt vì phản ứng của
Trần. (Web trẻ thơ)
(e) BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CHO XẤU HỔ
- Sao ngượng đỏ mặt vì sự cố trang phục. (Báo)
Tiểu kết
Hiện tượng chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt cũng
diễn ra theo nguyên lý chung là đi từ nghĩa gốc sang nghĩa chuyển. Các từ trong
nhóm này có số lượng nghĩa chuyển không giống nhau và cách thức phái sinh từ
nghĩa gốc thành những nghĩa chuyển cụ thể cũng khác nhau. Bởi vì mỗi từ trong
nhóm khi chuyển nghĩa, đều mang trong bản thân nét nghĩa chung nhất của
nhóm, đồng thời lại có nét nghĩa riêng xác định sự khu biệt của chính mình trong
nội bộ nhóm. Thông qua các điển mẫu, sự vận động ý niệm trong miền “BPCTN”
được định hình, các nghĩa mới có sự biến chuyển xa dần nghĩa nguyên mẫu, chuyển
nghĩa theo kiểu hoán dụ hoặc chuyển miền ý niệm tạo thành ẩn dụ. Các sơ đồ tỏa tia của
điển mẫu cũng cho thấy giá trị tri nhận của mỗi ý niệm là khác nhau, các đơn vị có sự

vận động ý niệm đơn giản cũng dự báo xu hướng trở thành ý niệm đích, và ngược lại,
các ý niệm có hệ thống ý nghĩa phong phú chứa đựng khả năng trở thành ý niệm nguồn
tốt. Kết quả nghiên cứu các mô hình tỏa tia giúp khoanh vùng các miền ý niệm có
quan hệ ẩn dụ, hoán dụ với miền “BPCTN”.
Miền ý niệm “BPCTN” không chỉ có những quan hệ nội tại mà đã vận
động di chuyển và tương tác với các miền ý niệm khác. Sự vận động ý niệm của
các miền được quan sát thông qua điển mẫu như: đầu, mặt, tay, bụng, lòng. Mỗi ý
niệm trong quá trình hoạt động đã được tạo sinh những tầng nghĩa mới được khái
quát trong sơ đồ tỏa tia. Những chùm nghĩa, nét nghĩa trong sơ đồ cho thấy
những xu hướng di chuyển của ý niệm trong hay ngoài miền ý niệm “BPCTN” là
18


ẩn dụ hay hoán dụ ý niệm. Các sơ đồ tỏa tia cũng cho thấy các bộ phận cơ thể
được con người dễ dàng nhìn thấy là những ý niệm có khả năng tạo sinh mạnh và
thường sẽ được cấu trúc lại dựa vào các miền ý niệm khác trừu tượng hơn, phức
tạp hơn.
Ánh xạ liên quan đến “BPCTN” gồm hai hướng: đến và đi. Do phạm vi
nghiên cứu của luận án, chúng tôi chỉ quan tâm đến các ánh xạ theo chiều đi: từ
miền nguồn “BPCTN” đến các miền đích khác. Miền đích của ý niệm “BPCTN”
rất phong phú đa dạng: không gian, thời gian, con người, sự vật, hiện tượng tự
nhiên và xã hội.
Bên cạnh hệ thống ánh xạ hai miền, ý niệm “BPCTN” còn có sự hòa trộn
với các miền ý niệm khác theo mô hình ba/bốn miền không gian tinh thần và mô
hình phức hợp. Sự đa dạng về hệ thống ánh xạ cho thấy tính phức tạp của nhận
thức và tư duy trong thực tiễn chứ không sao phỏng đơn giản. Ẩn dụ, hoán dụ có
thể là kết quả ánh xạ của nhiều miền, là sự cộng hưởng của các mô hình tri nhận
khác nhau chứ không đơn thuần là ánh xạ hai miền hoặc một kiểu mô hình tri
nhận.
Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ ý niệm miền “BPCTN” trong tiếng Việt khái quát

trên cơ sở các miền nguồn - đích và ánh xạ tương ứng đã thể hiện hướng chuyển
nghĩa mang tính đồng loạt của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt. Hệ thống
ánh xạ ẩn dụ, hoán dụ “BPCTN” cho thấy động lực chính/ mấu chốt tạo thành ẩn
dụ chính là tương quan giữa các ý niệm về cấu trúc tri nhận: các ý niệm có cấu
trúc cố định, cụ thể sẽ có xu hướng ánh xạ tới các “điểm” tương ứng trong ý niệm
đích để tái lập một cấu trúc tri nhận thích hợp, hoặc cùng ánh xạ tới miền pha
trộn để hình thành một ý niệm mới - chứ không phải sao chép các mô hình hay
dựa trên sự tương đồng.
Nghiên cứu các ẩn dụ, hoán dụ ý niệm “BPCTN” là nghiên cứu sự chuyển
nghĩa của nhóm từ này một cách khái quát, toàn diện dưới góc nhìn của ngôn ngữ học
tri nhận. Tuy nhiên, các mô hình ẩn dụ, hoán dụ không phải lúc nào cũng tách bạch rõ
ràng mà nó phức hợp và tương tác nhau như sự phức tạp của tư duy.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM TRI NHẬN CỦA NGƯỜI VIỆT
QUA SỰ PHÁT TRIỂN NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM TỪ CHỈ BỘ PHẬN CƠ
THỂ NGƯỜI TRONG TIẾNG VIỆT
Dẫn nhập
Trong chương này, luận án tập trung phân tích đặc điểm tri nhận của người
Việt thông qua cơ chế ánh xạ từ miền nguồn BPCTN sang các miền đích và bức
tranh ngôn ngữ về thế giới qua ý niệm bộ phận cơ thể người.
3.1. Cơ chế ánh xạ giữa miền bộ phận cơ thể người sang các miền đích khác
Ở chương 2, luận án đã trình bày hệ thống ánh xạ từ miền ý niệm nguồn
BPCTN sang các miền đích: không gian, thời gian, con người, đồ vật, thực vật.
Hệ thống ánh xạ này phản ánh quá trình chuyển nghĩa mang tính đồng loạt, hệ
thống của nhóm từ chỉ BPCTN. Do vậy, tìm hiểu bản chất, cơ sở của những ánh
xạ từ miền nguồn BPCTN sang các ý niệm miền đích cũng là tìm hiểu đặc trưng
tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa của nhóm từ này trong tiếng Việt.
19



Lakoff và Johnson đã chỉ ra điểm quan trọng trong lí thuyết tri nhận đó là “tư duy
mang tính nghiệm thân”:“Các ánh xạ không phải bất kì mà căn cứ vào cơ thể,
kinh nghiệm hằng ngày và tri thức”ix [130].
3.1.1. Kinh nghiệm về đặc điểm của các bộ phận cơ thể
Trong miền ý niệm BPCTN, những hiểu biết về hình dáng, chức năng,
hoạt động, màu sắc cảu các BPCT là cơ sở ánh xạ tới các ý niệm miền đích.
Những cơ sở này vừa mang tính bách khoa cho mọi dân tộc lại vừa mang những
đặc thù riêng của từng dân tộc.
3.1.2. Kinh nghiệm văn hóa
Văn hóa là thực tiễn được sáng tạo bởi con người, do con người tạo ra. Văn
hóa chi phối lối sống, nếp nghĩ của các thành viên trong cùng cộng đồng. Trong lí
thuyết tri nhận, văn hóa là kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác, là
nhân tố quan trọng để hình thành các ý niệm thông qua các ánh xạ tương ứng.
Trong ý niệm BPCT, kinh nghiệm về văn hóa thuyết âm dương và những có sở
văn hóa nảy sinh trong đời sống thường ngày của cộng đồng người Việt.
3.2. Bức tranh ngôn ngữ về thế giới qua ý niệm bộ phận cơ thể người trong
tiếng Việt
Như đã trình bày, hiện tượng chuyển nghĩa của từ dưới góc nhìn của ngôn
ngữ học tri nhận không chỉ là hiện tượng của ngôn ngữ mà còn là hiện tượng
mang tính ý niệm. Sự chuyển nghĩa phong phú và linh hoạt của các từ chỉ
BPCTN trong tiếng Việt đã tạo nên bức tranh ngôn ngữ về thế giới sống động,
mang đậm bản sắc tư duy dân tộc.
3.2.1. Bức tranh ngôn ngữ về không gian với ý niệm bộ phận cơ thể người
Giống như các ngôn ngữ, trong tiếng Việt, sự tri nhận không gian cũng
mang tính hệ thống, phổ quát, gắn liền với các ý niệm “BPCTN”: trước mặt - sau
lưng; trên đầu - dưới chân; tay bên trái - tay bên phải…. Ở chương 2, luận án đã
trình bày ánh xạ từ miền BPCTN đến miền đích không gian trong tiếng Việt. Qua
đó, có thể thấy, bức tranh về không gian qua ý niệm BPCTN là bức tranh về
không gian địa lí. Qua khảo sát, không gian tâm tưởng cũng được người Việt tri
nhận qua thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN như: xa mặt cách lòng. Cơ chế ngữ

nghĩa của thành ngữ này được hiểu thông qua sự tương tác giữa các ý niệm MẶT
ĐẠI DIỆN CHO CON NGƯỜI và LÒNG ĐẠI DIỆN CHO TÌNH CẢM. Như
vậy, xa mặt cách lòng có nghĩa là con người xa cách nhau thì tâm hồn khó đồng
điệu. Trong giao tiếp hằng ngày, cũng có những kết hợp như: tay trong tay, vai kề
vai, kề vai sát cánh… Những cách kết hợp này để tri nhận khoảng cách tâm tưởng
giữa con người với người, lúc này khoảng cách được rút ngắn và xóa nhòa.
Qua những phân tích trên, có thể thấy, sự tri nhận về không gian qua ý
niệm “BPCTN” trong tiếng Việt vừa có tính phổ quát chung lại vừa mang tính
đặc thù riêng của người bản ngữ.
3.2.2. Bức tranh ngôn ngữ về con người qua ý niệm bộ phận cơ thể người
3.2.2.1. Bức tranh ngôn ngữ về con người trí tuệ qua ý niệm bộ phận cơ thể người
Nếu như trong tiếng Anh, người bản ngữ thường tri nhận trí tuệ, nhận
thức, suy nghĩ của con người qua ý niệm “đầu” (head) thì trong tiếng Việt, phạm
trù này còn được người Việt tri nhận qua các bộ phận như “lòng”, “ruột”, “dạ”,
20


“bụng”. Đây chính là hệ quả của quan niệm coi trọng trục tâm thận trong văn hóa
nhận thức về con người của người Việt.
3.2.2.2. Bức tranh ngôn ngữ về ý chí, phẩm chất, tính cách con người qua ý
niệm bộ phận cơ thể người
Luận án đã tiến hành khảo sát và thu được 477 biểu thức tri nhận về tính
cách con người, trong đó lòng, ruột, bụng, dạ là những ý niệm đóng vai trò quan
trọng nhất trong việc tri nhận các ý niệm phẩm chất, tính cách con người. Điều
đặc biệt là, trong tư duy của người Việt, lòng là bộ phận trung tâm hơn cả, là bộ
phận cơ thể gần như mang tính tuyệt đối trong việc ý niệm hóa các phẩm chất con
người. Đây có thể coi là một đặc trưng văn hóa khác biệt so với các ngôn ngữ
khác.
3.2.2.3. Bức tranh ngôn ngữ về trạng thái tâm lí con người qua ý niệm bộ phận
cơ thể người

Các trạng thái tâm lý của người Việt được tri nhận qua các ý niệm BPCTN
trong tiếng Việt rất phong phú và tinh tế. Điều đó thể hiện ở hơn 300 biểu thức
ẩn, hoán có chứa các từ chỉ bộ phận cơ thể người thể hiện những trạng thái phức
tạp của con người. Các kết quả quan sát được cũng cho ta thấy rằng các BPCT
xuất hiện không đồng đều trong các biểu thức ngôn ngữ thuộc ý niệm đích. Qua
khảo sát, mặt xuất hiện với tỉ lệ cao nhất (50%), rồi đến mắt (30%) và đến các bộ
phận nội tạng như: lòng, ruột, bụng…
3.2.2.4. Bức tranh ngôn ngữ về hoạt động, kĩ năng của con người qua ý
niệm bộ phận cơ thể người
Kĩ năng là năng lực, là khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay
một chuỗi hoạt động trên cơ sở hiểu biết kiến thức hoặc kinh nghiệm. Mỗi bộ
phận cơ thể thực hiện một chức năng riêng do vậy, mỗi bộ phận gắn với những kĩ
năng đặc thù: “mắt” thường gắn với kĩ năng nhìn nhận, đánh giá; “mũi” gắn với
kĩ năng tìm, xác định sự việc; “não” gắn với kĩ năng tư duy, lập luận, “miệng”
gắn với kĩ năng lập luận …; đặc biệt trong tiếng Việt “tay” xuất hiện trong rất
nhiều các biểu thức ẩn dụ, hoán dụ biểu thị kĩ năng của con người như: cao tay,
mát tay, khéo tay, khéo chân, khéo tay, tay dao tay thớt,…
3.2.3. Bức tranh ngôn ngữ về đồ vật, sự vật với ý niệm bộ phận cơ thể người
Trong quan niệm của người Việt, các đồ vật, đồ dùng, dụng cụ lao động,
phương tiện lao động sản xuất của con người đều được coi là “của cải”. Từ con
trâu, con gà, con lợn đến cái giường, cái bát, con dao, cây lúa, cây na... Các đồ
vật, sự vật trong cuộc sống và ở thế giới xung quanh được tri nhận, so sánh, liên
tưởng với con người một cách thân thiết, sống động như một thực thể có đầy đủ
các bộ phận: đầu, mắt, mũi mặt, tóc, chân, tay, nách, vai, lưng, sườn. Sự tri nhận
các bộ phận đồ vật bằng các từ chỉ bộ phận cơ thể của tiếng Việt trên chủ yếu dựa
trên cơ chế kích hoạt các thuộc tính như vị trí, hình dáng, chức năng của các
BPCTN. Sự tri nhận này tạo thành một thói quen, mang tính chất thường nhật
trong cuộc sống. Người Việt, khi bắt gặp loại đồ vật nào cũng có thể đặt cho
chúng cái tên gọi bằng các từ chỉ bộ phận cơ thể. Sự tiếp xúc, sử dụng các đồ vật
trong cuộc sống hằng ngày của người Việt đã tạo nên ấn tượng về sự tưởng

tượng, so sánh các đồ vật với con người trở thành tập quán tư duy riêng về đồ vật.
21


Việc đặt chúng trong mối quan hệ có tính chỉnh thể để tạo ra tên gọi cho các bộ
phận của các đồ vật là tập quán quen thuộc của người Việt.
Có thể thấy, các ngôn ngữ Anh, Thái Lan cũng có hiện tượng tri nhận,
định danh bộ phận đồ vật bằng các từ chỉ bộ phận cơ thể người nhưng số lượng
các từ được định danh bằng từ chỉ bộ phận cơ thể người chiếm số lượng không
nhiều. Một số từ chỉ bộ phận đồ vật trong tiếng Anh và tiếng Thái cũng có cấu
trúc ghép từ chỉ bộ phận cơ thể người với tên gọi đồ vật nhưng không thành hệ
thống như tiếng Việt.
Tiểu kết
Đặc trưng văn hóa dân tộc qua hiện tượng chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ
BPCTN chủ yếu được thể hiện qua cơ chế ánh xạ ý niệm từ miền nguồn BPCTN
tới các miền đích tương ứng. Cơ chế ánh xạ cũng phản ánh cơ chế chuyển nghĩa
của nhóm từ chỉ BPCTN. Có hai cơ sở chính tạo nên ý niệm ẩn, hoán dụ BPCTN
đó là cơ sở kinh nghiệm và cơ sở văn hóa.
Những cơ sở kinh nghiệm bao gồm: những hiểu biết của con người về vị
trí, hình dạng, chức năng cũng như các quá trình sinh lí của các BPCTN. Những
kinh nghiệm này thông qua quá trình khái quát hóa, phạm trù hóa hình thành nên
các ẩn dụ, hoán dụ ý niệm BPCTN. Tuy vậy, các ẩn dụ, hoán dụ ý niệm BPCTN
được tạo ra không đơn thuần chỉ dựa trên những đặc tính tương đồng giống nhau
của các đối tượng giữa miền nguồn và miền đích mà ở cấp độ sâu hơn, sự ánh xạ
này còn dựa trên những tương quan kinh nghiệm của mỗi cá nhân con người có
gắn bó mật thiết với những đặc thù về tư duy và văn hóa dân tộc.
Cơ sở về văn hóa dân tộc bao gồm các yếu tố thuộc trình độ văn minh và
văn hóa truyền thống. Đó là các yếu tố như: tư tưởng triết học, tín ngưỡng, phong
tục tập quán, trình độ kinh tế và khoa học kĩ thuật… mà con người tạo ra. Những
yếu tố này tồn tại cố hữu trong bộ não của con người, trở thành mô hình cố định,

làm cơ sở cho việc tri nhận thế của con người, từ đó tham gia vào việc cấu tạo
nghĩa mới. Kinh nghiệm bản thân và các cơ sở văn hóa liên tục tác động đến chủ
thể tri nhận, chúng được tiếp nhận trở thành cấu trúc tri nhận tương đối cố định.
Cấu trúc tri nhận này là một hệ thống kiến thức, là tổ hợp và đồ thị biểu trưng cho
kinh nghiệm của chúng ta.
Sự chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN diễn ra rất phong phú, kết quả
là các từ chỉ BPCTN xuất hiện trong nhiều mảng của hiện thực cuộc sống tạo nên
bức tranh ngôn ngữ sinh động, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt thể hiện qua sự chuyển nghĩa
của nhóm từ chỉ BPCTN vừa mang những nét chung phổ quát của các ngôn ngữ
lại vừa mang những nét riêng của dân tộc. Bức tranh ngôn ngữ về thế giới qua ý
niệm “BPCTN” trong tiếng Việt là một tấm gương phản chiếu cách nhìn thế giới,
cách tri nhận và mô tả về thế giới của người Việt vốn được hàm chứa trong
những đặc thù ngữ nghĩa và tri nhận. Qua bức tranh ngôn ngữ này, cho phép
chúng ta nhận ra thiên hướng tư duy logic, sự phân tích tỉ mỉ, chi tiết hóa trong
cách tri nhận của người Việt. Do vậy, có thể khẳng định rằng, thông qua ngôn
ngữ chúng ta có thể phát lộ những con đường khác nhau trong cách nhìn thế giới
bằng ngôn ngữ không chỉ làm cho ý nghĩa của chúng ta sống động và nhạy cảm
22


hơn mà còn giúp cấu trúc cả tư duy và nhận thức của chúng ta.
KẾT LUẬN
Nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người là một trong những nhóm từ trung tâm,
cơ bản của mọi ngôn ngữ. Đây là nhóm từ ra đời sớm nhất và thu hút được sự
quan tâm chú ý của rất nhiều công trình ngôn ngữ. Đứng trước một đối tượng đã
được bàn luận rất nhiều, luận án chọn hệ thống lí thuyết gồm những vấn đề chung
của phát triển ngữ nghĩa (lí thuyết về nghĩa của từ, cấu trúc nghĩa của từ, sự phát
triển ngữ nghĩa của từ), các lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận có liên quan để
giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ của luận án. Qua 3 chương của luận án,

hình ảnh tổng thể về sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể
người trong tiếng Việt dưới góc nhìn tri nhận được phác họa trên một số phương
diện cơ bản sau:
1. Theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, sự phát triển ngữ nghĩa của
từ không chỉ là hiện tượng của ngôn ngữ mà còn là hiện tượng mang tính ý niệm.
Theo quan điểm này, luận án tập trung khảo sát tổ chức ý niệm của miền BPCTN
với tư cách là những ý niệm thuộc miền nguồn. Theo kết quả khảo sát, tổ chức ý
niệm miền nguồn có 397 thành tố gồm 3 nhóm lớn với 5 điển mẫu tương ứng: phần
đầu - đầu, mặt; phần nội tạng - bụng, lòng; phần khác - tay. Mỗi nhóm có số lượng
thành viên khác nhau, có đặc điểm tri nhận khác nhau. Thông qua các điển mẫu, sự
vận động ý niệm trong miền “bộ phận cơ thể người” được định hình, các nghĩa mới có
sự biến chuyển xa dần nghĩa nguyên mẫu, chuyển nghĩa theo kiểu hoán dụ hoặc chuyển
miền ý niệm tạo thành ẩn dụ. Các sơ đồ tỏa tia của điển mẫu cũng cho thấy giá trị tri
nhận của mỗi ý niệm là khác nhau, các đơn vị có sự vận động ý niệm đơn giản cũng dự
báo xu hướng trở thành ý niệm đích, và ngược lại, các ý niệm có hệ thống ý nghĩa
phong phú chứa đựng khả năng trở thành ý niệm nguồn tốt. Kết quả nghiên cứu các
mô hình tỏa tia giúp khoanh vùng các miền ý niệm có quan hệ ẩn dụ, hoán dụ với
miền “bộ phận cơ thể người”.
2. Hệ thống ánh xạ giữ miền nguồn bộ phận cơ thể người tới các miền đích:
không gian, thời gian, con người, đồ vật, thực vật phản ánh quá trình chuyển nghĩa,
chuyển trường của nhóm từ chỉ BPCTN. Với tư cách là ý niệm miền nguồn, miền
“bộ phận cơ thể người” lại có vai trò cấu trúc lại cho các miền ý niệm đích
“không gian”, “thời gian”, “con người”, “đồ vât, thực vật”. Dưới góc nhìn của
ngôn ngữ học tri nhận, tương quan giữa miền nguồn - đích giúp xác định bản chất
của ánh xạ: bản thể hóa, định hướng hoặc cấu trúc hóa.
3. Bên cạnh hệ thống ánh xạ hai miền, ý niệm “bộ phận cơ thể người” còn
có sự hòa trộn với các miền ý niệm khác theo mô hình ba/bốn miền không gian
tinh thần và mô hình phức hợp. Sự đa dạng về hệ thống ánh xạ cho thấy tính phức
tạp của nhận thức và tư duy trong thực tiễn chứ không sao phỏng đơn giản. Ẩn dụ
có thể là kết quả ánh xạ của nhiều miền, là sự cộng hưởng của các mô hình tri

nhận khác nhau chứ không đơn thuần là ánh xạ hai miền hoặc một kiểu mô hình
tri nhận.
4. Trong miền ý niệm BPCTN, những yếu tố nằm trong vùng ánh xạ từ
miền “BPCTN” tới các miền đích không gian, thời gian, thực vật, đồ vật được
23


×