Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

ĐỀ CƯƠNG THI TỐT NGHIỆP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ MÔN NHÀ NƯỚC PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.78 KB, 33 trang )

ĐỀ CƯƠNG THI TỐT NGHIỆP MÔN HTCT-NNPL
Ghi
chú

Nội dung
Câu 1: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Bài làm:
1. Khái niệm”
a. KHÁI NIỆM : Giáo trình trang 8
HTCT là một tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị( các cơ quan quyền lực nhà
nước, các đảng chính trị, các phong trào xã hội , các tỏ chức chính trị- xã hội…) được
xây dựng theo một kết cấu chức năng nhất định , vận hành trên những nguyên tắc , cơ
chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị.
Khái niệm theo Đề cương: HTCT là tổng hợp các lực lượng chính trị bao gồm Đảng cộng
sản, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động theo một cơ chế nhaats định ,
nhằm mục đích bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu
dân giàu nước mạnh dân chủ công bằng văn minh
b. Cơ cấu HTCT nước ta hiện nay:
Tổ chức bộ máy ủa HTCT nước ta xét về cơ cấu gồm có:
Đảng CSVN
Nhà nước
Các tổ chức chính trị -xã hội
Hoạt động theo một cơ chế nhất định dưới sự lãnh đạo của ĐảngCộng sản, quản ý của
nước nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội tham
gia quyền lực chính trị nhằm xây dựng mục tiêu dân giàu nước mạnh dân chủ công
bằng văn minh
2. Vị trí, chứ năng của từng bộ phận cấu thành HTCT”
a. Đảng:
Vị trí : Đảng cộng sản Việt nam lãnh đạo nhà nước và xã hội, là hạt nhân của HTCT
Chức năng: Đảng đề ra đường lối chủ trương chính sách , định hướng hoạt động của
HTCT


Vai trò: là điều kiện cần thiết và tất yếu đảm bảo HTCT giữ vũng bản chất giai cấp
công nhân, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân
b. Nhà nước”
Vị trí: Nhà nước là trung tâm , trụ cột của HTCT, có nhà nước mới có HTCT
Chức năng : Nhà nước là bộ máy tổ chức thực thi quyền lực chính trị , thay mặt dân ,
chịu trách nhiệm trước dân và quản lý toàn bộ mọi hoạt động của xã hội nhằm mục
đích để xây dựng XHCN
Vai trò: Nhà nước là bộ máy trực tiếp thực thi quyền lực chính trị , tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, ý chí nguyện vọng của nhân dân. Quản lý nền kinh
tế, văn hóa , xã hội, duy trì trật tự an ninh , quốc phòng.
c. Các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT: là tập hợp nhân dân theo nguyên tắc tự
nguyện tự quản
Vị trí: Thay mặt cho thành viên của mình tham gia quyền lực chính trị


Chức năng: bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên
Tầm quan trọng của việc đổi mới hệ thống chính trị nước ta hiện nay
Nội dung đổi mới
Về cơ cấu tổ chức trong HTCT: khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong
HTCT. Trong đó nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND , đổi mới quản lý điều
hành hoạt động của UBND
Về đội ngũ cán bộ: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có năng lực , phẩm chất và chuiyeen
môn vững vàng đáp ứng được yêu cầu của HTCT nước ta hiện nay. Nâng cao trách
nhiệm cán bộ chủ chốt , người đứng đầu các tổ chức chính trị và các tổ chức chính trịxã hội
Về quan hệ với nhân dân: xây dựng sự đồng thuận trong nhân dân, đảm bảo công
bằng trong xã hội chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Phát huy
tích cực sáng kiến của nhân dân trong xây dựng Đảng và chính quyền trong sạch vững
mạnh
4. Liên hệ thực tế về HTCT
Đề xuất ý kiến

3.
a.
-

Ghi
chú

Nội dung
Câu 2: Nhà nước pháp quyển Việt Nam
Bài làm:
1. Khái niệm: NNPQXHCN là NN XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền
lực NN thuộc về nhân dân; bảo đảm tính tối cao của hiến pháp, quản lý xã hội theo
pháp luật nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, do Đảng tiền phong của giai cấp công
nhân lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân dân
2. Bản chất của NNPQVN
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền mang
bản chất của giai cấp công nhân. Đó là nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành xã hội
trên cơ sở hiến pháp và pháp luật với mục đích đảm bảo quyền lực cho nhân dân.
Giá trị xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là việc tạo ra một hệ thống
các quan hệ bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong tất cả các lĩnh vực xã hội.
-

Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực thực sự thuộc về nhân dân
lao động, điều này được quy định một cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ
chính trị của chủ nghĩa xã hội. Khi nhân dân được làm chủ những tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội thì đương nhiên mọi công dân đều có quyền lực. Toàn bộ hoạt
động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến những nguyên tắc tổ chức
đều thể hiện quan điểm của giai cấp công nhân, nhằm từng bước thực hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của toàn dân tộc.



3. Phương hướng hoàn thiện NNPQVN (8 phương hướng nhưng ôn kĩ 1 & 8)

Một là, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân: mở rộng dân chủ
XHCN, phát huy quyền làm chủ của ND trong XD và quản lý NN. Đây là p/hướng vừa cơ
bản, vừa cấp bách hàng đầu là nhằm giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của NN ta,
ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu sách
nhiễu ND trong bộ máy NN. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta. Mở
rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quyền lợi đi đôi với trách
nhiệm, nghĩa vụ.
Hai là,Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật
+cần tập trung xây dựng p/luật trong lĩnh vực kinh tế như hoàn thiện p/luật
d/nghiệp,Luật đầu tư nước ngoài tại VN, pháp luật về sở hữu…
+ Tập trung xây dựng p/luật trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, KH-CN
+Tập trung xây dựng p/luật trong lĩnh vực XH: trước hêt coi trọng hoàn thiện
p/luật về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, hoàn thiện về p.luật dân tộc và tôn
giáo, hoàn thiện p.luật về báo chí và xuất bản, quan tâm việc xây dựng và ban hành các
văn bản quy phạm PL đảm bảo th/hiện các ch/sách công bằng XH về xóa đói, giảm nghèo
về bảo vệ người tiêu dung…
+ tập trung xây dựng p/luật trong lĩnh vực ANQP và trật tự an toàn XH: xây dựng
hoàn thiện PL VỀ BẢO VỆ biên giới, PL trong việc đ/tranh phòng chống tội phạm và vi
phạm PL…
Ba là, Tiếp tục đổi mới, tổ chức, hoạt đọng của Quốc Hội:
Xây dựng Quốc hội đảm bảo thực hiện được vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn do Hiến pháp và luật quy định; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả tính chuyên nghiệp, hiện
đại, tính minh bạch, công khai trong tổ chức, hoạt động cảu QH.Để thực hiện tốt nọi dung
nêu trên cân thực hiện nhưng giải pháp sau đây:
+ Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện các chức năng của QH

như lập pháp; đối nội và đối ngoại; giám sát.
+Phát huy vai trò, trách nhiệm, năng lực, bản lĩnh và nghiệp vụ h/động đại biểu của
đại bểu QH.
+ Tăng cường mqh giữa QH với nhân dân: QH là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân, có cơ chế phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng và ý chí của nhân dân với QH.
+ Tăng cường các đk về đội ngũ cán bộ tham mưu, giúp việc, bảo đảm kinh phí, cơ
sở vật chất, trụ sở làm việc của QH, thong tin hiện đại,
Bốn là, đẩy mạnh cải cách nền hành chính NN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của
việc XD và hoàn thiện NN trong những năm trước mắt, trong đó có yêu cầu là XD nếp
sống và làm việc theo PL trong XH. Cải cách hành chính phải được tiến hành trên cơ sở
PL và tiến hành đồng bộ nhưng có bước đi thích hợp trên cả ba mặt: cải cách thể chế hành
chính; tổ chức bộ máy và XD, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức hành chính; cải cách tài
chính công.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp. Các cơ quan tư
pháp là các cơ quan giữ gìn và bảo vệ PL mà trọng tâm là đối với tòa án ND các cấp. Vì
thế toàn bộ hoạt động của nó là biểu hiệnđiển hình của việc tuân thủ và thực hiện PL. Tiếp


tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống PL; đổi mới tổ chức h/động của các cơ quan tư
pháp; Chấn chỉnh các tổ chức và các h/động bổ trợ tư pháp; đẩy mạnh công tác xây dựng
đội ngũ Cb tư pháp đáp ứng về số lượng và chất lượng theo yêu cầu mới…
Sáu là,Xây dựng đội ngũ CB, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu
cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân , do dân, vì dân:
+Xây dựng và thực hiện tốt chiến lượt cán bộ
+Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng CB,CC nhằm nâng cao chất lượng về chuyên
môn, nâng cao nhận thức về trình độ lý luận chính trị Mác- Lê Nin.
+Đổi mới cơ chế đánh giá , tuyển dụng Cb, CC đảm bảo tính công khai, dân chủ
+Dổi mới chế độ chính sách tiền lương cho phù hợp với CB,CC.
+Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra , giám sát CB, CC
Bảy là, Đẩy mạnh hoạt động đấu tranh chống quan lieu và những biểu hiện tiêu cực

khác trong bộ máy NN:
+Đánh gia đúng thực trạng tình hình về kết quả đấu tranh với các căn bệnh nêu trên
. Những trường hợp vi phạm phải được xử lý nghiêm minh và phải được chuẩn
mực đạo đức điều chỉnh.
+nhận thức đúng tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng
và những biểu hiện tiêu cực khác
+Cần phải xác định đúng quan điểm và thái độ trong đấu tranh
+Triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện để đ/tranh chống quan lieu, tham
nhũng.
Tám là,Đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với NN trong điều kiện xây
dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân:
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng NNPQ của dân, do dân và vì dân
phải bao quát toàn bộ tổ chức, hoạt động của NN và được thể hiện trên những nội dung
sau:
Một là, Đường lối, chính sách của Đảng là định hướng chính trị và nội dung hoạt
động của nhà nước
Hai là, Đảng xác định những quan điểm, phương hướng ,ndung cơ bản nhằm xây
dựng, hoàn thiện tổ chức h/động của NN đáp ứng y/cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng
giai đoạn
Ba là, Đảng lãnh đạo h/động bầu cử QH, HDND các cấp đảm bảo thật sự phát huy
qyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan
này.
Bốn là, Đảng lanh đạo công tác Ktra, thanh tra,gsat h/động của các cơ quan NN,
CB,CC NN trong việc th/hiện đường lối,ch/sách của Đảng và PL của NN.
Năm là,Đảng lãnh đạo h/động xây dựng PL và tổ chức th/hiện PL, tăng cường pháp
chế trong đời sống XH và h/động của NN, CB,CC NN
Sáu là, Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, CC đáp ứng y/cầu của sự nghiệp
đổi mới và yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân
Tóm lại, trong công cuộc đổi mới của đất nước, XD NNPQ của dân, do dân, vì dân
là yêu cầu khách quan của sự nghiệp XD CNXH, và việc tiếp tục XD và hoàn thiện NNPQ



là đòi hỏi khách quan và phù hợp với xu hướng chung của thời đại. Vì vậy, trong đ/lối
l/đạo của mình, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc đề ra đ/lối XD và hoàn thiện BMNN- yếu
tố trung tâm của HTCT. Để thực hiện mục tiêu đó, phải tăng cường hiệu lực của BMNN,
mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của ndân trong XD và quản lý NN,
đồng thời tăng cường sự l/đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực….
4. Liên hệ thực tế (3 ý) (Phần a, b anh chị tự viết)
a. Bộ máy NN có cồng kềnh? Tinh gọn?
b. Cải cách thủ tục hành chính?
• Giảm bớt giấy tờ?
• Giảm bớt thời gian?
• Đội ngũ CBCC?
c. Bộ máy NN ta hiện nay?

Trong những năm đổi mới, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã đạt được những
kết quả chủ yếu sau: (1) Các quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy nhà
nước đã có những điều chỉnh để làm rõ hơn, minh bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng cơ quan. Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát
tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Chính phủ không chỉ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp.
Bên cạnh đó, những hạn chế chủ yếu là: (1) Một số nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa được nhận thức đầy đủ, sâu sắc, chưa làm rõ nội
hàm của nguyên tắc dẫn đến vẫn còn sự lúng túng trong tổ chức và thực hiện. (2) Tổ chức
bộ máy của các cơ quan nhà nước vẫn còn một số điểm bất cập, hạn chế. Ví dụ, số lượng

các Ủy ban của Quốc hội còn ít, chưa đủ để bảo đảm tính chuyên môn hóa trong hoạt động
xây dựng pháp luật, giám sát; còn sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa một số bộ, cơ
quan ngang bộ… (3) Cải cách hành chính, cải cách tư pháp còn chậm. Trong cải cách hành
chính chưa đảm bảo đồng bộ giữa cải cách thể chế, bộ máy hành chính, đội ngũ cán bộ,
công chức và chế độ tài chính công. (4) Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà
nước chưa cao; tính chủ động, năng động, trách nhiệm của địa phương chưa được phát huy
đầy đủ. (5) Thiếu thiết chế chuyên trách bảo vệ Hiến pháp, chưa có cơ chế phán quyết về
vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
5. Đề xuất ý kiến

Với cương vị là một đảng viên, qua đây tôi nhận thức rằng, để góp phần xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt nam XHCN, thì cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa, không ngừng


học tập nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ chính trị, tích cực tuyên truyenf, vận động
người thân, gia đình và nhân dân nâng cao nhận thức về nhà nước pháp quyền việt Nam,
chaapps hành tốt các chủ trương chính sách pháp luật của nhà nước; các nội duy, qui định
tại địa phương; tích cực tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; phê phán
với những biểu hiện tieu cực ở địa phương… góp phần xây dựng hoàn thiện nhà nước PQ
VN XHCN.
(từ phần đến cuối câu là tài liệu tham khảo)
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Trong những năm đổi mới, việc phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân đã đạt được những kết quả nhất định, cụ thể: (1) Quyền lực nhà nước đã được xác
lập, thực hiện trên cơ sở ý chí của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Nhà nước tôn
trọng những quyết định của nhân dân, sự lựa chọn chính trị của nhân dân trong các cuộc bầu
cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, tiếp thu ý kiến của nhân dân trong
các đợt lấy ý kiến của nhân dân đóng góp vào xây dựng Hiến pháp, pháp luật. (2) Các cơ quan
nhà nước đã xây dựng nhiều cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền giám sát
của mình đối với hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Quy chế giám sát và

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc - tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của nhân dân, đã
được ban hành và đang triển khai thực hiện. (3) Các hình thức dân chủ trực tiếp, quyền làm
chủ thông qua các cơ quan đại diện cũng được thực hiện một cách thực chất và hiệu quả hơn.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân thực quyền hơn, ngày càng thể hiện là cơ quan đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, thực hiện quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước,
địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. (4) Cùng với việc mở rộng
dân chủ, Nhà nước ta đã kiên quyết đấu tranh chống lại tình trạng dân chủ cực đoan, vô
chính phủ, lợi dụng dân chủ để kích động, gây rối, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những
hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh, trật tự, an
toàn xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân cũng còn những hạn chế không nhỏ: (1) Việc thực hiện các hình thức dân chủ còn nhiều
hạn chế, nhất là trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm. (2) Trên một số
lĩnh vực của đời sống xã hội, còn có tình trạng vừa thiếu dân chủ vừa thiếu kỷ cương. Quyền
làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ; còn hiện tượng mất dân chủ,
dân chủ mang tính hình thức.
Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là một nội dung cơ bản của xây dựng nhà nước
pháp quyền và trong lĩnh vực này, Việt Nam đã triển khai tích cực, đạt được kết quả khả quan.
Cụ thể: (1) Hệ thống pháp luật được hoàn thiện cả về nội dung và hình thức, cả về số lượng và
chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. (2) Việc ban hành và thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật đã góp phần tác động tích cực đến sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội của đất nước, phục vụ kịp thời yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, xây dựng và hoàn thiện


thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi
mới của đất nước.
Tuy vậy, những hạn chế vẫn đang nổi lên là: (1) Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, thiếu
đồng bộ, chất lượng chưa cao, chưa ổn định; tính toàn diện, thống nhất, khả thi còn nhiều

hạn chế; chưa bảo đảm tính công khai, minh bạch; cơ chế xây dựng, sửa đổi bổ sung pháp
luật vẫn còn một số bất cập. (2) Các thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu;
năng lực phân tích chính sách, đánh giá tác động của văn bản pháp luật tới đời sống xã hội,
xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật của các cơ quan, cán bộ, công chức còn yếu; ý thức
pháp luật chưa cao, việc thi hành pháp luật chưa nghiêm.
Quy định và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân
Những kết quả đạt được ở nội dung này của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thể hiện trên các khía cạnh: (1) Hệ thống pháp luật, chính sách về quyền con người đã được
hoàn thiện một bước; được triển khai đồng bộ và xuyên suốt trong chương trình xây dựng pháp
luật của Quốc hội và các chính sách, cơ chế nhằm triển khai thực hiện pháp luật trên thực tế. Nhà
nước sử dụng Hiến pháp như là một trong những công cụ quan trọng hàng đầu để bảo đảm và bảo
vệ quyền con người, quyền công dân. (2) Tăng cường và mở rộng chương trình giáo dục, đào tạo
về quyền con người cho cán bộ của các cơ quan nhà nước. Các nội dung giáo dục về quyền con
người đã và đang từng bước được đưa vào chương trình ở các trường phổ thông, lồng ghép vào
một số môn học chuyên sâu trong các trường đại học có đào tạo chuyên ngành luật. (3) Đã thực
thi có hiệu quả hơn các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người. Về cơ bản, Việt Nam hoàn thành tốt
nghĩa vụ báo cáo đối với các công ước mà Việt Nam là thành viên; tiến hành rà soát các quy định
của luật pháp quốc gia về các quyền dân sự, chính trị. (4) Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền
con người trên thực tế. Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã
được bảo đảm ngày càng tốt hơn nhờ sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong
phú về nội dung.
Những hạn chế chủ yếu của nội dung này biểu hiện ở 2 điểm: (1) Hệ thống pháp luật về quyền
con người ở Việt Nam chưa đồng bộ, một số lĩnh vực chưa theo kịp với sự thay đổi của cuộc sống,
chậm được sửa đổi, bổ sung. (2) Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi
pháp luật và việc tuyên truyền pháp luật về quyền con người đến các ngành, các cấp, các địa
phương vẫn còn hạn chế, khiến cho việc triển khai còn khó khăn, bất cập.
Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Vai trò lãnh đạo của của Đảng đối với nhà nước là vấn đề rất cơ bản bảo đảm chính quyền của
nhân dân. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng đã đề ra những quan điểm, phương hướng,
nội dung cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đề ra định hướng chính trị đúng đắn cho hoạt động của Nhà
nước; lãnh đạo hoạt động bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp bảo đảm thật sự phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan này./.
Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, nhất là sau khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị


lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, công cuộc
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta đã có những tiến bộ to lớn. Nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã có bước đổi mới vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước. Bản chất giai cấp
công nhân, tính dân tộc, tính nhân dân của Nhà nước được giữ vững và củng cố. Hệ thống quan
điểm, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân từng bước được hoàn chỉnh.
Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 cùng nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành, tạo
khuôn khổ pháp lý để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Tổ chức, bộ máy, chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là các cơ quan hành chính nhà nước đã được đổi mới và
hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong
tổ chức và hoạt động của Nhà nước được phân định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những
bước tiến tích cực. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực, tác động
mạnh mẽ đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Chính phủ và các bộ tập
trung hơn vào quản lý nhà nước, điều hành vĩ mô và giải quyết những vấn đề chiến lược liên quan
đến quốc kế dân sinh. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, tháo gỡ được nhiều khó khăn,
vướng mắc cho người dân và doanh nghiệp. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư
pháp được thể chế hóa trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt
những kết quả bước đầu quan trọng. Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân,
tổ chức luật sư, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động được
nâng cao, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân, hạn chế được tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân đặt ra rất cấp bách. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh “Tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị... Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa phải tiến
hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống
chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Để Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, quản lý, điều hành đất nước hiệu lực, hiệu quả,
trước hết cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước:
“Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính
quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của


Hiến pháp... Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do
giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân dân, thể hiện sâu sắc ý
chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân
dân là thống nhất. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu và con đường xã hội chủ
nghĩa; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, như Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng đã đề ra. Xây dựng Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, gần dân, sâu sát dân,
bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức nhiều hình thức phù hợp để nhân
dân tích cực tham gia hoạch định chính sách, pháp luật và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật của các cơ quan nhà nước, coi đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta. Chính quyền
có trong sạch, được dân tin yêu, ủng hộ thì mới vững mạnh, giữ vững được quốc phòng, an ninh,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo động lực to lớn
để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân là phương hướng cơ bản để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mở
rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, siết chặt kỷ luật; quyền đi đôi với trách nhiệm, nghĩa
vụ; dân chủ được thể chế hóa thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp luật. Tăng cường tổ
chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực
quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội. Đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra trong nội bộ
các cơ quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của các
cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn, lãnh thổ. Huy động sức mạnh của cả hệ
thống chính trị và toàn dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, khắc phục
tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối an ninh, trật tự; làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”
để chống phá chế độ ta.
Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà
nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) để các cơ quan này thực
sự là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương. Hoàn thiện và phân định rõ mô hình tổ
chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính -


kinh tế đặc biệt theo luật định. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm
tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và sự giám sát của
nhân dân. Các cơ quan hành chính nhà nước phải nghiêm túc chấp hành các quyết định của cơ
quan dân cử trong trách nhiệm, quyền hạn được pháp luật quy định và chịu sự kiểm tra, giám sát của
các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của nhân dân. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính
sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; chú trọng tiêu chuẩn về bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, quy hoạch,
đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động
của doanh nghiệp và đời sống nhân dân; xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp,
quản lý nhà nước có hiệu quả, giảm mạnh, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, đáp ứng tốt
nhất yêu cầu chính đáng của người dân, doanh nghiệp. Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ
chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Quy định rõ trách nhiệm và cơ chế giải
trình của các cơ quan nhà nước, đề cao đạo đức công vụ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo
và thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của kinh
tế nhà nước để quản lý thị trường, điều tiết thu nhập, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền và các tầng
lớp dân cư. Kiểm soát việc phân bổ, quản lý và sử dụng vốn, tài sản công, khắc phục tình trạng vô
chủ, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Xác định rõ trách nhiệm của các cấp chính quyền, thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Xử lý nghiêm minh các hành vi trì hoãn, làm sai lệch, can thiệp trái
pháp luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Xây dựng, hoàn thiện
những quy định để người dân trình bày nguyện vọng, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, tạo sự đồng
thuận trong xã hội; đồng thời ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng quyền khiếu nại,
tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối an ninh, trật tự.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật
và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính
công khai, minh bạch cao, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu
hội nhập quốc tế sâu rộng. Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật, bảo đảm
quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập
pháp tiên tiến của nước ngoài; tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, ý kiến đóng góp
của nhân dân, nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành pháp luật. Các bộ luật, luật ban
hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm tình trạng phải chờ đợi văn bản
hướng dẫn mới thi hành được. Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật để
nhân dân hiểu và tự giác chấp hành. Tổ chức thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đấu



tranh chống các biểu hiện coi thường pháp luật, kỷ cương, phép nước.
Cùng với tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, đề cao tinh thần “thượng tôn pháp luật”, cần coi
trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, kết hợp sức mạnh của pháp luật với
sức mạnh đạo đức, văn hóa và dư luận xã hội. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các thành viên trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân, thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy
nhà nước cũng như trong đời sống xã hội.
Chú trọng phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền tư pháp trong
tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức
năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ quan
điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của các cơ quan điều tra. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp
đối với từng lĩnh vực hoạt động tư pháp; thường xuyên cập nhật thông tin hợp tác quốc tế về tư pháp
và các lĩnh vực liên quan. Tích cực chuẩn bị đội ngũ luật sư, cán bộ các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư
pháp có đủ khả năng tham gia tố tụng trong các vụ, việc có yếu tố nước ngoài và giải quyết các tranh
chấp quốc tế, bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân.
Tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung và hoàn thiện lý luận, rút ra những bài học kinh nghiệm về
cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trên cơ sở đó, cung cấp những luận
cứ khoa học để tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội; Nhà nước hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả; nhân dân ngày càng tham gia nhiều hơn vào
các công việc của Nhà nước.
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt lên
mọi khó khăn, thách thức, nhất định công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân sẽ giành được những thành tựu to lớn hơn
nữa, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.


Ghi
chú

Nội dung
Câu 3: Bộ máy nhà nước ta hiện nay
Bài làm:
Sơ đồ:


2. Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 1992 gồm có 4 hệ thống cơ quan:

– Hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước bao gồm:
+ Quốc hội (cơ quan lập pháp) là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính vì cậy Quốc
hội thể hiện tính đại diện nhân dân và tính quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động
của mình.
Quốc hội thống nhất ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng không phải là cơ
quan độc quyền. Hiến pháp và pháp luật quy định cho Quốc hội có các chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn nhất định: là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, ban hành các
quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp luật cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản
nhất, tạo nên thể chế xã hội; quyết định những vấn đề cơ bản nhất về đối nội và đối ngoại
của đất nước như các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; xác
định các nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trực tiếp thành
lập các cơ quan quan trọng trong bộ máy nhà nước, trực tiếp bầu, bổ nhiệm các chức vụ
cao nhất trong các cơ quan nhà nước trung ương; thực hiện quyền giám sát tối cao toàn bộ
hoạt động của nhà nước, giám sát việc tuân theo hiến pháp và pháp luật qua việc nghe báo
cáo của các cơ quan tối cao nhà nước, thông qua hoạt động của các cơ quan quốc hội, đại



biểu quốc hội, thông qua hình thức chất vấn của đại biểu quốc hội với những đối tượng
xác định trong bộ máy nhà nước.
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội gồm:
Ủy ban thường vụ quốc hội: cơ quan thường trực của quốc hội, gồm có Chủ tịch quốc hội,
các phó chủ tịch quốc hội, các ủy viên thường vụ quốc hội được bầu tại kì họp thứ nhất
mỗi khóa quốc hội. Ủy ban thường vụ quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản như sau:
Ban hành pháp lệnh về các vấn đề được quốc hội trao trong chương trình làm luật của
Quốc hội, giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh; thực hiện giám sát thi hành hiến pháp, luật,
nghị quyết, hoạt động của chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, việt kiểm sát nhân dân tối
cao, đình chỉ thi hành các văn bản của Chính phủ, thủ tướng chính phủ, tòa án nhân dân và
viện kiểm sát nhân dân trái với hiến pháp. luật, nghị quyết của quốc hội và trình quốc hội
quyết định việc hủy bỏ; giám sát, hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân, bãi bỏ các
nghị quyết sai trái của hội đồng nhân dân cấp tỉnh, giải tán hội đồng nhân dân cấp tỉnh
trong trường hợp gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân; quyết định tổng
động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp trong phạm vi cả nước hoặc
từng địa phương; thực hiện quan hệ đối ngoại của quốc hội; tổ chức trưng cầu ý kiến nhân
dân theo quyết định của quốc hội; ngoài ra còn một số quyền hạn khác như quyết định vấn
đề nhân sự của chính phủ theo đề nghị của thủ tướng chính phủ, tuyên bố tình trạng chiến
tranh khi đất nước bị xâm lược…
Hội đồng dân tộc: được lập ra để đảm bảo sự phát triển bình đẳng, đồng đều của các dân
tộc Việt Nam, để giải quyết có hiệu quả các vấn đề dân tộc. Có nhiệm vụ: nghiên cứu, kiến
nghị với quốc hội các vấn đề dân tộc; giám sát thi hành các chính sách dân tộc, các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc
thiểu số; thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác liên quan đến vấn đề dân
tộc; kiến nghị về luật, pháp lệnh, chương trình làm luật của quốc hội…
Ủy ban của quốc hội: được lập ra để theo dõi các lĩnh vực hoạt động của quốc hội nhằm
giúp quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Các ủy ban của quốc hội là hình thức thu hút các đại biểu vào việc thực hiện công tác
chung của quốc hội. Các ủy ban của quốc hội có nhiệm vụ nghiên cứu thẩm định các dự
án luật, kiến nghị về luật, pháp lệnh và các dự án khác, các báo cáo được quốc hội hoặc ủy

ban thường vụ quốc hội trao, trình quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội cho ý kiến về
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn do pháp luật quy định, kiến nghị những vẫn đề thuộc phạm vi hoạt động của ủy


ban.
Đại biểu quốc hội: là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đồng thời là
đại biểu cấu thành cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Đại biểu quốc hội vừa chịu
trách nhiệm trước cử tri, vừa chịu trách nhiệm trước quốc hội. Chức năng của đại biểu
quốc hội là thu thập và phản ánh ý kiến của cử tri, biến ý chí của nhân dân thành ý chí của
nhà nước, đưa các quy định của luật, các quyết sách của quốc hội vào cuộc sống.
Quốc hội hoạt động bằng nhiều hình thức: kì họp của quốc hội, hoạt động của các cơ quan
quốc hội, đại biểu quốc hội, các đoàn đại biểu quốc hội… Nhưng quan trọng nhất vẫn là
các kì họp của quốc hội. Kết quả hoạt động của các hình thức khác được thể hiện tập trung
tại các kì họp quốc hội.
+ Hội đồng nhân dân: cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và các cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có thường trực hội đồng nhân dân, cấp xã không
lập thường trực. Chức năng thường trực hội đồng nhân dân xã do chủ tịch và phó chủ tịch
giúp việc thực hiện.
– Chủ tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người đứng đầu nhà nước, thay
mặt nhà nước trong các quan hệ đối nội và đối ngoại (Hiến pháp 1992). Quy định trên của
Hiến pháp là nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp
Chủ tịch nước có quyền hạn khá rộng, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, xã
hội.
+ Trong tổ chức nhân sự của bộ máy nhà nước: chủ tịch nước có quyền đề nghị quốc
hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm phó chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ, chánh án tòa án

nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức phó chánh án, thảm phán tòa nhân dân tối cao, phó viện trưởng, kiểm sát viên viện
kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của quốc hội để bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức các phó thủ tướng và các thành viên khác của chính phủ.
+ Trong lĩnh vực an ninh quốc gia: thống lĩnh các lực lượng vũ trang và giữ chức chủ


tịch hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao và các
hàm, cấp khác trong lĩnh vực khác…
+ Các lĩnh vực khác: ngoại giao, thôi, nhập quốc tịch, đặc xá…
– Cơ quan thực hiện quyền hành pháp gồm: Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ, ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã và các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân.
+ Chính phủ: là cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhất của nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội, chấp
hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường
vụ quốc hội; lệnh, quyết định của chủ tịch nước. Trong hoạt động, chính phủ phải chịu
trách nhiệm và báo cáo trước quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội và chủ tịch nước. Các
quy định trên là nhằm đảm bảo sự thống nhất của quyền lực nhà nước vào cơ quan quyền
lực cao nhất là quốc hội.
Chính phủ có chức năng thống nhất quản lí mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: lãnh đạo
thống nhất bộ máy hành chính từ trung ương tới cơ sở về tổ chức cán bộ, đảm bảo thi hành
hiến pháp và pháp luật; quản lí xây dựng kinh tế quốc dân, thực hiện chính sách tài chính
tiền tệ quốc gia, quản lí y tế, giáo dục, quản lí ngân sách nhà nước, thi hành các biện pháp
cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, quản lí công tác đối ngoại, thực
hiện chính sách xã hội… của Nhà nước. Khi thực hiện các chức năng này, Chính phủ chỉ
tuân theo Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước.
Chính phủ có toàn quyền giải quyết công việc với tính sáng tạo, chủ động, linh hoạt trên
cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được pháp luật quy định… Chính phủ có quyền
tham gia vào hoạt động lập pháp bằng quyền trình dự án luật trước quốc hội, dự án pháp
lệnh trước ủy ban thường vụ quốc hội, trình quốc hội các dự án kế hoạch, ngân sách nhà

nước và các dự án khác.
Chính phủ gồm có Thủ tướng chính phủ, các phó thủ tướng, các Bộ trưởng và thủ trưởng
các cơ quan ngang bộ do thủ tướng chính phủ lựa chọn, không nhất thiết phải là đại biểu
quốc hội, và đề nghị quốc hội phê chuẩn. Chính phủ không tổ chức ra cơ quan thường
trực, thay vào đó là một phó thủ tướng được phân công đảm nhận chức vụ phó thủ tướng
thường trực.
+ Các Bộ và cơ quan ngang Bộ: (gọi chung là Bộ) là các bộ phận cấu thành của chính
phủ. Bộ và các cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với ngành
hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước, quản lí nhà nước các dịch vụ công thuộc


ngành, lĩnh vực, thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn doanh nghiệp có vốn nhà nước
theo quy định của pháp luật.
Phạm vi quản lí của bộ và các cơ quan ngang bộ được phân công bao quát toàn bộ mọi tổ
chức và hoạt động thuộc mọi thành phần kinh tế, trực thuộc các cấp quản lí khác nhau, từ
trung ương đến địa phương, cơ sở. Bộ quản lí theo ngành hoặc lĩnh vực công tác. Vì vậy
có hai loại Bộ: bộ quản lí theo ngành (quản lí những ngành kinh tế, kĩ thuật hoặc sự
nghiệp như nông nghiệp, y tế, giao thông vận tải, giáo dục… bằng chỉ đạo toàn diện
những cơ quan, đơn vị trực thuộc ngành từ trung ương tới địa phương) và bộ quản lí theo
lĩnh vực (quản lí những lĩnh vực như tài chính, kế hoạch – đầu tư, lao động – xã hội, khoa
học công nghệ…bằng các hoạt động liên quan tới tất cả các bộ, các cấp quản lí, tổ chức xã
hội và công dân nhưng không can thiệp vào hoạt động quản lí nhà nước của các cấp chính
quyền và quyền tự chủ, sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế.)
Bộ trưởng là thành viên chính phủ, người đứng đầu cơ quan quản lí ngành hay lĩnh vực,
một mặt tham gia cùng chính phủ quyết định tập thể những nhiệm vụ của chính phủ tại các
kì họp chính phủ, mặt khác chịu trách nhiệm quản lí nhà nước về lĩnh vực, ngành mình
phụ trách trong phạm vi cả nước, đảm bảo quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của bộ bao gồm: các cơ quan giúp bộ trưởng thực hiện chức năng quản lí
nhà nước (các vụ chuyên môn, thanh tra, văn phòng bộ) và các tổ chức sự nghiệp trực

thuộc bộ (các cơ quan nghiên cứu tham mưu về những vấn đề cơ bản, chiến lược, chính
sách; các tổ chức sự nghiệp nghiên cứu khoa học, kĩ thuật, giáo dục, các tổ chức kinh
doanh là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc bộ không nằm trong cơ cấu hành chính của bộ.
+ Ủy ban nhân dân: do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của hội đồng
nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Ủy ban nhân dân chịu trách
nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của hội đồng nhân dân. Ủy ban nhân dân có nhiệm vụ quản lí nhà nước đối với các
lĩnh vực khác nhau của đời sống địa phương, thực hiện tuyên truyền, giáo dục pháp luật,
kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và
nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp tại các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ trang, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện
xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng quốc phòng toàn dân, quản lí hộ khẩu, hộ tịch,
quản lí công tác tổ chức biên chế, lao động tiền lương, tổ chức thu chi ngân sách của địa


phương theo quy định của pháp luật.
Thành phần ủy ban nhân dân có Chủ tịch, các phó chủ tịch và các ủy viên.
Các cơ quan hành chính nhà nước được quản lí theo các nguyên tắc:
+ Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lí.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ
+ Nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành với quản lí theo lãnh thổ
+ Nguyên tắc phân định và kết hợp tốt chức năng quản lí nhà nước về kinh tế với chức
năng quản lí kinh doanh của các tổ chức kinh tế
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
+ Nguyên tắc công khai
– Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là những khâu trọng yếu, cơ bản thuộc hệ
thống các cơ quan tư pháp, thực hiện quyền tư pháp. Trong phạm vi chức năng của mình,
các cơ quan này có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính
mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Tòa án nhân dân và Viện kiểm

sát nhân dân giải quyết các vụ việc cụ thể bằng những hình thức khác nhau.
+ Tòa án nhân dân: thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật thông qua hoạt động xét xử.
Đây là chức năng riêng có của tòa án. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân có các đặc
điểm:
– Nhân danh nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, căn cứ vào pháp luật của nhà
nước đưa ra phán xét, quyết định cuối cùng nhằm kết thúc vụ án.
– Xét xử là kiểm tra hành vi pháp lí của các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước trong quá trình giải quyết các vụ việc có liên quan đến việc bảo vệ
các quyền, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản của con người, bảo vệ quyền làm chủ của
nhân dân.
– Xét xử nhằm ổn định trật tự pháp luật, giữ vững kỉ cương xã hội, tự do an toàn cho con


người, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
– Xét xử mang nội dung giáo dục với đương sự cũng như với xã hội, tạo ý thức pháp luật
cho mỗi cá nhân, từ đó có được những hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật trong
mối quan hệ xã hội.
Tòa án nhân dân gồm: Tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân cấp tỉnh, tòa án nhân dân
cấp huyện, tòa án quân sự trung ương, tòa án quân sự quân khu, tòa án quân sự khu vực,
và các tòa án khác theo quy định của pháp luật.
Tòa án nhân dân được tổ chức theo cơ cấu gồm: thấm phán (được bổ nhiệm theo nhiệm
kì), hội thẩm nhân dân (ở tòa án tối cao và tòa án quân sự thực hiện chế độ cử, tại các tòa
án nhân dân địa phương thực hiện theo chế độ bầu). Tòa án nhân dân xét xử tập thể và
quyết định theo đa số, các Chánh án tòa án nhân dân phải chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Tòa án nhân dân xét xử theo nguyên tắc:
– Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.
– Xét xử công khai, trừ trường hợp đặc biệt theo luật định.
– Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo và quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự

– Công dân thuộc các dân tộc ít người được quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc
mình trước phiên tòa.
– Các bản án, quyết định của tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng
và chấp hành nghiêm chỉnh.
+ Viện kiểm sát nhân dân: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
theo quy định của hiến pháp và pháp luật, góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các công tác của Viện kiểm sát nhân dân gồm:
– Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ
án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt


động điều tra.
– Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc
các cơ quan tư pháp
– Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ
án hình sự
– Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình, hành chính, kinh tế. lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
– Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành bản án, quyết định của tòa án nhân dân.
– Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam, quản lí, giáo dục người chấp
hành án phạt tù.
Các Viện kiểm sát được phân thành Viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân
dân tỉnh, thành trực thuộc trung ương, viện kiểm sát nhân dân thuộc huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, các viện kiểm sát quân sự. Các viện kiểm sát do Viện trưởng lãnh
đạo.
Tóm lại, các cơ quan nhà nước hoạt động trong một thể thống nhất, đồng bộ, có liên kết
hữu cơ với nhau và có các đặc điểm:
– Các cơ quan nhà nước được thành lập theo trình tự nhất định được quy định trong pháp
luật

– Cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định
– Hoạt động của cơ quan nhà nước mang tính quyền lực và được đảm bảo bằng quyền lực
nhà nước, hoạt động đó được tuân theo thủ tục do pháp luật quy định.
– Những người đảm nhiệm chức trách trong các cơ quan nhà nước phải là công dân Việt
Nam.
 Phương hướng cải cách bộ máy nhà nước (Liên hệ thực tế - đề xuất ý kiến)
– Các vấn đề còn tồn tại: bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng nấc trung gian,
chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách


nhiệm của nhiều cơ quan và người đứng đầu chưa thật rõ, còn chồng chéo, cơ chế vận
hành và nhiều mối quan hệ còn bất hợp lí, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về
mặt năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm. Các vấn đề trên dẫn tới hậu quả là
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước còn chưa cao, công tác quản lí đất nước (nhất là
quản lí kinh tế) còn lúng túng, mắc nhiều sai sót, sản xuất tuy có tăng nhưng vẫn có nguy
cơ tụt hậu, tài nguyên đất nước chưa được khai thác tốt…
– Quan điểm xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước:
+ Xây dựng nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do đảng cộng
sản lãnh đạo trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên định con
đường lên chủ nghĩa xã hội, đảm bảo tính giai cấp công nhân gắn bó chặt chẽ với tính dân
tộc, tính nhân dân của Nhà nước ta, phát huy đầy đủ tính dân chủ trong mọi sinh hoạt của
nhà nước, xã hội.
+ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước nhằm
tăng cường sự lãnh đạo điều hành tập trung thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy
trách nhiệm và tính năng động, sáng tạo của địa phương, khắc phục khuynh hướng phân
tán cục bộ và tập trung quan liêu. Mỗi cấp, ngành đều có thẩm quyền, trách nhiệm được
phân định rõ.

+ Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, quản lí xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội
chủ nghĩa.
+ Tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước.
– Phương hướng thực hiện cải cách bộ máy nhà nước:
+ Tiếp tục đổi mới và tổ chức hoạt động của Quốc hội nhằm đẩy mạnh hoạt động lập
pháp, tăng cường công tác giám sát của quốc hội tại kì họp quốc hội và hoạt động giám sát
của các cơ quan thuộc quốc hội, đại biểu quốc hội, tăng tỉ lệ đại biểu quốc hội chuyên
trách, sắp xếp bộ máy giúp việc của quốc hội theo hướng tinh giản về đầu mối, tăng cường


cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ có trình độ cao.
+ Cải cách nền hành chính nhà nước: thể chế hành chính, thủ tục hành chính, tổ chức bộ
máy, quy chế và hoạt động của hệ thống hành chính, hoàn thiện chế độ công vụ, công
chức, thực hiện cải cách hành chính công.
+ Đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp: xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
làm cơ sở cho hoạt động, tổ chức của hệ thống các cơ quan tư pháp, xác định thẩm quyền
của các tòa án, thành lập các tòa án chuyên trách khác, hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của các viện kiểm sát, các cơ quan hỗ trợ tư pháp.

Ghi
chú

+ Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lí nhà nước và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở, cơ quan, tổ chức nhà nước.
Nội dung
Câu 4: Pháp luật và pháp chế
Gợi ý của cô:
- Ý 1Khái niệm pháp luật
-Ý 2 Vị trí của pháp luật đối với kinh tế đặc biệt là vai trò của pháp luật nước ta đối với

việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay ( giáo trình chỉ gt vai trò chung
của pháp luật với kinh tế, còn trong bài học viên phải liên hệ cụ thể pháp luật có vai trò
như thế nào trong việc phát triển nền KTTT). Vai trò đó thể hiện ở chỗ nào?
- Ý 3Hoàn thiện hệ thống pháp luật: 1 hệ thống pháp luật chỉ được coi là hoàn thiện khi
nó có đủ, đồng bộ, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của nước ta không? Việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật có cần thiết không? Vì sao?
-Ý 4 Phát huy dân chủ trong hoàn thiện và thực thi pháp luật ở nước ta:
 hoàn thiện: phát huy quyền làm chủ của dân-> công tác xây dựng pháp luật
thực thi pháp luật: có cần sự tham gia của người dân ko? không phát huy sự tự nguyện
tự giác thực hiện của người dân thì có hậu quả gì..
-Ý 5 Liên hệ thực tế
-Ý 6 Đề xuất ý kiến
Bài làm:
Ý 1. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc, do NN ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực hiện bằng sức
mạnh cưỡng chế của NN, là yếu tố bảo đảm sự ổn định và trật tự của xã hội
Bản chất của pháp luật ( Phần chữ in nghiêng để Tham khảo vì cô ko hướng dẫn làm,
nhưng nếu trong đề thi có hỏi thì sử dụng)
Theo học thuyết Mac - Lênin, pháp luật chỉ ra đời, tồn tại và phát triển trong xã hội có
giai cấp. Vì vậy, cũng giống như bản chất của NN, bản chất của pháp luật được thể hiện
ở tính giai cấp và tính xã hội.
Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí của Nhà nước


của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực NN, giai cấp thóng trị đã thông qua
NN để thể hiện ý chí của giai cấp mình 1 cách tập trung, thống nhất thành ý chí NN,ý chí
đó được cụ thể hóa qua các văn bản pháp luật do cơ quan NN có thẩm quyền ban hành và
bảo đảm thực hiện. Mặt khác tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích của pháp luật là điều chỉnh các quan hệ giữa các
tầng lớp xã hội nhằm tạo ra một xã hội trật tự, ổn định, phù hợp với lợi ích của giai cấp

thống trị. Với ý nghĩa này, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị của giai
cấp
Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội. Trong 1 đất nước, không chỉ có
giai cấp thống trị mà còn nhiều giai cấp tầng lớp khác nhau, vì vậy NN không chỉ ban
hành PL để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, mà còn phải đảm bảo điều hòa được
lợi ích của các giai cấp tầng lớp trong xã hội, nhằm đảm bảo cho xã hội có sự phát triển
hài hòa, thống nhất và ổn định. Vì vậy, ở 1 chừng mực nào đó, pháp luật còn thể hiện ý
chí của các giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội
Như vậy bản chất của pháp luật vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội. Hai thuộc
tính này có mối quan hệ gắn bó và mật thiết với nhau trong một thể thống nhất. Nói cách
khác, không có kiểu pháp luật chỉ thể hiện duy nhât tính giai cấp và ngược lại cũng không
có kiểu pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.
Bản chất pháp luật XHCN Việt Nam
Bản chất pháp luật XHCN nước ta cũng được thể hiện ở tính giai cấp và tính xã hội như
các kiểu pháp luật tồn tại trong lịch sử, nhưng sự biểu hiện bản chất đó có những điểm
khác với bản chất pháp luật nói chung, đó là
- Dưới XHCN, pháp luật là sản phẩm của hoạt động Nhà Nước XHCN - NN kiểu mớiNN của dân, do dân,vì dân, mang bản chất của giai cấp công nhân. Vì vậy, pháp luật
XHCN mang bản chất của giai cấp công nhân
-Cũng như Nhà nước XHCN, pháp luật XHCN không chỉ có tính giai cấp công nhân mà
còn có tính nhân dân, tính dân tộc. Ở VN, bản chất này của pháp luật do bản chất củaNN
và mục tiêu xây dựng một nước VN “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” quy đinh. Mục tiêu đó không chỉ là nguyện vọng riêng của giai cấp công nhân mà
còn là nguyện vọng của toàn thể nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đó là hiện thực, bởi
vì hơn ở đâu hết, trong giai đoạn quá độ lên CNXH hiện nay ở nước ta, lợi ích dân tộc cơ
bản là thống nhất. Vì vậy việc lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta không chỉ là sự
lựa chọn của giai cấp công nhân mà còn là sự lựa chọn của toàn thể nhân dân lao động
VN. Cũng chính bởi thế pháp luật XNCN là sự thể chế hóa đường lối của ĐCSVN thành
pháp luật NN
PL XHCN mang tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Bất kì pháp luật nào cũng có tính
cưỡng chế, tức là tính bắt buộc đối với người thực hiện. Tuy nhiên pháp luật XHCN có

tính nhân đạo sâu sắc. PL XHCN 1 mặt nghiêm khắc trong việc ngăn chặn, đấu tranh
chống lại mọi hành vi vi phạm pháp luật, mặt khác rất khoan hồng đối với những người
phạm tội khi biết hối cải trở thành người công dân lương thiện.
Tóm lại, bản chất của PL XHCN ngoài hai bản chất chung của pháp luật là tính giai cấp
và tính xã hội, còn thể hiện tính giai cấp công nhân, tính nhân dân,, tính dân tộc và tính
nhân đạo


Ý 2. Vị trí của pháp luật đối với kinh tế
a. Vị trí của PL đối với kinh tế
Đối với kinh tế, pháp luật là phương tiện hàng đầu xác định địa vị pháp lý bình
đẵng đối với chủ thể tham gia quan hệ kinh tế; tạo lập các “khung pháp lý” để điều khiển
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thông qua pháp luật, nhà nước tạo ra môi trường thuận
lợi, tin cậy và chính thức cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh thực
hiện có hiệu quả.
Pháp luật là phương tiện cho các quan hệ kinh tế trở thành quan hệ pháp luật. Khi
đó, pháp luật xác định rõ các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, quyền và nghĩa vụ cũng
như khách thể mà các bên tham gia hoạt động kinh tế.
Pháp luật là phương tiện cũng cố và bảo vệ những nguyên tắc vốn có của nền kinh
tế thị trường. Đồng thời, pháp luật còn là phương tiện bảo vệ lợi ích kinh tế tốt nhất cho
các bên tham gia hoạt động kinh tế trong trường hợp xảy ra tranh chấp kinh tế, vi phạm
hợp đồng kinh tế…
b. Vị trí của PL với KTTT
Phần chữ in nghiêng tham khảo thêm Khi đề hỏi sâu thì liên hệ không thì thôi
KTTT: kinh tế thị trường
NN :Nhà nước
Hiện nay, đất nước ta đang xây dựng nền KTTT theo định hướng XHCN. Đó là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí
củaNN, dưới sự lãnh đạo củaĐCS, vừa vận động theo những quy luật của KTTT vừa được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, trong đó cơ chế thị trường

được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm
phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa
đói giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Đây là bản chất của nền KTTT định hướng XHCN ở VN, vừa có những đặc trưng
của nền KTTT hỗn hợp vừa có đặc thù của tính định hướng XHCN.
Do là nền KTTT, nền KT VN cũng có những ưu thế và khuyết tật thể hiện ở sự vận
hành của cơ chế thị trường. Mặt ưu điểm của cơ chế thị trường là làm cho con người
năng động, sáng tạo vì động cơ lợi nhuận thúc đẩy. Thông qua mục tiêu lợi nhuận, các
nhà sản xuất phải năng động, sáng tạo để ko ngừng cải tiến công nghệ, phương thức sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Ưu
điểm thứ 2 là trong nền KTTT, nhà sản xuất được tự do huy động vốn, lựa chọn ngành
nghề, phương thức sản xuất kinh doanh, quy mô kinh doanh... trong phạm vi mà pháp luật
không cấm như vậy tạo nên sự chủ động của các chủ thể trong nền kinh tế.Ưu điểm thứ 3
là nhờ cơ chế thị trường đã tạo ra sự sàng lọc tự nhiên đối với doanh nghiệp, sản phẩm và
người lao động. Doanh nghiệp nào chậm cải tiến, chậm đổi mới, ko đáp ứng được nhu
cầu của người tiêu dùng thì không có lợi nhuận cao sẽ bị đào thải, dẫn đến phá sản.
Doanh nghiệp nào có đủ năng lực cạnh tranh thì tồn tại và lớn mạnh Tóm lại, ưu điểm
của KTTT là thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ.
KTTT cũng có những mặt khuyết tật và hạn chế của nó. Một là, trong nền KTTT,


dưới tác động của quy luật cung cầu, người sản xuất và người tiêu dùng đều bị tác động
và ảnh hưởng lớn. Khi nhu cầu trên thị trường về 1 mặt hàng cao, thì nhà sản xuất sẽ đầu
tư vào ngành, lĩnh vực đó nhiều để thu lợi nhuận. Nhưng khi có nhiều hàng hóa được
cung cấp vượt quá nhu cầu của người mua, thì quan hệ cung cầu bị phá vỡ, làm cho giá
cả giảm xuống. Vì vậy, các vụ giải cứu chuối cho nông dân Đồng Nai, giải cứu thịt heo...
là minh chứng rõ rệt cho khuyết tật này của KTTT Hai là vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà
sản xuất thường chỉ chăm lo đến hiệu quả kinh tế, không quan tâm đên hiệu quả xã hội
nên họ có thế gây ra các thiệt hại cho môi trường, cho cộng đồng như sử dụng công nghệ
sản xuất lạc hậu, gây ô nhiễm moi trường, ví dụ các công ty như formosa,,, sản xuất hàng

nhái, hàng giả để thu lợi bất chính gây thiệt hại về sức khỏe cho người tiêu dùng, vdu vụ
rượu giả, thuốc tây giả.. hoặc để cắt giảm chi phí, chủ doanh nghiệp còn áp dụng các
biện pháp như sa thải lao động, nhất là lao động phổ thông và thường xuyên tuyển dụng
lao động mới để cắt giảm chi phí đóng bhxh, bhyt cho người lao động.... gây nên tình
trạng thất nghiệp kéo theo nhiều hệ lụy khác như gia tăng tệ nạn xã hội.. Ba là, trong cơ
chế thị trường, mục tiêu cao nhất là lợi nhuận. Cạnh tranh vì lợi nhuận sẽ làm cho tình
trạng phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh chóng. Người nào càng kiếm được lợi nhuận
cao thì càng giàu, người không có đủ năng lực cạnh tranh thì bị nghèo đi hoặc phá sản.
Sự cạnh tranh khiến các đối thủ có thể sử dụng các hành vi lành mạnh hoặc sử dụng thủ
đoạn, chiêu trò... nên nó làm cho đạo đức, tình người bị tha hóa, xuống cấp
Tóm lại chính vì các ưu và khuyết điểm này củaKTTT đòi hỏi phải có hệ thống
pháp luật phù hợp để phát huy ưu thể của KTTT đồng thời kìm hãm các hạn chế và
khuyết tật của nó.
Về mục tiêu phát triển nền KTTTđịnh hướng XHCN ở nước ta nhằm phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” Để thực hiện mục tiêu đó trong phát triển kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để
giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp
trên cả ba mặt: sở hữu, quản lí và phân phối phát triển KTTT để từng bước xây dựng hạ
tầng kinh tế cho CNXH, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người tăng
nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được
thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho ngân
sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả
các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc
gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.
Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong

nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở


việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao
về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh tế,
mọi người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất
kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình; quyền của người sản xuất và
người tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.
- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành phần, với nhiều
hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng
bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây
dựng xong.
- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời có
các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng cùng các nguồn lực
khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc
lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng
trong xã hội.
Để thực hiện được mục tiêu xây dựng nền KTTT định hướng XHCN đã đề cập ở trên đòi
hỏi NN phải ban hành và xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ đồng bộ và phù hợp. Nếu
việc ban hành pháp luật ko đầy đủ thì sẽ tạo kẽ hở để các doanh nghiệp, cá nhân vi phạm
pháp luật trục lợi cá nhân. (liên hệ các vụ án của tập đoàn NN Vinashin...) Nếu luật không
đồng bộ thì gây khó khăn phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân.( ví dụ về Luật DN,
Luật Đầu tư nên tự tìm trên báo chí) Nếu luật không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển
của một ngành một lĩnh vực sản xuất nào đó ( liên hệ ví dụ về ngân hàng, giải cứu

chuối,...) Vì vậy, có thông qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thì mới có
thể thực hiện được mục tiêu đề ra, và hạn chế được các khuyết tật của cơ chế thị trường,
tạo điều kiện cho đất nước ta phát triển nhanh, bền vững và mục tiêu “ dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mới có ý nghĩa và trở thành hiện thực
Ý 3Hoàn thiện hệ thống pháp luật: 1 hệ thống pháp luật chỉ được coi là hoàn thiện khi nó
có đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của nước ta không? Việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật có cần thiết không? Vì sao?
Phần bài này dựa trên nhận định của ông Hà Hùng Cường Bộ trưởngBộ Tư Pháp Các
bạn dựa vào đó tham khảo để hoàn thiện ý 3
1. Nhà nước pháp quyền và những yêu cầu cơ bản đối với hệ thống pháp luật
Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người trong việc tổ chức và
vận hành xã hội. Những ý tưởng về Nhà nước pháp quyền đã có từ lâu trong lịch sử nhân
loại và được các nhà khoa học chính trị, luật học, xã hội học, sử học nghiên cứu từ nhiều


×