Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nghiên cứu đề xuất nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng khu bảo tồn thiên nhiên COPIA tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
___________-____________

VŨ ĐỨC THUẬN

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP
ĐỒNG QUẢN LÝ RỪNG KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
COPIA - TỈNH SƠN LA

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ TÂY, NĂM 2006


1

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài và quá trình tham gia học tập tại
trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, tôi luôn nhận được sự ân cần dạy dỗ
chỉ bảo của các thầy, cô giáo; sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu của các đồng
nghiệp; sự động viên kịp thời của bạn bè và gia đình đã giúp tôi vượt qua
những trở ngại, khó khăn để hoàn thành chương trình đào tạo Thạc sỹ khoa
học Lâm nghiệp. Nhân dịp này tôi xin bảy tỏ sự biết ơn tới
- Ban Giám hiệu nhà trường, Khoa đào tạo Sau đại học, các Giáo sư,


Tiến sĩ hợp tác giảng dạy tại Khoa Sau đại học, toàn thể giáo viên và cán bộ
Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam;
- PGS – TS. Vũ Nhâm, giáo viên hướng dẫn khoa học của luận văn đã
định hướng và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn;
- Văn phòng UBND tỉnh Sơn La, Chi cục Kiểm lâm, Trường Đại học
Tây Bắc và các phòng, ban của UBND huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La;
- Cán bộ và chiến sỹ Hạt Kiểm lâm Copia và Ban quản lý Khu bảo tồn
thiên nhiên Copia, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La;
- Lãnh đạo UBND xã Chiềng Bôm, Ban quản lý bản và người dân của
30 bản đã giúp đỡ trong việc điều tra nghiên cứu thực tế để hoàn thành luận
văn này,
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn do điều kiện hạn chế về
thời gian, nhân lực, tài chính và nội dung nghiên cứu của đề tài còn tương đối
mới, nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong muốn nhận được những
ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học và bạn bè
đồng nghiệp. Xin trân trọng cảm ơn ./.
Xuân Mai, ngày 30 tháng 7 năm 2006
Tác giả
Vũ Đức Thuận


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam có diện tích tự nhiên là 33,04 triệu ha, ở vào vị trí đặc biệt
trải dài gần 15 độ vĩ (8020’ - 22022’ vĩ độ Bắc) và hơn 7 kinh độ (102010’ 109020’ kinh độ Đông). Địa hình đồi núi chiếm trên 70% diện tích hết sức đa
dạng biến đổi từ độ cao âm dưới mực nước biển đến 3.143m so với mực nước
biển. Về mặt sinh địa, nước ta là giao điểm của vùng Ấn Độ, Nam Trung
Quốc và Malaysia. Những điều kiện tự nhiên đã tạo ra tính đa dạng cao về các
hệ sinh thái rừng, khu hệ thực vật và động vật. Một số khu vực ở Việt Nam đã

được công nhận là những điểm ưu tiên bảo tồn toàn cầu với tính đa dạng và
đặc hữu cao [29].
Tuy nhiên, cùng với thời gian, diện tích cũng như chất lượng rừng có
nhiều thay đổi. Năm 1943, diện tích rừng là 14,3 triệu ha tương đương độ che
phủ 43% tổng diện tích tự nhiên toàn quốc (Paul Maurant, 1943). Sau 50 năm,
đến năm 1993 diện tích rừng chỉ còn 9,3 triệu ha, với độ che phủ chỉ đạt 28%.
Cùng với sự suy giảm về diện tích, chất lượng rừng và đa dạng sinh học cũng
bị bi suy thoái. Diện tích rừng gần như nguyên sinh chưa bị tác động chỉ còn
10% tổng diện rừng hiện có [2]. Một số loài động vật đã bị diệt chủng ngoài
tự nhiên như Heo vòi, Bò xám, Hươu sao, Tê giác hai sừng, Vượn đen tay
trắng (Đỗ Tước, 1998) [18]. Nhiều loài động vật và thực vật đang trở nên quý
hiếm có nguy cơ bị đe doạ diệt chủng như về động vật có Hổ, Voi, Tê giác
một sừng, Bò rừng, Bò tót, Cà toong, Vượn đen tuyền, Voọc quần đùi, Voọc
mũi hếch v.v.., về thực vật có Bách xanh, Hoàng đàn rủ, Thông nước v.v...
Những năm gần đây, rừng dần dần đã được phục hồi và tái tạo. Đến tháng
31/12/2005 diện tích rừng đã tăng lên 12.616.700 ha, độ che phủ đạt 37%. Điều
này thể hiện chính sách và xu hướng đúng đắn của Chính phủ và Ngành lâm
nghiệp cũng như nỗ lực tham gia của toàn dân trong công cuộc bảo vệ và phát
triển rừng [1].


3

Hệ thống 3 loại rừng là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng xản xuất
ngày càng phát triển và hoàn thiện. Hệ thống rừng đặc dụng được coi là chiến
lược bảo tồn thiên nhiên lâu dài của Việt Nam và là cơ hội tồn tại của các loài
động, thực vật đang bị đe doạ. Ngay trong thời kỳ chiến tranh, năm 1962, khu
rừng cấm quốc gia đầu tiên là Cúc Phương đã được thành lập. Ngày
17/9/2003, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quản lý hệ thống
Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010 có tổng diện tích 3.029.321

ha, chiếm trên 9% diện tích tự nhiên toàn quốc với 133 khu rừng đặc dụng,
trong đó có 32 Vườn quốc gia, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 28 Khu bảo tồn
loài/nơi cư trú và 21 Khu bảo tồn cảnh quan [3].
Do rừng bị thu hẹp, đa dạng sinh học bị đẩy lùi tới những vùng núi nên
hầu hết các khu rừng đặc dụng phân bố ở vùng sâu xa thuộc các tỉnh miền
núi, nơi đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi một khu rừng đặc dụng
lại có những đặc điểm đặc trưng riêng biệt. Thông thường, chúng có đặc điểm
chung là địa hình hiểm trở khó đi lại, kinh tế - xã hội chưa phát triển, dân cư
thưa thớt. Các dân tộc sống gần các khu rừng đặc dụng có những hiểu biết và
truyền thống khác nhau trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Với những điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khó khăn, công tác quản lý
các khu rừng đặc dụng trong những năm qua gặp không ít trở ngại. Lực lượng
quản lý về lâm nghiệp mỏng, nhiều nơi không đủ điều kiện để thành lập Ban
quản lý rừng đặc dụng. Trình độ hiểu biết về đa dạng sinh học cũng như tổ
chức quản lý các khu rừng đặc dụng còn hạn chế. Tuy đã được Chính phủ và
chính quyền các cấp quan tâm nhưng kinh phí giành cho các hoạt động bảo
tồn thiên nhiên vẫn rất hạn hẹp. Nhiều khu rừng đặc dụng tồn tại chỉ trên danh
nghĩa có tên trong danh sách, không đầu tư, không chủ quản lý. Cũng có
nhiều khu tuy đã có ban quản lý nhưng lực lượng quá mỏng, hoạt động kém


4

hiệu quả. Những đặc điểm này là nguyên nhân dẫn đến rừng và đa dạng sinh
học của các khu rừng đặc dụng vẫn tiếp tục bị tác động và suy giảm.
Từ trước tới nay, việc xây dựng các khu rừng đặc dụng cũng như xây
dựng kế hoạch quản lý và hoạt động vẫn thường được tiếp cận từ trên xuống,
chưa quan tâm đến người dân sống trong và gần các khu rừng đặc dụng. Điều
này vô hình dung đã đặt người dân với vai trò là người ngoài cuộc trong công
tác bảo tồn thiên nhiên. Tiềm năng to lớn của người dân về lực lượng về

những hiểu biết và kinh nghiệm lâu đời trong quản lý và sử dụng tài nguyên
chưa được khai thác ứng dụng. Trong khi đó, bảo tồn thiên nhiên thường mâu
thuẫn với những lợi ích của người dân vốn sinh sống phụ thuộc rất nhiều vào
tài nguyên rừng. Nhiều nơi, thay vì tham gia quản lý bảo vệ tài nguyên người
dân đã đối đầu với lực lượng quản lý bảo vệ rừng của chính quyền.
Để giảm các áp lực đối với các khu rừng đặc dụng, chia sẻ gánh nặng
đối với chính quyền các cấp trong tình trạng trên thì việc tham gia của người
dân trong công tác bảo tồn thiên nhiên là rất cần thiết. Sự tham gia của người
dân không chỉ dừng lại ở mức tham gia một cách thụ động, mà cần phải nâng
cao hơn nữa như được chuyển giao quyền lực, chủ động tham gia tiến tới
đồng quản lý rừng đặc dụng. Từ đó mới đánh giá đúng đắn vai trò của người
dân trong công tác bảo tồn thiên nhiên về quản lý, sử dụng và chia xẻ lợi ích.
Trên cơ sở đó người dân mới thực sự tự nguyện tham gia vào công tác bảo
tồn, cũng như những hiểu biết và kinh nghiệm của người dân mới được ứng
dụng ngay trên mảnh đất hàng ngày họ đang sinh sống. Xu hướng này cũng
rất phù hợp với tinh thần của Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998
của Chính phủ về ban hành Quy chế dân chủ ở các xã.
Trên cơ sở thực tiễn và lý luận trên cùng với những kiến thức tiếp thu
được từ các thầy, cô giáo và bạn bè trong thời gian học tập, nghiên cứu tại
Trường Đại học Lâm nghiệp, với sự giúp đỡ của PGS - TS. Vũ Nhâm, tôi


5

chọn đề tài thực hiện luận văn thạc sỹ lâm nghiệp “Nghiên cứu đề xuất
nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng Khu bảo tồn thiên nhiên Copia
tỉnh Sơn La”
Khu bảo tồn thiên nhiên Copia tỉnh Sơn La nằm cách thị xã Sơn La 45
km về phía Tây. Từ vị trí và đặc điểm tự nhiên, Copia đóng một vai trò rất
quan trọng trong điều hoà khí hậu, cung cấp nguồn nước cho suối Nậm Na

của Thuận Châu, nằm trong lưu vực của Sông Mã Copia giầu động thực vật
hoang dã quý hiếm, đang một trong 4 khu rừng tự nhiên có hệ sinh thái đa
dạng và nguyên thuỷ của tỉnh Sơn La, là cơ sở cho các nhà khoa học, sinh
viên trường Đại học Tây Bắc nghiên cứu, học tập. Ngoài ra còn là khu du lịch
sinh thái của tỉnh Sơn La trong tương lai. Thấy rõ giá trị và vai trò của khu
rừng Copia Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La đã có Quyết định số 729/QĐ-UB
ngày 28/02/2002 Về việc thành lập 4 khu rừng đặc dụng trong đó có Khu
BTTN Copia.
Trong điều kiện hiện tại của tỉnh Sơn La, sau khi tổ chức giao đất lâm
nghiệp, giao rừng cho các chủ thể quản lý đã xuất hiện một số vấn đề bất cấp
trong quản lý và sử dụng rừng. Một số việc, đơn phương các chủ rừng không
thể quản lý nổi như bảo vệ rừng, phòng trừ sâu hại, đặc biệt là công tác
PCCCR, rất cần sự đồng tương trợ, giúp đỡ của cộng đồng, của các chủ rừng
và sự hỗ trợ từ phía chính quyền, các ngành chuyên môn kỹ thuật, các nhà
khoa học, các đơn vị, tổ chức tài trợ về tài chính. Các đối tác này cần hợp tác
chặt chẽ với nhau để đảm bảo quyền lợi và quản lý rừng một cách bền vững.
Nghiên cứu này mong muốn các chủ thể quản lý kinh doanh và sử dụng
rừng, không riêng các Ban quản lý rừng đặc dụng mà các chủ thể rừng phòng hộ,
sản xuất có cách nhìn nhận mới trong hợp đồng, hợp tác quản lý và sử dụng rừng
một cách bền vững; tạo động lực cho chính quyền địa phương trong tổ chức chỉ
đạo công tác bảo vệ và phát triển rừng trong những năm tới.


6

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu và thực hiện trên thế giới
Đồng quản lý rừng (Joint Forest Management) hay hợp tác quản lý khu
rừng bảo vệ (Co-management of Protected Areas) lần đầu tiên được biết đến ở

Ân Độ và sau đó nhanh chóng lan rộng tới các quốc gia thuộc các nước Châu
Phi, Châu Mỹ La Tinh và Châu Á.
Năm 1996, tại Vườn quốc gia Bwindi Impenetrable và MgaHinga
Gorilla thuộc Uganda, Wild và Mutebi đã nghiên cứu hợp tác quản lý, được
thực hiện giữa ban quản lý Vườn quốc gia và cộng đồng dân cư. Trên cơ sở
thoả thuận ký kết quy ước giữa hai bên cho phép người dân khai thác bền
vững một số lâm sản, đồng thời có nghĩa vụ tham gia quản lý bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên trên địa bàn của cộng đồng dân cư.
Trong báo cáo “Hợp tác quản lý với người dân ở Nam Phi Phạm vi vận
động” của Moenieba Isaacs và Najma Mohamed (2000) đã nghiên cứu các
hoạt động hợp tác quản lý tại Vườn quốc gia Richtersveld là khu vực giàu có
về tài nguyên thiên nhiên và mỏ kim cương. Các cộng đồng dân cư ở đây là
những người di cư từ tỉnh Cape, tới chủ yếu làm nghề khai thác kim cương.
Tuy nhiên, đời sống của người dân vẫn rất khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém,
điều kiện làm việc trong các hầm mỏ nguy hiểm. Người dân nhận thức chưa
cao về bảo tồn thiên nhiên, trong khi đó công việc của họ làm ảnh hưởng tới
đa dạng sinh học của Vườn quốc gia. Ban quản lý Vườn quốc gia đã phải
nghiên cứu phương thức bảo tồn trong nhiều năm và cho đến năm 1991 mới
chính thức tìm ra được phương thức hợp tác quản lý với cộng đồng dân cư.
Phương thức này chủ yếu dựa trên hương ước quản lý bảo vệ tài nguyên
(Contractual Agreement). Trong đó, người dân cam kết bảo vệ đa dạng sinh


7

học trên địa phận của mình, còn chính quyền và Ban quản lý hỗ trợ người dân
xây dựng cơ sở hạ tầng và cải thiện các điều kiện kinh tế - xã hội khác.
Cũng tương tự, tại Vườn quốc gia Kruger (2000) người dân trước đây
đã chuyển đi từ Makuleke, khi Chính phủ mới thành lập đã cho phép người
dân trở lại vùng đất truyền thống để sinh sống. Để đạt được quyền sử dụng

đất đai cũ, người dân phải xây dựng quy ước bảo vệ môi trường trong khu vực
Vườn quốc gia, đồng thời họ cũng được chia xẻ lợi ích thu được từ du lịch.
Những kết quả đạt được về đồng quản lý tài nguyên ở Nam Phi đã trở thành
bài học kinh nghiệm cho các nước đang phát triển khác.
Ở Canada, trong bài viết của Sherry, E. E, (1999) về đồng quản lý,
Vườn quốc gia Vutut vừa là một Khu bảo tồn thiên nhiên vừa là khu di sản
văn hoá của người thổ dân ở vùng Bắc Cực. Liên minh giữa chính quyền và
thổ dân đã huy động được lực lượng người dân kết hợp với Ban quản lý làm
thay đổi chiều hướng bảo tồn tự nhiên hoang dã và tăng các giá trị của Vườn
quốc gia. Đồng quản lý ở đây đã kết hợp được giữa các mối quan tâm và kiến
thức bản địa với mục tiêu bảo tồn. Ban quản lý Vườn quốc gia giúp về kỹ
thuật xây dựng các mô hình bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế - xã hội,
còn dân bản địa có thể thực hiện các mô hình đó. Hợp tác quản lý ở đây đã
giải quyết hài hoà mâu thuẫn giữa chính sách của chính quyền và bản sắc
truyền thống của người dân, đảm bảo cho sự thành công của công tác bảo tồn
hoang dã và bảo tồn các di sản văn hoá. Đồng quản lý ở Vườn quốc gia Vutut
được đánh giá là rất thành công, theo tác giả thì nó được thiết kế để “kết hợp
giữa sự tốt đẹp nhất của hai thế giới” nhà nước văn minh và thổ dân.
Shuchenmann (1999) đã đưa ra một ví dụ ở Vườn quốc gia Andringitra,
là Vườn quốc gia thứ 14 của nước cộng hoà Madagascar. Vườn quốc gia là
một vùng núi có mối liên hệ giữa các hệ sinh thái, sinh cảnh, đa dạng sinh học
và cảnh quan cũng như di tích văn hoá. Chính phủ có nghị định đảm bảo các


8

quyền của người dân như quyền chăn thả gia súc, khai thác tài nguyên từ rừng
phục hồi để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn những tập quán truyền thống
khác như có thể giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng. Để đạt được những thoả
thuận trên, người dân phải đảm bảo tham gia bảo vệ sự ổn định của các hệ

sinh thái trong khu vực. Ngoài ra, có nhiều bên liên quan tham gia trong Ban
đồng quản lý như cơ quan du lịch, chính quyền địa phương.
Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad (1999), tại Khu bảo tồn Hoàng
gia Chitwan ở Nepal, cộng đồng dân cư vùng đệm được tham gia hợp tác với
một số các bên liên quan quản lý tài nguyên vùng đệm phục vụ cho du lịch.
Lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài nguyên là khoảng 30% - 50%
thu được từ du lịch hàng năm sẽ đầu tư trở lại cho các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội của cộng đồng. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở đồng quản
lý tài nguyên rừng phục vụ du lịch ở vùng đệm [25].
Thái Lan là một nước Châu á được đánh giá đạt được nhiều thành tựu
trong công tác xây dựng các chương trình đồng quản lý các khu rừng bảo vệ.
Các cộng đồng dân cư có đời sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng thường rất
thành thạo khi đóng vai trò là người bảo vệ hoặc người tham gia quản lý Khu
bảo tồn Poffenberger, M. và McGean, B. (1993) trong báo cáo “Liên minh
cộng đồng đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu điểm tại Vườn
quốc gia Dong Yai nằm ở Đông Bắc và khu rừng phòng hộ Nam Sa ở phía
bắc Thái Lan. Đó là những vùng quan trọng đối với công tác bảo tồn đa dạng
sinh học, đồng thời cũng là những vùng có nhiều đặc điểm độc đáo về kinh tế
- xã hội, về thể chế truyền thống của cộng đồng người dân địa phương trong
quản lý và sử dụng tài nguyên. Tại Dong Yai, người dân đã chứng minh được
khả năng của họ trong việc tự tổ chức các hoạt động bảo tồn, đồng thời phối
hợp với Cục Lâm nghiệp Hoàng gia xây dựng hệ thống quản lý rừng đảm bảo
ổn định về môi trường sinh thái, cũng như phục vụ lợi ích của người dân


9

trong khu vực. Tại Nam Sa, cộng đồng dân cư cũng rất thành công trong công
tác quản lý rừng phòng hộ. Họ khẳng định rằng nếu Chính phủ có chính sách
khuyến khích và chuyển giao quyền lực thì họ chắc chắn sẽ thành công trong

việc kiểm soát các hoạt động khai thác quá mức nguồn tài nguyên rừng, các
hoạt động phá rừng và tác động tới môi trường. Đồng quản lý ở Thái Lan có
thể trở thành bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam, bởi Thái Lan cũng
là một nước trong vùng Đông Nam á, có một số đặc điểm tương đồng với
Việt Nam về điều kiện tự nhiên và văn hoá, xã hội.
1.2. Tình hình nghiên cứu và thực hiện ở Việt Nam và đánh giá sơ bộ
Hợp tác quản lý đã được biết đến từ sau Cách mạng tháng 8 dưới hình
thức hợp tác xã (Co-operative). Đối với tài nguyên rừng, công tác quản lý của
hợp tác xã dừng lại ở mức độ đơn giản, coi tài nguyên rừng là của chung, các
hoạt động khai thác và sử dụng đều mang tính tập thể.
Khái niệm đồng quản lý tài nguyên lần đầu tiên được đưa vào Việt
Nam năm 1997 tại khoá tập huấn về “Kết hợp bảo tồn và phát triển”
(Integrated Conservation and Developmnet - ICD) tổ chức tại Vườn quốc gia
Cát Tiên, do Quỹ quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tài trợ. Sau đó, khái niệm này
lại được giới thiệu trong một số các khoá tập huấn về bảo tồn thiên nhiên của
các dự án được các tổ chức quốc tế tài trợ như dự án LINC (Bảo tồn liên kết
Hinnamno và Phong Nha - Kẻ Bàng), dự án PARC (Bảo tồn thiên nhiên trên
quan điểm sinh thái nhân văn)... Tại các khoá tập huấn này, đồng quản lý tài
nguyên mới dừng lại ở khái niệm và lý thuyết cơ bản.
Ulrich Apel, Oliver C. Maxwell và các tác giả (2002) đã có nghiên cứu
về phối hợp quản lý và bảo tồn ở Khu BTTN Pù Luông. Các tác giả đánh giá
nghịch lý về sử dụng đất đai và nhà ở, tình hình quản lý tài nguyên thiên
nhiên ở một số bản vùng đệm khu BTTN Pù Luông. Nghiên cứu này mới đưa
ra được một số phân tích về sự phụ thuộc của người dân đối với tài nguyên


10

rừng và đánh giá một số thể chế, chính sách hiện nay đối với công tác quản lý
rừng đặc dụng. Tuy nhiên, chưa đánh giá được đầy đủ tiềm năng về đồng

quản lý, cũng như chưa đưa ra được nguyên tắc và giải pháp thực hiện [21].
Tuy chưa có những nghiên cứu đầy đủ, nhưng trong thực tế cho thấy
đồng quản lý các khu rừng đặc dụng là một trong những xu hướng phù hợp
với điều kiện bảo tồn thiên nhiên ở nước ta. Một số dự án đang hoạt động với
nội dung đồng quản lý rừng, điển hình như dự án quản lý vùng chiến lược kết
hợp với bảo tồn thiên nhiên (MOSAIC) do USAID/WWF tài trợ triển khai ở
phía Tây tỉnh Quảng Nam. Trong đó, nội dung thử nghiệm đồng quản lý rừng
Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh mới tiến hành từ năm 2001 và đang
trong thời gian thử nghiệm cho giai đoạn tiếp theo.
Dự án về đồng quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế đang trong giai đoạn khởi động do tổ chức Catherine T.Macarthur
Foundation tài trợ. Mục tiêu của dự án nhằm xây dựng mô hình đồng quản lý
rừng giữa Ban quản lý Khu bảo tồn và cộng đồng dân cư, có sự tham gia của
các tổ chức, cơ quan liên quan.
Tuy nhiên, các dự án trên đều đang lúng túng vì chưa đưa ra được tiến
trình, nguyên tắc và các giải pháp thích hợp để xây dựng kế hoạch đồng quản lý
tài nguyên rừng.
Ngày 4/8/2003, Hội thảo về “Ý tưởng thành lập Khu BTTN Phu Xai
Lai Leng do cộng đồng quản lý” được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An.
Hội thảo đề xuất một số vấn đề đồng quản lý rừng, tuy nhiên chưa thống nhất
được nguyên tắc và giải pháp thực hiện [11].
Như vậy, ở Việt Nam đồng quản lý rừng đặc dụng là nhu cầu thực tiễn
rất cần thiết trong công tác bảo tồn thiên nhiên. Các dự án đang và sẽ thực
hiện rất cần hệ thống hoá cơ sở lý luận và các bước tiến hành về đồng quản lý
rừng phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn ở nước ta.


11

Chương 2

MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nâng cao vai trò và trách nhiệm của các đối tác trong quản lý và sử
dụng bền vững tài nguyên rừng Khu BTTN Copia.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện đồng quản lý rừng tại
Khu BTTN Copia.
- Đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng Khu BTTN Copia.
- Đề xuất một số nguyên tắc đồng quản lý rừng Khu BTTN Copia.
- Đề xuất một số giải pháp thực hiện đồng quản lý rừng nhằm giải
quyết các mâu thuẫn giữa quản lý và sử dụng tài nguyên rừng với phát triển
kinh tế - xã hội trong khu vực Khu BTTN Copia.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
- Luật pháp và chính sách của Chính phủ và của tỉnh Sơn La có liên
quan đến công tác quản lý rừng Đặc dụng.
- Kiến thức bản địa và thể chế của cộng đồng người dân trong quản lý
và sử dụng tài nguyên rừng.
- Tài nguyên rừng thuộc Khu BTTN Copia.
2.3. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Chủ đề nghiên cứu đề xuất giải pháp đồng quản lý rừng Khu BTTN
Copia đòi hỏi cần có thời gian, nhân lực và kinh phí chi phí cho quá trình
nghiên cứu, do điều kiện không cho phép, nên đề tài được giới hạn nghiên


12

cứu cho một xã đại diện là Chiềng Bôm để làm cơ sở đề xuất đồng quản lý
rừng Khu bảo tồn thiên nhiên Copia.

2.4. Nội dung nghiên cứu
- Tổng hợp đánh giá đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Khu BTTN
Copia và xã Chiềng Bôm.
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về đồng quản lý rừng Khu BTTN.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý và sử dụng tài nguyên rừng Khu
bảo tồn, những nguy cơ và thách thức.
- Phân tích đánh giá các đối tác liên quan đến đồng quản lý tài nguyên
rừng về vai trò, tiềm năng hợp tác và những mẫu thuẫn tiềm tàng.
- Phân tích thể chế và kiến thức địa phương áp dụng cho công tác bảo
tồn thiên nhiên.
- Đề xuất một số nguyên tắc đồng quản lý rừng và giải pháp thực hiện
đồng quản lý rừng Khu BTTN Copia.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Thu thập số liệu thứ cấp
Áp dụng phương pháp nghiên cứu và kế thừa các tài liệu từ cơ quan
chuyên ngành như quy hoạch sử dụng đất của huyện Thuận Châu; Dự án xây
dựng Khu BTTN Copia; số liệu giao đất, giao rừng tỉnh Sơn La; dự án trồng
rừng 661 tỉnh Sơn La v.v...
Các tài liệu nghiên cứu về đa dạng sinh học, xã hội học và dân tộc học
làm cơ sở đánh giá các giá trị tự nhiên và văn hoá của Khu bảo tồn thiên
nhiên.
2.5.2. Điều tra thực địa
2.5.2.1. Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
* Tiêu chí chọn xã
- Xã có địa bàn quản lý hành chính nằm trong Khu BTTN Copia.


13

- Người dân trong xã có các hoạt động phụ thuộc vào tài nguyên của

Khu bảo tồn như đất canh tác nông nghiệp, gỗ, củi, động vật và các tài
nguyên khác.
- Có các dân tộc ít người đang sinh sống.
- Có vị trí quan trọng trong công tác quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên.
- Trên cơ sở các tiêu trí trên, xã Chiềng Bôm được chọn làm địa điểm
nghiên cứu của đề tài.
2.5.2.2. Phương pháp điều tra
Sử dụng phương pháp tổng hợp PRRA (Participatory Rural Rapid
Appraisal) là phương pháp kết hợp giữa đánh giá nhanh nông thôn (RRARapid Rural Appraisal) và đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRAParticipatory Rural Appraisal).
Để thực hiện phương pháp trên cần có sự giúp đỡ của một số cán bộ địa
phương, nên trước khi điều tra ở thực địa tiến hành tập huấn kỹ thuật cho các
cán bộ của Khu bảo tồn và cán bộ xã tham gia thực hiện.
a. Các công cụ sử dụng trong điều tra
- Lịch mùa vụ.
- Vẽ sơ đồ quản lý và sử dụng tài nguyên rừng của bản trên đó thể hiện
các nguồn tài nguyên, các hình thức quản lý và sử dụng tài nguyên.
- Sơ đồ lịch sử sử dụng đất.
- Ma trận, sơ đồ đánh giá tiềm năng các bên liên quan.
- Ma trận đánh giá mâu thuẫn trong quản lý sử dụng tài nguyên rừng.
- Ma trận đánh giá khả năng tham gia của người dân trong quản lý Khu
bảo tồn.
- Ma trận xếp hạng ưu tiên lập kế hoạch các hoạt động quản lý bảo vệ rừng.
- Bảng câu hỏi phỏng vấn bán định hướng các cơ quan cấp huyện, cấp
xã và trưởng bản.


14

- Bảng phỏng vấn hộ gia đình mỗi bản chọn 3 hộ để phỏng vấn, bao
gồm 1 hộ khá, 1 hộ trung bình và một hộ nghèo.

b. Phương pháp chọn nhóm người dân (cộng tác viên) tham gia thảo luận
- Về số lượng mỗi bản có 8 - 10 người tham gia thảo luận
- Về tuổi tác bao gồm người cao tuổi; người trung niên; thanh niên
- Về nghề nghiệp bao gồm
+ Nhóm nam cần 3 - 4 người hay đi rừng lấy củi, gỗ, mật ong, sa nhân,
săn bắt động vật rừng.
+ Nhóm nữ cần có 3 - 4 người có kinh nghiệm đi rừng lấy củi, lấy rau,
lấy các lâm sản phụ khác.
+ Mỗi nhóm cần có 1 - 2 người của các đoàn thể như hội phụ nữ, hội
nông dân, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh .v.v..
c. Phương pháp chọn hộ gia đình phỏng vấn
Theo tiêu chí của nhà nước đã phân định và chọn ngẫu nhiên 3 hộ đại
diện cho 3 nhóm để phỏng vấn 1 hộ thuộc nhóm khá, 1 hộ thuộc nhóm trung
bình, 1 hộ thuộc nhóm kém. Nếu bản chưa phân loại hoặc đã phân loại nhưng
không có hộ khá thì đề nghị trưởng bản lập một danh sách phân loại thành 3
nhóm hộ nhóm loại 1 có điều kiện kinh tế tốt nhất; nhóm loại 2 có điều kiện
kinh tế trung bình; nhóm loại 3 có điều kiện kinh tế kém nhất. Sau đó rút ngẫu
nhiên lấy 3 hộ để phỏng vấn.
2.5.3. Xử lý và phân tích số liệu viết báo cáo
- Dùng phương pháp phân tích tổng hợp, mô tả, so sánh, đánh giá để tìm
ra các giải pháp thích hợp cho phương thức đồng quản lý tài nguyên rừng.
- Phân tích các kết quả thảo luận theo chủ đề xây dựng tổ chức đồng
quản lý rừng. Từ đó so sánh, đánh giá, xây dựng các nguyên tắc và giải pháp cơ
bản thích hợp cho phương thức đồng quản lý tài nguyên rừng trong Khu BTTN
Copia.


15

Chương 3

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN COPIA
3.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
Khu bảo tồn thiên nhiên Copia nằm phía Tây Bắc tỉnh Sơn La, diện tích
trải rộng trên địa bàn 4 xã Chiềng Bôm, Co Mạ, Long Hẹ và Nậm Lầu thuộc
huyện Thuận Châu, cách Thị xã Sơn La 54km và cách thị trấn huyện Thuận
Châu 20km.
- Phía Bắc giáp tiểu khu (TK) 245a, TK 242 thuộc xã Long Hẹ; TK 234
thuộc xã Chiềng Bôm.
- Phía Nam giáp xã Chiềng Phung và xã Nậm Ty, huyện Sông Mã.
- Phía Đông giáp xã Púng Tra và TK 256, TK 265, TK 276, TK 280,
TK 279 thuộc xã Nậm Lầu.
- Phía Tây và Tây Nam giáp TK 246, TK 259, TK 271 thuộc xã Co Mạ.
- Toạ độ địa lý:
+ Vĩ độ: 210 17' 30" đến 210 25' 54" độ vĩ Bắc.
+ Kinh độ: 1030 32' 00" đến 1030 44' 00" độ kinh Đông.
Theo phân vùng địa lý tự nhiên, Khu BTTN Copia nằm trong vùng đồi
núi thung lũng Sông Mã, chủ yếu là địa hình xâm thực. Độ cao so với mực
nước biển biến động từ 500m đến 1.800m, nơi cao nhất là đỉnh PuSamSao
(1.821m) và đỉnh Copia (1.816,8m).
Địa hình ở đây chia cắt mạnh do các dông núi phụ và các khe suối chạy
từ trên các đỉnh cao xuống, tạo thành thung lũng sâu, sườn núi dốc, độ dốc
trung bình 250 đến 300, nhiều nơi có độ dốc trên 350.
3.1.1. Khí hậu thuỷ văn
a. Khí hậu


16

- Khu BTTN Copia mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng

Tây Bắc, hàng năm chia thành hai mùa rõ rệt:
+ Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9.
+ Mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
- Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500mm đến 1.600mm, tập trung
chủ yếu vào tháng 6 đến tháng 8, chiếm 70% tổng lượng mưa cả năm.
- Nhiệt độ:
+ Nhiệt độ bình quân 190c;
+ Nhiệt độ tối cao, bình quân 300c;
+ Nhiệt độ tối thấp, bình quân 140c.
- Ẩm độ :
+ Độ ẩm trung bình 85%;
+ Độ ẩm tối cao 90%;
+ Độ ẩm tối thấp 70%.
Đây cũng là khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, gió Lào.
Các hiện tượng thời tiết bất thường như sương muối và băng giá thường xuất
hiện vào cuối tháng 12 và đầu tháng 1 hàng năm.
b. Thuỷ văn:
Do đặc điểm địa hình, địa thế của khu vực nên Khu bảo tồn Copia
không có sông lớn, nhưng có các hệ thống suối đầu nguồn chính, đó là:
- Hệ thống suối Nậm Nhộp là đầu nguồn của suối Nậm Muội đổ ra
sông Đà, thuộc địa phận xã Chiềng Bôn.
- Hệ thống suối Hủa Lương, Hủa Nhứ (suối Đen), có dòng chảy bắt
nguồn từ các lưu vực thuộc phía Tây Bắc Copia, hướng nước chảy về hướng
Tây và Tây Bắc và đổ ra suối lớn đổ về sông Mã.
- Hệ suối Nậm Lu, suối Kép, Hủa Ty, suối Lầu đổ về suối Ty chảy ra
sông Mã.


17


Ngoài ra, còn có một số chi lưu nhỏ khác chịu sự chi phối rất lớn của
Khu bảo tồn thiên nhiên như suối Liếp, suối Nậm Cang v.v...
Các hệ thống suối này có diện tích lưu vực trên 200km2, phần lưu vực
tụ nước chính trong Khu bảo tồn khoảng 160km2. Chiều dài trung bình các
lưu vực khoảng 18km, chiều rộng trung bình khoảng 7,5km.
3.1.2. Địa chất, thổ nhưỡng
a. Địa chất
Quá trình tạo sơn của vùng Copia có nguồn gốc tuổi địa chất với vùng
Sốp Cộp và dãy núi Pu Sam Sao của Mộc Châu. Địa chất vùng Copia gồm có:
- Nhóm đá Mác ma a xít gồm: Granit, Liparit
- Nhóm đá sét, đá biến chất: Phiến thạch biến chất và Spalit, phiến sét.
- Nhóm đá cát: chủ yếu là Sa thạch và Phấn sa
- Sản phẩm bồi tụ: chủ yếu là Sa và Phấn sa
b. Thổ nhưỡng
Đất đai ở Copia có thể phân ra các loại chính như sau:
- Đất mùn vàng xám núi cao, được hình thành trên đá mẹ Mác ma,
Axít, đá phiến thạch sét, phân bố từ độ cao 1500m - 2000m so với mặt nước
biển, tập trung trên dãy giông chính Trống Sia, Copia, Long Nội.
- Đất Feralít mùn có màu vàng gạch cua nhạt trên độ cao 1000m đến
1500m so với mặt nước biển, tập trung phần lớn ở các dãy núi phía Đông
Nam của giông chính.
- Đất Feralít vàng nâu trên đất sét và đá biến chất có độ phì đất còn
tương đối tốt, độ dốc mặt đất 300 đến 350 nằm ở độ cao từ 1200m đến 1500m.
- Đất Feralít biến chất do canh tác nương rẫy hoặc bồi tụ ven suối. Đất
tốt, dinh dưỡng khá, có nhiều khả năng phục hồi tái sinh rừng tự nhiên.
- Đất Feralít biến chất do canh tác nương rẫy hoặc bồi tụ ven suối. Đất
tốt, dinh dưỡng khá, có nhiều khả năng phục hồi tái sinh rừng tự nhiên.


18


Các loại đất ở Khu bảo tồn thiên nhiên Copia có các đặc điểm:
- Thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình.
- Tầng đất từ trung bình đến dày (trong khoảng 0,5m đến 1m).
- Độ pH qua xác định nhanh có trị số 5,5 đến 6,5.
- Độ phì của đất còn khá cao, đất còn nhiều tính chất đất rừng.
- Tỷ lệ mùn trong đất khá cao, đặc biệt vùng đất nằm trong khu rừng
kín thường xanh của Khu bảo tồn.
- Đất rừng tơi xốp còn nhiều khả năng giúp tái sinh phục hồi rừng nếu
hạn chế được tình trạng đốt nương làm rẫy của người dân.
3.1.3. Thảm thực vật rừng
- Thảm thực vật rừng kín thường xanh Á nhiệt đới núi thấp: phân bố
chủ yếu ở độ cao trên 1500m so với mặt biển, ít bị tác động còn nhiều giá trị
của rừng nguyên sinh.
- Kiểu thảm thực rừng kín thường xanh Á nhiệt đới núi thấp ở Copia
hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim, phân bố chủ yếu trên các đỉnh cao từ
1.500m đến 1.900m.
- Kiểu thảm thực vật rừng thứ sinh nhân tác kín thường xanh Á nhiệt
đới núi thấp sau tác động con người, trong kiểu thảm này vẫn còn tồn tại một
số loài cây gỗ có giá trị như: Thông nàng, Kim giao, các loài Giổi, Dẻ, Sến,
Gối đá.
- Kiểu rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới núi thấp tập trung ở độ cao
1.000m đến 1.500m so với mặt biển, tình trạng rừng ít bị tác động, cơ bản vẫn
còn giữ được những đặc điểm sinh cảnh của rừng nguyên sinh. Thành phần
thực vật trong các lâm phần chủ yếu là các loài cây nhiệt đới có ở vùng Tây
Bắc, các loài khi điều tra thường gặp trong các họ Dẻ, Thầu dầu, Long não,
Hà nữ, Côm, Bứa, Trám v.v...


19


- Tầng ưu thế sinh thái: có rất nhiều loài cây tham gia vào tầng này, tạo
nên tán rừng liên tục. Có thể dẫn ra một số loài như: các loài thuộc họ Côm,
họ quả hai cảnh, Dung, Ngái, Cheo, Trâm, Giới, Dẻ.
- Kiểu phụ sinh nhân tác rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới núi thấp:
nguồn gốc của kiểu thảm thực vật này là rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới
núi thấp nhưng do người dân dễ xâm nhập, hoặc gần bản của các cộng đồng
nên đã bị người dân địa phương lấy đi các loài cây gỗ có giá trị kinh tế như:
Giới, những cây trong họ Xoan, Dẻ, Trường v.v...
- Kiểu thảm thực vật Tre, Giang, Sặt, Nứa xen cây gỗ thường gặp ven
suối Hua Lương, suối Đen và một số khe suối cạn khác v.v...
3.1.4. Hệ thực vật rừng
Qua điều tra bước đầu đã thống kê được trong Khu bảo tồn có khoảng
639 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 156 họ, 424 chi của 5 ngành thực vật.
Biểu 3.1. Thống kê một số loài thực vật
TT

Ngành thực vật

Số họ

Số chi

Số loài

1

Thông đất: (Lycopodiophyta)

2


3

4

2

Mộc tặc: (Equisetophyta)

1

2

1

3

Dương xỉ: (Polypodiophyta)

13

17

33

4

Hạt trần: (Pinophyta)

6


10

12

5

Hạt kín: (Magnoliophyta)

134

393

587

Tổng cộng

156

424

639

3.1.5. Hệ động vật rừng
Hệ động vật rừng của Khu bảo tồn Copia đã được các chuyên gia điều
tra và thống kê trong biểu 3.2.
Trong số 252 loài thì có tới 54 loài đặc hữu quí hiếm trong sách đỏ Việt
Nam: lớp thú 21 loài, lớp chim 22 loài, lớp bò sát 10 loài, lớp ếch nhái 1 loài.



20

Biểu 3.2. Thống kê một số loài động vật
TT

Tên lớp động vật

Bộ

Họ

Loài

1

Thú (Mamalia)

8

23

51

2

Chim (Avec)

14

47


172

3

Bò sát (Reptilia)

2

9

18

4

Ếch nhái (Amphilia)

1

4

11

Tổng cộng

25

83

252


3.2. Điều kiện dân sinh, kinh tế - xã hội
3.2.1. Dân số, dân tộc và lực lượng lao động của địa phương
- Tổng số nhân khẩu: 20.027,
Trong đó:
+ Nam: 9.813 người, chiếm 49%;
+ Nữ: 10.214 người, chiếm 51%.
- Số người trong độ tuổi lao động: 7.998 người.
- Tỷ lệ tăng dân số còn ở mức khá cao: 2,8%.
Sức ép gia tăng dân số của các xã có địa phận Khu bảo tồn sẽ có những
ảnh hưởng đáng kể đối với quá trình quản lý bảo vệ, xây dựng và phát triển
Khu bảo tồn sau này.
- Mật độ dân số bình quân chung của 4 xã trong vùng Khu bảo tồn
khoảng 10 người/km2.
Trong khu vực có bốn dân tộc chủ yếu sinh sống là Thái, H’Mông,
Kháng, Khơ Mú. Các dân tộc đăng ký hộ khẩu ở 4 xã thống kê được trong
biểu 3.3.
Biểu thống kê cho thấy tỷ lệ người Thái chiếm lớn nhất, nhưng xét trên
phạm vi thuộc khu trung tâm thì người Mông lại có tỷ lệ cao nhất.


21

Biểu 3.3. Tỷ lệ phân bố dân tộc
Tỷ lệ % các dân tộc
TT

Tên xã

1


Thái

Mông

Kháng Khơ Mú

Chiềng Bôm

55

9

34

1

2

Co Mạ

11

89

0

0

3


Long Hẹ

38

62

0

0

4

Nậm Lầu

93

2

0

5

DT khác
1

0

Trong Khu bảo tồn, ngoài số lao động chính chiếm 40% nhân khẩu còn
có tới 15% số lao động phụ. Tỷ lệ đất canh tác nông nghiệp trong toàn xã chỉ

xấp xỉ 7% diện tích đất tự nhiên, đất lúa nước chỉ có 0,1%. Như vậy, sức lao
động ở đây rất dồi dào và dư thừa. Đây là điều kiện tốt để Ban quản lý Khu
BTTN Copia tổ chức cho họ tham gia làm nghề rừng, tham gia bảo vệ xúc
tiến tái sinh rừng, đặc biệt với vùng phục hồi sinh thái của Khu bảo tồn.
3.2.2. Tình hình kinh tế
a. Các hoạt động kinh tế
Kinh tế của khu vực chậm phát triển, mang nặng tính tự túc tự cấp;
phương thức canh tác còn đơn giản lạc hậu, năng suất thấp.
- Cây lương thực: trồng lúa nước và canh tác nương rẫy trồng hoa màu.
- Cây công nghiệp: cây chè được chú ý và mở rộng ở một số nơi; cây cà
phê được đưa vào thử nghiệm vẫn chưa có đáp số trả lời; cây bông được trồng
nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ tại chỗ của người dân. Kinh tế trang trại,
đồi rừng còn rất hạn hẹp, qui mô nhỏ, chưa có định hướng sản xuất hàng hoá
lớn, chủ yếu phục vụ sinh hoạt cho gia đình và một phần bán ra thị trường để
bổ sung vào thu nhập kinh tế của gia đình.
- Chăn nuôi: chăn nuôi gia súc, gia cầm ở qui mô gia đình, đáp ứng
sinh hoạt tại chỗ của các cộng đồng.


22

- Hưởng lợi từ Chương trình 135 của Chính phủ, các công trình hạ tầng
xã hội đã được xây dựng ở các xã trong vùng như: các xã đã có đường ôtô
chiều dài khoảng 130km, ngày khô ráo xe có thể tới trung tâm các xã; có
107km đường xe máy đi liên xã, 500km đường mòn dân sinh; có 10 trạm biến
áp, 20km đường điện 400V đến các bản.
- Thuỷ lợi: có 1 đập và hồ chứa nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt
cộng đồng, hệ thống mương tưới 41km, hệ thống nước sạch có 116 bể chứa
phục vụ cho các bản và cộng đồng.
b. Thu nhập và đời sống

Điều kiện sản xuất khó khăn do thiếu đất canh tác, thiếu nước cho sinh
hoạt và trồng, cấy, phương thức canh tác lạc hậu nên thu nhập và đời sống của
nhân dân trong khu vực rất khó khăn, cụ thể là:
- Thu nhập lương thực bình quân đầu người vào khoảng 240 kg/năm;
trong đó thóc 50%, các cây lương thực khác 50%.
- Tổng thu nhập trồng trọt và chăn nuôi đạt 960.000đ/người/năm.
- Tỷ lệ các hộ đói nghèo: 40%; tỷ lệ hộ trung bình là 54%.
Hàng năm số hộ thiếu ăn 3 đến 4 tháng chiếm khoảng 40% tổng số hộ,
đời sống của các hộ này hết sức khó khăn, đây là sức ép rất lớn đối với bảo vệ
rừng của Khu bảo tồn. Vì vậy, việc tổ chức sản xuất phát triển kinh tế cho
các cộng đồng có ý nghĩa thiết thực, góp phần bảo vệ và phát triển Khu
BTTN Copia.
Tuy nhiên, do mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời sống
cho các cộng đồng chỉ được tiến hành trong phạm vi vùng đệm, nên các
chương trình phát triển kinh tế Nông - Lâm nghiệp cần tổ chức để người dân
được tham gia áp dụng các giải pháp kỹ thuật tiên tiến trên cơ sở định hướng
sản xuất hàng hoá để góp phần quản lý và bảo vệ Khu bảo tồn thiên nhiên.


23

Nhìn chung, các xã trong Khu bảo tồn thuộc các xã vùng cao miền núi,
điều kiện giao thông đi lại khó khăn, trình độ canh tác lạc hậu, năng suất thấp,
hạn chế giao lưu với thị trường bên ngoài, người dân thiếu công ăn việc làm,
sức lao động dư thừa.
c. Những tác động bất lợi tới Khu bảo tồn
Do địa hình phức tạp, độ dốc lớn, thiếu nước sinh hoạt, sản xuất, ruộng
canh tác ít, manh mún, chăn nuôi nhỏ lẻ nên sản xuất không ổn định, người
dân thiếu ăn, thực phẩm khan hiếm. Để bù đắp sự thiếu hụt này các cộng đồng
đã khai phá, đốt nương làm rẫy; đặc biệt là những vùng rừng già có đất tốt.

Nguyên nhân này đã ảnh hưởng rất lớn tới hệ sinh thái rừng và sẽ làm tổn hại
tới giá trị bảo tồn nguồn gen động, thực vật trong Khu bảo tồn.
Sức ép gia tăng dân số và nhu cầu của thị trường đã dẫn đến hiện tượng
khai thác gỗ xây dựng, cây dược liệu, săn bắt thú rừng, động vật hoang dã và
cháy rừng trong những tháng mùa khô hanh vẫn xảy ra trong Khu bảo tồn.
Nguyên nhân gốc rễ của các hoạt động trên là do đời sống của người
dân trong xã và xung quanh Khu bảo tồn có nhiều khó khăn và do sự hấp dẫn
của các nhu cầu của thị trường (nhu cầu tìm mua động vật hoang dã, lâm sản
quí hiếm.v.v...).
3.2.3. Giáo dục - Y tế
a. Giáo dục
- Trường tiểu học: các xã đều có trường tiểu học với tổng số 127 lớp.
- Trường phổ thông cơ sở đặt tại xã Co Mạ và là nơi học tập chung của
4 xã còn lại với 36 lớp.
- Tổng số học sinh 4988/7603 em độ tuổi tới lớp.
- Đội ngũ giáo viên: 222 giáo viên, phần lớn là từ huyện Thuận Châu
hoặc thị xã Sơn La lên, đời sống thiếu thốn, khó khăn nên giáo viên thiếu yên
tâm công tác, do đó ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo.


24

- Cơ sở vật chất: ngoài các lớp ở trung tâm cụm xã, ở trung tâm xã là
nhà cấp 4, còn lại các lớp ở bản vẫn trong tình trạng tạm bợ và thiếu thốn.
- Văn hoá, thông tin: các xã đều có cụm văn hoá xã, có điện thoại liên hệ
với huyện và thông tin ra bên ngoài; các xã Chiềng Bôm, Nậm Lầu bắt sóng trực
tiếp với truyền thanh và truyền hình huyện; còn xã Co Mạ và Long Hẹ sử dụng
chung trạm vi ba của các xã vùng cao; điện thắp sáng chủ yếu vẫn là nguồn điện
nước nhờ vào các máy phát điện nhỏ.
b. Y tế

Mạng lưới y tế của các xã thuộc Khu bảo tồn đã được thành lập, với 03
trạm y tế và 01 phòng khám đa khoa khu vực đặt tại xã Co Mạ; mỗi xã đều có
01 y sỹ, 01 y tá, 01 nữ hộ sinh và 01 dược tá.
Hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong vùng đã được chính
quyền quan tâm, các chương trình y tế quốc gia đều được triển khai tại đây
như: Chương trình tiêm chủng, Chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho
trẻ em dưới 6 tuổi, Chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.
Tuy nhiên, trang thiết bị của các trạm y tế xã hết sức thiếu thốn;
trình độ cán bộ y tế còn nhiều hạn chế, cơ chế khám chữa bệnh còn nhiều
bất cập nên nhiều bệnh nhân vẫn phải chuyển lên tuyến trên chữa trị, gây
tốn kém cho nhân dân. Chi phí cho chữa bệnh là gánh nặng tài chính lớn
nhất và là nguyên nhân làm nặng nề thêm sự nghèo, đói vốn có của nhân dân
trong vùng.
3.2.4. Tình hình sử dụng đất đai tài nguyên
Ngoài chức năng là Khu bảo tồn thiên nhiên, Copia còn là khu rừng
phòng hộ đầu nguồn cho lưu vực sông Mã và sông Đà.
Mặc dù đã được qui hoạch là Khu bảo tồn thiên nhiên, nhưng việc quản
lý sử dụng tài nguyên đất đai, tài nguyên rừng vẫn chưa được các cấp, các
ngành quan tâm đầy đủ. Rừng và đất rừng chưa được bảo vệ thích đáng. Các


×