Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Xây dựng phương án cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp la ngà đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.87 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG

XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI CÔNG TY TNHH
MỘT THÀNH VIÊN LÂM NGHIỆP LA NGÀ, ĐỒNG NAI

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.31.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HỮU DÀO

Hà Nội, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Doanh nghiệp Nhà nước là thành phần kinh tế chủ lực và đóng vai trò
chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Trong suốt mấy chục năm qua DNNN giữ
những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu
gương về năng suất chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật:
chi phối nhiều ngành và lĩnh vực then chốt, là lực lượng nòng cốt trong tăng


trưởng kinh tế và đóng góp ngân sách nhà nước, góp phần quan trọng trong ổn
định kinh tế - xã hội, đồng thời DNNN là lực lượng chính trong việc bảo đảm
cung cấp sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã hội. Tuy nhiên khi Việt
Nam chuyển dần sang nền kinh tế thị trường thì các DNNN đã dần bộc lộ
những yếu điểm và tỏ ra không có hiệu quả như: hiệu quả sản xuất kinh doanh
và sức cạnh tranh thấp; không tương ứng với điều kiện và lợi thế có được, tốc
độ tăng trưởng của một số đơn vị có biểu hiện giảm dần; không ít doanh nghiệp
còn ỷ lại vào sự bảo hộ, bao cấp của Nhà nước, đầu tư đổi mới công nghệ
chậm, trình độ công nghệ lạc hậu… Do đó gây ra những hậu quả không tốt
(Nhà nước thất thoát vốn, thu nhập của người lao động thấp, DNNN trở thành
gánh nặng cho Ngân sách nhà nước…). Vì vậy, việc duy trì các DNNN ở
những lĩnh vực không quan trọng là không cần thiết.
Trong điều kiện từng bước mở rộng hội nhập quốc tế và khu vực, gia
nhập các tổ chức khu vực và quốc tế (AFTA, WTO,…) thì việc nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Mặt khác, để giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách nhà nước thì đòi hỏi Chính
phủ phải có mô hình quản lý mới và việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
là một phương cách mà nhờ đó doanh nghiệp nâng cao được tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình, nâng cao khả năng cạnh tranh
trong sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy đổi mới và phát triển các doanh


2

nghiệp trong đó có cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách
quan và phù hợp với quá trình chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế của nước ta.
Do nhận thức đúng vai trò, vị trí, tầm quan trọng của cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước đối với phát triển kinh tế xã hội. Từ năm 1992 Việt
Nam đã tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cho đến năm 2009

đã cổ phần được 3.854 doanh nghiệp nhà nước, chiếm 69,4% tổng số doanh
nghiệp đã sắp xếp.
Cùng với cả nước, ngành Lâm nghiệp cũng đã chỉ đạo thực hiện cổ
phần hóa một số doanh nghiệp do ngành quản lý. Tuy nhiên việc cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn
do đặc điểm đặc thù của ngành.
Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp La Ngà là đơn vị thành viên
của Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực trồng, quản
lý và kinh doanh rừng. Hoạt động của Công ty có vai trò và đóng góp quan
trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hô ̣i của không chỉ đối với Tổng công ty
nói riêng mà còn của cả tỉnh Đồng Nai nói chung. Để có những hướng đổi
mới nhằm nâng cao hiệu quả cho hoạt động của doanh nghiệp thì CPH được
xác định là hướng đi mới trong đổi mới tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề
tài“Xây dựng phương án cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại công ty
TNHH một thành viên Lâm nghiệp La Ngà, Đồng Nai” làm luận văn tốt
nghiệp của mình với hi vọng góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, đổi
mới tổ chức quản lý tại công ty giúp công ty chủ động và nâng cao hiệu quả
hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.


3

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA
1.1. Sư ̣ cầ n thiế t phải cổ phầ n hóa Doanh nghiêp̣ Nhà nước
1.1.1. Doanh nghiê ̣p Nhà nước và vai trò của Doanh nghiê ̣p Nhà nước
1.1.1.1. Khái niê ̣m Doanh nghiê ̣p Nhà nước
Theo luâ ̣t DNNN do Quố c hô ̣i nước Cô ̣ng hòa xã hô ̣i chủ nghiã Viêṭ
Nam thông qua ngày 26/11/2003, và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004

thì DNNN đinh
̣ nghĩa như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới
hình thức Công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”
Như vâ ̣y DNNN là tổ chức kinh tế đươ ̣c nhà nước thành lâ ̣p để thực
hiêṇ những mu ̣c tiêu do nhà nước giao. Và vì DNNN do nhà nước đầ u tư vố n
nên tài sản trong doanh nghiêp̣ là thuô ̣c sở hữu nhà nước còn Doanh nghiêp̣
chỉ quản lý, sử du ̣ng tài sản theo quy đinh
̣ của chủ sở hữu là nhà nước.
DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyề n và nghiã vu ̣ dân sự, tự chiụ
trách nhiê ̣m về toàn bô ̣ hoa ̣t đô ̣ng kinh doanh trong pha ̣m vi số vố n do doanh
nghiê ̣p quản lý. Nghiã là DNNN chiụ trách nhiê ̣m hữu ha ̣n về nơ ̣ và các nghiã
vu ̣ tài sản khác trong pha ̣m vi số tài sản do doanh nghiêp̣ quản lý.
1.1.1.2. Vai trò của Doanh nghiê ̣p Nhà nước
Hiê ̣n nay Viê ̣t Nam đang xây dựng và phát triể n nề n kinh tế hàng hóa
nhiề u thành phầ n theo cơ chế thi ̣ trường có sự điề u tiế t của Nhà nước, các
doanh nghiêp̣ đề u bin
̀ h đẳ ng trong kinh doanh và trước pháp luâ ̣t. Nhưng
không có nghiã là chúng có vi ̣ trí như nhau trong nề n kinh tế . Pha ̣m vi hoa ̣t
đô ̣ng của thành phầ n này càng ngày càng giảm nhưng vẫn giữ vai trò chủ đa ̣o,
nó tồ n ta ̣i trong những ngành, liñ h vực then chố t của nề n kinh tế để nhà nước
có đủ sức thực hiê ̣n chức năng điề u tiế t vi ̃ mô, khắ c phu ̣c những khiế m khuyế t


4

của thi trươ
̣
̀ ng. DNNN là công cu ̣ vâ ̣t chấ t để nhà nước can thiêp̣ vào nề n kinh
tế thi ̣ trường, điề u tiế t thi ̣ trường theo mu ̣c tiêu của nhà nước và theo đúng

đinh
̣ hướng chính tri cu
̣ ̉ a nhà nước.
DNNN hoa ̣t đô ̣ng trong những ngành, liñ h vực kinh doanh mang la ̣i ít lợi
nhuâ ̣n hoă ̣c không có lợi nhuâ ̣n (mà các thành phầ n kinh tế khác không đầu tư),
do đó nó phu ̣c vu ̣ nhu cầ u chung của nề n kinh tế , đảm bảo lợi ích công cô ̣ng.
Hơn nữa, DNNN còn đầ u tư vào liñ h vực kinh doanh đòi hỏi vố n lớn
mà các thành phầ n kinh tế khác không đủ sức đầ u tư, do đó mà DNNN càng
có vai trò quan tro ̣ng. Viê ̣c đánh giá vai trò quan tro ̣ng của kinh tế Nhà nước
không chỉ dựa vào lời lỗ trước mắ t mà phải tiń h đế n hiêụ quả kinh tế lâu dài.
Sự tồ n ta ̣i của DNNN là mô ̣t tấ t yế u khách quan. Để DNNN phát huy vai trò
chủ đa ̣o của mình đòi hỏi nhà nước phải có chính sách quản lý thích hơ ̣p đố i
với DNNN nhưng cũng phải tôn tro ̣ng quy luâ ̣t kinh tế khách quan để các
DNNN không là gánh nă ̣ng cho nhà nước về kinh tế mà kinh tế nhà nước phải
đươ ̣c sắ p xế p la ̣i cho hơ ̣p lý nâng cao hiêụ quả hoa ̣t đô ̣ng của DNNN.
1.1.2. Quan niê ̣m cổ phầ n hóa Doanh nghiê ̣p Nhà nước và những ưu điểm
của Công ty cổ phầ n
CPH DNNN là việc các DNNN bán cổ phần của mình cho công chúng
và công nhân viên trong công ty để huy động nguồn vốn trong công chúng,
CPH là cách gọi tắt của việc chuyển đổi các DNNN thành công ty cổ phần.
Thực chất của quá trình CPH là đa dạng hóa sở hữu, là quá trình
chuyển dịch quyền sở hữu từ phía Nhà nước sang các thành phần kinh tế khác
trong nền kinh tế quốc dân.
Theo luật Doanh nghiệp năm 2005, Công ty cổ phần là doanh nghiệp,
trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và


5


không hạn chế số lượng tối đa;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy
động vốn.
1.1.3. Sự cầ n thiế t phải cổ phầ n hóa Doanh nghiê ̣p Nhà nước ta ̣i Viê ̣t Nam
Việc chuyển DNNN thành Công ty cổ phần là một đòi hỏi bức xúc của nền
kinh tế thị trường vừa phù hợp trong lộ trình phát triển đổi mới vừa tham gia hội
nhập nền kinh tế toàn cầu. Mục tiêu của công tác này nhằm huy động vốn của
toàn xã hội, tạo ra loại hình Doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, phát huy quyền
làm chủ của các cổ đông trong việc đầu tư và giám sát Doanh nghiệp, thậm chí
bổ sung cả nguồn nhân lực cho bộ máy lãnh đạo của đơn vị, từ đó tạo động lực
mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho Doanh nghiệp trong đầu tư đổi mới
công nghệ, mở rộng thị trường và sử dụng đồng vốn có hiệu quả.
CPH doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các DNNN. Sau gần 20 năm thực
hiện CPH DNNN, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về quá trình này. Nhiều
vấn đề lý luận và tư duy kinh tế đang đặt ra cần giải quyết để nâng cao hiệu
quả của quá trình CPH trong thời gian tới.
CPH DNNN là một hình thức cụ thể của tiến trình xã hội hoá sản xuất. Nhờ
sự xuất hiện công ty cổ phần mà vốn được tập trung nhanh chóng. Thực hiện tốt
CPH DNNN sẽ làm tăng sức mạnh của kinh tế nhà nước, làm chỗ dựa cho nhà
nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Mặt khác, nó cũng là một giải pháp để tăng tính
năng động trong kinh doanh và phát huy tính tích cực, tự chủ của doanh nghiệp.



6

Ở nước ta, phần lớn các DNNN được hình thành do ý chí chủ quan của
các cơ quan nhà nước chứ không phải do yêu cầu khách quan của trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hoạt
động kém hiệu quả của hầu hết các doanh nghiệp ấy. Do vậy, việc sắp xếp lại
các DNNN là vấn đề lớn mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, trong đó
có việc CPH một số lớn DNNN. CPH DNNN ở nước ta là quá trình chuyển
sang một hình thức quản lý hiện đại hơn, bên cạnh vai trò chi phối của nhà
nước, có sự tham gia của các thành phần khác. Đảng và Nhà nước ta khẳng
định CPH không phải là tư nhân hóa vì CPH hướng tới tháo gỡ khó khăn về
vốn, về cơ chế cho DNNN hiện có, không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước
trong nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1992 đến nay, quan điểm của Đảng ta về
CPH DNNN ngày càng sáng tỏ, ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN
được thể chế hoá thành các qui phạm pháp luật và được thực thi từng bước.
Đảng và Nhà nước coi CPH là một giải pháp căn bản không những giúp
DNNN thu hút vốn mà còn tạo điều kiện cho DNNN làm ăn hiệu quả hơn.
Thống kê cho thấy, tính đến đầu năm 2009, cả nước đã thực hiện sắp xếp
được 5.556 doanh nghiệp và 8 tổng công ty Nhà nước, trong đó cổ phần hóa
được 3.854 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp (chiếm 69,4% tổng số
doanh nghiệp đã sắp xếp), giao 196 doanh nghiệp, bán 155 doanh nghiệp,
khoán và cho thuê 30 doanh nghiệp, sáp nhập hợp nhất 531 doanh nghiệp, còn
lại các hình thức khác là 790 doanh nghiệp. Qua CPH nguồn vốn nhà nước tại
doanh nghiệp đã được đánh giá lại khách quan và chính xác hơn, đồng thời
huy động thêm nguồn vốn khá lớn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước để đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp và tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành, phát



7

triển thị trường chứng khoán ở nước ta.
Hơn nữa, chính cổ phần hóa cũng đã giúp Nhà nước thu về hàng ngàn
chục tỷ đồng nhờ vào việc bán bớt phần vốn của mình tại các doanh nghiệp
Nhà nước, từ đó có vốn để đầu tư cho các dự án trọng điểm cần thiết. Ngoài ra,
CPH cũng góp phần vào việc hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn, đa
ngành, đa lĩnh vực và đặc biệt là góp phần quan trọng vào việc đổi mới tư duy
kinh tế, hài hòa được lợi ích của Nhà nước - doanh nghiệp và người lao động.
Tóm lại, việc CPH DNNN là một yếu tố, một xu hướng tất yếu khách
quan. CPH thúc đẩy quá trình xã hội hóa nền kinh tế hàng hóa thị trường, phát
triển lực lượng lao động, nâng cao vai trò vị thế của người lao động, đảm bảo
tính công bằng, nâng cao đời sống cho người lao động và hoàn thiện nền kinh
tế thị trường còn non trẻ ở nước ta.
1.1.4 Mục tiêu, bản chất và ý nghĩa của cổ phần hóa DN nhà nước
1.1.4.1. Mục tiêu:
Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn
sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công
nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế.
Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động và các cổ đông.
Tăng cường sự giám sát của các chủ đầu tư đối với doanh nghiệp. Đảm bảo
hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động
trong doanh nghiệp.
Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục
tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển
thị trường vốn, thị trường chứng khoán.



8

1.1.4.2. Bản chất
CPH một bộ phận các DNNN là một chủ trương lớn, quan trọng của
Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Thực chất của CPH
là đa dạng các loại hình sở hữu, là quá trình chuyển dịch quyền sở hữu từ phía
nhà nước sang các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Thông
qua quá trình bán cổ phần của doanh nghiệp nhà nước cho các cổ đông để thu
hút vốn đầu tư, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, bảo đảm
hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp.
Khi công ty cổ phần được thành lập sẽ tránh được sự can thiệp có tính
chất hành chính của chính quyền địa phương các cấp. Bởi vì khi CPH tài sản
trong doanh nghiệp không chỉ là đơn thuần là sở hữu nhà nước mà của nhiều
thành phần kinh tế khác nữa. Công ty có thể chủ động thực hiện các quy định
có liên quan đến sản xuất kinh doanh trong công ty mà không chịu sự chỉ đạo
của các kế hoạch nhà nước giao như trước đây.
1.1.4.3. Ý nghĩa
Việc CPH DNNN là một chủ trương quan trọng của Đảng và nhà nước
ta, nó có giá trị định hướng giúp cho các doanh nghiệp khai thác khả năng và
phát huy được thế mạnh của mình. Việc thực hiện cổ phần hóa có ý nghĩa to
lớn trong quá trình phát triển nền kinh tế cũng như lợi ích của xã hội, như:
- Về phía nhà nước sẽ giảm đi gánh nặng ngân sách bao cấp cho một số
lượng lớn những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Hạn chế những tệ nạn khác
như: Tham nhũng, quan liêu trong những Doanh nghiệp nhà nước.
- Sau khi tiến hành CPH một bộ phận các DNNN còn giữ 100% vốn thì
nhà nước có thể thu hồi một lượng lớn từ các doanh nghiệp đó thông qua việc
bán cổ phần tại doanh nghiệp cho các thành phần kinh tế khác. Nhà nước có
thể đem nguồn vốn thu hồi được này đầu tư cho các doanh nghiệp trọng điểm
thuộc các lĩnh vực: an ninh quốc phòng, hoặc để xây dựng, phát triển cơ sở hạ



9

tầng trong xã hội.
- Về phía doanh nghiệp, những người tham gia mua cổ phần đều trở
thành những người chủ doanh nghiệp. Lợi ích và trách nhiệm của họ được
gắn liền với nhau, họ sẽ có quyền chủ động định đoạt các hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình theo nhu cầu thị trường trong khuôn khổ pháp luật cho
phép. Từ đó loại bỏ được những suy ngĩ có tính rụt rè, e ngại trước đây, mở ra
một thời kỳ mới của những người dám nghĩ dám làm.
- Trong các DNNN trước đây, SXKD nhằm mục đích phục vụ xã hội
nhiều hơn, nên nhiều khi làm ảnh hưởng đến các quá trình SXKD trong doanh
nghiệp làm kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp khi CPH, mục tiêu đầu
tiên của doanh nghiệp là lợi nhuận, mục tiêu này có tác dụng thúc đẩy tăng
năng suất lao động, cải tiến chất lượng mặt hàng với những chủng loại nhằm
đáp ứng nhu cầu thị trường, để cuối cùng đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Ngoài ra lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp cũng được đảm bảo,
họ được tạo điều kiện để có công ăn việc làm, được mua cổ phần ưu đãi, người lao
động nghèo còn được trả chậm trong vòng một năm mà không cần trả lãi.
1.2. Kinh nghiệm cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1 Cổ phần hóa ở nhóm các nước tư bản phát triển[3]
Trong thập kỷ 80, các nước tư bản phát triển, đặc biệt là ở các nước Tây
Âu và Hoa Kỳ,cổ phần hóa được chú ý như là một quá trình giảm bớt sự can
thiệp trực tiếp của Nhà nước và tiến hành cổ phần hóa DNNN nhằm nâng cao
hiệu quả của nền kinh tế thị trường hỗn hợp đã được hình thành với việc thiết
lập khu vực kinh tế nhà nước ngày càng rộng lớn từ sau chiến tranh thế giới
thứ hai. Chính sách cổ phần hóa bao trùm ở các nước này dựa trên quan điểm
cho rằng việc tổ chức đời sống kinh tế của xã hội tuân theo các quy luật thị

trường, thương mại hóa sản xuất và cạnh tranh bình đẳng có hiệu quả hơn là


10

tuân theo các quan hệ chỉ tập trung và thể chế hành chính.
Trong việc thực hiện CPH, Chính phủ mỗi nước đã lựa chọn các phương
pháp tiến hành CPH các DNNN sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế nhà
nước, mà trái lại, củng cố cho xứng đáng với vai trò của nó trong nền kinh tế
nhằm thực hiện một loạt chức năng kinh tế vĩ mô vì lợi ích kinh tế của toàn xã hội.
Xét về quy mô, khu vực kinh tế nhà nước sau khi tiến hành CPH có sự
thu hẹp, tuy nhiên sự suy giảm này không làm thay đổi vai trò của khu vực
kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực quan trọng như: năng
lượng, giao thông vận tải, bưu điện, truyền hình, viễn thông, các ngành có
hàm lượng vốn và khoa học công nghệ cao như hàng không, điện tử.
Quá trình cổ phần hoá ở các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển
được thực hiện chủ yếu dưới các hình thức: bán đấu giá hay bán trực tiếp,
thường áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực dịch
vụ công cộng và thương mại; bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, áp
dụng với các công ty lớn.
Các công ty quốc doanh sau khi đã CPH, hình thành dạng công ty cổ
phần hỗn hợp nhà nước – tư nhân đã chuyển sang sử dụng và huy động các
nguồn vốn thay vì nhận qua NSNN như trước đây, cho phép giảm bớt gánh
nặng tài trợ ngân sách, đặt các doanh nghiệp này trên cơ sở điều tiết của quan
hệ thị trường, giành vị trí xứng đáng trong việc đáp ứng các nhu cầu xã hội
với chất lượng cao, hợp thị hiếu chứ không phải có được nhờ vị trí độc quyền
mà nhà nước ban cho.
Như vậy, có thể nhận thấy nét đặc trưng quá trình cổ phần hoá ở các nước
công nghiệp phát triển là hình thành các công ty hỗn hợp nhà nước – tư nhân
hoạt động trên cơ sở thị trường và luật pháp của nhà nước. Thông qua quá trình

CPH, sự hợp tác và xâm nhập lẫn nhau giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu
vực kinh tế tư nhân, kể cả ở cấp công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên thị


11

trường thế giới là một trong những con đường nâng cao hiệu quả nền kinh tế thị
trường hỗn hợp ở các nước công nghiệp phát triển hiện nay.
1.2.1.2. Cổ phần hóa ở nhóm các nước đang phát triển
* Các nước đang phát triển thuộc khu vực Mỹ latinh và Caribê [3]
Trong các nước đang phát triển thì các nước thuộc khu vực này đang tiến
hành CPH khu vực kinh tế nhà nước một cách tích cực nhất. Do phải gánh các
khoản nợ to lớn trong và ngoài nước nên các nhà nước ở khu vực này đã tìm
cách rút khỏi các lĩnh vực sản xuất và bán một phần hay toàn bộ các xí nghiệp
nhà nước cho các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước. Cùng với sự thay đổi
chế độ ngoại thương, lập ra các vùng mậu dịch tự do và các hiệp ước không thuế
quan để khuyến khích cạnh tranh và buộc các doanh nghiệp phải hoạt động có
hiệu quả, Chính phủ các nước này đã mở ra các điều kiện thuận lợi để khuyến
khích tư bản nước ngoài đầu tư, tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng.
* Các nước đang phát triển thuộc khu vực châu Phi [3]
Ở châu Phi, các chính phủ cũng đã bắt đầu thực hiện CPH các DNNN
trong nỗ lực nhằm phục hồi nền kinh tế và tạo cơ sở cho sự tăng trưởng mới
ngay từ đầu những năm 90. Công cuộc CPH ở các nước châu Phi nhằm vào
việc tăng hiệu quả kinh tế và giảm thâm hụt ngân sách trong hoàn cảnh các
nguồn tài chính truyền thống đã cạn kiệt. Quá trình CPH ở châu Phi có xu
hướng diễn ra ở các xí nghiệp vừa và nhỏ, về cả tài sản lẫn số lượng lao động.
Đa số các doanh nghiệp CPH đều nằm ở các ngành chế biến và dịch vụ còn
các ngành dịch vụ công cộng, khai thác khoáng sản và dầu mỏ chỉ là ngoại lệ.
Thành tích đạt được trong chương trình cổ phần hoá ở các nước châu Phi
còn rất khiêm tốn. Trở ngại lớn nhất ở các nước này là thị trường vốn trong

nước quá nhỏ bé, thiếu vắng một thị trường chứng khoán thực sự, hệ thống nhà
nước về hành chính và luật pháp còn thiếu đồng bộ và chặt chẽ. Điều này góp
phần làm suy giảm sự quan tâm của các nhà đầu tư và kinh doanh nước ngoài.


12

* Các nước đang phát triển thuộc khu vực Châu Á [3]
Quá trình cổ phần hoá ở các nước châu Á khác với các nước châu Phi và
châu Mỹ la-tinh là các khoản nợ nước ngoài không phải là lý do chính để tiến
hành cổ phần hoá các DNNN. Mặt khác, nền kinh tế ở các nước trong khu
vực này có tốc độ phát triển nhanh và ổn định trong nhiều năm, các xí nghiệp
quốc doanh ở các nước này phần lớn đều hoạt động trên cơ sở thị trường và
nhằm mục tiêu lợi nhuận. Vì vậy, mục tiêu chính của cổ phần hoá ở các nước
này là Nhà nước rút khỏi các lĩnh vực hoạt động xét thấy không cần thiết phải
nắm giữ và suy trì sự độc quyền nhà nước mà chuyển giao cho khu vực tư
nhân nhằm thực hiện cạnh tranh để nâng cao hiệu quả. Mục tiêu nữa của cổ
phần hoá của các nước là phát triển thị trường chứng khoán trong nước, thể
hiện nổi bật là ở các nước Hàn Quốc, Singapore, Malaysia,...Số tiền thu được
từ quá trình bán các cổ phần của nhà nước sẽ được bù vào các khoản ngân
sách dành đầu tư cho các cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế chiến lược mà
nhà nước thấy cần có sự tham gia và kiểm soát.
- Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Cổ phần hóa các DNNN đã được thực
hiện . Đến nay, Hàn Quốc đã cổ phần hóa được 35 DNNN có quy mô lớn và
hàng trăm DNNN có quy mô vừa và nhỏ. Riêng năm 1978, chính phủ Hàn
Quốc đã bán 68% cổ phần cho 25 hãng buôn, thu được 167 triệu USD. Cổ phần
hóa cũng được thực hiện thông qua bán cổ phiếu ở các sở giao dịch chứng
khoán, trong đó vừa bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư bình thường, vừa bán cổ
phiếu cho công chúng có thu nhập thấp. Quá trình cổ phần hóa các DNNN ở

Hàn Quốc ngoài những nét chung có một số đặc điểm mang tính đặc thù sau:
+ Thứ nhất, cổ phần hóa các DNNN đã tiến hành rất thận trọng. Điều đó
được biểu hiện ở cách thức triển khai CPH thông qua tiến hành thí điểm ở một
số doanh nghiệp. Từ thí điểm, Hàn Quốc tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm sau


13

đó mới mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Điều đó còn thể hiện ở tốc độ cổ phần
hóa khá chậm. Qua 3 đợt cổ phần hóa: đợt 1 từ năm 1960 - 1973; đợt 2 từ năm
1974 - 1983 và đợt 3 từ năm 1984 đến nay số lượng các DNNN quy mô lớn
được CPH chỉ có 35 doanh nghiệp. Tuy nhiên, CPH lại tập trung vào các doanh
nghiệp quy mô lớn và giữ vị trí độc quyền, hoạt động trên phạm vi cả nước [3].
+ Thứ hai, mục tiêu CPH không chỉ thu hút vốn, giảm bớt gánh nặng của
ngân sách nhà nước… mà còn nhằm phân phối giá trị tài sản của các DNNN cho
quần chúng có thu nhập thấp và giảm bớt sự mất công bằng xã hội. Để thực hiện
mục tiêu này, Hàn Quốc có những phương thức triển khai bán cổ phiếu đặc biệt,
với việc phân chia cổ phiếu bán ra cho người cần ưu đãi. Cụ thể: Người lao động
hiện đang làm việc tại DNNN và người nghèo được mua 20% giá trị cổ phiếu
bán ra. Cổ phiếu ưu đãi được bán thấp hơn giá trị, trong đó người nghèo được
mua với giá bằng 30% giá trị cổ phiếu bán ra, người về hưu được mua với giá
bằng 75% giá trị cổ phiếu bán ra [3].
+ Thứ ba, thông qua cổ phần hóa việc hữu sản hóa người lao động, trước
hết là lao động trong các DNNN CPH đã được thực hiện. Nhờ đó, đã tăng
cường sự tham gia quản lý của người lao động vào quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh. Bộ máy quản lý của Doanh nghiệp sau cổ phân hóa và phương
thức quản lý các doanh nghiệp nhà nước ở Hàn Quốc sau CPH đã thay đổi.
- Kinh nghiệm của Malaixia
Quá trình cổ phần hóa các DNNN ở Malaixia có muộn hơn, được bắt đầu
từ năm 1983. Lý do và mục tiêu cổ phần hóa các DNNN của Malaixia có nhiều

điểm giống Việt Nam, chủ yếu do sự mở rộng quá mức khu vực kinh tế nhà
nước, gây ra sự mất cân đối kinh tế vĩ mô làm cho thâm hụt ngân sách lớn.
Việc CPH các DNNN ở Malaixia được chia thành 3 bước:
+ Tiến hành thương mại hóa doanh nghiệp
+ Chuyển các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo luật công ty


14

+ Xây dựng các DNNN đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định thành những
tập đoàn kinh tế mạnh có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.
Phương thức tiến hành cổ phần hóa cũng thông qua phát hành cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán
Việc tiến hành CPH, đặc biệt việc phát hành cổ phiếu cũng có những ưu
đãi đối với các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài có công
nghệ hiện đại, sản xuất theo hướng xuất khẩu. Mức cổ phần tối đa bán cho các
nhà đầu tư nước ngoài là 25%, với mục đích để các nhà đầu tư nước ngoài
không gây ảnh hưởng quá lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Kết quả cổ phần hoá các DNNN ở Malaixia là khá to lớn. Việc chuyển
một phần các DNNN vào khu vực kinh tế tư nhân đã giảm bớt gánh nặng của
nhà nước đối với doanh nghiệp. Đã chuyển sang các công ty cổ phần 96.000
công nhân, bán cổ phần được 6 tỷ USD, thu hút thêm 35,5 tỷ USD ở 24 công
ty cổ phần từ các DNNN sau cổ phần hóa. Số tiền nhà nước thu được đã sử
dụng cho các hoạt động khác 2 tỷ USD chuyển giao 374 công trình cho tư
nhân [3]. Số tiền các doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán sau cổ phần hóa đã giúp các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất,
tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Kinh nghiệm của Singapore:
Cổ phần hóa ở Singapore còn được thực hiện muộn hơn Malaixia, bắt
đầu từ năm 1986 và kéo dài 10 năm thì cơ bản hoàn thành.

Việc thực hiện cổ phần hóa các DNNN ở Singapore khá bài bản với việc
thành lập Ủy ban cổ phần hóa khu vực kinh tế nhà nước, Xây dựng chương
trình cổ phần hóa hoàn chỉnh và hệ thống, phù hợp với điều kiện của đất
nước. Singapore cũng tiến hành thí điểm cổ phần hóa các DNNN đang làm ăn
có lãi ở một số lĩnh vực, sau đó tổng kết, cuối cùng mới triển khai rộng sang
các doanh nghiệp nhà nước ở các lĩnh vực khác.


15

Mục tiêu CPH các DNNN ở Singapore khá đa dạng, trong đó mục tiêu cơ
bản là hạn chế sự độc quyền của các DNNN ở một số lĩnh vực, chấm dứt kiểu
cạnh tranh không trung thực, cạnh tranh hình thức của các DNNN. CPH DNNN
không để xảy ra thâm hụt ngân sách và vẫn duy trì tích lũy ở những mức độ cao.
Trên thực tế sau những bước triển khai có tính vĩ mô, tháng 6/1989 trong số
15 DNNN đăng ký CPH đã có 6 DNNN đăng ký bán 100% vốn cổ phần của nhà
nước. Các hãng còn lại thực hiện bán một phần cổ phần sở hữu của nhà nước
như hãng Hàng không quốc gia Singapore giảm phần vốn của nhà nước từ 61%
xuống còn 56%, công ty vận tải Neptune giảm từ 74% xuống còn 54%, Ngân
hàng Singapore vốn nhà nước từ 48% còn 44%. Sau 1 năm thực hiện cổ phần
hóa các DNNN số vốn nhà nước được thu hồi là 1,28 tỷ USD. Đến năm 1996,
chương trình CPH các DNNN đã cơ bản được hoàn thành, sớm hơn dự hiến 2 -3
năm. Kết quả CPH cũng rất khả quan, nhờ CPH các DNNN ở những ngành, lĩnh
vực không then chốt, những ngành có khả năng thu lợi nhuận cao, chính phủ
Singapore có điều kiện tập trung vốn đầu tư vào các lĩnh vực mang tính chiến
lược, những nơi tư nhân không đầu tư vì lợi nhuận thấp. Vai trò của các DNNN
còn lại có điều kiện phát huy tác dụng, các DNNN này trở thành công cụ kinh tế
vĩ mô để cơ cấu lại nền kinh tế và phát triển nền kinh tế quốc gia [3].
1.2.1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi.
* Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh
tế thị trường Trung Quốc là một trong các nước sớm nhận thấy những hạn chế
của các DNNN như: Hiệu quả kinh tế thấp hơn các loại hình kinh tế khác,
nhiều doanh nghiệp ở tình trạng thua lỗ và tình trạng này có xu hướng ngày
càng tăng; tình trạng thất thoát tài sản nhà nước ngày càng tăng và trở nên
nghiêm trọng; máy móc thiết bị nói riêng, trình độ công nghệ nói chung của
các DNNN rất thấp, lạc hậu rất nhiều so với các nước kinh tế phát triển; các


16

DNNN ngoài chức năng kinh tế còn phải đảm nhiệm nhiều chức năng xã hội.
Hệ thống các DNNN quá lớn với khoảng 348.000 doanh nghiệp nhà nước.
Tình trạng trên dẫn đến gánh nặng nợ nần của các DNNN ngày càng lớn ngân
sách nhà nước phải chịu, trong khi đó nguồn ngân sách nhà nước có hạn và
cần chi dùng cho nhiều mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác. Trung Quốc
cũng sớm nhận thấy con đường thoát khỏi khó khăn do các DNNN mang lại
là mở cửa nền kinh tế, đổi mới hệ thống DNNN, chuyển một số DNNN thành
các công ty cổ phần qua tiến hành cổ phần hóa các DNNN. Việc tiến hành cổ
phần hóa các DNNN ở Trung Quốc được tiến hành khá khoa học. Bởi vì nó
được thực hiện theo một lộ trình tuân thủ các vấn đề mang tính lý thuyết và
phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh vực. Việc triển khai cũng
được tiến hành thí điểm trên phạm vi hẹp sau đó rút kinh nghiệm ở các đơn vị
ở các cấp, các ngành nghiên cứu học tập. Cuối cùng, cổ phần hóa các DNNN
mới được triển khai trên phạm vi rộng. Điều đặc biệt của Trung Quốc so với
các nước khi tiến hành cổ phần hóa các DNNN là vai trò của nhà nước trong
xây dựng kế hoạch, lộ trình và sử dụng các biện pháp mạnh của quản lý hành
chính nên kết quả của cổ phần hóa các DNNN đạt được rất cao. Cụ thể:
+ Trong những năm 1991 - 1995 đã có tới 13.500 doanh nghiệp đã cổ
phần hóa xong. Việc cổ phần hóa xong một khối lượng lớn các DNNN đã tạo

cho chính phủ có nguồn thu ngân sách khá lớn. Chỉ tính 700 doanh nghiệp
bán cổ phiếu trên thị trường đã thu được 500 tỷ nhân dân tệ, bằng 7,3% GDP
của Trung Quốc năm 1996. Với 97 công ty bán cổ phiếu loại B ra thị trường
trong nước và 38 công ty bán cổ phiếu ra thị trường quốc tế đã thu được 13 tỷ
USD. Nhà nước đã sử dụng nguồn vốn quan trọng này vào các dự án cải tạo
và đầu tư vào các công trình trọng điểm của nền kinh tế đất nước. Gánh nặng
đối với các DNNN sau khi cổ phần hóa đã được loại bỏ. Tạo thêm được
10.000 việc làm mới trên thị trường chứng khoán, 31 triệu người đã mua cổ


17

phiếu - một lượng tiền lớn trong dân cư đã được thu hút vào các hoạt động
kinh doanh của các DNNN khi cổ phần hóa [3].
+ CPH đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chuyển đổi quản
lý, chuyển đổi hướng SXKD nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Sở hữu nhà nước đã chuyển sang hình thức sở hữu khác, những lý do để nhà
nước can thiệp trực tiếp vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp không còn.
Công ty cổ phần (sản phẩm của cổ phần hóa các DNNN) có điều kiện phát huy
vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, những
yêu cầu tối cần thiết của doanh nghiệp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
+ Sau cổ phần hóa, các doanh nghiệp đã có điều kiện để tổ chức lại bộ
máy quản lý theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, năng động.
+ Theo cơ chế hoạt động của các công ty cổ phần, các DNNN sau cổ
phần hóa không chỉ tuân thủ pháp luật kinh doanh và các chính sách của
chính phủ mà còn chịu sự giám sát chặt chẽ của các cổ đông (những người bỏ
tiền mua cổ phiếu, góp vốn cho doanh nghiệp hoạt động) mà đại diện là Hội
đồng quản trị. Sức ép đó buộc doanh nghiệp phải có những đổi mới trong
quản lý và trong hoạt động kinh doanh. Phải trực tiếp tìm hiểu thị trường,
chấp nhận và chủ động trong cạnh tranh, tự tìm cách tồn tại và phát triển khi

không còn sự nâng đỡ của nhà nước, khi được quyền chủ động. Doanh nghiệp
đã năng động hơn, thận trọng hơn khi đưa ra những quyết định về kinh doanh.
+ Từ những đổi mới trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp sau
cổ phần hóa đã mạnh lên. CPH đã tạo ra những điều kiện để Trung Quốc thực
hiện chiến lược xây dựng các tập đoàn kinh tế lớn, có khả năng cạnh tranh
mạnh với các tập đoàn kinh tế của nước ngoài.
* Kinh nghiệm của Liên bang Nga và các nước Đông Âu
Có thể coi việc thực hiện những cải cách kinh tế những năm 60 - 70 của
thế kỷ XX ở các nước Đông Âu theo hướng của kinh tế thị trường là những


18

bước khởi đầu của đổi mới các DNNN nói riêng nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung nói chung. Tuy nhiên, ở các nước này, đổi mới triệt để nền kinh tế, trong
đó có đổi mới các DNNN được tiến hành những năm 80 - 90 của thế kỷ XX.
Có những điểm khác với một số nước có nền kinh tế chuyển đổi ở Châu
Á, các nước ở Đông Âu và Cộng hòa Liên bang Nga coi trọng chuyển đổi
DNNN sang các công ty tư nhân, tiến hành tư nhân hóa các DNNN là chủ
yếu. Cổ phần hóa DNNN theo hướng tư nhân hóa được coi là một trong các
điểm then chốt và nội dung cơ bản của tiến trình đổi mới ở các nước này. Nó
được coi như là “liệu pháp sốc” và thực hiện triệt để ở Ba Lan, Tiệp Khắc
(cũ), Hungari. Mục đích của “liệu pháp sốc” nhằm thực hiện các biện pháp
mạnh để có được kết quả tức thì, giúp chuyển biến mau lẹ về chế độ sở hữu.
Hy vọng cải cách sở hữu nhanh chóng sẽ huy động được vốn, kỹ thuật và kinh
nghiệm quản lý của các nhà doanh nghiệp tư nhân trong xây dựng kinh tế.
Tuy nhiên, cổ phần hóa các DNNN ở các nước Đông Âu và Nga diễn ra
trong bối cảnh các Đảng Cộng sản không còn cầm quyền, các nước đều thực
hiện chế độ đa đảng. Các nước đều muốn thông qua chương trình này để tận
dụng viện trợ của các chính phủ Phương Tây, nhằm thúc đẩy quá trinh chuyển

đổi nền kinh tế. Bản thân “liệu pháp sốc” được đi kèm với nguồn tài trợ cho
quá trình chuyển đổi thông qua Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB) và Liên minh Châu Âu. Những bối cảnh và điều kiện cùng với các điều
kiện cụ thể của từng nước đã làm phong phú thêm quá trình cổ phần hóa
DNNN vốn đã rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, nghiên cứu cụ thể cổ phần
hóa các DNNN ở khu vực này có thể đưa ra các nhận xét sau:
+ Về đối tượng cổ phần hóa: Cổ phần hóa các DNNN được thực hiện ở
tất cả các ngành kinh tế. Mặc dù thực hiện “liệu pháp sốc”, nhưng các nước
Đông Âu và Nga đều giữ các DNNN ở các ngành kinh tế có vị trí quan trọng,
quyết định đến nền kinh tế như những ngành hạ tầng cơ sở, những ngành định


19

hướng phát triển kinh tế xã hội như bưu chính viễn thông, giao thông vận tải,
điện lực, khai khoáng…
+ Về tốc độ của cổ phần hóa: các nước đều tiến hành với tốc độ cao đối
với các doanh nghiệp được xác định của cổ phần hóa nhằm giảm tối đa sở hữu
nhà nước trong các DNNN. Tuy nhiên, khi thực hiện tự do hóa nền kinh tế
nhanh chóng các vấn đề quản lý vĩ mô chưa có sự chuyển biến kịp nhiều vấn
đề kinh tế xã hội tiêu cực có cơ hội nảy sinh. Ở nước Nga, sau khi tự do hóa
nền kinh tế, kinh tế ngầm phát triển và hoành hành, nhà nước khó kiểm soát
quá trình kinh tế - xã hội. Cổ phần hóa không phát huy được tác động như
mong muốn, hậu quả là sự suy sụp về tài chính ở nước Nga ngày càng trở nên
trầm trọng với mức tỷ số chứng khoán 20%/ ngày. Tình trạng đó kéo dài hàng
năm, đến tháng 8 năm 1998, thị trường tài chính Nga cơ bản bị sụp đổ. Thu
nhập bằng tiền của người Nga chỉ bằng 1/10 thu nhập của người dân Mỹ. Các
nước khác mức độ không trầm trọng như nước Nga, nhưng tác động tích cực
do cổ phần hóa các DNNN những năm đó cũng không như mong muốn.
+ Về hình thức cổ phần hóa: Hình thức cổ phần hóa khá đa dạng. Có

nhiều hình thức được áp dụng như phát hành cổ phiếu nhân dân, bán cổ phiếu
giá thấp cho người lao động đang làm việc ở các DNNN cổ phần hóa. Việc
bán cổ phiếu được thực hiện trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức kiểm toán
trung gian. Đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, hình thức chủ yếu là bán cổ
phiếu trực tiếp cho người lao động đang làm việc hoặc đấu thầu cho thuê bằng
hợp đồng quản lý. Đối với DNNN có quy mô lớn, do muốn cổ phần hóa trong
thời gian ngắn nhưng sức mua cổ phiếu của công dân không lớn nên một số
nước như BaLan, Cộng hòa Séc, Cộng hòa Slovaky… đã chia tài sản cho
công dân dưới dạng các giấy chứng nhận sở hữu giá trị thấp hoặc cho không.
Vì vậy, tốc độ cổ phần hóa đã được đẩy nhanh; việc bù đắp cho các công dân
về những đóng góp của họ trước đây cho Doanh nghiệp được thực hiện.


20

+ Cổ phần hóa được thực hiện đồng thời với khuyến khích các Doanh
nghiệp tư nhân mới. Vì vậy, những vấn đề phát sinh tiêu cực sau cổ phần hóa
có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, nhiều nước cũng đưa ra các điều luật, các
chính sách chú trọng đến các vấn đề cá biệt như giải pháp kinh doanh tư nhân,
các điều kiện hoạt động kinh tế độc lập của công dân, điều tiết thị trường vốn
nên các vấn đề tiêu cực cũng đã từng bước được hạn chế.
1.2.1.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam [3]
Nghiên cứu quá trình cổ phần hóa các DNNN của một số nước trên thế
giới có thể rút ra những bài học kinh nghiệm để có thể vận dụng vào quá trình
cổ phần hóa các DNNN ở nước ta như:
+ Một là, CPH đã được thực hiện phổ biến ở hầu hết các nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới, nhất là ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi và
những nước có nền kinh tế kém phát triển.
Thực chất quá trình CPH là xử lý mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước với
kinh tế ngoài nhà nước, giảm bớt mức độ sở hữu và sự can thiệp trực tiếp của

nhà nước đối với các hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế theo đặc trưng của nền kinh tế thị trường, giảm bớt
độc quyền, sự bao cấp nặng nề của nhà nước làm gánh nặng của nhà nước với
doanh nghiệp về kinh tế giảm xuống, nâng cao vai trò chủ động của doanh
nghiệp. Đó là sự vận động tích cực nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi sự trì trệ,
kém năng động và kém hiệu quả. Vì vậy, đó là sự vận động phùa hợp và cần
thiết. Từ tổng kết này, một lần nữa khẳng định chủ trương đổi mới các DNNN
nói chung, cổ phần hóa chúng nói riêng của Đảng và nhà nước ta là đúng đắn.
+ Hai là, CPH có mối quan hệ chặt chẽ đến các doanh nghiệp sau cổ
phần hóa. Các nước thực hiện cổ phần hóa với quy mô, tốc độ, phương pháp
tiến hành có khác nhau. Đó là việc triển khai phù hợp với yêu cầu của cổ phần
hóa các DNNN. Tuy nhiên, thực tế cho thấy: những nước có thời gian cổ phần


21

hóa ngắn, kết quả cổ phần tốt là những nước đã xác định thời gian, mục tiêu,
cách thức tiến hành phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước đó.
Thường thì những nước có cách thức tiến hành vững chắc, xây dựng thành
chương trình, chuẩn bị các điều kiện về pháp lý và tổ chức, nghiên cứu lựa
chọn mục tiêu, xây dựng bộ máy chỉ đạo, thực hiện, xác lập các giải pháp tiến
hành, kiểm tra giám sát, điều chỉnh, tiến hành các bước từ thí điểm, tổng kết
đúc rút kinh nghiệm sau đó mới triển khai rộng thì kết quả cổ phần hóa tốt,
các vấn đề nảy sinh sau cổ phần hóa ít.
+ Ba là, muốn CPH thành công cần phải có sự vào cuộc và phối hợp chặt
chẽ giữa chính phủ và các bộ, ban ngành với các DNNN, đối tượng của CPH.
Trong sự phối hợp trên, vai trò của chính phủ và các bộ, ban, ngành trong việc
xây dựng chiến lược, xác định mục tiêu, phương thức tiến hành, xác định các
DNNN cần cổ phần hóa, xác định tỷ lệ cổ phần của nhà nước sau CPH, phương
pháp tính giá trị doanh nghiệp… Vai trò của các DNNN trong việc chủ động

triển khai các chủ trương và biện pháp cổ phần hóa doanh nghiệp mình.
Thường các doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ năng động, có khả năng kinh
doanh có hiệu quả muốn thực hiện cổ phần hóa. Những doanh nghiệp có đội
ngũ cán bộ kém năng động, kinh doanh thua lỗ không muốn triển khai CPH.
Để cổ phần hóa các DNNN đạt được kết quả tốt các doanh nghiệp phải thông
suốt từ giám đốc đến những người lao động; các nước đều có cơ quan chính phủ
đặc trách về CPH. Cơ quan này được tổ chức thống nhất từ cấp nhà nước đến các
bộ, ban, ngành và các doanh nghiệp. Cơ quan này phải quản lý toàn bộ chương
trình CPH DNNN, đồng thời phải kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, tổng kết, bổ sung
và tạo mọi điều kiện để thực hiện chương trình CPH đã xác lập.
+ Bốn là, để CPH thành công cần xác lập môi trường pháp lý hoàn chỉnh,
xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức tham gia
vào quá trình CPH. Đặc biệt, cần xây dựng pháp luật hoàn chỉnh cho quá trình


22

cổ phần hóa diễn ra thuận lợi, hạn chế những tiêu cực phát sinh sau cổ phần hóa.
Thực tế cho thấy: ở những nước có nền kinh tế phát triển hệ thống pháp luật phát
triển khá đồng bộ và hoàn chỉnh, không có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Các DNNN không sợ sau khi CPH
doanh nghiệp bị lép vế so với khi chưa cổ phần hóa... cổ phần hóa đã diễn ra rất
thuận lợi. Vì vậy, các nước đang phát triển, những nước có nền kinh tế chuyển
đổi là những nước có hệ thống pháp luật chưa thuận lợi cho tiến hành CPH. Đối
với những nước này, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, xác lập môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định là một trong các điều kiện để CPH thành công.
+ Năm là, để cổ phần hóa thành công, để thu cho ngân sách nguồn vốn,
cần phải đầu tư chi phí ban đầu cho quá trình cổ phần hóa; cần có những hỗ
trợ cho người lao động để giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh do cổ phần
hóa và sau cổ phần hóa. Rõ ràng, để thực hiện cổ phần hóa cần có những chi

phí hoạt động cho các hoạt động của các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá
trình cổ phần hóa. Đặc biệt cần chi phí khá lớn khi bán cổ phiếu ưu đãi cho
người lao động, cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Cần có khoản chi phí
cho đào tạo và đạo tạo lại người lao động ở các doanh nghiệp cổ phần hóa;
khoản chi phí để chi trả bảo hiểm xã hội; trợ cấp thôi việc do không đáp ứng
yêu cầu sau cổ phần hóa... Tất cả những khoản trên đều thuộc ngân sách nhà
nước. Kinh nghiệm cho thấy, nước nào khi tiến hành cổ phần chấp nhận các
khoản chi phí trên sẽ tạo được sự đồng thuận của người lao động và doanh
nghiệp. Cổ phần hóa diễn ra thuận lợi, các vấn đề nảy sinh sau cổ phần hóa đã
từng bước được giải quyết ngay chính trong quá trình cổ phần hóa.
+ Sáu là, để cổ phần hóa không làm suy yếu tiềm lực kinh tế của nhà nước
dẫn đến suy yếu chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, hầu hết các nước đều
lựa chọn các doanh nghiệp của các ngành, các lĩnh vực không then chốt, không


23

có tính chất quyết định đến nền kinh tế để CPH. Đặc biệt, các nước đều sử dụng
nguồn vốn thu được sau CPH để đầu tư tăng tiềm lực kinh tế của nhà nước.
+ Bảy là, cổ phần hóa các DNNN đều tạo những tác động tích cực đến
nền kinh tế, nhưng cũng đặt ra những vấn đề kinh tế xã hội cần phải xử lý.
Nếu không xử lý kịp thời sẽ giảm những ưu việt do cổ phần hóa mang lại.
1.2.2. Tại Việt Nam
1.2.2.1. Quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam.
Ở nước ta, DNNN được hình thành từ sau Cách mạng Tháng Tám và phát
triển mạnh sau khi đất nước thống nhất. Doanh nghiệp nhà nước đã từng giữ vai
trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, nhất là đóng góp to lớn vào
thắng lợi chung của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, bước sang thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế
chung của cả nước, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các doanh

nghiệp nhà nước không những đã không kịp chuyển mình để đáp ứng được
yêu cầu mới đặt ra, mà còn bộc lộ nhiều yếu kém như: quy mô sản xuất kinh
doanh nhỏ bé, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý non kém; tổ chức,
bộ máy cồng kềnh; cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp chưa hợp lý, kém
hiệu quả; khả năng cạnh tranh yếu trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp sắp
xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
CPH doanh nghiệp nhà nước được coi là một giải pháp quan trọng để giảm bớt số
lượng doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm, nâng cao hiệu quả SXKD của
các doanh nghiệp này, tăng cường huy động vốn đầu tư từ xã hội…
CPH DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có nhiều tác
động đến sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống người lao động và
những vấn đề xã hội khác nên được tiến hành một cách thận trọng với những


24

bước thí điểm ban đầu vào năm 1990 trên cơ sở pháp lý là Quyết định số
143/HĐBT ngày 10-5-1990. Sau đó, Chính phủ đã ban hành nhiều Chỉ thị,
Nghị quyết về vấn đề này, như: Chỉ thị số 202 ngày 6-8-1992; Chỉ thị số 84
ngày 4-3-1993 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định số 28/NĐ-CP ngày 7-51996; Nghị định số 25/CP ngày 26-3-1997; Thông báo số 63 TB/TW ngày 44-1997 của Bộ Chính trị; Nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29-6-1998; Nghị định
số 64/2002/NĐ-CP ngày 19-6-2002; Chỉ thị số 45 ngày 22-10-2004 của Bộ
Chính trị đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khóa IX về sắp xếp,
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Nghị định
109/2007/NĐ-CP và mới đây là Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/ 7/ 2011
về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần [10].
Quá trình tiến hành CPH các DNNN đã trải qua một số giai đoạn sau:
- Từ năm 1992 đến tháng 6 năm 1998. Những doanh nghiệp tự nguyện
và làm ăn có lãi được lựa chọn để thí điểm tiến hành cổ phần hóa. Trong giai

đoạn này, cả nước cổ phần hóa được 30 doanh nghiệp, trong đó 5 doanh
nghiệp được cổ phần hóa theo cơ chế, chính sách thí điểm quy định tại Quyết
định số 202/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, 25 doanh nghiệp được cổ
phần hóa theo cơ chế chính sách của Nghị định 28/CP của Chính phủ [12].
- Giai đoạn từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP
ngày 2-6-1998 đến ngày 31-12-1999. Trong thời gian này, có thêm 340 doanh
nghiệp nhà nước và bộ phận DNNN được CPH. Riêng năm 1999 có 250 doanh
nghiệp, gấp 8 lần so với 7 năm trước cộng lại [12]. Nhìn chung, đến thời điểm
này, chủ trương CPH của Nhà nước đã được các ngành, các bộ, địa phương
nhận thức đầy đủ hơn. Bản thân người lao động cũng có phần yên tâm hơn, vì
thế công tác CPH DNNN đạt được nhiều tiến bộ so với thời kỳ trước.
- Giai đoạn từ tháng 1 năm 2000 đến nay. Đến thời gian này điều đáng
chú ý là có Nghị quyết trung ương 3, khóa IX trong đó chủ trương đẩy mạnh cổ


×