Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

luận văn nghiên cứu, đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý tại vườn quốc gia ba bể tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.34 KB, 96 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trải qua hơn bốn thập kỷ hình thành và phát triển, đến nay hệ thống khu bảo
tồn thiên nhiên của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng trong đó có 69 khu
dự trữ thiên nhiên, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm khoa
học và 30 khu bảo tồn chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc trưng với giá trị đa
dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và trên biển đã và
đang được xây dựng trên khắp các vùng, miền trong cả nước [5]. Đây là những tài
sản thiên nhiên quý báu không chỉ có giá trị trước mắt cho thế hệ hôm nay mà còn
là di sản của nhân loại mai sau.
Tuy nhiên diện tích rừng và đa dạng sinh học ở nước ta trong những năm qua
vẫn đang bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng, dẫn tới tình trạng hạn hán, lũ lụt
xảy ra thường xuyên, gây thiệt hại cho hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp cũng
như đời sống của người dân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên
là do công tác quản lý rừng còn nhiều hạn chế chưa hiệu quả. Tài nguyên rừng ở
nước ta trước đây do Nhà nước quản lý và quyết định mọi phương án quản lý và sử
dụng. Một phần diện tích rừng được giao cho các chủ rừng quản lý nhưng lại chưa
có những cơ chế hưởng lợi hợp lý giữa các bên tham gia và nhiều khi chính các chủ
rừng lại tham gia phá rừng, năng lực quản lý của các cán bộ vẫn còn rất hạn chế.
Để khắc phục tình trạng trên, các ngành, các cấp và ban quản lý vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đã và đang thay đổi cách tiếp cận trong quản
lý tài nguyên rừng, trao đổi kinh nghiệm, với những thông lệ, tiêu chí quản lý bảo
tồn thiên nhiên quốc tế. Vấn đề quản lý rừng bền vững đang được rất nhiều người
quan tâm và quản lý rừng có sự tham gia của cộng đồng đang là một hướng đi có
hiệu quả.
Vườn quốc gia Ba Bể tỉnh Bắc Kạn (VQG) được thành lập trên cơ sở từ khu
rừng cấm Ba Bể theo Quyết định số 83/1992/TTg ngày 10/11/1992, với tổng diện
tích ban đầu là 7.610ha và đã được điều chỉnh với diện tích là 10.048ha theo
Quyết định số 2766/QĐ-UB ngày 26/11/2004 của UBND tỉnh Bắc Kạn. VQG Ba
Bể nằm trên toàn bộ địa phận xã Nam Mẫu và một phần diện tích của các xã Khang
Ninh, Cao Thượng, Cao Trĩ, Quảng Khê, thuộc huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Địa


1
hình có sự chia cắt mạnh, vừa có núi đá vừa có núi đất, độ cao biến đổi từ 150m –
1000m so với mực nước biển. Bao bọc xung quanh là các dãy núi có độ cao từ 800
– 1500 m. Phía Bắc có dãy núi Lung Nham, núi Án với các đỉnh núi có độ cao từ
689 - 829m. Phía Đông là núi Kháo Đạt và Kháo Vạy (cao từ 600 – 799m). Phía
Tây là dãy Pu Nộc Chấp, Pù Che (cao từ 677-1043m). Phía Đông Nam là dãy núi đá
Quảng Khê và vùng đất của dãy Phia Bjoóc với nhiều đỉnh núi cao như Phia Bjoóc
(1502 m), Hoa Sơn (1517m).
Do địa hình phức tạp nên vườn quốc gia Ba Bể có những khu vực còn tương
đối nguyên vẹn, với nhiều quần thể sinh vật phong phú và đa dạng. Đây còn là nơi
sinh sống của một số đồng bào dân tộc thiểu số như: Tày, H’Mông, Dao, trình độ
dân trí chưa cao, thu nhập chủ yếu dựa vào trồng trọt sống phụ thuộc vào rừng. Tình
trạng này gây ra những khó khăn và thách thức đối với công tác quản lý rừng của
VQG Ba Bể nói riêng và tỉnh Bắc Kạn nói chung. Ngoài ra, BQL rừng và các đối
tác có liên quan đến quản lý rừng VQG Ba Bể có nguyện vọng thiết lập đồng quản
lý TNR của VQG nhằm bảo tồn và phát triển nguồn TNR. Xuất phát từ thực tiễn đó,
đề tài: “Nghiên cứu, đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý tại
Vườn Quốc Gia Ba Bể tỉnh Bắc Kạn” được tiến hành là rất cần thiết và có ý nghĩa
thực tiễn.
2. ý nghĩa của đề tài
2.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài tiến hành điều tra, nghiên cứu có tính hệ thống tiềm năng đồng quản lý
tài nguyên rừng ở Vườn quốc gia Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Các kết quả nghiên cứu sẽ là
cơ sở cho việc đề xuất các nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng, nhằm góp
phần vào công tác quản lý bền vững tài nguyên rừng ở vườn quốc gia Ba Bể.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm cơ sở cho việc điều chỉnh các
cơ chế chính sách quản lý tài nguyên thiên nhiên tại khu vực nghiên cứu và các
vùng lân cận có điều kiện tự nhiên tương tự.
Đề xuất được một số nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng quản lý rừng tại

VQG Ba Bể góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý bền vững TNR ở tỉnh.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nhận thức chung về đồng quản lý
Trong xu thế chung toàn cầu khi nền kinh tế phát triển song hành với nó là
sự cạn kiệt của nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên rừng nói
riêng. Vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia là nghiên cứu tìm ra giải pháp quản lý sử
dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Tác giả Rao và Geisler (1990) [35]
đã đưa ra hàng loạt các giải pháp trong đó có sự hợp tác giữa các bên tham gia. Đây
là vấn đề rất quan trọng đối với sự thành công của việc quản lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên, trong đó vấn đề quan tâm nhất là việc giải quyết ổn thỏa quyền lợi của
người dân nơi có rừng và mục tiêu chung của quốc gia. Đây là một vấn đề còn khá
mới mẻ đối với nước ta.
Ở đây thuật ngữ đồng quản lý được sử dụng để mô tả sự bố trí sắp xếp chính
thức hoặc không chính thức giữa Chính phủ, thành phần tư nhân hoặc tầng lớp dân
liên quan đến việc quản lý nguồn TNTN. Sự thịnh hành của hình thức quản lý này
đang tăng lên đáng kể trong 20 năm qua, có thể tìm thấy rất nhiều ví dụ ở các nước
đang phát triển nơi mà tình trạng đói nghèo và sự suy thoái nguồn tài nguyên thiên
nhiên đang dẫn dắt xã hội và quốc gia đó vào việc thực hiện hình thức đồng quản lý.
Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên là bước ngoặt mới về quản lý tài
nguyên, đó là một quy trình mang tính chính trị và đã có rất nhiều nghiên cứu đưa
ra khái niệm về đồng quản lý.
Theo Rao và Geisler (1990) [35] đồng quản lý là sự chia sẻ việc ra quyết
định giữa những người sử dụng tài nguyên địa phương với các nhà quản lý tài
nguyên về chính sách sử dụng các vùng bảo vệ. Các đối tác cần hướng tới mối quan
tâm chung là bảo tồn thiên nhiên để trở thành “đồng minh tự nguyện”.
Đồng quản lý là một quá trình hợp tác giữa các cộng đồng địa phương với
các tổ chức nhà nước trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên hoặc các
tài sản khác. Các bên liên quan, nhà nước hay tư nhân, cùng nhau thông qua một

hiệp thương xác định sự đóng góp của mỗi đối tác và kết quả là cùng nhau ký một
hiệp ước phù hợp mà các đối tác đều chấp nhận được (Wild và Mutebi, 1996) [39].
3
Đồng quản lý cũng đã được hai nhà khoa học Andrew. Ingles, Arne Musch
and Helle Qwist-Hoffman (1999) [30] quan tâm nghiên cứu. Tác giả cho rằng đồng
quản lý được coi như sự sắp xếp quản lý được thương lượng bởi nhiều bên liên
quan, dựa trên cơ sở thiết lập quyền và quyền lợi, hoặc quyền hưởng lợi được nhà
nước công nhận và hầu hết những người sử dụng tài nguyên chấp nhận được. Quá
trình đó được thể hiện trong việc chia sẻ quyền ra quyết định và kiểm soát việc sử
dụng tài nguyên.
Đồng quản lý các vườn quốc gia là tìm kiếm sự hợp tác, trong đó các bên
liên quan cùng nhau thoả thuận chia sẻ chức năng quản lý, quyền và nghĩa vụ trên
một vùng lãnh thổ hoặc một khu vực tài nguyên dưới tình trạng bảo vệ. Khái niệm
này do Borrini - Feyerabend đưa ra năm 1996 [31]. Đến năm 2000 [31] Borrini -
Feyerabend lại đưa ra khái niệm chung “đồng quản lý như là một dạng hợp tác,
trong đó hai hoặc nhiều đối tác xã hội hiệp thương với nhau xác định và thống nhất
việc chia sẻ chức năng quản lý, quyền và trách nhiệm về một vùng, một lãnh thổ
hoặc nguồn tài nguyên thiên nhiên được xác định” Borrini - Feyerabend giải thích
thêm đối với mục tiêu về văn hoá, chính trị nhằm tìm kiếm sự “công bằng” trong
quản lý tài nguyên thiên nhiên. Borrini - Feyerabend đưa ra thuật ngữ tiếp cận “số
đông” trong quản lý tài nguyên, kết hợp giữa nhiều đối tác có vai trò khác nhau
nhằm mục tiêu chung là bảo tồn thiên nhiên, phát triển bền vững và chia sẻ công
bằng quyền lợi liên quan đến tài nguyên.
Trên cơ sở các khái niệm và định nghĩa đã nêu trên, căn cứ vào điều kiện cụ
thể ở Việt Nam cho một khu bảo tồn thiên nhiên có thể đi đến khái niệm chung
mang tính chất tương đối về đồng quản lý tài nguyên rừng trong luận văn này như
sau: “Đồng quản lý là việc sắp xếp lại quyền và trách nhiệm giữa các bên tham gia
trong quản lý tài nguyên rừng. Hoạt động sắp xếp này liên quan đến việc chuyển từ
hình thức đưa ra quyết định từ trên xuống dưới và thiếu sự phối kết hợp giữa người
bản địa với việc quản lý nguồn tài nguyên của Nhà nước sang hình thức đưa ra

quyết định có sự chia sẻ, hợp tác và thoả thuận của các bên liên quan trong bảo tồn
tài nguyên thiên nhiên”.
4
1.2. Nghiên cứu đồng quản lý tài nguyên rừng trên thế giới
Ấn Độ là quốc gia đầu tiên trên thế giới đặt nền móng cho phương pháp
tham gia quản lý tài nguyên rừng. Đồng quản lý (hay hợp tác quản lý) bảo vệ rừng
được tiến hành trong thời gian này và nhanh chóng lan rộng tới các quốc gia thuộc
các nước châu Phi, châu Mỹ La Tinh và châu Á {dẫn theo Lê Thu Thủy (2010)
[21]}.
Thông qua việc chia sẻ nguồn lợi giữa các nhóm người dân địa phương với
nhà nước, các chương trình dự án cũng đã giúp hoà giải sự tranh chấp nguồn tài
nguyên giữa người dân và nhà nước. Các chương trình đồng quản lý hoặc hợp tác
rừng đã đem lại những kết quả to lớn. Ở Ấn Độ có hơn 63.000 nhóm - tổ tham gia
tham gia vào các chương trình trồng mới 14 triệu ha rừng {dẫn theo Lê Thu Thủy
(2010)[21]}.
Ở vườn quốc gia Richtersveld Nam Phi trong báo cáo khoa học về vấn đề
“Hợp tác quản lý với người dân ở Nam Phi trong phạm vi vận động” của hai nhà
khoa học Moenieba Isaacs và Majma Mohamed năm (2000) [32] đã nghiên cứu các
hoạt động hợp tác quản lý tại vườn quốc gia này. Tài nguyên thiên nhiên ở khu vực
này khá phong phú và đa dạng đặc biệt có mỏ kim cương. Bởi vậy, người dân ở các
vùng khác di cư đến khai thác trái phép làm cho tài nguyên rừng, đa dạng sinh học
ở khu vực này bị suy giảm nghiêm trọng.
Năm 1991 ban quản lý vườn quốc gia đã nghiên cứu tìm ra phương thức hợp
tác quản lý với cộng đồng dân cư. Phương thức này chủ yếu dựa trên quy ước,
hương ước quản lý bảo vệ rừng, trong đó người dân cam kết bảo vệ đa dạng sinh
học trên địa phận của mình còn chính quyền và ban quản lý hỗ trợ người dân xây
dựng cơ sở hạ tầng và cải thiện các điều kiện kinh tế xã hội khác [32].
Ở Nam Phi tại vườn quốc gia Kruger trước đây người dân đã chuyển đến
Makuleke, khi chính phủ mới thành lập đã cho phép người dân trở lại vùng đất
truyền thống để sinh sống. Để đạt được quyền sử dụng đất đai cũ, người dân phải

xây dựng quy ước bảo vệ môi trường trong khu vực vườn quốc gia đồng thời họ
cũng được chia sẻ lợi ích thu được từ du lịch. Từ những kết quả đạt được về đồng
5
quản lý tài nguyên ở Nam Phi đã trở thành bài học kinh nghiệm cho các nước đang
phát triển khác dẫn theo Reid H (2000) [36].
Ở Thái Lan là nước được đánh giá đạt nhiều thành tựu trong công tác xây
dựng các chương trình đồng quản lý bảo vệ rừng. Các cộng đồng dân cư có đời
sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng thường có nhiều kinh nghiệm khi đóng vai trò
là người bảo vệ hoặc người tham gia quản lý khu bảo tồn.
Trong báo cáo “Liên minh cộng đồng” đồng quản lý rừng ở Thái Lan đã có
nghiên cứu điểm tại vườn quốc gia Dong Yai nằm ở Đông Bắc và khu rừng phòng
hộ Nam Sa ở phía Bắc Thái Lan. Đó là những vùng quan trọng đối với công tác bảo
tồn đa dạng sinh học, đồng thời cũng là những vùng có đặc điểm độc đáo về kinh tế
- xã hội, về thể chế truyền thống của cộng đồng người dân địa phương trong quản lý
và sử dụng tài nguyên { dẫn theo Poffenberger, M. và McGean, B, 1993) [34]}.
Tại Dong Yai, người dân đã chứng minh được khả năng của họ trong việc tổ
chức các hoạt động bảo tồn, đồng thời phối hợp với Cục Lâm nghiệp Hoàng gia xây
dựng hệ thống quản lý rừng đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái cũng như
phục vụ lợi ích của người dân trong khu vực. Tại Nam Sa, cộng đồng dân cư cũng
rất thành công trong công tác quản lý rừng phòng hộ. Họ khẳng định rằng chính phủ
khuyến khích và chuyển giao quyền lực thì họ chắc chắn sẽ thành công trong việc
kiểm soát các hoạt động khai thác quá mức nguồn tài nguyên rừng, các hoạt động
phá rừng và tác động tới môi trường. Đồng quản lý ở Thái Lan có thể trở thành bài
học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam bởi vì Thái Lan cũng là một nước trong
vùng Đông Nam Á, đặc biệt Việt Nam là quốc gia có một số đặc điểm tương đồng
về điều kiện tự nhiên và văn hoá xã hội [34].
Ở Uganda khi tiến hành nghiên cứu về lĩnh vực đồng quản lý tại vườn quốc
gia Bwindi Impenetrable và MgaHinga Gorilla hai nhà nghiên cứu Winld và Mutebi
(1996) [39] Cho thấy hợp tác quản lý được thực hiện giữa ban quản lý vườn quốc
gia và cộng đồng dân cư. Hai bên thoả thuận ký kết quy ước cho phép người dân

khai thác bền vững một số lâm sản, đồng thời có nghĩa vụ tham gia quản lý bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn của cộng đồng. Đồng quản lý chỉ có hai đối tác
là Ban quản lý và cộng đồng dân cư địa phương.
6
Ở Canada kể từ khi ký hiệp định Northern Quebec và James Bay năm 1975,
việc sắp xếp công tác đồng quản lý ở Canada đã tăng lên nhanh chóng. Có rất nhiều
hình thức sắp xếp công tác đồng quản lý và nhiều ban chính thức liên quan đến
Tuần lộc, các sản phẩm lâm nghiệp và phi lâm nghiệp và các loại cá được đặt tên
nhưng rất ít. Việc sắp xếp quyền đồng quản lý đối với chủ đề này là một chủ điểm
giữa tỉnh Saskatchewan, công ty quản lý lâm nghiệp Mistik và các cộng đồng người
dân thuộc Hội đồng bộ lạc Meadow {dẫn theo Lê Thu Thủy (2010)[21]}.
Khi viết về đồng quản lý rừng tại vườn quốc gia Vutut, tác giả Sherry (1999)
[38] cho rằng đây vừa là một khu bảo tồn thiên nhiên vừa là khu di sản văn hoá của
người thổ dân ở vùng Bắc Cực. Liên minh giữa chính quyền và thổ dân đã huy động
được lực lượng người dân và kết hợp với ban quản lý làm thay đổi chiều hướng bảo
tồn tự nhiên hoang dã và tăng các giá trị của vườn quốc gia. Đồng quản lý ở đây đã
kết hợp được giữa các mối quan tâm và kiến thức bản địa với mục tiêu bảo tồn. Ban
quản lý vườn quốc gia giúp về kỹ thuật xây dựng các mô hình bảo tồn thiên nhiên
và phát triển kinh tế - xã hội, còn dân bản địa có thể thực hiện các mô hình đó. Hợp
tác quản lý ở đây đã giải quyết hài hoà mâu thuẫn giữa chính sách của chính quyền
và bản sắc truyền thống của người dân, đảm bảo cho sự thành công của công tác
bảo tồn hoang dã và bảo tồn các di sản văn hoá. Đồng quản lý ở vườn quốc gia
Vutut được đánh giá rất thành công, theo tác giả thì nó được thiết kế để “kết hợp
giữa sự tốt đẹp nhất của hai thế giới” nhà nước văn minh và thổ dân.
Ở Madagascar tác giả Schachenmann (1999) [37] đã đưa ra một ví dụ ở
vườn quốc gia Andringitra là vườn quốc gia thứ 14 của nước cộng hoà Madagascar.
Theo tác giả này vườn quốc gia là một vùng núi có mối liên hệ giữa các hệ sinh
thái, sinh cảnh, đa dạng sinh học và cảnh quan cũng như di tích văn hoá. Chính phủ
có nghị định đảm bảo các quyền của người dân như: Quyền chăn thả gia súc, khai
thác tài nguyên rừng phục hồi để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn những tập quán

truyền thống khác nhau như có thể giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng. Để đạt
được những thoả thuận trên, người dân phải đảm bảo tham gia bảo vệ sự ổn định
của các hệ sinh thái trong khu vực. Ngoài ra, có nhiều bên liên quan tham gia trong
đồng quản lý như du lịch, chính quyền.
7
Ở Brazil, nông dân đã giúp quản lý 2,2 triệu ha rừng phòng hộ, tham gia vào
chương trình CAMPFIRE. Ở đó người dân có thể chia sẻ lợi nhuận từ du lịch trong
các khu rừng bảo vệ động vật hoang dã, các chương trình này giúp nhà nước bảo vệ
được rừng, giúp người dân cải thiện được quyền tiếp cận với tài nguyên rừng. Tuy
nhiên đồng quản lý, chưa giúp người nghèo cải thiện đáng kể kế sinh nhai {dẫn theo
Lê Thu Thủy (2010)[21]}.
Năm 1975 nhà nước Nepal thực hiện quốc hữu hóa rừng, tập trung quản lý
bảo vệ rừng và đất rừng, kết quả là người dân ở đây đã ít quan tâm đến bảo vệ rừng
của nhà nước dẫn đến trong vòng 20 năm hàng triệu ha rừng bị tàn phá. Từ năm
1978, Chính phủ đã giao quyền quản lý bảo vệ rừng cho người dân để thực hiện
chính sách phát triển lâm nghiệp. Tuy nhiên, sau một thời gian người ta nhận thấy
các đơn vị hành chính này không phù hợp với việc quản lý và bảo về rừng do các
khu rừng nằm phân tán, không theo đơn vị hành chính và người dân có nhu cầu, sở
thích sử dụng sản phẩm rừng khác nhau {dẫn theo Lê Thu Thủy (2010)[21]}.
Năm 1989, nhà nước thực hiện chính sách lâm nghiệp mới đó là chia rừng và
đất rừng làm hai loại: Rừng tư nhân và rừng nhà nước cùng với hai loại sở hữu rừng
tương ứng là sở hữu rừng tư nhân và sở hữu rừng nhà nước. Trong quyền sở hữu của
nhà nước lại được chia theo các quyền sử dụng khác nhau như: Rừng cộng đồng theo
nhóm người sử dụng, rừng hợp đồng với các tổ chức, rừng tín ngưỡng, rừng phòng hộ.
Nhà nước công nhận quyền pháp nhân và quyền sử dụng cho các nhóm sử dụng.
Năm 1993, Nepal phát triển chính sách lâm nghiệp mới, nhấn mạnh đến các
nhóm sử dụng rừng, cho phép gia tăng quyền hạn và hỗ trợ cho các nhóm sử dụng
rừng, thay chức năng của các phòng lâm nghiệp huyện từ chức năng cảnh sát và chỉ
đạo sang chức năng hỗ trợ và thúc đẩy cho các bên liên quan, từ đó rừng được quản
lý và bảo vệ có hiệu quả hơn.

Theo báo cáo của nhà khoa học Oli Krishna Prasad (1999) [33], tại khu bảo
tồn Hoàng gia Chitwan ở Nepal, cộng đồng dân cư vùng đệm được tham gia hợp tác
với một số các bên liên quan quản lý tài nguyên vùng đệm phục hồi cho du lịch. Lợi
ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài nguyên là khoảng 30% - 50% thu được
từ du lịch hàng năm sẽ đầu tư trở lại cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội
8
của cộng đồng. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở đồng quản lý tài nguyên rừng
phục vụ du lịch ở vùng đệm.
1.3. Nghiên cứu đồng quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam
Năm 1997 tại vườn quốc gia Cát Tiên trong khoá tập huấn về “kết hợp bảo
tồn và phát triển” phương pháp đồng quản lý TNR lần đầu tiên được đưa vào giới
thiệu và thảo luận. Sau thời gian đó, đồng quản lý tiếp tục được giới thiệu trong một
số khoá tập huấn về bảo tồn thiên nhiên của các dự án nhưng chưa mang lại kết quả
đáng kể.
Tại khu BTTN Pù Luông, trong nghiên cứu về phối hợp quản lý và bảo tồn
Ulrich Apel, Oliver C. Maxwell (2002) [24] đã có đánh giá nghịch lý về sử dụng đất
đai và nhà ở, tình hình quản lý tài nguyên thiên nhiên ở một số thôn bản vùng đệm
khu BTTN Pù Luông. Trong kết quả nghiên cứu của các tác giả mới chỉ đánh giá
một số thể chế, chính sách hiện nay với công tác quản lý rừng đặc dụng, phân tích
sự phụ thuộc của người dân đối với tài nguyên rừng, chưa đánh giá được đầy đủ
tiềm năng về đồng quản lý và không đưa ra được nguyên tắc và giải pháp thực hiện.
Đòi hỏi thực tiến là cần có tiến trình, nguyên tắc và các giải pháp thích hợp
xây dựng kế hoạch đồng quản lý tài nguyên rừng. Đây là câu trả lời mà các dự án triển
khai trong thời gian gần đây đang lúng túng. Ngày 4/8/2003 hội thảo về “ý tưởng thành
lập khu BTTN Phu Xai Leng do cộng đồng quản lý” được tổ chức tại thành phố Vinh,
Nghệ An đã đề xuất một số vấn đề đồng quản lý khu bảo tồn. Tuy nhiên, hội thảo cũng
chưa thống nhất được các nguyên tắc quản lý và giải quyết triệt để vấn đề [13].
Hội thảo quốc gia về lâm nghiệp cộng đồng năm 2004 tại Hà Nội được tổ
chức với nội dung về khuôn khổ và thể chế quản lý rừng cộng đồng, chính sách
hưởng lợi trong quản lý rừng cộng đồng, đánh giá tài nguyên rừng và khai thác rừng

cộng đồng. Hội thảo kết luận, quản lý rừng cộng đồng hiện đang tồn tại như một xu
thế khách quan và ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý tài nguyên
rừng, nhiều diện tích đất lâm nghiệp có thể giao cho cộng đồng quản lý những diện
tích rừng xa khu dân, có địa hình phức tạp mà các tổ chức nhà nước và hộ gia đình
không có khả năng quản lý và quản lý không có hiệu quả, các khu rừng giữ nguồn
nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng, khu rừng giáp ranh giữa các thôn, xã.
9
Bên cạnh đó, vấn đề hưởng lợi của cộng đồng quản lý rừng được nhiều nhà
khoa học quan tâm và nghiên cứu, đặc biệt là tác giả Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn
Ngọc Lung. Tác giả Phạm Xuân Phương với khảo sát đánh giá tình hình triển khai
tình chất hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng được giao nhận khoán
rừng năm 2003.
Kỹ thuật đánh giá thực trạng quản lý rừng cộng đồng của các tác giả Nguyễn
Hồng Quân, Vũ Long, Phạm Xuân Phương đã đưa ra khung định vị đánh giá hiện
trạng quản lý rừng cộng đồng. Tuy nhà nước chưa quy định quyền hưởng lợi của
cộng đồng với những diện tích rừng cộng đồng hiện đang quản lý, song trên thực tế
cộng đồng đang quản lý có quyền hưởng lợi, phân chia lợi ích từ rừng.
Bàn về hiệu quả đạt được từ quản lý bảo vệ rừng cộng đồng ở nước ta cho
đến nay chưa có đánh giá hiệu quả quản lý rừng cộng đồng ở quy mô toàn quốc.
Tuy nhiên, căn cứ vào 3 kết quả Hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng ở
Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội (tháng 6/2000, tháng 11/2001 và tháng 11/2004)
có thể đưa ra một số nhận định sau:
Nhiều nơi rừng cộng đồng được bảo vệ và phát triển tốt hơn, những nơi
rừng do cộng đồng quản lý hầu như không bị chặt phá, do không có xâm hại nên
rừng ngày càng tăng trưởng.
Đối với diện tích rừng do cộng đồng nhận khoán bảo vệ, hàng năm được Nhà
nước hoặc chủ rừng trả tiền công khoán, đã góp phần giải quyết một phần khó khăn
về đời sống cho một bộ phận dân cư.
Đối với diện tích rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao, cộng đồng
có thể tận dụng khi rừng chưa khép tán hoặc đất trống chưa trồng rừng để canh tác

kết hợp cây nông nghiệp, chăn thả dưới tán rừng, được các dự án đầu tư hỗ trợ vốn
để sản xuất, được hưởng lợi sản phẩm từ rừng.
Đối với diện tích rừng cộng đồng quản lý theo truyền thống cho đến nay hầu
như cộng đồng có toàn quyền quyết định việc sử dụng tài nguyên rừng, trong đó
đáp ứng nhu cấu lâm sản cho các công trình chung của cộng đồng, giải quyết nhu
cầu gỗ làm nhà cho các hộ gia đình.
10
Tiết kiệm chi phí cho Nhà nước: Hiện nay có nhiều cộng đồng đang quản lý
rừng không có sự hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí, nhưng rừng vẫn được bảo vệ tốt.
Rừng cộng đồng đã góp phần bảo vệ nguồn nước, giải quyết một phần
nhu cầu gỗ gia dụng cho cộng đồng và thành viên của cộng đồng, khai thác lâm
sản ngoài gỗ…, góp phần phát triển nghề thủ công truyền thống và tăng thu nhập
cho cộng đồng.
Góp phần khôi phục truyền thống văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp của
cộng đồng thông qua việc quản lý rừng cộng đồng, có sự giúp đỡ và hướng dẫn của
các tổ chức nhà nước, đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện quy chế
quản lý, bảo vệ rừng; Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; Khôi phục truyền thống
văn hoá tốt đẹp, hương ước của cộng đồng.
Nhìn chung, quản lý rừng và đất rừng trên cơ sở cộng đồng là một vấn đề
tổng hợp và phụ thuộc nhiều vào khuôn khổ thể chế, chính sách của từng quốc gia,
từng địa phương. Do vậy, không thể sao chép nguyên vẹn một mô hình nào từ nơi
này sang nơi khác.
Tuy nhiên, việc chia sẻ kinh nghiệm, chia sẻ những bài học thành công hay
thất bại trong cả nước và khu vực là rất cần thiết trong bối cảnh chính sách lâm
nghiệp đang cải cách và hoàn thiện như hiện nay. Điều đáng chú ý là phải có những
nghiên cứu tổng hợp đánh giá và đúc rút kinh nghiệm, bổ sung và xây dựng những
chính sách mới phù hợp cho mỗi vùng.
Vì vậy, quản lý rừng cộng đồng được xem như nền tảng của sự phát triển vì
nó đảm bảo đáp ứng được những nhu cầu lợi ích cho cộng đồng, góp phần xoá đói
giảm nghèo và phục vụ được tình trạng cạn kiệt tài nguyên trong những phương

thức sử dụng kém bền vững.
Đồng quản lý tài nguyên rừng ở nước ta tuy chưa có những nghiên cứu toàn
diện, nhưng trong điều kiện thực tế cho thấy phương pháp này là một trong những
xu hướng phù hợp với điều kiện bảo tồn đa dạng sinh học trong các khu rừng đặc
dụng. Một số dự án với nội dung đồng quản lý đã được triển khai ở một số vùng.
Dự án quản lý vùng chiến lược kết hợp với bảo tồn thiên nhiên (MOSAIC) do
USAID/WWF tài trợ triển khai ở phía tây tỉnh Quảng Nam, trong đó có nội dung
thử nghiêm đồng quản lý khu BTTN Sông Thanh tiến hành năm 2001.
11
Một dự án nhỏ khác vầ đồng quản lý khu BTTN Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên - Huế do tổ chức Catherine T.Macarthur Foundation tài trợ. Mục tiêu của dự
án nhằm xây dựng mô hình đồng quản lý khu bảo tồn giữa cộng đồng dân cư và các
tổ chức, cơ quan liên quan (bao gồm cả tổ chức chính phủ và phi chính phủ).
Các nghiên cứu gần đây về “đồng quản lý rừng” như (Khu bảo tồn thiên
nhiên Copia, tỉnh Sơn La của Vũ Đức Thuận (Luận văn thạc sỹ Lâm nghiêp năm
(2010); tại Vườn quốc gia Kon Ka Kinh tỉnh Gia Lai của Lê Thu Thủy (Luận văn
thạc sỹ Lâm nghiêp năm (2011); tại khu bảo tồn Thần Sa - Phượng Hoàng, huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên của Điền Thị Hồng năm (2012) bước đầu đã chỉ ra được
kinh nghiệm đồng quản lý rừng tại nơi nghiên cứu và cũng là những gợi ý cho
những nghiên cứu tiếp theo về đồng quản lý rừng ở các địa phương khác.
1.4. Nhận xét đánh giá chung
Điểm qua các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước về các vấn
đề liên quan đến đề tài nghiên cứu có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Các công trình nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành khá đồng bộ trên
nhiều các khía cạnh khác nhau, từ việc đưa ra các quan điểm, khái niệm về đồng
quản lý, nghiên cứu về sự hưởng lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan và các
phương thức hợp tác quản lý rừng. Những nghiên cứu này đã tạo ra cơ sở khoa học
cho việc thực hiện đồng quản lý tài nguyên rừng ở các nước trên thế giới trong
những năm qua.
Ở Việt Nam, đồng quản lý hay hợp tác quản lý là một vấn đề mới, còn đang

trong giai đoạn thử nghiệm và gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn do tính phức tạp
của các yếu tố xã hội. Việc đưa vấn đề đồng quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng cần
phải thực hiện trên các cơ sở lý luận và thực tiễn; các bước tiến hành về quản lý
phải phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn ở nước ta và đặc biệt là sự hợp tác
nhiệt tình của địa phương.
Vườn Quốc Gia Ba Bể có diện tích tương đối rộng, rất đa dạng về sinh học.
Nhưng cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào có tính hệ thống về quản lý rừng
cộng đồng và đồng quản lý tài nguyên rừng. Vậy làm sao để quản lý rừng bền
vững? Cần có những nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý như thế nào để giải
12
quyết được các mâu thuẫn trong quản lý tài nguyên tại Vườn quốc gia Ba Bể. Đây
là những yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn. Đề tài: “Nghiên cứu đề xuất một
số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng tại Vườn quốc gia Ba Bể tỉnh Bắc
Kạn” được thực hiện nhằm góp phần cung cấp thêm những thông tin về đồng
quản lý rừng. Trên cơ sở đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng tại Vườn quốc gia
Ba Bể tỉnh Bắc kạn đưa ra các nguyên tắc và biện pháp quản lý rừng hiệu quả nhất
tại địa phương.
1.5. Điều kiện tự nhiên của khu vực Vườn quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
1.5.1.Vị trí địa lý, phạm vi ranh giới và diện tích
+ Tọa độ địa lý Vườn Quốc Gia Ba Bể: Từ 22
0
05’72’’ đến 22
0
08’14’’ độ Vĩ
Bắc 105
0
09’07’’ đến105
0
11’82’’ độ Kinh Đông
+ Ranh giới VQG:

- Phía Bắc giáp xã Cao Thượng, huyện Ba Bể.
- Phía Đông giáp xã Cao Trĩ, Khang Ninh, huyện Ba Bể.
- Phía Nam giáp xã Quảng Khê, huyện Ba Bể.
- Phía Tây giáp xã Nam Cường , Xuân lạc huyện Chợ đồn tỉnh Bắc Kạn và xã
Đà Vị, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.Tổng diện tích tự nhiên là 10.048 ha.
1.5.2. Đặc điểm địa hình
Vườn quốc gia Ba Bể là một phức hệ bao gồm hồ - sông – suối – núi đá vôi từ
dốc mạnh đến dốc đứng với nhiều hang động. Địa hình có sự chia cắt mạnh, vừa có
núi đá vừa có núi đất, độ cao biến đổi từ 150m – 1000m so với mực nước biển. Bao
bọc xung quanh là các dãy núi có độ cao từ 800 – 1500 m. Phía Bắc có dãy núi
Lung Nham, núi Án với các đỉnh núi có độ cao từ 689 - 829m. Phía Đông là núi
Kháo Đạt và Kháo Vạy (cao từ 600 – 799m). Phía Tây là dãy Pu Nộc Chấp, Pù Che
(cao từ 677-1043m). Phía Đông Nam là dãy núi đá Quảng Khê và vùng đất của dãy
Phia Bjoóc với nhiều đỉnh núi cao như Phia Bjoóc (1502 m), Hoa Sơn (1517m).
Trung tâm VQG Ba Bể là hồ Ba Bể rộng 500 ha. Hồ là một thung lũng đã vôi
thấp trũng được bao bọc bởi các vách núi đá hiểm trở. Trên hồ Ba Bể có các đảo đá
vôi nhỏ như An Mã, Pò Gia Nải, Khẩu Cúm, đáy hồ không bằng phẳng có nhiều
đỉnh đá ngầm, độ sâu bình quân từ 15- 35 m. Các sông, suối chính đổ nước vào hồ
13
là sông Lèng ở phía Tây Nam, suối Tà Han, Bó Lù ở phía Tây. Nước trong hồ Ba
Bể đổ vào sông Năng, con sông bắt nguồn từ dãy Phia Bjoóc chảy qua VQG bắt đầu
từ động Puông chảy theo hướng Tây sang Đông qua thác Đầu Đẳng đổ vào sông
Gâm ở Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
1.5.3. Đặc điểm khí hậu, thuỷ văn
* Khí hậu: VQG Ba Bể mang đặc điểm khí hậu của vùng núi phía Bắc Việt Nam.
Trung tâm của Vườn là hồ Ba Bể với diện tích lớn, sự bốc hơi liên tục tạo nên vi khí
hậu vùng hồ mát mẻ, giảm bớt sự khắc nghiệt của các mùa.
- Nhiệt độ trung bình năm 22
0
C; Nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 14,1

0
C
vào tháng 1 cho đến 27,5
0
C vào tháng 7; Nhiệt độ không khí trung bình cao nhất là
39
0
C; Nhiệt độ trung bình thấp nhất là 6
0
C.
- Độ ẩm tương đối trung bình năm 83%.
- Lượng mưa trung bình từ 18,2 mm vào tháng 1 đến 249,4mm vào tháng 7.
Tổng lượng mưa hàng năm là 1.343mm.
- Số ngày mưa phùn trung bình năm 33,3 ngày.
- Số ngày có dông, mưa trung bình năm tại thị trấn Ba Bể 41,2 ngày.
* Thuỷ văn: Hệ thống thuỷ văn VQG bao gồm 4 con sông, suối chính nối với hồ Ba
Bể, phía Nam và Tây Nam có sông Chợ Lèng, suối Bó Lù và Tả Han đổ nước vào
hồ với tổng diện tích lưu vực là 420 km2 (sông chợ Lèng, suối Bó Han, Tả Han) 3
con sông này đổ nước vào hồ sau khi được điều tiết, một phần nước hợp lưu với
sông Năng ở phía Bắc hồ tiếp tục chảy về sông Gâm.
Mức nước tích lại trong hồ có thể đạt tới 8 – 9 triệu m
3
, có tác dụng phân lũ
sông Năng, sông Gâm và sông Hồng, điều hoà lưu lượng và mực nước cho một
vùng rộng lớn. Hồ Ba Bể là hồ tự nhiên nằm ở độ cao 150 m so với mực nước biển,
diện tích 500 ha, được cung cấp bởi các sông Chợ Lèng, Tan Han, các suối Tả Han,
Bó Lú tốc độ dòng chảy 0,5 m/giây. Hồ có chiều dài 8 km, độ sâu trung bình 25m,
sâu nhất 35m. Điều kiện khí hậu mát mẻ rất tốt cho sức khỏe con người nên có thể
mở rộng khai thác du lịch theo loại hình nghỉ ngơi, an dưỡng, nghỉ cuối tuần.
1.5.4. Địa chất, đất đai

Hồ Ba Bể nằm trong vùng Karst Chợ Rã - Ba Bể - Chợ Đồn, Chợ Điền thuộc
miền núi Karst vùng trũng của khối nâng Việt Bắc. Khối nâng này hình thành do sự
14
phá hủy khối lục địa Đông Nam Á vào cuối kỷ Cambri sớm, có các thành tạo
Proteroi nhô trực tiếp lên mặt, một số nơi mới bị trầm tích trẻ phủ lên mặt.
Hai khối đá Ba Bể Chợ Rã và Chợ Đồn, Chợ Điền nằm phía Nam sông Năng
được cấu tạo bằng đá vôi Givét (Đêvôn giữa) nằm cạnh khối đá Granít Phia Bjoóc
và hoạt động của khối đã Granít này làm đá vôi ở đây biến thành đá hoa cương,
được gọi là đá hoa cương Ba Bể. Theo Đào Trọng Năng, quá trình này diễn ra vào
kỷ Créta muộn, nghĩa là khối đá này đã trải qua chế độ lục địa trong khoảng thời
gian 200 triệu năm. Điều đó lý giải sự già nua của địa hình Karst và sự hình thành
hồ. Trong vùng Chợ Rã có nhiều thung lũng và cánh đồng Karst rộng ăn thông
nhau. Độ cao trung bình của các núi Karst khoảng 800 – 900 m. Do địa hình, độ cao
lớn nên nhiều chỗ sông Năng và sông Chợ Lèng trở thành các lát xẻ sâu, đặc biệt ở
núi Lung Nham và Bó Lù sông suối chảy ngầm với chiều dài 300 – 800 m, phiến
Proterozoi tạo nên thác ghềnh, như thác Đầu Đẳng, Nà Phoòng. Đá khu vực Ba Bể là
đá hoa có tinh thể màu trắng, có Biotít Piroxen, Graphít xâm tán và Granít hai mica.
Đất khu vực VQG Ba Bể chủ yếu là Feralít đỏ vàng có mùn và đất Feralít đỏ
sẫm trên đá vôi.
1.5.5. Thảm thực vật rừng
VQG Ba Bể có tính đa dạng cao về các hệ sinh thái rừng, bởi ngoài các hệ sinh
thái đặc trưng trên núi đá vôi, còn có các hệ sinh thái chuyển tiếp giữa núi đá vôi và
núi đất,. các kiểu thảm thực vật được thể hiện qua bảng 1.1:
Bảng 1.1: Phân bổ diện tích thảm thực vật rừng VQG Ba Bể
TT Thảm thực vật Diện tích (ha)
1 Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi đá vối. 2.238,2
2 Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp ( > 700m) 918,3
3 Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới núi thấp ( < 700m) 4.581,9
4 Kiểu phụ rừng hỗn giao tre nữa – Cây lá rộng . 60,3
5 Kiểu rừng tre nữa. 56,6

6 Kiểu phụ thứ sinh rừng trồng. 33
7 Thảm tươi cây bụi. 1.411,3
(Nguồn: Báo cáo tóm tắt quy hoạch bảo tồn và phát triển rừng bền vững Vườn
quốc gia Ba Bể giai đoạn 2012 – 2020)
1.5.6. Tài nguyên thực vật rừng
15
Theo điều tra ban đầu, khu hệ thực vật VQG Ba Bể gồm có 4 yếu tố như thực
vât bản địa Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa, thực vật di cư India – Myanma, thực
vật quý hiếm và thực vật đặc hứu của vùng.
Trên cơ sở số liệu điều tra và kế thừa trước đây, Vườn quốc gia Ba Bể có 909
loài thực vật thuộc 517 chi, 149 họ, 5 ngành được thể hiện qua bảng 1.2:
Bảng 1.2: Tài nguyên thực vật Vườn quốc gia Ba Bể
Đơn vị phân loại Số loài Số chi Số họ
1 Ngành thông đất – Lycopodiophyta. 5 3 2
2 Ngành cỏ tháp bút – Equisetophyta. 2 1 1
3 Ngành dương xỉ - Polypodiophyta. 81 36 16
4 Nghành thông – Pinophyta. 5 3 3
5 Ngành Mộc Lan – Magnoliophyta. 816 472 128
- Lớp hai lá mầm - - Magnoliopsida. 655 381 101
- Lớp một lá mầm – Liliopsida. 161 91 26
Cộng 909 517 149
(Nguồn: Báo cáo tóm tắt quy hoạch bảo tồn và phát triển rừng bền vững Vườn
quốc gia Ba Bể giai đoạn 2012 – 2020)
Trên địa bàn Vườn quốc gia Ba Bể có 26 loài thú quý hiếm thuộc 24 chi, 20 họ
trong đó có 16 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam 2007, 9 loài được ghi trong
danh lục đỏ của IUCN 2009, có 11 loài thuộc nghị định 32 CP/2006
1.5.7. Tài nguyên động vật rừng
Vườn quốc gia Ba Bể có khu hệ động vật hoang dã rất phong phú với nhiều
loại quý hiếm được thể hiện qua bảng 1.3.
Bảng 1.3: Thống kê các lớp động vật Vườn quốc gia Ba Bể

Lớp động vật Số bộ Số họ Số loài
1 Thú ( Mammalia). 7 21 40
2 Chim (Aves) 14 37 233
3 ếch nhái (Amphibia). 1 5 16
4 Bò sát (Reptilia). 3 11 27
cộng 25 74 316
(Nguồn: Báo cáo tóm tắt quy hoạch bảo tồn và phát triển rừng bền vững VQG Ba
Bể giai đoạn 2012 – 2020)
Năm 2012 qua khảo sát nghiên cứu của trường Đại học Lâm nghiệp phối
hợp với Phân viện điều tra quy hoạch rừng Đông Bắc bộ đã ghi nhận được 316
loài động vật có xương sống trên cạn, trong đó có 40 loài thú, 233 loài chim, 43
loài lưỡng cữ - bò sát.
16
Trong tổng số loài thống kê được, đã có đến 30 loài được ghi vào Sách đỏ Việt
Nam 2007, là những loài cần phải bảo vệ nghiêm ngặt như: Voọc đen má trắng, Tê
tê vàng, Rắn hổ mang chúa…
1.6. Điều kiện kinh tế xã hội
1.6.1. Đặc điểm dân tộc, dân số và lao động
VQG Ba Bể nằm trên địa giới hành chính của 7 xã thuộc 2 huyện (Chợ Đồn,
Ba Bể), tỉnh Bắc Kạn. So với các VQG khác, Ba Bể có đặc điểm khá phức tạp về
mặt quản lý do địa bàn rộng lớn với nhiều điểm dân cư lân cận. Dân số trong vùng
19.700 khẩu, trong đó vùng đệm 15.900 khẩu, vùng lõi 3.700 khẩu. Hiện tại có 15
thôn sống trong vùng lõi chủ yếu là dân tộc Tày chiếm khoảng 57%, còn lại là các
dân tộc H’Mông chiếm 38%, dân tộc Dao chiếm 5,4% và dân tộc kinh chiếm 0,2%.
1.6.2. Đặc điểm kinh tế
Nhìn chung, đời sống kinh tế nhân dân địa phương còn nhiều khó khăn, đặc
biệt là dân người dân sống trong vùng lõi thuộc Vườn quốc gia Ba Bể.
Tỷ lệ hộ nghèo chung cho các xã là 26,5%, trong đó xã Nam Mẫu là 44,4%.
Các hoạt động kinh tế chủ yếu là:
- Sản xuất nông nghiệp: bình quân 0,12 ha đất nông nghiệp/ người, chủ yếu

canh tác một vụ, thu nhập 300kg (quy thóc)/người/năm. Các hộ nghèo thường thiếu
ăn 1-2 tháng. Chăn nuôi kém phát triển.
- Lâm nghiệp: Được sự hỗ trợ của VQG, các hộ gia đình trong vùng lõi và
vùng đệm được giao khoán bảo vệ, khoanh nuôi rừng (3000ha), trồng rừng bổ sung
tại phân khu phục hồi sinh thái và trồng rừng tại vùng đệm. Ngoài ra một số họ dân
còn có thu nhập từ khai thác lâm sản ngoài gỗ: Cây thuốc, song mây…
- Dịch vụ du lịch: Được sự hỗ trợ của một số dự án và VQG, đã xây dựng
được một số mô hình dịch vụ Du lịch sinh thái có hiệu quả: nghỉ tại nhà sàn, HTX
vận chuyển khác du lịch bằng xuồng. Tuy nhiên số hộ tham gia còn ít, sản phẩm du
lịch nghèo.
1.7. Tình hình kinh tế xã hội xã Nam Mẫu
1.7.1. Vị trí địa lý
Nam Mẫu nằm ở phía tay Bắc huyện Ba Bể cụ thể :
- Phía Bắc giáp xã Cao thượng
17
- Phía Nam giáp Xã Nam Cường
- Phía Đông giáp Xã Nam Cường huyện Chợ Đồn
- Phía Tay giáp tỉnh Tuyên Quang
Nam Mẫu cách trung tâm huyện Ba Bể 24 km là xã nằm trong vùng lõi
thuộc Vườn quốc gia, Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
1.7.2. Điạ hình
Địa hình của xã chia cắt phức tạp, núi đá cao xen lẫn đồi, thung lũng lòng
trảo, một số khu có các bãi tương đối bằng phẳng thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp tập chung ở thôn Bản Cám, đầu đẳng…Do đặc điểm kiến tạo đại chất với
các đứt gãy điển hình, tạo cho xã nhiều dạng địa hình đặc trưng vùng núi, có địa thế
hiểm trở, nhiều đỉnh núi cao sen ké hẻm sâu, mức độ chia cắt sâu và mạnh.
1.7.3. Dân số
Xã có tổng số 9 thôn, bản dân số toàn xã 2.134 khẩu với 424 hộ thành phần
dân tộc gồm 4 anh em sinh sống như Tày, H’mông, Dao, Kinh trong đó lao động
chủ yếu là nông nghiệp.

1.7.4. Cơ sở hạ tầng
- Giao thông: Hệ thống giao thông đi lại rất khó khăn, đặc biệt là đường giao
thông đường thủy đi các thôn như thôn Bản Cám, Nà Phại. Tuyến đường từ UBND
xã Nam Mâu đi các thôn Nặm Dài, Khâu qua, Nà nghè, Đán mẩy, Nà Phại chỉ đi
được mùa khô
nên rất khó khăn cho việc lưu thông hàng hóa vào mùa mưa và phát triển các ngành
kinh tế khác.
- Thủy lợi: Hệ thống thủy lợi xã trong những năm gần đây được sự quan tâm
của Đảng và nhà nước, các cấp các ngành và sự đóng góp của nhân dân, đang dần
dần từng bước được kiên cố hóa, hàng năm các tuyến đường được tu sửa tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tưới tiêu đáp ứng kịp thời cho sản xuất. Tuy nhiên phần một
số tuyến kênh mương hiện nay vấn là mương đất nên chất lượng kém chưa đảm
bảo, chủ động nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.
- Y tế: Nhìn chung đội ngũ cán bộ y tế của xã chỉ có 1 bác sỹ, 3y tá và điều
dưỡng, y tế thôn bản và mạng lưới cộng tác viên là 9 người. Cơ sở vật chất, trang
18
thiết bị của trạm xã chưa đảm bảo yêu cầu khám chữa bệnh chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho nhân dân. Đây là một khó khăn lớn trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
- Giáo dục: Cơ sở vật chất trường học từng bước được nâng cấp, hệ thống
trường học từ mầm non đến trung học cơ sở tổng số học sinh trung học cơ sở 156,
tiểu học có 182 học sinh và 138 học sinh bậc mầm non, giáo viên THCS là 18, tiểu
học có 20, mầm non 13 giáo viên.
- Điện nước: Tỷ lệ hộ dùng điện lưới quốc gia là 58,8% (trong đó 5 thôn vùng
cao chưa được kéo điện) Tỷ lệ hộ dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 35% (nước theo
chương trình nước sạch nông thôn và nước dẫn từ nguồn về).
1.7.5. Tình hình dân sinh
Xã Nam Mẫu là xã nằm trong vùng lõi thuộc VQG Ba Bể địa hình phức tạp,
cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư, mật độ dân số thấp nhưng do nhiều nguyên nhân
đến nay Nam Mẫu vẫn là một xã nghèo của huyện Ba Bể, tỷ lệ hộ nghèo chiếm
49,7%; thu nhập đầu người đạt 3 triệu đồng/người/năm.

- Về trồng trọt: diện tích đất canh tác nông nghiệp 232 ha, trong đó diện tích
đất trồng lúa hàng năm 114,30 ha, năng suất bình quân đạt 46,6 tạ/ ha diện tích ngô
soi bãi 65 ha, diện tích ngô đồi 75 ha năng suất bình quân đạt 37 tạ/ ha còn lại trồng
các loại cây như: Lạc, sắn, đỗ tương , khoai
- Chăn nuôi: Nam Mẫu là xã thuần nông, có điều kiện để phát triển chăn nuôi
đại gia súc, gia cầm, tuy nhiên do người dân thiếu vốn, trình độ chăn nuôi còn lạc
hậu, chủ yếu là nuôi tận dụng trong hộ gia đình, năng suất chất lượng đàn gia súc,
gia cầm thấp, dẫn đến hiệu quả chăn nuôi chưa cao.
Hiện tại tổng đàn trâu hiện có 651 con; Đàn bò 196 con; Đàn lợn 1.648 con;
Gia cầm hiện có 5.555 con, đàn dê 120 con.
- Lâm nghiệp: Xã Nam Mẫu nằm trong vùng lõi thuộc VQG Ba Bể quản lý
nên diện tích rừng trồng không có chủ yếu là bảo vệ rừng khoanh nuôi tái sinh tổng
diện tích là 891,94 ha, diện tích rừng khoanh nuôi tự nhiên là 1.298,09 ha.
- Thương mại, dịch vụ: Hiện nay trên địa bàn đã hình thành, các sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của nhân dân, là nơi mua bán trao đổi
hành hóa nông sản của nông dân trong xã và khu vực lân cận.
19
- Du lịch xuồng chở khách hiện có 83 xuồng máy dưới sự chỉ đạo của
UBND xã và BQLHTXX phân khách theo tuyến. Nhà nghỉ hiện nay có 21 nhà có
giấy phép kinh doanh và đủ điều kiện kinh doanh.
1.8. Đánh giá, nhận xét chung
1.8.1. Thuận lợi
- Có hệ thống sông suối cung cấp đủ nước tưới cho sản xuất nông nghiệp.
- Được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước nên kinh tế trong vùng
trong những năm gần đây đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ, nền kinh tế đang dịch
chuyển theo hướng tích cực, đời sống kinh tế nhân dân được cải thiện hơn trước.
- Hạ tầng cơ sở đang được quan tâm đầu tư nâng cấp, cải tạo và xây dựng,
nâng cao năng lực phục vụ và ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân.
- Nhân dân các dân tộc sống hòa thuận, có truyền thống lao động rất cần cù,
chịu khó, lực lượng lao động dồn dào.

- Có tiềm năng phát triển về lâm nghiệp và du lịch sinh thái.
1.8.2. Khó khăn
- Địa hình phức tạp, đất nông nghiệp ít, thị trường và giá cả nông sản không
ổn định, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.
- Trình độ dân trí thấp, chưa tiếp cận được các tiến bộ, khoa học-công nghệ
mới để áp dụng vào sản xuất nông lâm nghiệp và lưu thông hàng hoá.
- Lực lượng lao động rồi rào, song phần lớn là lao động thủ công chưa qua đào
tạo, trình độ canh tác thấp. Sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chưa biết áp dụng kỹ thuật
thâm canh trong sản xuất, chủ yếu là dựa vào tự nhiên, cho nên năng suất và chất
lượng nông sản thấp.
- Đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn, bình quân thu nhập đầu
người thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng bước đầu đã hình thành nhưng chưa đáp ứng được
nhu cầu về phát triển KT - XH nhất là đường bộ chưa đạt về tiêu chuẩn cấp đường,
đường liên thôn chủ yếu là đường đất, rất dễ sạt lở, đi lại khó khăn vào mùa mưa.
20
Tóm lại: Qua phân tích đánh giá những thuận lợi, khó khăn về điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội của VQG Ba Bể cho thấy bên cạnh những thuận lợi cho sự
phát triển bền vững TNR thì vẫn còn rất nhiều khó khăn, đặc biệt là kinh tế chậm
phát triển, trình độ dân trí thấp, đời sống của người dân nghèo nàn, lạc hậu, sống
chủ yếu dựa vào rừng,… làm cho công tác quản lý rừng càng trở nên phức tạp. Vì
vậy, việc nghiên cứu và đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng ở
đây là rất cần thiết và có ý nghĩa.
21
Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về đồng quản lý rừng làm cơ sở đề
xuất các nguyên tắc đồng quản lý và giải pháp thích hợp thực hiện các nguyên tắc

đồng quản lý rừng tại Vườn quốc gia Ba Bể Tỉnh Bắc Kạn.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá tiềm năng đồng quản lý của các bên liên quan trong quản lý
bảo vệ rừng tại Vườn quốc gia Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.
- Đề xuất được các nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng tại Vườn quốc
gia Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
- Cơ chế, chính sách của các cấp có liên quan đến công tác đồng quản lý
rừng ở VQG Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
- Phân tích thể chế, kiến thức bản địa của cộng đồng người dân địa phương
trong công tác bảo vệ và phát triển rừng ở VQG Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
- Tổ chức quản lý tài nguyên thiên nhiên ở VQG Ba Bể.
- Tài nguyên thiên nhiên ở VQG Ba Bể.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Về địa bàn nghiên cứu: Chỉ giới hạn trong xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể, tỉnh
Bắc Kạn.
- Về nội dung nghiên cứu: Chỉ tập trung phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn
thực hiện đồng quản lý rừng và đánh giá tiềm năng đồng quản lý rừng tại VQG Ba
Bể và hỗ trợ để các đối tác thiết lập được các nguyên tắc và giải pháp thực hiện
đồng quản lý.
22
2.4. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài tiến hành thực hiện một số nội dung sau:
(1) Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý và sử dụng TNR, những nguy cơ
và thách thức.
(2) Nghiên cứu, phân tích thể chế, kiến thức bản địa của cộng đồng người
dân địa phương trong công tác bảo vệ và phát triển rừng.
(3) Phân tích cơ sở khoa học và thực tiễn đồng quản lý rừng tại VQG Ba Bể,
tỉnh Bắc Kạn.
(4) Đánh giá vai trò tiềm năng hợp tác và những mâu thuẫn tiềm tàng của các

bên liên quan đến đồng quản lý TNR tại VQG Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
(5) Nghiên cứu đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp thực hiện đồng quản
lý rừng tại VQG Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Cách tiếp cận và phương hướng giải quyết vấn đề
Đề tài áp dụng phương pháp tiếp cận (1) tiếp cận tổng hợp (2) tiếp cận đa
phương (3) kế thừa các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đồng thời tiến
hành điều tra thu thập bổ sung các thông tin sơ cấp.
- Phát triển bền vững đang là yêu cầu và đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn. Quản
lý rừng bền vững là một trong những nội dung có vai trò vô cùng quan trọng. Ngoài
việc phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện đồng quản lý tại khu vực,
đề tài còn quan tâm đến việc đánh giá các tiềm năng của đồng quản lý. Đặc biệt chú
ý đến chế độ hưởng lợi của các bên tham gia và cách giải quyết các mâu thuẫn còn
đang tồn tại trong công tác quản lý. Trên cơ sở đánh giá, phân tích các kết quả này,
đề tài đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp đồng quản lý rừng tại địa phương theo
hướng phát triển tài nguyên rừng.
- Triển khai thực hiện các nội dung nghiên cứu vai trò của tác giả là hỗ trợ
còn các đối tác là người thực hiện chính (đồng quản lý trên cơ sở tự nguyện của các
đối tác và chính họ xây dựng và thực hiện sau này).
23
2.5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các bước thực hiện nghiên cứu được sơ đồ hoá như sau:
Hình 2.1: Các bước tiến hành nghiên cứu
2.5.3. Phương pháp kế thừa tài liệu
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có về đồng quản lý, kể cả các tài liệu
nghiên cứu đã có trên thế giới.
- Kế thừa các tài liệu có sẵn ở các cơ quan và ban, ngành, các cấp từ trung
ương đến địa phương gồm những tài liệu liên quan đến các yếu tố tự nhiên KT - XH
kinh nghiệm QLBV, những kết quả nghiên cứu về đồng quản lý ở các địa phương,
những tài liệu về tổng kết chính sách lâm nghiệp trong nước, các văn bản qui phạm

pháp luật về vấn đề liên quan.
- Thu thập số liệu từ Ban quản lý VQG và cán bộ địa phương để nắm tình
hình chung và các số liệu thứ cấp cơ bản. Các tài liệu kế thừa đảm bảo được tính
cập nhật (mới nhất), chính thống (cơ quan, tổ chức có chức năng ban hành) và đảm
bảo độ chính xác phù hợp với yêu cầu của chủ đề nghiên cứu.
24
Thu thập các tài liệu có liên quan Khảo sát tổng thể khu vực
nghiên cứu
Phân tích cơ sở khoa học và thực tiễn của
đồng quản lý tài nguyên rừng tại VQG
Đề xuất nguyên tắc
đồng quản lý
Đánh giá tiềm năng đồng quản lý tài nguyên
rừng tại VQG
Đề xuất giải pháp
đồng quản lý
2.5.4. Thu thập tài liêu, thông tin ngoại nghiệp
* Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu là đại diện điển hình của khu vực, bao gồm các thôn
phân bố gần rừng, các yếu tố về địa hình và khả năng tiếp cận với rừng tương đối
đồng nhất.
- Trên cơ sở các tiêu chí như trên, xã Nam Mẫu được chọn làm địa điểm
nghiên cứu của đề tài.
* Phương pháp điều tra đánh giá các giá trị đa dạng sinh học cần phải bảo tồn
Đa dạng sinh học VQG Ba Bể mới được điều tra đánh giá, nên đề tài kế thừa
các tài liệu đã có là chủ yếu, chỉ kiểm tra bổ sung cập nhật một số thông tin ngoài
thực địa và hiện trạng rừng, thực vật bậc cao và động vật có xương sống nhằm đánh
giá mức độ đe dọa và nguyên nhân giảm sút. Phương pháp sử dụng được tham khảo
trong “Sổ tay hướng dẫn giám sát và điều tra đa dạng sinh học” do WWF xuất bản.
- Đối với thực vật: Sử dụng phương pháp điều tra theo tuyến kết hợp với

phỏng vấn người dân.
- Đối với động vật rừng: Sử dụng phương pháp phỏng vấn người dân, thợ
săn, cán bộ BQL vườn.
* Phương pháp điều tra tiềm năng đồng quản lý trong cộng đồng
Các phương pháp sau được sử dụng để điều tra tiềm năng đồng quản lý tại
cộng đồng như sau:
- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA (Rapid Rural Appraisal):
Được thực hiện để thu thập những thông tin bổ sung về điều kiện tự nhiên, kinh tế-
xã hội, thuận lợi, khó khăn, nguy cơ, thách thức trong công tác QLBVR.
- Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia PRA (Participatory Rural
Appraisal): Được áp dụng để củng cố những thông tin thu thập được từ phương
pháp kế thừa và phương pháp RRA.
Đồng thời, xác định những phong tục, tập quán, kiến thức và thể chế bản địa
liên quan đến việc BVR và tiềm năng BVR của cộng đồng cũng như vai trò của các
bên liên quan đến công tác quản lý TNR, mâu thuẫn và khả năng hợp tác của các
bên liên quan trong công tác QLBVR.
25

×