Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

So sánh các phương án phát triển rừng trồng sản xuất tại xã trường sơn lương sơn hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 106 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, nước ta đã thực hiện chuyển từ nền kinh tế tập
trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
đã thu được nhiều thành quả to lớn. Bên cạnh đó nền nông nghiệp cũng đã
từng bước chuyển từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá và lâm nghiệp đã
chuyển từ một ngành kinh tế đang được tập trung bao cấp trở thành là ngành
có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế hoạt động theo định hướng thị
trường, tiềm năng lâm nghiệp dần được khai thác.
Những thập kỷ trước, nguồn tài nguyên rừng ở nước ta dồi dào, chất
lượng rừng cũng được đảm bảo, sản lượng gỗ lớn cung cấp cho tiêu dùng và
các ngành công nghiệp lớn. Trong những năm gần đây diện tích rừng đã bị thu
hẹp do sự gia tăng dân số và sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch
vụ khác.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu, cùng với
nhu cầu lớn của các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu và tiêu dùng trong
nước cần rất nhiều lượng gỗ tròn làm nguyên liệu. Sản lượng gỗ tròn khai thác
hàng năm trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, thậm chí
chỉ cho xuất khẩu. Vì vậy, phần lớn số nguyên liệu để sản xuất đồ gỗ xuất khẩu
hiện nay đều phải nhập khẩu từ các nước ASEAN, Nga, New Zealand, vv...
Tuy nhiên, nguồn cung cấp gỗ từ bên ngoài cũng đang trở nên khan hiếm do
chính sách kiểm soát của các nước xuất khẩu. [1],[2],[3]
Trong thực tế, hầu hết các chủ rừng tư nhân lại quan tâm nhiều hơn tới
phương án trồng rừng gỗ nhỏ, trong khi nhu cầu về gỗ lớn cho sản xuất lại rất
cao. Chúng ta có thể thấy rõ có 2 phương án kinh doanh rừng trồng khác nhau
là: trồng rừng gỗ nhỏ và trồng rừng gỗ lớn. Mỗi phương án đều có những ưu,


2


nhược điểm riêng và để lựa chọn phương án nào có hiệu quả nhất là một việc
rất khó khăn.
Về nguyên tắc, chủ rừng - với mục tiêu tối đa hóa lợi ích ròng từ kinh
doanh rừng, sẽ lựa chọn phương án nào có hiệu quả nhất, tức là lợi ích ròng
trên một đơn vị diện tích là lớn nhất. Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn
trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “So sánh các phương án phát triển
rừng trồng sản xuất tại xã Trường Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình” tại địa
điểm xã Trường Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình.


3

Chương 1
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, ĐỐI TƯỢNG
VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.1. Mục tiêu nghiên cứu
+ Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu phương án trồng rừng sản xuất gỗ lớn và trồng rừng sản xuất
gỗ nhỏ trên địa bàn xã Trường Sơn - Lương Sơn - Hòa Bình, từ đó so sánh và
đề xuất các giải pháp khuyến khích chủ rừng lựa chọn phương án kinh doanh
hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất.
+ Mục tiêu cụ thể
- Khái quát hoá được cơ sở lý luận về lĩnh vực kinh doanh trồng rừng sản
xuất gỗ nhỏ và gỗ lớn.
- Đánh giá được hiện trạng và kết quả kinh doanh trồng rừng sản xuất tại
xã Trường Sơn - Lương Sơn - Hoà Bình.
- Nghiên cứu đánh giá và so sánh được hiệu quả hai phương án trồng rừng
sản xuất gỗ nhỏ và trồng rừng sản xuất gỗ lớn tại xã Trường Sơn - Lương Sơn
- Hoà Bình.
- Đề xuất các giải pháp khuyến khích chủ rừng lựa chọn phương án kinh

doanh hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Phương pháp thu thập số liệu:
+ Thu thập các số liệu sơ cấp:
Phỏng vấn nông hộ thông qua phiếu điều tra theo phương pháp chọn mẫu
có hệ thống, chọn mẫu là ngẫu nhiên, dung lượng mẫu tối thiểu là 30 hộ. Nội
dung điều tra chủ yếu là: loại hình trồng rừng, loài cây, diện tích, năng suất,


4

sản lượng, giá trị sản lượng, chi phí, thu nhập, lao động, mức độ thích hợp của
các cây trồng, quan điểm, ý kiến của các hộ về phát triển rừng trồng sản xuất...
+ Thu thập các số liệu thứ cấp:
Thu thập các tài liệu có sẵn, bản đồ, số liệu quy hoạch sử dụng đất, hiện
trạng rừng, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, lâm nghiệp tại khu vực
nghiên cứu, các tài liệu tại các phòng ban chuyên môn của xã Trường Sơn.
Điều tra ngoài thực địa để bổ sung điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và
chuẩn hoá số liệu.
1.2.2. Phương pháp chuyên gia:
Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực đánh giá hiệu quả
trồng rừng sản xuất.
1.2.3. Phương pháp kế thừa có chọn lọc các tài liệu đã có:
Kế thừa các kết quả nghiên cứu trong vùng, các tài liệu khác có liên quan
đến đề tài nghiên cứu.
1.2.4. Phương pháp xử lý số liệu: xử lý số liệu trên bảng tính Excel
1.2.5. Phương pháp phân tích
- Phân tích chi phí – lợi ích; các chỉ tiêu như: Giá trị hiện tại thuần (NPV),
chỉ tiêu Tỷ lệ thu nhập trên chi phí (BCR), chỉ tiêu Tỷ lệ thu hồi nội bộ (IRR),
chỉ tiêu Giá trị tương đương hàng năm (AEV) và một số chỉ tiêu khác được cụ

thể trong các mục: 2.2.5.1; 2.2.5.2; 2.2.5.3; 2.2.5.4; 2.2.5.5 của luận văn.
1.3. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý thuyết về kinh doanh rừng trồng (cơ sở lâm học và cơ sở kinh
tế học).
- Các cơ chế chính sách hiện hành về kinh doanh rừng trồng.
- Vấn đề quản lý lâm nghiệp tại địa phương.
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, kỹ thuật trồng và chăm sóc rừng của
địa bàn nghiên cứu.


5

- Hiện trạng sử dụng đất và kinh doanh lâm nghiệp.
- Phân tích các hoạt động kinh tế.
- So sánh các phương án trồng rừng.
- Đề xuất giải pháp phát triển rừng trồng sản xuất tại địa phương.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu phát triển loài cây Keo Tai tượng, do loài cây này phù hợp
với điều kiện khí hậu, địa hình và đất đai của địa bàn nghiên cứu.
- Lấy đơn vị tính toán: 1 ha rừng trồng sản xuất tại địa bàn xã.
- Sản phẩm chính là: gỗ tròn khai thác.
- Không gian nghiên cứu: tại xã Trường Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình
- Tập trung chủ yếu vào hiệu quả kinh tế (tài chính), còn hiệu quả xã hội
và hiệu quả môi trường đánh giá bằng các chỉ tiêu định tính nếu có thể.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2006 tới năm 2011.
1.5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần đầu và kết luận, kết cấu của luận văn bao gồm những
chương sau:
Chương 1: Mục tiêu, nội dung, phương pháp nghiên cứu, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu

Chương 2: Cơ sở lý thuyết về phát triển rừng trồng sản xuất
Chương 3: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Chương 4: So sánh các phương án phát triển rừng trồng sản xuất


6

Chương 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÁT TRIỂN RỪNG TRỒNG SẢN XUẤT
2.1. Đặc điểm cơ bản của sản xuất lâm nghiệp.[11]
Lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất độc lập trong nền kinh tế quốc
dân. Nghiên cứu các đặc điểm sản xuất để hoạch định chiến lược phát triển và
qua đó đề ra các giải pháp quản lý, khai thác triệt để các nguồn lực nhằm
hướng tới mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
Sản xuất lâm nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
2.1.1. Chu kỳ sản xuất dài
Đối với lâm nghiệp, đối tượng sản xuất chính là rừng. Rừng là cơ thể
sống, trong đó quần xã cây rừng đóng vai trò chủ đạo và chúng khác biệt với
các loài thực vật khác là chu kỳ sinh trưởng kéo dài và phát triển chậm. Nếu
tính chu kỳ thành thục tự nhiên phải hàng trăm năm, còn chu kỳ thành thục
công nghệ cũng phải hàng chục năm trong khi đó chu kỳ sản xuất của một số
sản phẩm thuộc ngành công nghiệp chỉ tính bằng giờ, bằng phút.
Chu kỳ sản xuất dài đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tổ chức sản
xuất, tình hình quản lý, sử dụng các yếu tố nguồn lực trong lâm nghiệp. Trước
hết là vốn đầu tư lớn, vốn bị ứ đọng ở sản phẩm dở dang nằm tại rừng, dưới
dạng rừng non, rừng chưa thành thục công nghệ, do đó tốc độ chu chuyển
chậm, thời hạn thu hồi lâu và thường hiệu quả đầu tư thấp.
2.1.2. Quá trình tái sản xuất tự nhiên xen kẽ với quá trình tái sản xuất kinh
tế, trong đó quá tình tái sản xuất tự nhiên đóng vai trò quan trọng và quyết
định

Trong sản xuất lâm nghiệp luôn luôn diễn ra hai quá trình xen kẽ, đó là
quá trình tái sản xuất tự nhiên và quá trình tái sản xuất kinh tế. Tái sản xuất tự
nhiên đó là quá trình sinh trưởng, phát triển của cây rừng bắt đầu từ quá trình


7

gieo hạt tự nhiên, cây rừng nảy mầm, lớn lên, ra hoa kết quả rồi lại tiếp tục lặp
đi lặp lại quá trình đó và tuân thủ theo quy luật sinh học. Như vậy, quá trình tái
sản xuất tự nhiên là quá trình tái sản xuất hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên và tuân theo quy luật sinh học mà không cần sự can thiệp của con người.
Tái sản xuất kinh tế được hiểu là quá trình lặp đi lặp lại sự phát triển của
cây rừng dưới sự tác động của con người như bón phân, làm cỏ...(thâm canh
rừng, làm giầu rừng) nhằm thoả mãn mục đích nào đó của con người.
2.1.3. Tái sinh và khai thác rừng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
Tái sinh là quá trình xây dựng rừng. Khai thác rừng là quá trình lợi dụng
rừng, quá trình thu hoạch thành quả của quá trình xây dựng rừng.
Từ đặc điểm này đòi hỏi các nhà quản lý và các nhà kỹ thuật lâm nghiệp
phải có giải pháp đúng đắn trong việc xây dựng cân đối giữa khai thác và tái
sinh để khỏi lạm dụng vào vốn rừng và sử dụng công cụ khai thác hiệu quả
trong công tác tái sinh rừng.
2.1.4. Sản xuất lâm nghiệp tiến hành trên quy mô rộng, chủ yếu hoạt động
ngoài trời và trên những địa bàn có những điều kiện tự nhiên phức tạp, điều
kiện kinh tế, xã hội khó khăn
Đây là đặc thù rất rõ nét của sản xuất lâm nghiệp. Việt Nam có tổng diện
tích tự nhiên 33,12 triệu ha, trong đó diện tích có rừng là 12,61 triệu ha và 6,16
triệu ha đất trống đồi núi trọc là đối tượng của sản xuất lâm nông nghiệp. Diện
tích đất lâm nghiệp phân bố chủ yếu ở trên các vùng đồi núi của cả nước, đây
cũng là nơi sinh sống của 25 triệu người với nhiều dân tộc ít người, có trình độ
dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tế chậm phát triển và đời sống

còn nhiều khó khăn.[4]
Trên các điều kiện tự nhiên đó, hoạt động sản xuất lâm nghiệp chủ yếu
tiến hành ở ngoài trời, cự ly hoạt động ngày một xa... nên thu nhập thấp, đời
sống của người làm nghề rừng gặp rất nhiều khó khăn. Đồng thời, địa bàn rộng


8

lớn như vậy rất khó khăn cho công tác quản lý bảo vệ thành quả lao động, do
đó tính rủi ro trong sản xuất lâm nghiệp rất cao.
2.1.5. Sản xuất lâm nghiệp có tính thời vụ
Trong sản xuất lâm nghiệp, tính thời vụ là đặc trưng của ngành sản xuất
sinh học. Do đặc tính sinh lý, sinh thái của cây rừng, do đòi hỏi của công nghệ
(đặc biệt là công nghệ khai thác, vận chuyển) mà tình hình sản xuất diễn ra tập
trung vào một số tháng trong năm, hiện tượng đó được gọi là tính thời vụ.
2.1.6. Hoạt động sản xuất lâm nghiệp vừa mang mục tiêu kinh tế vừa mang
mục tiêu xã hội
Trước hết, mục tiêu kinh tế của sản xuất lâm nghiệp là cung cấp nguyên
liệu cho công nghiệp, cho xây dựng cơ bản, cung cấp lâm sản, đặc sản,... phục
vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Về mục tiêu xã hội, sản xuất lâm nghiệp là phòng hộ, bảo vệ môi trường
sống, bảo vệ di tích lịch sử, cảnh quan văn hoá và các danh lam thắng cảnh,...
Mặc dù hiện nay người ta đã quan tâm nhiều hơn tới giá trị gián tiếp của rừng
(giá trị phi vật thể) song vấn đề đặt ra đối với người quản lý là phải nhận thức
đúng đắn và đầy đủ giá trị của rừng mà quan tâm đầu tư nhiều hơn nữa cho
phát triển lâm nghiệp. Đây cũng là vấn đề được quan tâm trong chiến lược phát
triển bền vững của Đảng và Nhà nước.
2.1.7. Sản xuất lâm nghiệp vừa mang tính chất hoạt động sản xuất nông nghiệp
vừa mang tính chất hoạt động sản xuất công nghiệp và xây dựng cơ bản
Sản xuất lâm nghiệp có nhiệm vụ trồng cây, gây rừng, chăm sóc, nuôi

dưỡng, bảo vệ rừng, khai thác, vận chuyển và chế biến các sản phẩm từ rừng.
Trong các nhiệm vụ trên, nhiệm vụ trồng cây, gây rừng, chăm sóc, nuôi
dưỡng và bảo vệ rừng là hoạt động mang tính sinh học và có tính chất hoạt
động giống như hoạt động nông nghiệp.


9

Nhiệm vụ tiếp theo của sản xuất lâm nghiệp là khai thác, vận chuyển và
chế biến các sản phẩm từ rừng, đây là các hoạt động có tính chất công nghiệp.
Ngoài ra, do đặc thù của sản xuất lâm nghiệp là chu kỳ sản xuất dài, vốn
hoạt động chủ yếu là vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản, về hình thức và phương
pháp hạch toán đều có nét giống như hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản.
2.1.8. Sản xuất lâm nghiệp mang tính xã hội sâu sắc và nhiều thành phần
kinh tế tham gia
Với địa bàn hoạt động gần 60% diện tích tự nhiên toàn quốc là nơi sinh
sống của các cộng đồng cư dân mà đặc biệt là đồng bào các dân tộc ít người,
nên mọi hoạt động của cư dân địa phương đều ảnh hưởng trực tiếp đến phát
triển lâm nghiệp và ngược lại các hoạt động sản xuất lâm nghiệp đều ảnh
hưởng lớn đến đời sống của cư dân địa phương.
Đặc điểm này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tổ chức sản xuất, đặc
biệt là công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng. Xuất phát từ đặc thù trên, vấn
đề đặt ra cho các nhà quản lý, trước hết phải tôn trọng các phong tục và kiến
thức bản địa. Sản xuất lâm nghiệp luôn luôn phải tính đến lợi ích và bảo vệ lợi
ích của cộng đồng địa phương.
Vì vậy, có thể nói sự phát triển của ngành lâm nghiệp không thể tách rời
sự phát triển tổng hợp về kinh tế văn hoá xã hội và an ninh quốc phòng của
trung du, miền núi.
2.2. Cơ sở khoa học của phát triển cây gỗ lớn
2.2.1. Khái niệm và các mô hình trồng rừng sản xuất

- Cây gỗ lớn là những cây thân gỗ có thân chính rõ ràng, dài, phân cành
xa mặt đất, cây cao, là thành phần chính của rừng và là đối tượng kinh doanh
chủ yếu của ngành lâm nghiệp.
- Theo tiêu chuẩn Châu Âu thì gỗ lớn là gỗ có kích thước đường kính đầu
nhỏ lớn hơn 25 cm (không kể vỏ).


10

Trong đề tài nghiên cứu này, Gỗ lớn là gỗ có đường kính đầu nhỏ từ
20cm trở lên dùng trong sản xuất gỗ sẻ, đồ mộc, đồ nội thất.
Gỗ nhỏ là những loại gỗ dùng cho công nghiệp giấy, gỗ trụ mỏ, gỗ dùng
làm ván dăm, ván nhân tạo,...
Hiện nay có nhiều mô hình trồng rừng sản xuất khác nhau như trồng
thuần loài, trồng hỗn loài, trồng xen với cây nông nghiệp trong giai đoạn đầu
như trồng xen sắn, trồng xen với cây công nghiệp như chè.
2.2.2. Cơ sở lâm sinh học của việc phát triển rừng nguyên liệu gỗ lớn.
Là đối tượng của quản lý lâm nghiệp nhưng rừng vẫn chịu sự chi phối của
quy luật tự nhiên. Điều này được thể hiện thông qua quan hệ giữa sản lượng
cây đứng và tuổi cây (Hình 2.1). Sản lượng cây đứng trên một đơn vị diện tích
(ha), V(t), tăng với tốc độ chậm trong những năm đầu sau khi trồng hay tái
sinh, tăng nhanh đến thời điểm tx và sau đó tăng chậm lại cho đến khi đạt cực
đại tại te (te còn được gọi là tuổi thành thục tự nhiên). Sau thời điểm này, cây
rừng bắt đầu già cỗi và xuống cấp do các yếu tố như tuổi cao, sâu bệnh, ...
Sản lượng
(m3/ha)

V(te)
V(tx)


tx

te

Tuổi (năm)

Hình 2.1: Quan hệ giữa sản lượng cây đứng và tuổi cây


11

Đối với các loài cây mọc nhanh sử dụng trong trồng rừng, t e có thể rất
ngắn, thậm chí chỉ 7 - 8 năm. Tuy nhiên, các loài cây mọc trong rừng tự nhiên
lại có thời gian te dài hơn nhiều, thậm chí hàng trăm năm. Trong thực tiễn, quá
trình sinh trưởng này có thể được điều chỉnh bằng các biện pháp lâm sinh như:
chọn mật độ tối ưu, bón phân, tỉa thưa và phòng chống sâu bệnh, vv… nhằm
rút ngắn thời gian thành thục của cây rừng (tức là tuổi cho sản phẩm phù hợp
với mục đích kinh doanh). Điều này có nghĩa là đồ thị biểu diễn quan hệ sản
lượng và tuổi cây có thể dịch chuyển theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào
mức độ can thiệp của con người.
Quan hệ sản lượng - tuổi cây có thể được thể hiện dưới dạng quan hệ giữa
mức tăng sản lượng hàng năm so với sản lượng cây đứng (Hình 2.2). Mức tăng
trưởng đạt cực đại tại sản lượng V(tx) tại thời điểm tx (tx chính là điểm uốn của
đồ thị trong Hình 2.1). Còn tại thời điểm te tương ứng với sản lượng V(te),
lượng tăng trưởng bằng không (= 0) do đồ thị cắt trục hoành tại đó. Điều này
phù hợp với lập luận về quá trình sinh trưởng của cây rừng ở trên.
Năng suất
(dV/dt)

V(t) max


0

V(tx)

V(te)

Sản lượng của rừng

Hình 2.2: Quan hệ năng suất - sản lượng của rừng
Trong mối quan hệ giữa năng suất và tuổi cây (Hình 2.3), có hai khái
niệm quan trọng được sử dụng là lượng tăng trưởng thường xuyên hàng năm
(CAI) và lượng tăng trưởng bình quân hàng năm (MAI). Đường cong CAI thể


12

hiện mức thay đổi cận biên về thể tích cây đứng trong từng thập kỷ và vì vậy,
CAI được coi là hàm số của biến thời gian.
Tăng trưởng

Tăng trưởng thường xuyên
hàng năm (CAI)

m3/ha

Tăng trưởng bình quân
hàng năm (MAI)

Tuổi


tmax

O

Hình 2.3: Quan hệ giữa mức tăng trưởng hàng năm và tuổi cây
Về mặt toán học, CAI có thể được xác định theo công thức:
CAI 

V
t

hoặc CAI 

V (t )
 V ' (t )
t

(1)

Khác với CAI, MAI thể hiện mức tăng sản lượng bình quân từ năm (thập
kỷ) này qua năm (thập kỷ) khác. Về mặt toán học, MAI được xác định theo
công thức:
MAI 

V (t )
t

(2)


Điều kiện cần để MAI đạt cực đại là đạo hàm bậc nhất của nó theo thời
gian phải bằng không, tức là:
V (t )
0
t

V’(t)t – V(t) = 0
V (t )
t

Từ đây ta có:

V ' (t ) 

Nghĩa là:

MAI = CAI

(3)


13

Như vậy, MAI sẽ đạt cực đại khi nó bằng với CAI. Còn theo thuật ngữ
kinh tế, CAI có thể được coi là sản phẩm cận biên theo thời gian, trong khi
MAI được coi là sản phẩm bình quân theo thời gian.
2.2.3. Cơ sở kinh tế học của việc phát triển rừng nguyên liệu gỗ lớn
Các nhà quản lý thường áp dụng các biện pháp lâm sinh để điều chỉnh
tuổi thành thục tự nhiên của cây rừng. Từ đó, họ có thể ước tính được tuổi
thành thục công nghệ của lâm phần. Tuy nhiên, quản lý rừng không thể đạt

hiệu quả tối ưu nếu chỉ đơn thuần dựa trên khía cạnh kỹ thuật của quản lý. Đối
với mỗi chủ rừng bất kỳ mà mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận thì tuổi thành thục
kinh tế nhiều khi lại được quan tâm hơn là tuổi thành thục công nghệ. Tuổi
thành thục (luân kỳ) kinh tế có thể được hiểu như là tuổi của lâm phần mà tại
đó rừng nếu được khai thác sẽ đem lại thu nhập ròng lớn nhất trên một đơn vị
diện tích cho chủ rừng. Nói một cách khác, luân kỳ tối ưu sẽ được xác định khi
lợi ích ròng từ trồng rừng trên đất lâm nghiệp sẽ đạt điểm cực đại.
Trong lâm nghiệp, hai loại chi phí trực tiếp liên quan tới các hoạt động
trồng rừng là: i) chi phí liên quan tới trồng rừng, các biện pháp lâm sinh, khai
thác, lưu bãi, vận chuyển tới nơi tiêu thụ, vv... là những chi phí phát sinh thực
tế trong quản lý rừng; ii) lợi ích phải hy sinh (chi phí cơ hội) để chờ khai thác
rừng, tức là phần tiền lẽ ra được hưởng nếu rừng được khai thác sớm hơn và
thu nhập được đầu tư vào trồng thêm rừng trên diện tích đó hoặc vào các hoạt
động khác. Chi phí gián tiếp chính là giá trị của đất dùng để trồng rừng. Thu
nhập ròng theo giá trị hiện tại từ đất rừng hay giá trị của đất rừng (W), được
xác định như sau:

W

( P  C)V ( I )e^ (rI )  D
(1  e^ (rI ))

Trong đó:
p – Thu nhập từ 1 m3 gỗ khai thác.


14

c – Chi phí khai thác 1 m3.
D – Chi phí tạo 1 ha rừng.

V – Sản lượng gỗ khai thác .
I – Luân kỳ khai thác.
r – Tỷ lệ lãi suất.
e – Cơ số logarit tự nhiên.
W sẽ đạt giá trị cực đại khi ∂W/∂I = 0. Từ đó:
(p – c)V’(I) = r(p – c)V(I) + rW*
Trong biểu thức trên, vế trái chính là giá trị sản phẩm cận biên (tăng
thêm) của rừng nếu không bị khai thác mà được giữ lại thêm một chu kỳ nữa.
Trong chu kỳ đó, cây đứng “tăng thêm” phần sản lượng V’(I) và mỗi đơn vị
tăng thêm đáng giá (p - c). Vế phải bao gồm 2 chi phí cơ hội (đo lường những
khoản chủ rừng phải hy sinh nếu rừng không được khai thác và đất rừng không
được trồng lại sau đó): i) phần giá trị r(p – c)V(I) là tiền lãi mà chủ rừng lẽ ra
được hưởng nếu chủ rừng khai thác cây đứng và đầu tư tiền vào ngân hàng để
hưởng lãi suất r; ii) giá trị rW* là chi phí cơ hội của đất, thể hiện giá cho thuê
đất, trong đó W* là giá trị tối ưu của đất từ trồng rừng.
Trong lâm nghiệp, chu kỳ kinh doanh thường kéo dài với chi phí phát
sinh chủ yếu ở giai đoạn đầu và lợi ích nhận được chủ yếu ở giai đoạn cuối.
Các hoạt động lâm nghiệp cũng phải chịu nhiều rủi ro. Vì vậy, ảnh hưởng của
tỷ lệ lãi suất (chiết khấu) tới các hoạt động lâm nghiệp được thể hiện khá rõ
nét. Theo Varian (1987), với tỷ lệ lãi suất (chiết khấu) cao trong lâm nghiệp,
chủ rừng sẽ khai thác rừng sớm hơn để đầu tư khoản thu nhập từ rừng vào
ngân hàng nhằm hưởng lãi cao.


15

2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế trong sản xuất gỗ rừng trồng
2.2.4.1. Nhóm yếu tố tự nhiên
* Yếu tố đất đai
Đất đai là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng chính cho cây trồng sinh

trưởng và phát triển. Tính chất của đất ảnh hưởng rất lớn đến loài cây trồng
cũng như năng suất, sản lượng của từng loài cây. Xã Trường Sơn có 4 loại đất
chính: đất feralit, đất dốc tụ, đất Feralit đỏ vàng, đất Feralit trên núi. Đất
Feralit có màu đỏ và đỏ vàng là loại đất chính cho trồng cây lâm nghiệp. Nhiều
hộ điều tra cho rằng loại đất này rất thích hợp cho trồng cây Keo Tai tượng và
cây phát triển rất nhanh.
Tuy nhiên, cũng do địa hình đồi núi phức tạp nên việc sản xuất của người
dân cũng gặp khó khăn. Đặc biệt độ dốc của đất ảnh hưởng không nhỏ tới mật
độ trồng rừng và chế độ chăm sóc cây trồng, từ đó ảnh hưởng tới năng suất và
hiệu quả kinh tế của từng loài cây.
Có thể thấy, độ dốc lớn đã ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh tế của các
cây lâm nghiệp. Đất dốc làm mật độ gieo trồng trở nên thưa hơn so với đất
bằng phẳng và cũng gây khó khăn trong quá trình chăm sóc và khai thác rừng.
Không những thế, với mật độ trồng thấp hơn so với mật độ trồng ở đất bằng thì
năng suất rừng trồng cũng giảm đi đáng kể.
* Yếu tố thời tiết, khí hậu
Điều kiện thời tiết, khí hậu có vai trò quan trong việc lựa chọn cơ cấu cây
trồng cũng như quy mô, hệ thống canh tác trong sản xuất lâm nghiệp. Do có
điều kiện thuận lợi về địa hình, đất đai, cộng thêm khí hậu nhiệt đới gió mùa
nên rất thuận lợi cho các loài cây lâm nghiệp phát triển. Tuy nhiên, những năm
gần đây, thời tiết khí hậu thay đổi thất thường gây không ít khó khăn cho
người trồng rừng.


16

Trước hết đó là khả năng tăng tần suất và mức độ gây hại của các hiện
tượng thiên tai như bão, lũ lụt. Mưa, lũ tăng lên đồng nghĩa với việc tăng nguy
cơ ngập lụt ở các vùng trũng vốn thường xuyên bị ngập, gây chua úng, xói lở
đất, trượt lở đất trên diện rộng, làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất, đến đời sống

và sản xuất lâm nghiệp của các hộ dân.
Thứ hai, đó là hiện tượng hạn hán kéo dài trong năm 2009 và đầu năm
2010 làm cho nguy cơ cháy rừng càng được đẩy lên cao. Hạn hán cũng làm
cho những đặc điểm cơ lý của đất như độ tơi xốp, độ liên kết, độ thấm, hàm
lượng các chất dinh dưỡng và hàm lượng vi sinh bị giảm đi đáng kể, đất trở
nên khô, cứng, bị nén chặt, không thích hợp cho trồng trọt.
2.2.4.2. Nhóm yếu tố kinh tế - xã hội
* Điều kiện kinh tế của chủ rừng
Điều kiện kinh tế của chủ rừng là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả kinh tế sản xuất cây lâm nghiệp của chủ rừng. Đây là yếu tố tác động đến
các quyết định trong sản xuất của cả chu kỳ. Keo Tai tượng là cây trồng mang
lại hiệu quả cao nên có tới 100% hộ dân được điều tra trong xã trồng keo.
* Trình độ của chủ rừng
Xét về trình độ của chủ hộ thì người có trình độ chuyên môn về sản xuất
lâm nghiệp sẽ có khả năng hơn trong việc tổ chức sản xuất và từ đó có hiệu
quả sản xuất cao hơn những hộ khác.
* Yếu tố thị trường, giá cả
Giá lâm sản có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tài chính trong trồng
rừng sản xuất, giá xuống thấp khiến nhiều chủ rừng không muốn khai thác. Giá
giảm cũng khiến thu nhập của người trồng rừng giảm đi đáng kể, từ đó làm
giảm hiệu quả sản xuất của các hộ trồng rừng. Ngược lại, giá lâm sản cao sẽ
kích thích sản xuất, nâng cao thu nhập và hiệu quả sản xuất cho chủ rừng.


17

Ngoài ra, yếu tố chủ yếu chi phối thị trường lâm sản là các nhà máy, xí
nghiệp chế biến lâm sản và các khu công nghiệp lớn như nhà máy giấy, nhà
máy ván ép nhân tạo, công nghiệp than. Các nhà máy khi xây dựng đều có khu
nguyên liệu riêng và như vậy các dạng sản phẩm ở từng khu vực cũng được

định hình. Trong đó thị trường nguyên liệu giấy, ván nhân tạo và trụ mỏ là
được định hình một cách rõ nét và tập trung nhất, còn lại thị trường gỗ xây
dựng và đồ mộc gia dụng không tập trung và chỉ được tư thương và các cơ sở
nhỏ chế biến. Do đó, các chủ rừng chỉ muốn giá thu mua ổn định hoặc tăng để
tăng thêm thu nhập.
* Hình thức bán sản phẩm
Hình thức bán sản phẩm cũng là yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất.
Hiện nay có hai hình thức bán sản phẩm rừng trồng chính là bán gỗ tròn khai
thác và bán cây đứng. Vì việc khai thác sản phẩm từ rừng trồng đòi hỏi phải
tốn nhiều công lao động và phải có người trông nom, giám sát. Do đó, có thể
lựa chọn phương thức bán cây đứng, tức là ước lượng sinh khối của rừng rồi
bán. Người mua sẽ tự chịu trách nhiệm khai thác và vận chuyển sản phẩm.
Hình thức này tuy đơn giản, đỡ mất công và chi phí khai thác cho chủ rừng
nhưng giá bán lại thường rẻ hơn so với bán gỗ tròn khai thác.
* Các yếu tố xã hội khác
Các hệ thống dịch vụ nông lâm nghiệp như: dịch vụ khuyến nông, khuyến
lâm, chuyển giao khoa học kỹ thuật, dịch vụ vốn cho sản xuất lâm nghiệp…
phát triển là rất cần thiết, có ý nghĩa thiết thực trong việc góp phần thay đổi cơ
cấu và phát triển kinh tế hộ quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hóa. Ngoài
ra, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng đóng vai trò rất lớn trong việc nâng
cao hiệu quả kinh tế của các loài cây lâm nghiệp. Sự phát triển của công nghệ
sinh học đã tạo ra những giống cây mới có năng suất và chất lượng cao hơn so


18

với các giống cây bản địa. Bên cạnh đó cần nói đến các chính sách của Đảng
và Nhà nước cho phát triển trồng rừng sản xuất.
2.2.4.3. Nhóm yếu tố kĩ thuật
Yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh rừng

trồng, việc áp dụng tốt các yêu cầu kỹ thuật trong trồng và chăm sóc rừng sẽ
giúp cây rừng sinh trưởng và phát triển nhanh, nâng cao được chất lượng và
giá trị cây rừng. Việc áp dụng đúng các quy trình kỹ thuật trong trồng rừng sẽ
làm tăng hiệu quả đầu tư và có thể rút ngắn được chu kỳ kinh doanh.
2.2.5. Các chỉ tiêu kinh tế đánh giá và các căn cứ để lựa chọn phương án
kinh doanh trồng rừng sản xuất
Có rất nhiều chỉ tiêu khác nhau được sử dụng để đánh giá các dự án (các
phương án), nhưng thông thường trong các dự án người ta thường tập trung
vào một số chỉ tiêu sau đây:
2.2.5.1. Giá trị hiện tại thuần (NPV) [9]
Giá trị hiện tại thuần là giá trị hiện tại thuần của lợi nhuận ròng gia tăng,
giá trị hiện tại thuần là hiệu số giữa giá trị hiện tại của dòng chi phí sau khi đã
chiết khấu về giá trị hiện tại. Công thức tính giá trị hiện tại thuần như sau:
n

NPV =


t 0

n

Bt
(1 r )^t


t 0

n


Ct
(1 r )^t

Ct
  (Bt
1 r )^t
t 0

Trong đó:
- NPV: là giá trị hiện tại thuần của dự án.
- Bt : là thu nhập trong năm t.
- Ct : là chi phí trong năm t.
-r

: là tỷ lệ chiết khấu.

Chỉ tiêu này nói lên được quy mô của lợi nhuận về mặt số lượng. Mọi
phương án (dự án) sẽ được chấp nhận nếu NPV > 0. Khi đó tổng thu nhập


19

được chiết khấu lớn hơn tổng chi phí được chiết khấu và phương án có khả
năng sinh lợi nhuận.
NPV là chỉ tiêu tốt nhất để lựa chọn các phương án loại trừ nhau và các
phương án có quy mô kết cấu đầu tư giống nhau, phương án nào có NPV lớn
nhất thì được lựa chọn. Nhưng chỉ tiêu này không thể hiện được mức độ hiệu
quả của dự án và không dùng để xếp hạng dự án, chỉ tiêu này không nói lên
được mức độ của các chi phí để đạt được giá trị hiện tại thuần, chưa cho biết
chất lượng đầu tư.

2.2.5.2. Tỷ lệ thu nhập trên chi phí (BCR) [9]
Tỷ lệ thu nhập trên chi phí là tỷ lệ nhận được khi chia giá trị hiện tại của
dòng thu nhập cho giá trị hiện tại của dòng chi phí.
Công thức tính như sau:
n

BCR 



Bt
(1 r )^t



Ct
(1 r )^t

t 0
n

t 0

Trong đó:
- Bt : là thu nhập trong năm t.
- Ct : là chi phí trong năm t.
- r : là tỷ lệ chiết khấu hay lãi suất.
Đây là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi trong đánh giá các phương án, nó
phản ánh một chất lượng đầu tư, là mức thu nhập trên một đơn vị chi phí sản
xuất. Tỷ lệ thu nhập trên chi phí được dùng để xếp hạng các phương án độc lập

theo nguyên tắc dành vị trí cho những phương án có BCR cao hơn. Sử dụng
chỉ tiêu BCR để so sánh các phương án có quy mô, kết cấu đầu tư khác nhau.


20

Các phương án được chấp nhận nếu có BCR > 1, khi đó những thu nhập của
phương án bù đắp các chi phí đã bỏ ra và phương án có khả năng sinh lợi.
2.2.5.3. Tỷ lệ thu hồi nội bộ (IRR) [9]
Tỷ lệ thu hồi nội bộ là một tỷ lệ chiết khấu, khi tỷ lệ này làm cho giá trị
hiện tại thuần của phương án bằng không, điều đó có nghĩa là:
n

Khi NPV  
0

Bt  Ct
0
(1  r )^t

thì r = IRR
IRR là một chỉ tiêu được sử dụng để mô tả tính hấp dẫn của dự án đầu tư.
Chỉ tiêu này phản ánh được mức quay vòng của vốn đầu tư trong nội bộ chu kỳ
dự án. IRR được sử dụng để so sánh các dự án đầu tư độc lập nhau. Nguyên tắc
xếp hạng là các dự án đầu tư có IRR cao hơn phản ánh khả năng sinh lợi cao
hơn và được xếp hạng ưu tiên hơn.
Để tính IRR sử dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp nội suy:
Theo phương pháp này, cần chọn hai tỷ lệ lãi suất r1 và r2 sao cho ứng
với lãi suất nhỏ ta có NPV > 0, còn ứng với lãi suất lớn thì NPV < 0. IRR cần

tìm sẽ nằm giữa hai lãi suất r1 và r2 theo công thức sau:

IRR  r1  (r 2  r1)
Trong đó:

NPV (r1)
NPV (r1)  NPV (r 2)

- r1 và r2 : là hai tỷ lệ lãi suất lựa chọn bất kỳ
- NPV(r1): là giá trị hiện tại thuần ứng với r1
- NPV(r2): là giá trị hiện tại thuần ứng với r2

Thông thường khoảng cách giữa hai lãi suất được chọn không nên vượt
quá 5%.


21

2.2.5.4. Giá trị tương đương hàng năm (AEV)
Giá trị tương đương hàng năm hay thu nhập tương đương hàng năm là thu
nhập ròng (về mặt lý thuyết) mà dự án sẽ đem lại hàng năm sau khi đã chiết khấu

AEV được thể hiện bằng công thức sau:
 r (1  r )^ n 
AEV  NPV 

 ((1  r )^ n)  1

(1)


Ở đây AEV được tính theo 2 bước:
Bước 1: xác định giá trị NPV của các dự án hay phương án khác nhau cho
một chu kỳ kinh doanh hoàn chỉnh.
Bước 2: chuyển đổi từ NPV sang AEV nhờ công thức vốn trả góp:

 r (1  r )^ n 
a  Vo

 ((1  r )^ n)  1
Trong đó:

(2)

Vo: vốn đầu tư ban đầu.
A: lượng vốn phải trả góp hàng năm.

AEV được sử dụng như một công cụ đánh giá và ra quyết định hữu ích
thay cho NPV, khi chúng ta gặp phải vấn đề vòng đời của dự án không giống
nhau. Đặc biệt AEV thường được dùng để so sánh các hoạt động lâm nghiệp
với các hoạt động mang lại thu nhập hàng năm như nông nghiệp.
Cũng giống như NPV, nguyên tắc ra quyết định của AEV là: chỉ chấp
thuận các phương án đầu tư có AEV > 0. Giữa các phương án có AEV dương,
phương án nào có AEV cao nhất sẽ được chọn. Như vậy, việc sử dụng AEV
như là một tiêu chí ra quyết định không còn phụ thuộc hay chịu ảnh hưởng của
chu kỳ kinh doanh nữa.
2.2.5.5. Một số chỉ tiêu khác [9]
Ngoài các chỉ tiêu cơ bản trên, khi thẩm định và phê duyệt phương án đầu
tư có thể đề cập đến một số chỉ tiêu như:



22

+ Tỷ lệ thu nhập thuần trên vốn đầu tư.
+ Cơ cấu vốn của dự án.
+ Khả năng thanh toán.
2.3. Cơ sở thực tiễn của phát triển cây gỗ lớn
2.3.1. Vai trò của rừng nguyên liệu gỗ lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn miền núi
2.3.1.1. Vai trò của rừng nguyên liệu gỗ lớn về phát triển kinh tế
Năm 2010, Việt Nam đã nhập khoảng 1,1 tỷ USD gỗ nguyên liệu từ các
nước. Nhiều tỉnh miền núi có tiềm năng phát triển lâm nghiệp (như Gia Lai,
Đắc Lắc, Lai Châu, …) vẫn phải nhập khẩu gỗ nước ngoài để chế biến. Phát
triển rừng nguyên liệu gỗ lớn sẽ góp phần làm giảm bớt sự phụ thuộc của
ngành chế biến xuất khẩu của Việt Nam vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu
bằng cách sử dụng nguồn gỗ nguyên liệu từ rừng trồng trong nước, làm tăng
giá trị gia tăng của sản phẩm gỗ và sau cùng làm tăng giá trị đóng góp của
ngành lâm nghiệp vào GDP của Việt Nam.
Đối với người trồng rừng, nếu các điều kiện về tài chính, tín dụng và thị
trường cho phép, họ có thể kinh doanh gỗ lớn và sẽ có nguồn thu nhập tương
đối lớn trong tương lai đủ để trang trải mọi chi phí đã bỏ ra và tái đầu tư trở lại.
Điều đó có nghĩa là người dân có thể sống được bằng nghề rừng một cách lâu
dài, bền vững, giảm bớt sự hỗ trợ của Nhà nước cho các địa phương.
2.3.1.2. Vai trò của rừng nguyên liệu gỗ lớn về mặt xã hội
Phát triển rừng gỗ lớn còn mang ý nghĩa xã hội to lớn. Như chúng ta đã
biết, các vùng sâu, vùng xa, biên giới có quỹ đất đai rộng lớn, nhưng người dân
nhìn chung là thiếu việc làm, thu nhập thấp, sống trong tình trạng nghèo. Rừng
gỗ lớn, ngoài việc đem lại thu nhập, còn góp phần tạo công ăn việc làm cho
người dân qua việc tham gia vào các hoạt động phát sinh từ phát triển rừng gỗ



23

lớn như trồng, tỉa thưa, bảo vệ rừng, khai thác, chế biến lâm sản, sử dụng lâm
sản ngoài gỗ.
Ngoài ra, rừng còn mang những giá trị về văn hóa, tâm linh đối với người
dân địa phương. Việc phát triển rừng gỗ lớn sẽ góp phần vào việc bảo tồn, giữ
gìn những hoạt động văn hóa, tinh thần gắn với rừng của người dân địa
phương, theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
2.3.1.3. Vai trò của rừng nguyên liệu gỗ lớn về bảo vệ môi trường
Rừng nguyên liệu gỗ lớn có vai trò to lớn về bảo vệ môi trường, ngoài
việc cung cấp các sản phẩm gỗ, củi; sản phẩm ngoài gỗ (thức ăn, thuốc, nguồn
gen, ...) còn có giá trị sử dụng cho mục đích giáo dục, nghỉ ngơi và văn hóa
môi trường sống cho con người, phòng hộ đầu nguồn, giảm ô nhiễm không khí
điều tiết tiểu khí hậu…
2.3.2. Tổng quan về tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam
và các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu [12]
Những năm gần đây xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam không
ngừng tăng lên. Theo thống kê của Tổng cục Hải Quan thì năm 1996 kim
ngạch xuất khẩu gỗ chỉ đạt 60 triệu USD và năm 1998 đạt 108 triệu USD, mới
vượt ngưỡng 100 triệu USD. Giai đoạn từ năm 2004 - 2007 có thể xem là thời
kỳ đột phá của ngành công nghiệp gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam.
Năm 2004 là năm đạt dấu mốc quan trọng vượt ngưỡng 1 tỷ USD. Kim ngạch
xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam duy trì tốc độ tăng 35% năm 2005
và tăng 24% năm 2006. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản đạt gần
3 tỷ USD, riêng năm 2009 do tác động của khủng hoảng tài chính nên kim
ngạch xuất khẩu chỉ đạt trên 2,74 tỷ USD. Năm 2010 tính đến 30/11/2010 kim
ngạch xuất khẩu đã đạt 3.020 triệu USD, vượt chỉ tiêu đề ra là 3 tỷ USD.


24


Đồ gỗ Việt Nam được xuất khẩu thông qua hai hình thức chủ yếu là:
- Gia công xuất khẩu cho các nhà xuất khẩu như: Đài Loan, Singapore,
Hàn Quốc… để các nước này tiếp tục xuất khẩu sang các nước thứ ba dưới
nhãn hiệu của họ. Đây là hình thức xuất khẩu chủ yếu trong những năm trước
đây khi các doanh nghiệp gỗ Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong công
nghệ chế biến, thiết kế mẫu mã cũng như năng lực tìm kiếm thị trường và
khách hàng còn hạn chế. Hiện nay, hình thức xuất khẩu này đang dần được thu
hẹp, nhường chỗ cho hình thức xuất khẩu trực tiếp.
- Hiện nay một số doanh nghiệp đã xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường
như: Mỹ, Nhật Bản, EU, Nga… với nhãn hiệu của chính các doanh nghiệp
Việt Nam. Hiện nay, trên thị trường gỗ thế giới, Việt Nam đang nổi lên là một
trong những quốc gia có nhiều tiềm năng trong xuất khẩu trực tiếp các sản
phẩm đồ gỗ.
2.3.2.1. Các thị trường chủ yếu
Do ảnh hưởng tài chính nặng nề trên toàn thế giới, thị trường xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam cũng như nhiều nước trên toàn thế giới bị thu
hẹp lại. Năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tới gần 150
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2008, số thị trường nhập khẩu gỗ
và sản phẩm gỗ của Việt Nam gần đạt tới 173 nước. Đối với các thị trường
truyền thống, kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ đều giảm đi. Thị
trường xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của nước ta từ năm 2000 chủ yếu tập
trung vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU… và đang bỏ ngỏ vào nhiều thị
trường khác.
(1) Thị trường Mỹ
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường Mỹ đã
tăng từ 115,5 triệu USD năm 2003 lên 944,3 triệu USD trong năm 2007, năm


25


2008 đạt 958,65 triệu USD và năm 2009 ước đạt 752 triệu USD và giảm
22,56% so với năm 2008. Và 7 tháng đầu năm 2009 là 569,964 triệu USD.
Về quy mô thị trường: Mỹ là thị trường nhập khẩu, sản phẩm gỗ và đồ gỗ
nội thất lớn nhất thế giới. Hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng trên 40 tỷ USD đồ
gỗ và nội thất. Dự kiến trong giai đoạn 2000 – 2010, sức tiêu thụ đồ gỗ nội thất
ở Mỹ sẽ tăng khoảng 25,5%, đạt khoảng trên 80 tỷ USD vào năm 2010.
Về hệ thống phân phối: hệ thống phân phối sản phẩm gỗ trên thị trường
nội thất Mỹ được chia thành 11 nhóm: nhóm các cửa hàng nội thất chính;
nhóm các cửa hàng đồ nội thất dành cho các phân khúc chuyên biệt; nhóm các
nhà phân phối, nhà bán buôn; nhóm cửa hàng chỉ dành cho các thành viên;
nhóm phục vụ mua sắm tại nhà; nhóm phục vụ mua sắm thông qua các hình
thức thương mại điện tử; nhóm cho thuê; nhóm kinh doanh tổng hợp; nhóm
thiết kế, trang trí nhà; nhóm kinh doanh hàng đã qua sử dụng (second-hand);
nhóm các cửa hàng không chuyên về hàng trang trí nội thất.
Năm 2007, Việt Nam là thị trường cung cấp đồ gỗ lớn thứ 4 cho Mỹ với
thị phần tính theo kim ngạch đạt 4,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của
Mỹ. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đồ nội thất của Việt Nam sang
Mỹ có xu hướng tăng. Từ mức chỉ chiếm 0,1% thị phần năm 2000 đến nay thị
phần của Việt Nam sang Mỹ đã đạt 4,4%.
(2) Thị trường EU
Về quy mô thị trường: Liên minh Châu Âu (EU) là thị trường nhập khẩu
đồ gỗ lớn nhất nhì thế giới, chiếm khoảng trên 50% tổng kim ngạch nhập khẩu
đồ nội thất trên thế giới. Nhu cầu nhập khẩu của EU ngày càng có xu hướng
tăng lên, không chỉ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nội bộ mà còn được
chế biến để xuất khẩu và tái xuất khẩu. Đức là nước nhập khẩu lớn nhất trong
khối EU, tiếp đến là Anh và Pháp.



×