Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN BẬC 4 MÔN NGỮ VĂ THCS VÀ PT. TÍCH HỢP BỘ MÔN ÂM NHẠC VÀO TRONG GIỜ DẠY NGỮ VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.95 MB, 25 trang )

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC TÍCH HỢP BỘ MÔN ÂM NHẠC
VÀO GIỜ DẠY NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS. ”
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận.
- Trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước cũng như Bộ giáo dục và đào
tạo, đã có những chủ trương, chính sách đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục
và đào tạo. Trong đó coi trọng việc đổi mới phương pháp dạy và học là vấn đề then
chốt, hàng đầu, có vai trò quyết định ảnh hưởng đến kết quả và chất lượng giáo
dục. Trong công tác đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay, Bộ giáo dục đã chủ
trương đổi mới từ người dạy đóng vai trò trung tâm trước đây sang người học giữ
vai trò trung tâm. Người dạy chỉ là trọng tài, là người hướng dẫn. Còn người học
mới là người chủ động sáng tạo trong việc tiếp nhận tri thức.
- Đối với phương pháp dạy học hiện nay thì yếu tố tích hợp là yếu tố rất quan
trọng. Bời tích hợp nó góp phần vào việc hình thành và phát tiển năng lực học sinh
một cách toàn diện nhất. Mặc dù khái niệm tích hợp không phải là khái niệm mới
nhưng trong phương pháp dạy học trước đây chưa được chú trọng hoặc chú trọng
chưa đún mức. Còn Trong công tác đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay vai
trò tích hợp được khai thác một cách tối đa. Không chỉ tích hợp kiến thức trong bộ
môn mà còn chú trọng đến tích hợp liên môn. Cho nên từ năm học 2012- 2013 đến
nay Bộ, Sở, Phòng giáo dục và đào tạo đã có nhiều công văn chỉ thị để thực hiện
công tác đổi mới dạy học theo hướng tích hợp và các cuuộc thi vận dụng kiến thức
liên môn như: Công văn số 7736/BGDTrH ngày 14/11/2012 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo; công văn số 2814/SGDĐT-GDTrH ngày 03/12/2012 của Sở Giáo dục –
Đào tạo Nghệ An; công văn số 662/PGDĐT-TrH ngày 06/12/2012 của Phòng Giáo
dục – Đào tạo Tân Kỳ về việc tổ chức cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn để
giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học sinh trung học và cuộc thi Dạy
học theo chủ đề tích hợp dành cho giáo viên trung học; Năm học 2012 – 2013;
Năm học 2013-20134, thực hiện công văn số 7736/BGDĐT-TrH ngày 14/11/2012
của Bộ Giáo dục – Đào tạo và công văn số 2814/SGDĐT-GDTrH ngày 3/12/2012


và Sở Giáo dục – Đào tạo Nghệ An và Chỉ đạo của Phòng Giáo dục – Đào tạo Tân
Kỳ. Ban giám hiệu Nhà trường triển khai tới giáo viên trong trường tham gia và đã
có những chuyển biến tích cực trong kết quả giảng dạy ở nhà trường.
- Như vậy chúng ta cũng thấy được tầm quan trọng của chủ đề dạy học tích hợp
đối với đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Đặc biệt đối với những môn học
mang tính đặc thù rất cao như môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Vì đây
là môn học trừu tượng nhưng lại có vị trí rất lớn đối với việc giáo dục thẩm mỹ
1


và hình thành phát triển năng lực học sinh. dạy học liên môn là phải xác định
các nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh
việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học
khác nhau. Đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu
thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các
môn khác.
Trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp
dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học
sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến
thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức
một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho
học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học
khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát
cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. Đối với giáo
viên thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến
thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể
khắc phục dễ dàng bởi hai lý do:
Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường
xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã
có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó;

Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên
không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng
hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học;
Vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự
phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học.
- Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo
viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác
dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần
phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng
lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo viên tương lai sẽ được đào
tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá trình đào tạo giáo viên ở các
trường sư phạm.
- Đối với bộ môn Ngữ văn việc đổi mới phương pháp và đặc biệt là việc dạy
học theo chủ đề tích hợp liên môn lại là điều vô cùng cần thiết. Vì đặc thù của bộ
môn Ngữ văn là một môn khoa học trừu tượng, mà ngôn từ chính là chất liệu và
cũng là phương tiện để nhà văn chuyển tải những quan điểm tư tưởng và sáng tạo
của họ đến cho người đọc, người nghe. Chính vì lẽ đó nó khó cho việc tiếp nhận,
cảm thụ của người học. và cũng là môn học ít được các học sinh thích thú. Cho nên
việc tích hợp các môn học khác vào việc giảng dạy môn Ngữ văn là vô cùng cân
thiết. Đặc biệt là tích hợp bộ môn Âm nhạc vào việc giảng môn Ngữ văn ở trường
THCS. Bởi đã từ lâu chúng ta đã biết mối quan hệ giữa văn học nói chung với nhạc
2


và đặc biệt là thơ với nhạc nói riêng là mối quan hệ đặc biệt.Tiếng nói trong thơ là
tiếng nói đầy âm nhạc, tiếng nói có nhịp điệu- nhịp điệu của những âm thanh vật
chất, của tiếng nói thực tế hoà với nhịp điệu cảm xúc bên trong tâm hồn nhà thơ.
Thơ là nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn quảng đại và đa cảm. Tính nhạc
được tạo nên bởi những âm hưởng gắn liền với hình ảnh, cảm xúc do sửdụng phối
hợp âm thanh, nhịp điệu, từ ngữ phù hợp với nội dung tư tưởng, tình cảm được

biểu đạt.
- Mỗi dân tộc, mỗi một ngôn ngữ đều có cách hoà âm riêng. Trong ngôn
ngữ, thơ có đặc điểm về tính nhạc, nhưng ngôn ngữ âm nhạc không phải là một bộ
phận của ngôn ngữ thơ mà là một chỉnh thể tồn tại độc lập với nó. So với văn xuôi,
ngôn ngữ thơ giàu nhịp điệu, ngữ điệu, quãng cách và hoà âm. Mối quan hệ giữa
nội dungvà hình thức trong ngôn ngữ và trong âm nhạc hoàn toàn khác nhau. Số
lượng từ trong ngôn ngữ rất lớn, trong khi phạm vi một khuông nhạc chỉ có 8 nốt
(mi, fa, sol, la, si ,đô, rê, mi), được nâng lên hạ xuống tối đa một quãng tám từ một
nốt nào đó. Như vậy, một nốt nhạc được dùng chung cho nhiều từ, cho nhiều ngôn
ngữ, tiếng nói khác nhau.
- Đặc điểm tiếng Việt giàu nguyên âm, phụ âm, thanh điệu. Ngôn ngữ thơ ca
giàu nhịp điệu ,phong phú về cách hoà âm, tiết tấu, từ láy, tính tượng hình, chính là
thứ ngôn ngữ có cơ cấu dễ làm chỗ dựa cho các phương pháp diễn đạt âm nhạc.
Mang đặcđiểm đơn âm, độ dài âm tiết ngắn, tách rời, tiếng Việt có ưu thế tính nhạc
so với các thứ tiếng có số lượng nguyên âm, phụ âm ít hơn và không thanh điệu.
Mộtâm tiết tiếng Việt bao giờ cũng được biểu thị bằng một nốt nhạc hoặc vài nốt
nhạc luyến láy, làm cho ca từ “tròn vành rõ chữ” khi nhạc sĩ đặt lời.
- Vậy ta thấy rằng việc tích hợp bộ môn âm nhạc vào trong giảng dạy môn
Ngữ văn là hết sức cần thiết, đặc biệt là giờ “Đọc- hiểu văn bản”. Vì có thể chỉ qua
ngôn từ học sinh mới chi nắm được một phần nào đó của văn bản mà tác giảmuốn
gửi găm nhưng thêm và đó âm nhạc thì các em có thể có sự cảm nhận sâu hưon,
tinh tế và sáng tạo hơn.
- Qua thực tế áp dụng nhiều năm giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS Tân
Xuân, Tân kỳ, Nghệ An, đặc biệt là từ những năm học: 2012- 2013; 2013- 2014;
2014- 2015 và 2015-2016 . Chúng tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp dạy học
tích hợp bộ môn Âm nhạc vào giờ dạy học môn Ngữ văn THCS và đã thu được
những kết quả tích cực. Cho nên chúng tôi xét thấy cần phải đưa đề tài vào nghiên
cứu và áp dụng rộng rãi. Rất mong nhận được sự quan tâm ủng hộ, đóng góp ý
kiến của các đồng nghiệp.
2. Cơ sở thực tiễn.

2.1. Thực tế nhà trường và xã hội
Quan niệm của xã hội hiện nay đối với môn Ngữ văn ở trong nhà trường phổ
thông.
Trong thời đại xã hội ngày nay, nền kinh tế và khoa học kỹ thuật của thế giới
nói chung và của Việt Nam nói riêng, đang phát triển như vũ bão. Cộng với nền
kinh tế thị trường. Vì thế cho nên, xu thế học lệch, học các môn học có liên quan
3


đến kiến thức tự nhiên hay các môn như là ngoại ngữ vẫn đang là “ cái mốt thời
thượng” của cả học sinh lẫn phụ huynh. Việc các phụ huynh và học sinh ở trong
trường phổ thông (kể cả học sinh THCS là một cấp học chưa cần phải phân hóa
môn học) không coi trọng những môn học xã hội, đặc biệt là môn văn. Không phải
là điều hiếm gặp hiện nay. Minh chứng là các em chỉ học mang tính chất đối phó
để đủ điều kiện lên lớp hoặc dự thi tốt nghiệp mà thôi. Thậm chí cả một hội đồng
thi TNTHPT chỉ có một em dự thi môn lịch sử. Hay tỷ lệ các em thí sinh thi khối C
( Văn- Sử- Địa) Vào các trừng Cao đẳng- Đại học luôn thấp hơn chỉ tiêu. Điều nay
có phải do nguyên nhân là các môn học xã hội khó, hay là do xu thế của thời
đại...Theo chúng tôi có lẽ là do nhiều nguyên nhân mà trong đó có một nguyên
nhân hết sức quan trọng đó là. Do chưa có những thay đổi nhiều trong việc dạy học
môn xã hội mà đặc biệt là môn Ngữ Văn. Cho nên dẫn đến làm cho các em nhàm
chán và dần dần xa lánh môn học này.
2.2. Thực tế tại nhà trường
Ngay tại nhà trường THCS Tân Xuân chúng tôi cũng vậy. Trong những năm
học gần đây các bậc phụ huynh và học sinh cũng e dè mỗi khi chon học sinh giỏi
hay trong những giờ học bình thường trên lớp. Các em thường có biểu hiện lảng
tránh hặoc học theo cách miễn cưỡng kết quả học tập rất thấp. Điểm khảo sát và thi
vào lớp 10 chi trung bình ở mức từ 1,5 đến 3,0 mà thôi. Tuy nhiên trong mấy năm
học trở lại đây đặc biệt là từ những năm 2012- 2013 đến nay vấn đề này đã dược
caỉ thiện mạnh mẽ. Đó là nhờ công tác đổi mới phương pháp dạy học theo hướng

tích cực và tích hợp liên môn. Trong đó việc tích hợp bộ môn Âm nhạc vào giảng
dạy bộ môn Ngữ văn là một trong những yếu tố góp phần tạo nên những thành
công đó. Trên thực tế trong những năm học gần đây: Cụ thể từ năm học 2013-2014
cho đến nay chúng tôi áp dụng tích hợp các môn như hội họa và đặc biệt là âm
nhạc vào dạy môn Ngữ văn thì số học sinh yêu thích môn học ngày càng tăng, chất
lượng môn học, tỷ lệ học sinh giỏi các cấp cũng được cải thiên.
2.3. Làm gì để cải thiện
Ngoài các hoạt động như ngoại khóa, trò chơi...Chúng tôi đặc biệt chú trọng
đến công tác đổi mới cách dạy trong các tiết dạy hàng ngày. Nhằm tạo cho học sinh
sự đam mê thích thú và say mê môn Ngữ văn. Đặc biệt là việc tích hợp bộ môn
Âm nhạc vào giảng dạy bộ môn Ngữ văn, nhất là tiết dạy đọc hiểu văn bản. Nó đã
làm cho học sinh không còn chán và cảm thấy ngại khi học môn học này, mà thay
vào đó là sự thích thú và say mê. Minh chứng là học sinh ở trường THCS Tân
Xuân chúng tôi mấy năm học gần đây, kết quả đại trà, kết quả mũi nhọn. Và đặc
biệt là kết quả thi vào lớp 10 phổ thông năm sau luôn cao hơn năm trước, riêng
năm học 2013-2014 đạt kết quả 100 %; Điểm trung bình môn Ngữ văn đạt 6,5
điểm. Và đã có sản phẩm dự thi ích hợp liên môn cấp Huyên, cấp Tỉnh, cấp Quốc
gia. Đặc biệt năm học 2015-2016 có một em học sinh đạt giải 3 cấp tỉnh môn Ngữ
văn lớp 9.Đây là một bước tiến lớn của một trường THCS như THCS Tân Xuân,
nằm trên địa bàn vùng sâu khó khăn có tỷ lể đồng bào dân tộc thiểu số chiếm đại
đa số.
4


II. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1.
2.
3.
4.
5.


Phương pháp: Nghiên cứu công văn, tài liệu.
Phương pháp: Dạy thực nghiệm.
Phương pháp: Khảo sát, điều tra bằng số liệu.
Phương pháp: Phân tích, đánh giá và tổng hợp.
Phương pháp: Thống kê, so sánh và đối chiếu.

5


PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG
1. Về giảng dạy của giáo viên
Như đã nói ở trên, thực trạng của việc dạy và học môn Ngữ văn trong các nhà
trường phổ thông hiện nay còn nhiều vấn đề phải bàn luận. Cân phải luôn luôn có
sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tế cuộc sống, cũng như vai trò và nhiệm
vụ của giáo dục. Tuy nhiên một số giáo viên còn xem nhẹ việc này dân đến kết quả
của việcdạy và học chưa cao. Nhiều bài học, tiết dạy còn chưa được đầu tư, nghiên
cứu sâu dẫn đến sự nhàm chán cho học sinh. Có một thực tế mà ai cũng thấy là
phần VH ở trường phổ thông cũng mang nặng tính học thuật, thiên về dạy “nghiên
cứu VH” hơn là cảm thụ văn chương. HS phải đối mặt với một khối kiến thức quá
khó về lịch sử phát triển VH, về phong cách, về thi pháp các khái niệm về lí luận
VH...
Xu hướng “khoa học hóa” việc dạy văn bộc lộ cả trong thiết kế CT, SGK.
Chẳng hạn, để đạt mục tiêu trang bị cho HS kiến thức về lịch sử VH Việt Nam,
chương trình VH ở cấp trung học cơ sở (THCS) bắt đầu từ những sáng tác dân gian
và VH cổ rồi đến trung học phổ thông (THPT) mới học VH hiện đại, bất chấp thực
tế là đối với HS THCS việc tiếp thu các văn bản cổ (phú, hịch...) là rất khó. Hoặc
như khi giảng dạy tác phẩm VH cho trẻ em, SGK đưa ra những yêu cầu có tính
chất nghiên cứu nhiều hơn là cảm thụ, không phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Ví dụ các

em học sinh lớp 7 chưa thể đủ năng lực để cảm nhận hết những bài thơ trung đại
của Hồ Xuân Hương, hay Huyện Thanh Quan…
Hầu hết các tiết dạy trước đây mới chú trọng đến truyền thụ kiến thức một
cách thụ động. Điều này dễ làm cho hoc sinh cảm thấy cứng nhắc, nhàm chán và
không yêu thích môn học. Từ đó giáo viên cũng trở nên thiếu đi hứng thú.
Từ xưa đến nay mối quan hệ giữa âm nhạc và văn học đặc biệt là thơ hầu như
ít có khỏang cách. Tiếng nói trong thơ là tiếng nói đầy âm nhạc, tiếng nói có nhịp
điệu- nhịp điệu của những âm thanh vật chất, của tiếng nói thực tế hoà với nhịp
điệu cảm xúc bên trong tâm hồn nhà thơ. Thơ là nhạc của tâm hồn, nhất là những
tâm hồn quảng đại và đa cảm. Tính nhạc được tạo nên bởi những âm hưởng gắn
liền với hình ảnh, cảm xúc do sử dụng phối hợp âm thanh, nhịp điệu, từ ngữ… phù
hợp với nội dung tư tưởng, tình cảm được biểu đạt. Đưa âm nhạc vào tiết dạy Ngữ
văn là một sự đổi mới phương pháp giảng dạy và tích hợp cần thiết làm thay đổi
cách thức tư duy, cách học, cách dạy…Làm cho giờ dạy học Văn bớt đi sự đơn
điệu, nhàm chán, Âm nhạc hay như Mĩ thuật có thêm trong tích hợp dạy văn sẽ tạo
nên sự phong phú và đa dạng, hấp dẫn cho gờ dạy và hiệu quả học tập của học sinh
sẽ cao hơn. Học sinh có thái độ học tích cực, chủ động sáng tạo hơn. Và các em
hiểu sâu sắc nội dung bài học hơn.

6


2. Về học tập của học sinh
Thực trạng của việc dạy và học Văn hiện nay thật đáng lo ngại. Qua kết quả
khảo sát ở tại trường chúng tôi thu thập được trong những năm trước đây khi chưa
áp dụng đề tài này cho thấy. Số học sinh thích học môn hoc nay chỉ khoảng 5- 10
%. Không chỉ học sinh mà cả phụ huynh cũng thờ ơ với môn học này. Dẫn đến
giáo viên cũng cảm thấy chán nản và không muôn đầu tư nhiều cho giờ dạy. Dần
biến giờ day và học văn trở thành một hoạt động mang tính bắt buộc, học sinh mất
khả năng tư duy sáng tạo, giáo viên trở thành “ cỗ máy thuyết trình”

Tuy nhiên thực trạng này cũng có nhiều nguyên nhân khác nhau ví dụ như:
Phần chương trình chưa phù hợp, do xu thế thời đại, cách dạy chưa phù hợp… Mà
có lẽ nguyên nhân lớn nhất là phương pháp dạy học chưa hay, chưa phù hợp. Thiếu
sự lôi cuốn với các em. Cho nên một lần nữa khẳng định lại rằng: Việc “ tích hợp
âm nhạc vào giờ dạy Ngữ văn là hết sức cần thiết trong đổi mới phương pháp
dạy học hiện” nay.
II. CÁC GIẢI PHÁP VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
1.
Đặt vấn đề.
Trước hết âm nhạc là một môn nghệ thuật đễ dàng đi vào lòng người và tác
động lên tình cảm, cảm xúc nhất. Như đa nêu ở trên, mối quan hệ giữa âm nhạc và
văn học đặc biệt là thơ hầu như ít có khỏang cách. Vậy dạy học văn nói chung, đặc
biệt là phân môn “ Đọc hiểuvăn bản” nếu có thêm âm nhạc nó có sự tác động và
làm cho học sinh cảm nhận sâu hơn. Sự tích hợp Âm nhcj có thể dành cho cả bộ
môn. Tuy nhiên ở đậy chúng tôi chỉ muốn nói đến phần đọc hiểu văn bản là chủ
yếu.
Để đưa Âm nhạc vào một tiết học văn hiện nay không phải là khó. Bởi vì hiện
nay các phương tiện hỗ trơ dạy học khá phong phú công nghệ thông tin khjoa học
ký thuật phát triển như: Máy vi tính, máy chiếu, mạng internet… Đây sẽ là một
thuận lợi lớn cho chủ đề tích hợp này. Nhưng đưa âm nhạc vào giờ dạy văn như thế
nào cho có hiệu quả cao mới là điều đáng bàn ở đây.
Không phải chỉ một vài chủ đề, hay chỉ có phân môn đọc hiểu văn bản mới có
thể tích hợp âm nhạc. Hay trong cảm thụ tác phẩm chỉ có thơ mới có thể tích hợp
âm nhạc. Mà các phân môn khác như tiếng Việt, Tập làm văn, các tác phẩm tự sự,
miêu tả…cũng có thể tích hợp âm nhạc. Ví dụ như khi chúng ta cho học sinh viết
bài văn, đoạn văn miêu tả về quê hương thì Giáo viên có thể cho học sinh sưu tầm,
nghe bài hát về vùng miền đó. Hay khi trao đổi với học sinh về chủ đề vẻ đẹp tiếng
Việt chúng ta cũng có thể đuă các bài hát đối, hát ví dân ca vào…
2. Lựa chọn chủ đề và cách tích hợp.
Đây là bước quan trọng, là khâu then chốt tậo nên sự thành công của một giờ

dạy Ngữ văn có tíc hợp âm nhạc. Vì không phải bài dạy, tiết dạy nào cũng có thể
tích hợp. Mà chúng cần lựa chọn chủ đề, tiết dạy, nhạc cụ, phương tiện, hoặc baif
hát phù hợp hoanf cảnh, nội dung bài và lứa tuổi học sinh thì mới tạo được giá trị
của sự tích hợp.
7


Như đã nói ở trên đề tài để tích hợp Âm nhạc trong dạy Văn rất là đa dạng và
phong phú. Tuy nhiên trong giai đoạn giáo dục hiện nay sách giáo khoa và chương
trình sẽ còn đổi mới, chúng ta cần lựa chọn chủ đề thật cần thiết và áp dụng thể
nghiệm cho có hiệu quả cao nhất.
Do âm nhạc có đặ thù riêng của nó. Hơn nữa nó cũng rất phong phú đa dạng.
Nói như vậy có nghĩa rằng, đưa âm nhạc vào giờ dạy học văn không chi đơn điệu
là một bài hát hay một bản nhạc hoặc một đoạn nhạc nào đó….Cũng không phải
làm dụng công nghệ thông tin để đưa vào một cách tràn lan thiếu đi chiều sâu của
âm nhạc. Mà nó cần phải phong phú, đa dạng cũng phải tùy vào chủ đề hay bài dạy
phù hợp.Cái chính là ở đây người giáo viên phải biết lựa chọn bài giảng phù hợp,
thể lọai nhạc hay nhạc cụ, băng hình…phù hợp. Có như thế mới tạo nên sự thành
công và hiệu quả cho giờ dạy.
3. Đối với người dạy và người học.
Đối với giáo viên: Mỗi một giáo viên sẽ có một lợi thế và sở trường riêng,
một năng khiếu riêng của bản thân mình trong công tác giảng dạy. Có giáo viên lợi
thế về tổ chức trò chơi, có giáo viên có năng khiếu vẽ, kể chuyện, có người hát hay,
chơi được nhạc cụ nào đó hoặc có trình đọ công nghệ thông tin… Hay như học
sinh cũng vậy. Mỗi em cũng có năng lực cảm thụ, năng lực tiếp nhận khác nhau.
Cho nên mỗi người cần phải biết khai thác đúng năng lực sở trường của mình là
điều hết sức quan trọng trong việc tích hợp.
Vì thế cho nên đối với giáo viên: Trước hết là việc lựa chọn nội dung chủ đề,
tiết dạy để tích hợp là một bước vô cùng quan trọng. Ví dụ chủ đề đó dài hay ngắn,
thời gian mấy tiết, tổ chức theo hình thức nào, học sinh lớp mấy, thể loại văn bản

gì, giai đoanj văn học nào, nội dung ra sao. Từ đó mới lự chọn loại phương tiện,
hay nhạc cụ hỗ trợ hay băng hình…Thì mới có hiệu qủa. Nên chọn những hình
thức thể hiện cũng như hương tiện đơn giả, gần gũi là tốt nhất. Ví dụ: Dạy văn bản
viếng lăng Bác có thể dùng sáo trúc thổi cho học sinh ngâm thơ, hoặc hát theo nhạc
beat karaoke từ máy chiếu…Mỗi giờ dạy nên chọn một và phương tiện mà thôi.
Tốt nhất phần thể hiện nê có sự kết hợ giữa giáo viên và học sinh. Nhưng vẫn ưu
tiên học sinh là chủ yếu. Bởi hteo phương pháp mới học sinh là đối tượng học chủ
động tìm hiểu và hình thành kiến thức. Hơn nữa nếu các em được thể hiện trong
quá trình học một bản nhạc, một bài hát thì là động lực lớn nhất của các em. Trong
quá trình thực hiện không nhất thiết giáo viên phải thể hiện bài hát hay nhạc cụ…
Có thể hướng dẫn cho học sinh thực hiện hoặc nhờ bạn bè đồng nghiệp hỗ trợ.
Haợc có thể sử dụng khoa học công nghẹ. Tránh tình trạng không có năng khiếu
âm nhạc thì không thể dạy tích hợp âm nhac vào tiết dạy. Quan niệm như vậy là
vô cùng sai lầm.
Còn về phía học sinh: Trước hết, các em cần tuân thủ theo yêu cầu chuẩn bị
bài của giáo viên đưa ra. Ví dụ giáo viên yêu cầu thu thập thông tin có liên quan
đến bài hoc, hay thể hiện các bài hát, tìm băng đĩa, nhạc cụ…Các em cần có sự
8


tuân thủ và hợp tác theo giáo viên yêu cầu. Thậm chí giáo viên có thể hướng dẫn
cho các em chuần bị tập luyện trước sau đó đến thi, hoặc biểu diễn.
Nói tóm lại công tác chuẩn bị là vấn đề then chốt có ảnh hưởng quyết địng
đến chất lượng và hiệu quả của giờ dạy tích hợp. Vì thế nó đòi hỏi cả hai đối tượng
người dạy và người học cần làm tốt khâu này.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CỤ THỂ:
1. Lựa chọn bài dạy.
Trong chương trình Ngữ văn THCS hiện nay, đa số các văn bản được lựa chọn
vào giảng dạy đều là những tác phẩm tiêu biểu và được sắp xếp khá hợp lý cho
mức độ học sinh từngkhối lớp. Trong số đó có những bài có thể tích hợp môn Âm

nhạc rất cao đặc biệt là những văn bản thuộc thể loại thơ hiện đại Việt Nam. Ngay
cả những tác phẩm văn xuôi như thể tùy bút, bút ký, các văn bản nhật dụng…
Đặcbiệt là những văn bản thuộc những đề tài ca ngợi tình yêu quê hương đất nước,
con người và cuộc sống, những văn bản ca ngợi Đảng, Bác Hồ.
Đối với cách lựa chọn một tiết dạy có thể tích hợp âm nhạc ta có thể chia làm
hai nhóm cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất: Là những văn bản không được phổ nhạc trực tiếp bằng ngôn
từ của các tác phẩm đó nhưng có nội dung, đề tài cùng chủ đề với bài hát hoặc bản
nhạc hay một thể loại tác phẩm âm nhạc nào đó. Ví dụ như văn bản “Làng” của
Kim Lân Văn 9 tiết 62,63: Có thể tích hợp các bài hát như “Làng tôi” của Văn Cao,
hay bài hát “ Quê hương” thơ Đỗ Trung Quân…hay như văn bản “ Sông nước Cà
Mau” văn 6 tập 2- có thể tích hợp bài hát “ Đât rừng phương Nam”, “ Áo mới Cà
Mau” hoặc trích đoạn phim này. Đối với các tác phầm chưa phổ nhạc trực tiếp này
chúng ta có thể thiên về sử dụng các loại phương tiện công nghệ như: Băng, hình,
máy chiếu…
Nhóm thứ hai: Là nhóm những tác phẩm đã được phổ nhạc thành những bài
hát, những bản nhạc. Nhóm này chủ yếu là các văn bản thuộc thể loại trữ tình biểu
cảm. Trong chương trình Ngữ văn THCS nhóm văn bản này cơ bản được biên soạn
ở chương trình lớp 9. Các văn bản như: ( Đồng chí- Chính Hữu- Tiết 45; Viếng
lăng Bác- Viễn Phương- Tiết 116,117 ; Mùa xuân nho nhỏ- Thanh Hải- Tiết
118,119) Tất cả các văn bản này đã được phổ nhạc nên rất dễ dàng cho việt tích
hợp và học sinh cũng dễ dàng cảm nhận và thể hiện nhiều hơn. Với những tiết dạy
này giáo viên có thể cho nghe qua băng đĩa. Tốt nhất dùng nhạc cụ để kết hợp với
học sinh thể hiện nó vừa có sức lôi cuốn vừa có chiều sâu về mặt cảm nhận.
2. Lựa chọn phương tiện.
Để đưa âm nhạc vào tích hợp trong giờ dạy Ngữ văn thì điều trước tiên và
quan trọng nhất là công tác chuẩn bị. Chuẩn bị từ nội dung bài học của giáo viên,
chuẩn bị của học sinh…Vì nếu chúng ta chuẩn bị tốt từ khâu thiết kế bài dạy,
phương pháp dạy học, nhạc cụ, bài hát, hình thức thể hiện…thì hiệu quả sẽ cao
9



hơn. Vậy lựa chọn những gì, lưa chọn như thế nào, xin trao đổi một số kinh
nghiệm sau đây:
Trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, nó giúp ích rất nhiều cho
việc đưa âm nhạc tích hợp vào trong giờ dạy. Giáo viên có thể lựa chọn nhiều
phương tiện khác nhau như: Băng đĩa, video, các loại nhạc cụ…Tùy vào nội dung
chủ đề bài học và cả tính chất của âm nhạc nữa. Hơn nữa còn tùy vào khả năng,
năng khiếu của giáo viên và học sinh. Đối với những bản nhạc mang âm hưởng
dân ca, nếu chọn nhạc cụ để thể hiện thì nên chọn những nhạc cụ dân tộc như sáo,
đàn bầu, nhị…Vì nhạc cụ dân tộc thường gắn bó với dân ca mà học sinh cũng dễ
dàng cảm nhận hơn.
Trong một tiết dạy không nên đưa vào quá nhiều bài hát, bản nhạc hoặc nhiều
loại nhạc cụ. Vì như thế sẽ tốn nhiều thời gian và làm cho học sinh loảng vấn đề
không có chiều sâu của cảm xúc. Nếu có thể cũng không nên đưa vào quá ít . Vì
như thế cũng hơi đơn điệu. Khi tích hợp âm nhạc vào giờ dạy văn cái cốt yếu là
làm cho học sinh cảm nhận sâu sắc và trọn vẹn hơn nội dung bài học chứ không
phải nghiêng về thưởng thức âm nhạc. Nên cần cho các em biểu diễn hặc nêu cảm
nhận sâu khi thưởng thức. Cụ thể như Văn bản “Viếng lăng Bác” ở trường THCS
Tân Xuân, Tân Kỳ, Nghệ An chúng tôi đã thể hiện rất thành công với phương pháp
và cách thức rất đơn giản. Sau khi dạy xong phần kiến thức văn bản, giáo viên cho
môt vài em có giọng hát, giọng ngâm thơ hay cùng lên bục giảng với tiếng sáo trúc
của thầy. Học sinh vô cùng hứng thú khi được thể hiện và trở lời câu hỏi sau bài
học rất hay.

Những loại nhạc cụ phổ biến có thể sử dụng trong giảnh dạy.
3. Cách thức thể hiện
Như đã nói ở trên khi tích hợp âm nhạc vào giờ dạy văn cái cốt yếu là làm cho
học sinh cảm nhận sâu sắc và trọn vẹn hơn nội dung bài học chứ không phải
nghiêng về thưởng thức âm nhạc. Chính vì vậy chúng ta cần lựa chọn cách thức thể

10


hiện. Vậy thể hiện thế nào cho nó phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. Điều này tùy
thuộc vào nhiều yếu tố như: Tùy thuộc vào năng khiếu của giáo viên, của học sinh,
tùy thuộc vào tính chất chủ đề, nội dung bài học, tùy vào phương tiện cơ sở vật
chất của nhà trường …
Không phải cứ giáo viên có năng khiếu mới tích hợp được âm nhạc vào trong
giờ dạy. Có rất nhiều cách khác nhau để đưa âm nhạc vào giờ dạy của mình mà
giáo viên cũng không cần thể hiện. Nếu giáo viên không thể hát thì có thể lựa chọn
một nhạc cụ thích hợp nào đó để thể hiện. Nêu không thể biều diễn nhạc cụ thì
dùng băng đĩa, video…Cách thứ hai giáo viên hưỡng dẫn cho học sinh thể hiện
hoặc sưu tầm…
Ngoài những giờ dạy học chính khóa ở trên lớp còn có thể tổ chức nhiều hình
thức dạy học tích hợp khác nữa như: Tổ chức ngoại khóa với cách thi tìm hiểu
những bản nhạc có cùng nội dung và đề tài với bài học; Tổ chức sưu tầm các bài
hát, hoặc cao hơn nữa là sáng tác thơ ca nhạc với cùng nội dung chủ đề; Hoặc thi
biểu diễn nhạc cụ…Ví dụ khi dạy các văn bản về đề tài quê hương như: “ Làng”Kim Lân – Văn 9 tiết 62-63; “ Quê hương” của Tế Hanh- văn 8 tiết 77- 78 ta có thể
cho học sinh sưu tầm bài hát về chủ đề quê hương và thi biểu diễn. Hoặc thi sáng
tác thơ về quê hương sau đó phổ nhạc, nhất là dân ca.
Tất nhiên nếu giáo viên có thể thực hiện được một trong các hình thức trên là
tốt nhất. Bởi như thế nó tạo cho người học và người dạy một sự thân mật gần gũi
và đồng cảm thì hiệu quả sẽ cao hơn. Tốt nhất là cả giáo viên và học sinh cùng
tham gia biểu diễn. Đặc biệt ở trường THCS Tân Xuân chúng tôi có nhiều giờ dạy
giáo viên chơi nhạc cụ, còn học sinh hát rất hiệu quả.
Một cách thể hiện nữa cũng đáng chú ý đố là cho các em thi biểu diễn. Đây là
phương pháp tích hợp hiệu quả nhất. Bởi vì khi tạo được không khí thi đua nó tạo
cho học sinh sự sôi nổi trong giờ học, các em thể hiện được tài năng và tạo tưu thế
nói trước đám đông.
Do điều kiện xã hội hiện nay công nghệ thông tin bùng nổ đặc biệt là mạng

internet. Chúng ta có thể dựa vào yếu tố này để khai thác tích hợp rất tốt nếu học
sinh còn chưa có sự chuẩn bị tốt hoặc vì một điều kiện, lý do nào đó thì có thể giáo
viên dùng máy chiếu đưa vào đó những bài hát karaoke. Để giáo viên và học sinh
cùng hát.
4. Thời điểm thực hiện tích hợp.
Thông thường một tiết dạy có tích hợp âm nhạc chúng ta thường đưa bài hát,
hay bản nhạc vào ở đoạn cuối của tiết học. Bởi vì như thế lúc đó học sinh đã hiểu
được nội dung bài học, có âm nhạc thêm vào để các em có thể cảm nhận sâu hơn
mà thôi. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể đưa bài hát, bản nhạc vào phần đầu, phần
giới thiệu bài. Nếu chúng ta đưa bài hát hay bản nhạcvào phần đâù thì sẽ tạo ngay
hứng thú cho học sinh ngay từ lúc ban đầu. Trong các loại hìnhnghệ thuật chỉ có
âm nhạc là loại hình tác động đến tình cảm, cảm xúc, hoạt động của bộ não nhanh
nhất. Cho nên nó tạo cho học sinh sự hứng thú ngay lúc ban đầu giờ học sẽ hiệu
quả hơn.
11


IV. MỘT SỐ BÀI GIẢNG, CHỦ ĐỀ ĐÃ MINH HỌA.
- Trong bài giảng minh chứng chúng tôi thực hiện ở hai dự án tích hợp khác
nhau. Một là tiết dạy tích hợp Âm nhạc vào một giờ dạy Văn bình thường . Đó là
tiết dạy Ngữ văn 9- Tiết 118-119 Đọc hiểu văn bản: VIẾNG LĂNG BÁC- Viễn
Phương (Đề tài thực hiện năm học 2013- 2014).
- Đề tài thứ hai: Dự án tích hợp bộ môn Âm nhạc vào dạy học chủ để theo
hướng phát triển năng lực học sinh. Đó là chủ đề: THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
NGỮ VĂN 6 ( Gồm 3 văn bản: TIẾT PPCT: 93,94; 99,100).
- Tất cả những đề tài này là một trong số những đề tài, dự án mà chúng tôi đã
áp dụng và thành công trong những năm học vừa qua.

GIÁO ÁN DẠY THỂ NGHIỆM.
Tên bài: Bài 23: Tiết 118

Môn học: Ngữ văn

VIẾNG LĂNG BÁC.

I. Mục tiêu dạy học:

Kiến thức
Sau bài học, người học phải:
-Cảm nhận được niềm xúc cảm chân thành, tha thiết của người con miền Nam
đối với Bác Hồ kính yêu.
- Thấy được sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả thể hiện trong bài thơ.
- Những tình cảm thiêng liêng của tác giả, của một người con từ miền Nam ra
viếng lăng Bác.
- Những đặc sắc nghệ thuật nổi bật thể hiện qua bài thơ ngôn ngữ, ảnh, tứ thơ,
giọng điệu rất bình dị, tự nhiên, biểu cảm chân thực.

Kỹ năng
Sau bài học, người học có thể:
- Đọc – hiểu một văn bản thơ trữ tình hiện đại.
- Có khả năng trình bày những suy nghĩ, cảm nhận về một hình ảnh thơ, một
khổ thơ, một tác phẩm thơ.
- Tích hợp môn Ngữ văn với các liên môn Lịch sử, Địa lý, Âm nhạc, Mĩ thuật,
Giáo dục công dân, Tin học,...

Thái độ
Sau bài học, người học ý thức về:
- Niềm thành kính, xót thương, ơn nghĩa của con người Việt Nam đối với Bác
Hồ kính yêu.
12



- Trong lòng dân tộc Việt Nam, trong trái tim nhân loại. Hình ảnh của Người
là biểu tượng của tình yêu tha thiết nhất. Cả cuộc đời Người đã chiến đấu cho dân
tộc, cho con người, cho những người áp bức, đau khổ.
II. Chuẩn bị:
1: GV: Giáo án, sách giáo khoa, máy chiếu, sáo trúc, đàn guytar.
2. HS: Vở soạn, đọc bài thơ, sáo, ngâm thơ, nghe bài hát ở nhà.
III. Tiến trình dạy học:
1. Bài cũ:
2. Giới thiệu bài mới:

13


Slide
1

- Nhấn chuột
TRƯỜNG THCS TÂN XUÂN
để xuất hiện
Slide 1 : Biểu
Ngữ văn 9
tượng
của
Tiết 118 VIẾNG LĂNG BÁC
trường THCS
Viễn Phương
Tân Xuân.
- Bài 23: Tiết
118

Viếng
Chất nhạc hội họa lịch sử địa lý giáo dục
lăng Bác –
kết tinh trong nhân cách Hồ Chí Minh trong thi phẩm Viễn Phương.
“Viếng lăng Bác” của nhà thơ Thanh Hải

Slide
2

- Nhấn chuột
để xuất hiện
Slide 2: Lăng
của Hồ Chí
Minh

-Nhấn chuột
vào Slide 3:
Xuất
hiện
lăng của Hồ
Chí Minh và
Chân
dung
nhà thơ Viễn
Phương.

Slide
3

Viễn Phương

Slide
4

VIẾNG LĂNG BÁC
Viễn Phương
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

- Nhấn chuột
vào Slide 4:
Bài
thơ 14
“Viếng lăng
Bác”.


* Đối với phần tích hợp: ở đây chúng tôi chon cho học sinh hát, ngâm thơ, giáo
viên đánh đàn và thổi sáo. Tùy vào khả năng điều kiện từng GV, HS mà thực hiện
theo hình thức phù hoẹp.
Giáo viên có thể đặt các câu hỏi sau khi hát, nghe hát, ngâm thơ, vẽ tranh…
Qua những bài hát, bài thơ trên, em có cảm nhận gì về con người của Bác? Hình
tượng Bác hồ được các nghệ sĩ khai thác như thế nào? Vì sao?....
* Tư liệu: Sách giáo khoa Ngữ văn 9 – Tập 2, Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến
thức, kỹ năng môn Ngữ văn Trung học cơ sở - Tập 2. NXBGD Việt Nam, sách
giáo viên của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 2012
- Đồ dùng: Thước kẻ, giấy A4 vẽ tranh, nam châm.
- Thiết bị: Máy tính lap top, máy chiếu, màn chiếu, loa …


Ảnh: Ghi bảng tiết dạy Viếng lăng Bác.

15


Ảnh: Học sinh trong tiết học Viếng lăng Bác.

Ảnh: Học sinh trong tiết dạy thể nghiệm chuyên đề 2014-2015.
V. ĐÁNH GIÁ CÁC LẦN THỰC HIỆN.
Ngay từ năm học 2012- 2013 cho đến nay, nhà trường nói chung và nhóm
Ngữ văn trường THCS Tân Xuân nói riêng đã hưởng ứng một cách tích cực, mạnh
mẽ phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông. Trong
16


đó chúng tôi đặc biệt quan tâm đến phương pháp dạy học theo hướng tích cực và
tích hợp liên môn. Trong dạy học tích hợp, chúng tôi chúng tôi lại đặc biệt chú
trọng chủ đề : “Tích hợp bộ môn Âm nhạc vào giờ dạy môn Ngữ văn THCS”.
Chính vì việc xác định rõ được quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,
của Nhà nước, cùng như của ngành giáo dục về việc đổi mới phương pháp dạy học
cho phù hợp với yêu cầu giáo dục hiện nay. Do vậy chúng tôi đã gặt hái được
những kết quả những thành công lớn trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Đặc
biệt là trong việc thay đổi tư duy, thái độ của phụ huynh và học sinh, của giáo viên
về bộ môn Ngữ văn trong nhà trường. Làm cho họ không còn coi môn Ngữ văn là
môn học khó, học để đối phó với thi cử và không còn cảm thấy nhàm chán khi học
Văn.
VI. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
1. Kết quả thực hiện:
- Đối với giáo viên:

Từ các năm học 2012- 2013 nhóm Ngữ văn trường THCS Tân Xuân chúng tôi
đã áp dụng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp liên môn. Trong đó
chú trọng nhất là tích hợp Âm nhạc vào giừo dạy Ngữ văn THCS và đãcó được
những kết quả đáng quý như sau: Trong các năm học 2012- 2013 có đề tài tích hợp
liên môn âm nhạc và hội họa vào tiết dạy Ngữ văn, văn bản: “ Đồng Chí” Văn 9
tiết 45( Giải khuến khích cấp Bộ); Năm học 2013- 2014 có đề tài giải nhì cấp tỉnh
đó là: tích hợp Âm nhạc vào giừo dạy Ngữ văn THCS văn bản “ Viếng lăng Bác”
Văn 9 tiết 118-119; Năm học 2014- 2015 có sản phẩm tích hợp liên môn đạt giải
nhất cấp tỉnh, được gửi đi Bộ xét…
- Đối với học sinh:
Liên tục từ những năm học: 2012 -2013 đến nay tỷ lệ học sinh nhà trường
theokhảo sát của chúng tôi đã liên tục tăng cả về chất lượng mũi nhọn, đại trà, thái
độ và điểm trung bình thi vào cấp 3 hàng năm. Cụ thể kết quả khảo sát như sau:
Kết quả khảo sát HSG, tỷ lệ thích học môn Văn, điểm TBM Văn vào cấp III.
BẢNG SỐ LIỆU THỐNG KÊ ĐIỀU TRA.
Năm học

Kết quả khảo sát
Tống số

Thích học Văn

2012. 2013
2013- 2014
2014- 2015
2015-2016

292
261
274

280

152 = 52,05 %
206 = 78,92 %
245 = 89,41 %
280 = 100 %

2016-2017

288

280 = 100 %

Học sinh
giỏi
huyện
8
10
13
15

Ghi chú
Điểm TB
môn Văn
vào cấp III
5,64
6,47
6,5
6,65


1 HSG
tỉnh

15
17


KẾT QUẢ CỦA MỘT HỌC SINH ĐƯỢC LỰA CHỌN NGẪU NHIÊN.
- Họ và tên: Lô Thị Ngọc.
- Học sinh lớp: 8A, trường THCS Tân Xuân, Tân Kỳ, Nghệ An.

Bài kiểm tra năm học: 2014-2015 lớp 6A.

Bài kiểm tra năm học: 2015-2016 lớp 7A.

18


Bài kiểm tra năm học: 2016-2017 lớp 8A.
2. Phân tích đối chiếu:
Trên đây là một số kết quả thu được của nhóm bộ môn Ngữ văn chúng tôi
trong ba năm học vừa qua. Tuy chưa phải là cao, nhưng đối với một trường THCS
vùng sâu như Tân Xuân thì kết quả đó cũng là một thành quả tích cực cần phát huy
và nhân rộng. Qua ba năm học thực hiện đề tài nghiên cứu này chúng tôi đã rút ra
một số bài học kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất đối với giáo viên, còn một số đồng chí chư thật sự coi trong công tác
bồi dưỡng chuyên môn. Điều này thể hiện rất rõ qua các giờ dạy trên lớp, làm cho
tiết học văn thiếu đi sự phong phú và hấp dẫn của nó, học sinh cũng trở nên nhàm
chán và không thích học môn Văn. Đối với việc dạy học môn Ngữ văn việc tích
hợp bộ môn Âm nhạc là vô cùng quan trọng vì như đã nói ở trên giưa văn và nhạc,

đặc biệt là “ thơ ca ” thi khoảng cách rất mong manh. Trong thơ có nhạc và ngược
lại trong nhạc có thơ. Hơn nữa muốn tích hợp được hai môn học này cũng cần phải
có một sự đầu tư nhất định. Như là nghiên cứu nội dung, đề tài, chuẩn bị các
phương tiện, hình thức tổ chức…cho nên một số giáo viên e ngại không muốn đầu
tư, thời gian, công sức.
Thứ hai đối với học sinh, cũng cần phải tích cực những công việc, nhiệm vụ
và giáo viên đã giao. Và cũng cần tham gia tích cực đầy đủ các họat động trên lớp.
Các em cố gắng thể hiện hết mình khả năng, năng lực của mình. Tham gia đầy đủ
có chất lượng các cuộc thi do trường, ngành và Đội tổ chức.

19


PHẦN III. PHẦN KẾT LUẬN.
I. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.
1. Tóm tắt đề tài.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà chúng tôi đã tích lũy được qua nhiều năm
nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng vào dạy thể nghiệm nhiều năm liền tại trường THCS
Tân Xuân về đề tài: “ Tích hợp bộ môn Âm nhạc vào việc giảng dạy môn Ngữ văn
ở trường THCS”. Chúng tôi nhậ thấy được một số vấn đề kết luận như sau:
Đề tài tuy nhỏ nhưng cũng trải qua quá trình nghiên cứu tìm tòi, thu thập tài
liêu từ những năm học đổi mới đầu tiên( 2012-2013) cho đến nay. Qua một vài
năm học thể nghiệm giảng dạy tại trường chúng tôi nhận thấy được những kết quả
như đã nêu ở trên.
Đề tài tuy chỉ là những kinh nghiệm nhỏ của tập thể tổ văn nhà trường THCS
Tân Xuân những kết quả đó cũng đẫ phần nào góp phần vào sự thành công của nhà
trường chúng tôi trong mấy năm qua.
2. Tính mới và khả năng ứng dụng của đề tài.
2.1. Tính mới:
Như đã nói ở trên, việc dạy học tích hợp không phải là mới mà từ trước đến

nay trong giáo dục chúng ta cũng đã thực hiện rồi. Tuy nhiên trước đây chủ đề này
mới chỉ được áp dụng theo cách tự phát chưa được chú trọng. Nghĩa là giáo viên
20


dạy coi tích hợp chỉ là yếu tố nhỏ trong giờ dạy mà thôi. Còn ở đây chúng tôi
muốn nhấn mạnh là qua đề tài chúng ta nên coi tích hợp liên môn cũng quan trọng
không kém với chủ đề nội dung của môn học chính. Vì nếu chúng ta tích hợp đuợc
âm nhạc vào giờ dạy học Văn chính là chúng ta tăng năng lực cảm thụ cái hay, cái
đẹp của tác phẩm văn học phát triển năng lực toàn diện cho học sinh.
2.2. Phạm vi ứng dụng.
Sau khi chúng tôi áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại
trường THCS Tân Xuân, chúng tôi nhận thấy hiệu quả rất rõ rệt đó là. Học sinh đã
bắt đầu thích học môn Văn nhiều hơn, phụ huynh cũng bắt đầu quan tâm hơn đến
môn học này. Kết quả chất lượng đại trà cũng như chất lượng mũi nhọn, đặc biệt là
kết quả thi vào trường THPT ngày một cao. Chính vì vậy chúng tôi xét thấy cần áp
dụng và nhân rộng đề tài, và đã manh dạn đưa ra một số kinh nghiệm mong bạn bè
đồng nghiệp cùng góp ý xây dựng để đưa chất lượng giáo dục huyện nhà nói
chung, cũng như kết quả giáo dục bộ môn nói riêng ngày một đi lên. Mặc dù đề tài
chúng tôi mới chỉ áp dụng thành công ở trường nhưng xét thấy nó có thể áp dụng
cho các nhà trương THPT nói chung và THCS nói riêng ở tất cả các vùng miền
trên cả nước.

2.3 . Đối tượng

Đề tài này có thể áp dụng cho cả người dạy lẫn người học. Đặc biệt là đối
tượng giáo viên nếu muốn tăng giá trị, chất lượng bộ môn thì đề tài có thể là một
trong những yếu tố góp phần cải thiện được điều đó.
Cồn đối với học sinh đề tài có thể là một điều kiện tốt, giúp các em cải thiện
chất lượng học tập. Ngoài ra nó còn tạo điều kiện vô cùng thuận lợi để các em bồi

phát triển năng lực toàn diện nhất như năng lực giao tiếp trước đàm đông, năng lực
cảm thụ văn chương, âm nhạc, năng lực nói biểu diễn.
2.4. Tính khoa học:
Các chuyên gia về giáo dục trên thế giới nói chung và trong nước nói riêng đã
dày công nghiên cứu và cho ra chủ đề đổi mới này. Hơn nữa giữa âm nhạc và văn
học đề là những môn mang tính nghệ thuật rất cao và có nhiều nét tương đồng. Vì
đây đều là ôn học rèn luyện kỹ năng, cũng như cảm nhận về cái đẹp- chân- thiệnmĩ. Thì có lý nào chúng không thể bổ trợ cho nhau trong quá trình đó. Theo như
tiến sĩ Lê Thị Bích Hồng nguyên Vụ trưởng vụ văn hóa- Văn nghệ, ban tuyên
giáoTW thì: “ Tiếng nói trong thơ là tiếng nói đầy âm nhạc, tiếng nói có nhịp điệunhịp điệu của những âm thanh vật chất, của tiếng nói thực tế hoà với nhịp điệu cảm
xúc bên trong tâm hồn nhà thơ. Thơ là nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn
quảng đại và đa cảm. Tính nhạc được tạo nên bởi những âm hưởng gắn liền với
hình ảnh, cảm xúc do sử dụng phối hợp âm thanh, nhịp điệu, từ ngữ…phải phù hợp
với nội dung tư tưởng diễn đạt”
2.5. Tính hiệu quả:
21


Nói đến phương pháp dạy học ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay
không thể không nhắc tới các hiện tượng rất phổ biến trong các giờ học văn hiện
nay.
a. Dạy học đọc chép. Hiện tượng dạy học đọc chép trong môn văn trước đây
và môn ngữ văn rất phổ biến ở các trường phổ thông hiện nay. Đọc chép trong giờ
chính khóa và trong các lò luyện thi. Thầy cô đọc trước, HS chép sau, hay thầy cô
vừa đọc vừa ghi bảng rồi HS chép theo. Đối với các bài khái quát về giai đoạn văn
học hay khái quát về tác gia thầy cô cũng thường tóm tắt rồi đọc cho HS chép. Đối
với bài “giảng văn” thầy cô cũng thường nêu “câu hỏi thu từ”, rồi giảng, sau đó
đọc chậm cho HS chép các kết luận, nhận định. Trong cách dạy này HS tiếp thu
hoàn toàn thụ động, một chiều.
b. Dạy nhồi nhét. Dạy nhồi nhét cũng là hiện tượng phổ biến do thầy cô sợ
dạy không kĩ, ảnh hưởng đến kết quả làm bài thi của HS, cho nên dạy từ a đến z,

không lựa chọn trọng tâm, không có thì giờ nêu vấn đề cho HS trao đổi, sợ “cháy”
giáo án. Kết quả của lối dạy này cũng là làm cho HS tiếp thu một cách thụ động,
một chiều.
c. Dạy học văn như nhà nghiên cứu văn học. Một hiện tượng thường thấy là
cách giảng văn trên lớp như cách nghiên cứu văn học của các học giả, như cách
học của sinh viên văn học. Đó là cách phân tích sâu về tâm lí, về kĩ thuật ngôn từ,
về phương pháp sáng tác….. Trong khi đố đối với HS môn ngữ văn chỉ cần dạy
cho HS đọc hiểu, tiếp nhận tác phẩm như một độc giả bình thường là đủ, nghĩa là
chỉ cần nắm bắt đúng ý nghĩa, tư tưởng của tác phẩm, một vài nét đặc sắc về nghệ
thuật đủ để thưởng thức và gây hứng thú.
d. Học sinh học thụ động, thiếu sáng tạo. Tương ứng với cách dạy họcnhư
trên HS tất nhiên chỉ tiếp thu một cách thụ động mà thôi. Tính chất thụ động thể
hiện ở việc học thiếu hứng thú, học đối phó, và về nhà chỉ còn biết học thuộc để trả
bài và làm bài. Cách học đó tất nhiên cũng không có điều kiện tìm tòi, suy nghĩ,
sáng tạo, cũng không được khuyến khích sáng tạo.
Học sinh không biết tự học. Cách học thụ động chứng tỏ HS không biết tự
học, không có nhu cầu tự tìm hiểu, nghiên cứu, không biết cách chủ động tự đọc
SGK để tìm hiểu kiến thức, không biết cách phân biệt cái chính và cái phụ, không
biết tìm kiến thức trọng tâm để học, không biết từ cái đã biết mà suy ra cái chưa
biết. Nói tóm lại là chưa biết cách tự học.
Học tập thiếu sự hợp tác giữa trò và thầy, giữa trò với trò. Mỗi cá nhân trong
quá trình học tập đều có hạn chế, bởi mỗi người thường chỉ chú ý vào một số điểm,
bỏ qua hoặc không đánh giá hết ý nghĩa của các kiến thức khác. Trong điều kiện
đó, nếu biết cách hợp tác trong học tập, giữa thầy giáo và HS, HS với HS có thể
nhắc nhở nhau, bổ sung cho nhau, làm cho kiến thức được toàn diện và sâu sắc.
Học thiếu hứng thú, đam mê. Kết quả củ việc học thụ động là học tập thiếu
cảm hứng, thiếu lửa, thiếu niềm ham mê, mà thiếu những động cơ nội tại ấy việc
học tập thường là ít có kết quả. Nên việc cần thiết là phải thay đổi ngya cách dạy
học thụ động đó để tăng hiệu quả và chất lượng của giáo dục nói chung và chất
lượng hiệu quả bộ môn Ngữ văn nói riêng.

22


II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
1.Với các cấp quản lý giáo dục.
Cần thống nhất bộ môn Ngữ văn trong trường THCS đặc biệt là bộ môn đọc
hiểu tác phẩm văn chương thành những chủ đề để dễ dàng tạo hiệu quả tích hợ.
Nếu có thể cần nghiên cứu đưa ra một số gợi ý tích hợp cho từng chủ đề để giáo
viên có thể tham khảo và thực hiện cho phù hợp với điều kiện của địa phương và
nhà trường.
Hai là cần đầu tư để có những trang thiết bị, phương tiện dạy học đáp ứng
được những yêu cầu của phương pháp giáo dục mới hiện nay.
2.Với các giáo viên dạy.
Đối với giáo viên cần coi tích hợp liên môn như âm nhạc và Ngữ văn là một
cái mới và là một trong những nội dung hiểu quả trong giáo dục hiên nay. Tăng
cường chú trọng đầu tư, nghiên cứu cho chủ đề tích hợp làm sao phong phú, phù
hợp, hiệu quả cao nhất.
Tránh tình trạng dạy chay, dạy đơn điệu làm cho học sinh cảm thấy nhàm chán
vì sự nhồi nhét thụ động đó.
3.Với các học sinh.

23


Đối với học sinh cần tích cực chủ động tham gia các hoạt động do giáo viên
yêu cầu và đề ra. Cần chú trọng đến năng lực sẵn có của mình để khám phá kiến
thức của bộ môn.
Kết luận: Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ về việc tích hợp môn Âm nhạc
vào giờ dạy Ngữ văn ở trường THCS mà nhóm Ngữ văn trường THCS Tân Xuân
chúng tôi đã áp dụng trong ba năm học gần đây và chúng tôi nhận thấy đạt một số

kết quả rõ rệt. Tuy nhiên đề tài vẫn còn nhiều điều chưa được hoàn hảo. Cho nên
chúng tôi rất mong nhạn được sự quan tâm bàn luận của bạn bè đồng nghiệp. Để
đề tài ngày càng hoàn thiện và được đưa vào áp dụng có hiệu quả hơn. Rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng chi. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
- Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Sách giáo khoa Ngữ văn 6,7,8, 9
NXBGD năm 2014.
- Hoàng Long- Hoàng Lân- Sách giáo khoa Âm nhạc 6,7,8, 9- NXBGD năm
2014.
- Các loại sách giáo viên. 6,7,8, 9 NXBGD năm 2014.
- Công văn thi liên môn Năm 2012- 2013, 2013- 2014, 2014- 2015 của Bộ
GD& ĐT
- Công văn thi liên môn Năm 2012- 2013, 2013- 2014, 2014- 2015 của Sở
GD& ĐT Nghệ An
- Công văn thi liên môn Năm 2012- 2013, 2013- 2014, 2014- 2015 của Phòng
GD& ĐT Tân Kỳ.
.

24


25


×