BÀI DỰ THI
Tìm hiểu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI
và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Quang Bình
lần thứ III, nhiệm kỳ 2015 - 2020
---------------------------------Câu 1: Nêu ý nghĩa, tầm quan trọng của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng diễn ra từ ngày 20 đến 28-1
là một sự kiện chính trị có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đất nước trong
tình hình mới. Đây là kỳ đại hội của đoàn kết, đổi mới, kỷ cương và dân chủ, mang
theo nhiều kỳ vọng của nhân dân.
Đại hội lần thứ XII của Đảng họp vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng:
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu
và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; trải qua 5 năm
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, 2
năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới.
Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, Đại hội đã thảo luận và thông qua những chủ
trương, quyết sách quan trọng, có giá trị định hướng và chỉ đạo sâu sắc toàn bộ quá
trình triển khai tổ chức thực hiện phượng hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước
nhanh, bền vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa rất trọng đại, định hướng, cổ vũ và động viên
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong 5 năm tới: tăng cường xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa;
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Câu 2: Nhìn lại 30 năm đổi mới Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành
được những thắng lợi gì?
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
So với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế
thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có những nét đặc thù riêng. Đổi
mới ở Việt Nam diễn ra từ hai chiều: “từ dưới lên” tức là ở các hợp tác xã, doanh
nghiệp và “từ trên xuống” tức là các quyết định của Đảng và Nhà nước. Mối liên hệ
hai chiều ấy đã làm cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra không có sự xung đột
giữa “phía trên” và “phía dưới”, cũng như không có các “cú sốc” quá mạnh được tạo
ra bởi các chính sách và biện pháp điều chỉnh vĩ mô cứng rắn và duy ý chí của bộ
máy lãnh đạo “phía trên”. Đó là đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam,
vừa có sự chỉ đạo từ trên xuống, vừa có sự sáng tạo của nhân dân từ bên dưới. Do
đó, đổi mới đã dẫn đến thành công.
Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô, ở Việt Nam nhu cầu đổi mới các
chính sách xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ không phải là hệ quả của những
biến động chính trị.
Sự chuyển từ chiến tranh sang hòa bình đã làm bùng nổ các nhu cầu về đời
sống, từ đó làm nảy sinh yêu cầu tháo gỡ các cản trở về quản lý kinh tế và sau đó
dẫn đến những thay đổi trong quan niệm từ sự vận hành của nền kinh tế. Nói cách
khác, thực tiễn đã làm “tan băng” các quan niệm xơ cứng và thúc ép hoàn thành hệ
thống lý thuyết và quan niệm phù hợp hơn.
Đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn lao,
hầu như tất cả các nước đều có sự điều chỉnh chính sách của mình. Những kinh
nghiệm cải cách của các nước cũng là sự gợi mở cho Việt Nam trong sự nghiệp tìm
tòi con đường đổi mới. Vì vậy, những quan điểm đổi mới của Việt Nam được hình
thành không chỉ đúc kết kinh nghiệm của nước mình mà còn từ những kinh nghiệm
thành công và không thành công của các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đổi mới ở Việt Nam là quá trình thử nghiệm, trong quá trình này cái mới và
cái cũ xen kẽ nhau, cái cũ không mất đi ngay mà lùi dần, có lúc, có nơi còn chiếm
ưu thế hơn cái mới, nhưng xu hướng chung là cái mới dần dần được khẳng định và
đưa tới thành công. Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn luôn lấy
sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi
mới, phát triển và chính sự phát triển đó sẽ tạo ra sự ổn định mới vững chắc hơn. Sau
hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, khắc phục
được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm phát 12% (năm
1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc phục được nạn thiếu
lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất
lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm
mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý đến việc
thực hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể. Tính riêng trong 5 năm (19931998), thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng 2,45 lần.
Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã xác
định đổi mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Nhờ định
hướng đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về sản xuất và đời sống
được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới, tự nó
trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới giành nhiều thắng lợi.
Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội, văn hóa
với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và phát huy
đại đoàn kết toàn dân, giữ gìn bản sắc vă006E hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo được Nhà nước hết sức
chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học - công nghệ và giáo dục - đào
tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những năm vừa qua, khoa học - công
nghệ và giáo dục - đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2000, Việt
Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, hiện nay chương trình đào tạo sau đại
học với hai học vị thạc sĩ và tiến sĩ đang được thực hiện ở hầu hết các ngành học
thuộc khoa học tự nhiên và công nghệ cũng như khoa học xã hội và nhân văn.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã
kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập Việt
Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) gồm
10 nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng 102004, Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.
Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và châu Đại
Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
Chính trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng
xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu
ngân sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2,404 tỷ
USD và nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung bốn năm từ năm 2001 đến năm
2004, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân
bốn năm khoảng 14,6%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt
trên 305 USD/người.
Đổi mới ở Việt Nam đã kết hợp được nội lực và ngoại lực. Tháng 12-1987,
Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ thời gian ấy đến nay, đất
nước ta đã thu được hàng chục tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài với hàng nghìn dự án,
trong số đó đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD. Có thể nói rằng, nguồn đầu tư trực tiếp
nước ngoài giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Ngoài ra, Việt Nam còn tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
ngày càng cao.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh mẽ
trên thế giới. Đồng thời, thông qua các dự án hợp tác với nước ngoài, các doanh
nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Những thành tựu đổi mới trên bắt nguồn từ đổi mới tư duy. Việc đổi mới tư
duy mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra rất khái quát, nhưng hết sức cơ bản và có ý nghĩa quan trọng cho việc tiếp
tục đổi mới về sau. Khi công cuộc đổi mới được triển khai và đi vào chiều sâu thì
đổi mới tư duy càng được đẩy mạnh. Bất cứ một sự ngưng trệ nào trong tư duy cũng
đều làm ngưng trệ sự đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn
đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội vừa là kết quả đổi mới tư duy, lại vừa đặt ra
những yêu cầu mới cho việc tiếp tục đổi mới tư duy ở trình độ cao hơn.
Ở Việt Nam, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà làm
cho chủ nghĩa xã hội đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là phủ định quá khứ mà
khẳng định những gì hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai, bổ
sung những nhận thức mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới.
Thực hiện được những điều trên đây thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp giữa
cái đúng và cái sai, giữa tiến bộ và lạc hậu, lỗi thời, giữa cái mới thúc đẩy sự phát
triển và cái cũ cản trở sự phát triển. Tiêu chuẩn để phân biệt những mặt trái ngược
đó chính là thực tiễn - kết quả về kinh tế, xã hội giành được trong thời kỳ đổi mới.
Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có hai thành
phần kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mô hình mới - kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần (nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, có vốn đầu
tư nước ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất
biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu nhằm thúc đẩy
phát triển sản xuất. Đây là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng
quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Điều đó đã mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải
phóng sức sản xuất. Nhân tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất là con
người: Người lao động làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi ích, trong đó lợi ích
cá nhân của người lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện phát triển
lợi ích của tập thể và của toàn xã hội.
Thứ hai, từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
chuyển sang mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm nổi bật trong đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành
tương đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đổi mới có tính chất đột phá là từ chỗ về cơ bản không sử dụng
quan hệ hàng hóa - tiền tệ, chuyển sang coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối
tượng của kế hoạch. Còn kế hoạch mang tính định hướng, điều tiết ở tầm vĩ mô, thị
trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động
và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.
Cơ chế thị trường thừa nhận cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng
đồng thời dẫn tới sự chênh lệch, sự phân hóa giàu nghèo. Đây là mặt trái của cơ chế
thị trường.
Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị
trường đẩy sự phân hóa giàu nghèo vượt qua giới hạn cho phép. Việt Nam đã giải
quyết vấn đề này bằng chính sách xóa đói, giảm nghèo được thực hiện tương đối
hiệu quả.
Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt
Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào
giữa tháng 6-2004, đại diện của nhiều tổ chức và nhà tài trợ quốc tế đã đánh giá cao
những thành tựu của Việt Nam trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Việt Nam là
nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với phương
thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời
sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã hội,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong lĩnh vực này đã góp phần quan
trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa
xã hội, nảy sinh ra những nhân tố mới, động lực mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới ở
Việt Nam giành được nhiều thành quả.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gồm ba phần cấu thành: Đảng, Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân. Nói đổi mới hệ thống chính trị thực chất là đổi mới tổ
chức, cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị đó. Cụ thể là:
- Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ
phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình
độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong
Đảng... Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái”1.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thể hiện và thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, định ra pháp luật, tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội
bằng pháp luật, kế hoạch và các chính sách cụ thể. Lắng nghe ý kiến của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, nhờ vậy đã có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa và chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm
quyền và lợi ích của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp đoàn kết toàn dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. “Các
đoàn thể nhân dân, tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận động
đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực; vừa giáo dục
nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên, vừa tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội”2.
Thành tựu đạt được trong việc thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là đáng kể.
Đổi mới đã tạo ra bầu không khí dân chủ và cởi mở trong xã hội, đã thiết lập được
các cơ chế và chính sách để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Tất cả những
điều vừa trình bày trên đây đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ
với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam.
Câu 3: Hãy cho biết mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm
vụ tổng quát trong năm 5 tới được xác định tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng?
Mục tiêu tổng quát.
Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy
sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực
và trên thế giới.
Các chỉ tiêu quan trọng.
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến
năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp
và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng
khoảng 32 - 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%; năng suất lao
động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình
quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 - 40%.
Về xã hội : Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã
hội khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng
cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 - 10 bác
sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80%
dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
Về môi trường : Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn
được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải
y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Các nhiệm vụ trọng tâm : Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trên cơ sở quán triệt
và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các
lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo chính trị và Báo cáo kinh tế - xã hội, cần đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát
triển đất nước nhanh, bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là
đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ. Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá
chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại
tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt
vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ
xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở
rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách
thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị
thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết;
tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người;
bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây
dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây
dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
Câu 4: Hãy nêu những điểm mới trong Văn kiện đại hội XII của Đảng và
phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân?
Các văn kiện Đại hội lần này được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu sắc
lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước được bổ sung phát triển năm 2011, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020. Những định hướng lớn đã được thể hiện trong tiêu đề Báo cáo
Chính trị và cũng là chủ đề của Đại hội: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Những nội dung cốt lõi, những điểm mới đáng lưu ý là: Tiếp tục đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực; tăng cường tiềm lực và đẩy
mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ; xây dựng phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức và tâm hồn, có trí tuệ, năng lực thực
tiễn; quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân vững chắc, chủ động làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch; triển khai đồng bộ đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển; tăng cường công tác xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán
bộ, đảng viên.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Đại hội XI, Văn kiện đại hội XII đã nêu
phương hướng: "Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi
nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy
mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" làm điểm tương đồng;
tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc;
đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết
mọi người Việt Nam, tăng cường quan hệ máu thịt của nhân dân với Đảng, Nhà
nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc". So với Đại hội XI, điểm
mới trong Văn kiện nêu: "Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo
của nhân dân"; "Tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của
quốc gia - dân tộc".
Để thực hiện được phương châm trên, Văn kiện đã kế thừa những nhiệm vụ,
giải pháp của Đại hội XI, có bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp mới, nổi bật là:
Tiếp tục thể chế hoá và cụ thể hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả
các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những
vấn đề lớn của đất nước; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả
thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi
ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi
mới. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng
nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính
đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ
chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực
hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân;
trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân. Văn kiện nêu định
hướng xây dựng các giai tầng trong xã hội; trong đó có những điểm mới so với Đại
hội XI, chẳng hạn như: tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo v.v.
Kế thừa Đại hội XI, Văn kiện bổ sung phương hướng: Dân chủ phải được thực
hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tập trung xây
dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân
dân.So với Đại hội XI, Văn kiện nêu một số nhiệm vụ, giải pháp mới:
Một là, cụ thể hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa
vụ, đề cao đạo đức xã hội.
Hai là, thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, giám sát" (điểm mới là bổ sung nội dung "giám sát").
Ba là, tổ chức thực hiện tốt các quy chế, quy định: Quy chế giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy định về việc
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền; Quy định về giám sát đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ
Chính trị, Ban Bí thư quản lý và các quy định, quy chế khác.
Câu 5: Hãy nêu phương hướng, nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng
được trình bày tại Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng?
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt. Trong đó, tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức, tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo là những vấn đề
cơ bản, là cơ sở để xây dựng Đảng ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới. Về nội dung công tác xây dựng Đảng, Văn kiện Đại hội XII của Đảng có
nhiều quan điểm và những giải pháp mới so với Văn kiện Đại hội XI.
Thứ nhất, nội dung về công tác xây dựng đảng được nhấn mạnh và đặt đúng
tầm quan trọng, vị trí then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, cụ thể là:
Vấn đề “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” được xác định là thành tố
đầu tiên của Chủ đề Đại hội, cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị, đó là: “Tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân
chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Trong 15 mục đề cập 15 vấn đề lớn của Báo cáo chính trị, thì mục về “Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng” có nội dung dài nhất (mục xây dựng Đảng dài hơn 35 trang, 14 mục còn lại là
123 trang) thể hiện vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng trong
Báo cáo chính trị tại Đại hội XII và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XII xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong cả nhiệm kỳ, thì 2 nhiệm vụ
đầu tiên là về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đó là:
Thứ nhất, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Thứ hai, Đại hội XII của Đảng xác định phương hướng chung về công tác xây
dựng đảng trong cả nhiệm kỳ là: “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề
của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng,
trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XI một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Việc Đại hội XII của
Đảng xác định phải tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XI về
xây dựng Đảng thể hiện quyết tâm chính trị của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị
đối với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, và coi đó là nhiệm vụ vừa trọng tâm,
cơ bản, vừa là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của công tác xây dựng Đảng trong
tình hình hiện nay; khắc phục một số hạn chế, khuyết điểm và một số việc chưa đạt
mục tiêu Nghị quyết đề ra.
Thứ ba, hai nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính
trị đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII cụ thể hoá thành 3 đề án
trong Chương trình làm việc toàn khóa của Trung ương để trình ra các hội nghị
Trung ương khóa XII là:
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ (Đề án trình Hội nghị Trung ương 4, tháng 10-2016).
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn với xây dựng tổ chức
bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu (Đề án trình Hội nghị Trung
ương 6, tháng 10-2017).
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ (Đề án trình Hội nghị Trung
ương 7, tháng 5-2018).
Thứ tư, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nêu 10 nhiệm vụ về xây dựng Đảng,
bổ sung thêm 2 nhiệm vụ mới so với Đại hội XI, đó là:
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân. Ở Đại hội XI, chưa có mục riêng nói về công tác dân
vận. Trong khi đó, công tác dân vận còn nhiều mặt hạn chế. Việc xây dựng, nhất là
triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận còn chưa
kịp thời, kém hiệu quả; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi
cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân…
để có chủ trương, chính sách và biện pháp phù hợp. Xuất phát từ vị trí quan trọng và
thực trạng của công tác dân vận trong tình hình hiện nay, Đại hội XII có một mục
riêng về công tác dân vận, nhằm cụ thể hoá thực hiện Hiến pháp năm 2013 về tăng
cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân và tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác Dân vận trong tình hình mới”.
Đại hội XII của Đảng đề ra một số giải pháp mới để thực hiện nội dung này là:
Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; giải quyết
kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và
khiếu nại, tố cáo của công dân.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội
ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân,
dựa vào dân, có trách nhiệm với dân.
Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm“Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ở Đại hội XI, công
tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đề cập trong phần xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở Đại hội XII, vấn đề đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí được đề cập cả trong phần xây dựng Nhà nước và xây
dựng Đảng, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ thực trạng: nhiều cấp ủy
đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thực
hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy được sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng,
lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu.
Từ thực trạng đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng nêu rõ: Đấu
tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đồng thời là
nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền và toàn hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng, chống tham
nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí và
bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn
cản việc chống tham nhũng, lãng phí.
Đại hội XII đã đề ra một số giải pháp mới để thực hiện nội dung này là:
Hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo
đảm công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu lực, hiệu quả, nhất là trong
các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như: quản lý và sử dụng đất đai, khai thác
tài nguyên, khoáng sản, thu, chi ngân sách và mua sắm công, thực hiện các dự án
đầu tư xây dựng cơ bản...
Kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng;
cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng;
Thực hiện nghiêm quy định về kê khai, kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập của
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý; hạn chế giao
dịch bằng tiền mặt.
Thứ năm, ngoài 2 nhiệm vụ mới được bổ sung so với Đại hội XI, 8 nhiệm vụ
còn lại về công tác xây dựng Đảng đều được bổ sung, phát triển và nhấn mạnh
hơn. Cụ thể là:
Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị.
Văn kiện Đại hội XI nêu “Xây dựng Đảng về chính trị”. Trước những hạn chế
như: việc thể chế hóa, xây dựng chương trình hành động và tổ chức thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng chưa kịp thời, đồng bộ, cụ thể và hiệu quả
chưa cao; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp…; Đại
hội XII bổ sung và nhấn mạnh: “Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị”.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp để thực hiện: Một là, kiên định những vấn
đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền
của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh
chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên. Hai là, nâng cao
năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc
điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển. Ba là, hoàn thiện cơ chế, quy chế
và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn
trong các kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các
cấp. Bốn là, xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế phát huy vai trò của
nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận.
Đại hội XI nêu: “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận”.
Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh: “Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận”. Phải đổi
mới công tác này do yêu cầu từ tình hình thực tiễn là chất lượng và hiệu quả công
tác tư tưởng, lý luận còn chưa cao, còn thiếu sắc bén và chưa thuyết phục. Công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị còn lạc hậu.v.v.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, Đại hội XII đề ra một số giải pháp mới để thực hiện:
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu,
tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm
vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, đồng
thuận trong xã hội.
Đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp
với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả.
Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho hoạch định, phát triển đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước (điểm mới là đưa tổng
kết thực tiễn lên trước nghiên cứu lý luận).
Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương.
Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, thực dụng.
Đại hội XI nêu: “Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân”, Đại hội XII đã bổ sung và nhấn mạnh: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất
đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”. Đây là một nội
dung mới rất quan trọng để thực hiện mục tiêu “Xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Việc bổ sung nội dung xây dựng
Đảng vềđạo đức là vấn đề đặc biệt quan trọng trong tình hình hiện nay, khi tình trạng
tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi,
phức tạp; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp
hơn. Vì vậy, Đại hội XII nhấn mạnh phải “Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng” cho cán bộ, đảng viên, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta trong
việc đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm; đồng
thời, tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ
thống chính trị là “coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc” để xây dựng “Đảng
ta là đạo đức, là văn minh” như Bác Hồ đã nói.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp thực hiện: Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hai là, thực hiện
nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng; giám sát và phản biện
xã hội của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm
chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Về tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị.
Tình hình thực tiễn hiện nay cho thấy, tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ
thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ
chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống
chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Số lượng cán bộ, công chức không
những không giảm mà lại tăng, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập và viên chức,
cán bộ chuyên trách, không chuyên trách xã, phường, thị trấn…
Do vậy, Đại hội XII tiếp tục phát triển, cụ thể hoá chủ trương của Đại hội XI,
Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức và Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung
ương (khoá XI)“Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị từ Trung ương
đến cơ sở” và nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và
hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; nâng cao năng
lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với
cá nhân phụ trách.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp thực hiện là: Một là, hoàn thiện và thực
hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật,
kỷ cương. Hai là, nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan đảng và
nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ. Ba là, thực hiện chủ trương quản lý
biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị. Bốn là, tinh giản tổ chức bộ
máy gắn với tiếp tục phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của
các tổ chức. Năm là, thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và tinh giản biên chế
trong toàn hệ thống chính trị. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát
quyền lực, ngăn chặn sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Sáu là, cơ bản thực
hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp; sớm
tổng kết mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, cấp
huyện ở những nơi có đủ điều kiện.
Về xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên.
Đại hội XI nêu: “Kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng
đảng viên”. Đại hội XII đã bổ sung và làm rõ hơn: “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng
viên”. Đại hội XII đề ra một số giải pháp mới để thực hiện: Một là,kiện toàn tổ chức,
bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Hai là, tổng kết việc thực hiện Quy
định của Ban Chấp hành Trung ương về đảng viên làm kinh tế tư nhân và việc thí
điểm kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Ba
là, xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân… vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục
tiêu, lý tưởng của Đảng.
Về công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ.
Đại hội XI nêu: “Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị
nội bộ”. Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh là: “Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ,
coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ”. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII thẳng
thắn thừa nhận: Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế, chưa nắm và
giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và
trong xã hội...
Đại hội XII chỉ rõ: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “Chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; thể chế hóa, cụ thể hóa các
nguyên tắc về xây dựng Đảng; tiếp tục ban hành và thực hiện các quy chế, quy định
trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu,
liên thông giữa các cấp; có quy chế về đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán
bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy
tuổi, chạy bằng cấp...
Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này, Đại hội XII đề ra một số giải pháp thực
hiện: Một là, thể chế hoá, cụ thể hoá nguyên tắc của Đảng về: Quan hệ giữa đường
lối chính trị với đưòng lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết
rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài;
giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ
trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền và trách
nhiệm cá nhân và tập thể. Hai là, đổi mới công tác bầu cử trong Đảng, phương thức
tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,… để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Ba là, tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân
tài. Bốn là, tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, nhất là cấp ủy cơ sở trong công tác
bảo vệ chính trị nội bộ; gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Xác định nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ
trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật. Năm là, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những biểu hiện cục bộ,
bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ,
đảng viên vi phạm quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng
viên KHÔNG được làm, nhất là việc phát ngôn, tuyên truyền, tán phát tài liệu trái
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước. Đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động
“diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Về đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Đại hội XI nêu “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát”. Đại
hội XII bổ sung và nhấn mạnh: “Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng”. Nhiệm vụ này đặt ra xuất phát từ tình hình hiện nay:
chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng và đảng viên
vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực trong nội bộ Đảng. Nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, đảng
viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử lý, hoặc xử lý kéo dài, nên kỷ cương, kỷ luật
ở một số nơi chưa nghiêm; chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp thực hiện là: Một là, xử lý kịp thời, nghiêm
minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung
túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, công khai
kết quả xử lý. Hai là, tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng
để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng. Ba là, chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ
chức nhà nước trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không để người thân
trong gia đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Bốn là, nghiên cứu việc tăng
thẩm quyền kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng cho ủy ban kiểm tra các cấp.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Về nội dung này, Đại hội XII đã nhấn mạnh một số hạn chế như: đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã
hội còn chậm; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn
lúng túng. Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền…
Trước tình trạng đó, Đại hội XII xác định: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Các tổ
chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Coi trọng xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ
quan nhà nước, trong hệ thống chính trị.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp mới để thực hiện:
Một là, tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác
định rõ mục đích, phương thức, nội dung và điều kiện cầm quyền; việc phát huy dân
chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng
ngừa đối với đảng cầm quyền.
Hai là, tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác
định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy
định, quy trình cụ thể.
Ba là, quy định rõ hơn các tiêu chí Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
Quy định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp.
Bốn là, đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền; có cơ chế để các địa phương
phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm
sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của Trung ương.
Năm là, đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh
đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập
thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.
Câu 6: Hãy nêu nội dung 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ đại hội
XII của Đảng:
Nội dung 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ đại hội XII của Đảng đó là:
Một là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá trong
nội bộ... Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Hai là, xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu.
Ba là, tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược; cơ
cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết
tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ
xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
Bốn là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định
để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; thực
hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín
của đất nước trên trường quốc tế.
Năm là thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết;
tăng cưòng quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo
đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sáu là phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập
trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm
việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
Câu 7: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVI, nhiệm kỳ
2015 - 2020 được diễn ra ngày, tháng, năm nào? ở đâu? Đại hội có bao nhiêu
đại biểu tham dự? đại hội đã xác định có mấy khâu đột phá và có bao nhiêu
chương trình trọng tâm?
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 -2020
được diễn ra từ ngày 27 đến ngày 29/9/2015. Đại hội được tổ chức tại Hội trường
Tỉnh ủy. Dự Đại hội có 325 đại biểu được triệu tập, trong đó đại biểu đương nhiên là
53 đồng chí, đại biểu do Đại hội Đảng bộ các huyện, thành phố, Đảng ủy trực thuộc
bầu là 272 đại biểu; đại biểu cao tuổi nhất là 65 tuổi, đại biểu trẻ tuổi nhất là 26 tuổi.
Có 250 đại biểu nam, 75 đại biểu nữ.
Đại hội đã xác định hai khâu đột phá và năm chương trình trọng tâm.
Hai khâu đột phá, gồm:
Đột phá về nâng cao chất lượng công vụ, xây dựng chính sách vận hành cơ
chế, đưa chính sách vào cuộc sống cho phát triển nhanh và bền vững.
Đột phá về ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất.
Năm chương trình trọng tâm, gồm:
Chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Chương trình phát triển dược liệu gán với xóa đói giảm nghèo.
Chương trình phát triển du lịch gắn với phát triển bền vững.
Chương trình phát triển kinh tế biên mậu gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh.
Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với giải quyết việc làm.
Câu 8: Hãy cho biết mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu 5 năm 2015 - 2020
được xác định tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVI.
Mục tiêu:
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng và
đảng viên; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc. Tập trung huy động và sử dụng
hiệu quả mọi nguồn lực, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế để đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững, nâng cao năng
lực cạnh tranh. Từng bước xây dựng Hà Giang thành một trong những trung tâm du
lịch quốc gia và vùng trọng điểm quốc gia về dược liệu, có kết cấu hạ tầng cơ bản
đồng bộ; có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc; hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; chủ quyền quốc gia được giữ vững, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định. Quyết tâm xây
dựng Hà Giang thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, có trình độ phát triển đạt mặt
bằng chung của khu vực.
Mục tiêu cụ thể
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt tốc độ tăng bình quân 7,5-8%.
Cơ cấu kinh tế: Thương mại - dịch vụ chiếm 39%, công nghiệp - xây dựng
28%, nông lâm nghiệp - thuỷ sản 33%.
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 2.000 tỷ đồng.
Giá trị hàng hoá xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu đạt 880 triệu USD.
Tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt 30 triệu đồng/năm.
Tổng sản lượng lương thực đạt 42 vạn tấn.
Giá trị sản xuất bình quân/ha đất canh tác đạt 50 triệu đồng.
Tỷ trọng chăn nuôi trong ngành nông nghiệp đạt 30%.
Tỷ lệ che phủ rừng đạt 60%.
Số xã được công nhận đạt tiêu chí nông thôn mới đạt 41 xã.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,4%.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hằng năm đạt 3%.
Tỷ lệ số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia đạt 94,4%.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%.
Tỷ lệ huy động trẻ từ 6 đến 14 tuổi đến trường đạt 99%.
100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế và đạt 8,8 bác sỹ/1 vạn dân.
Tỷ lệ dân số thành thị được sử dụng nước sạch đạt 100%.
Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 86%.
Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom đạt 90%.
(Trên 90% xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn an toàn về an
ninh trật tự.
Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt từ hoàn thành nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt 90%.
Tỷ lệ đảng viên từ hoàn thành nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt 99%.
Bình quân hằng năm kết nạp mới 2.200 đảng viên.
Nhiệm vụ chủ yếu
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng trọng tâm, chất lượng, hiệu
quả, bền vững gắn với chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu nội bộ từng ngành
kinh tế
Phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao gắn với xây dựng nông
thôn mới và phát triển du lịch
Rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện quy hoạch phát triển các vùng sản xuất chuyên
canh các cây trồng có thế mạnh, các loại rừng; cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư phát
triển, ưu tiên bố trí cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, nhất là phát
triển các cây, con chủ lực.
Tập trung thực hiện hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Tiếp tục
đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi. Phấn đấu
năm 2020 đạt 42 vạn tấn lương thực, đạt giá trị sản xuất 50 triệu đồng/ha/năm.
Triển khai thực hiện có hiệu quả quy hoạch, dự án phát triển dược liệu gắn
với giảm nghèo nhanh và bền vững. Xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh để hỗ trợ,
thu hút đầu tư phát triển bền vững vùng nguyên liệu trên cơ sở liên kết chặt chẽ sản
xuất, chế biến, tiêu thụ với xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý.
Tập trung phát triển một số sản phẩm có thế mạnh theo chuỗi giá trị và tiêu
chuẩn VietGAP (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt), như: Chè, cam, cây dược liệu,
trâu, bò, ong... có thương hiệu, có tính cạnh tranh cao, mở rộng thị trường tiêu thụ
trong nước và xuất khẩu. Mở rộng vùng sản xuất rau quả an toàn và diện tích cây vụ
đông ở nơi có điều kiện; quy hoạch, phát triển cây tam giác mạch và sản phẩm chế
biến từ tam giác mạch phục vụ du lịch. Chuyển đổi một phần diện tích trồng cây
lương thực năng suất thấp sang trồng cỏ chăn nuôi, cây dược liệu và các cây trồng
khác có hiệu quả cao hơn.
Tập trung cải tạo nâng cao chất lượng đàn gia súc, chú trọng tăng số lượng,
chất lượng gia súc sinh sản trong tổng đàn. Phấn đấu tỷ trọng chăn nuôi trong nông
nghiệp đến năm 2020 đạt 30%. Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản ở nơi có điều
kiện thuận lợi, quan tâm nuôi cá đặc sản ở những vùng có nguồn nước lạnh (Hoàng
Su Phì, Xín Mần, Quản Bạ); bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn lợi thủy sản ở các
lòng hồ thủy điện.
Đẩy mạnh phát triển vốn rừng kết hợp với khai thác hợp lý tài nguyên rừng,
đất rừng, bảo vệ đa dạng sinh học. Tiếp tục tăng cường công tác khoanh nuôi, bảo
vệ, chăm sóc rừng hiện có, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ xung yếu. Quy
hoạch và bảo đảm vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến lâm sản trên địa bàn;
thực hiện chuyển đổi diện tích rừng tự nhiên nghèo kiệt, vườn tạp sang trồng rừng
sản xuất; chủ động các biện pháp phòng, chống cháy rừng, khai thác, buôn bán, tàng
trữ lâm sản trái phép. Phấn đấu tỷ lệ che phủ rừng đạt 60%.
Chú trọng lồng ghép các nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, cùng với
thực hiện xã hội hóa để xây dựng nông thôn mới theo bộ tiêu chí Quốc gia; quan tâm
đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đảm bảo đồng bộ, ưu tiên các vùng khó khăn,
vùng đồng bào dân tộc để góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững; giữ gìn, phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống; khôi phục, phát triển thủ công nghiệp và ngành
nghề nông thôn; có chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Phấn đấu đến năm 2020 có 41 xã đạt tiêu
chuẩn nông thôn mới.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp trên cơ sở khai thác hợp lý, hiệu quả nguồn
tài nguyên thiên nhiên
Phát huy năng lực sản xuất của các cơ sở công nghiệp hiện có, phấn đấu tốc
độ phát triển ngành công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9%. Tập trung đầu tư có
chiều sâu, đổi mới công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp thủy điện và chế biến sâu
khoáng sản, đưa công nghệ tiên tiến đạt tiêu chuẩn vào sản xuất để tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên, nâng cao giá trị sản phẩm, giảm thiểu tác hại đối với môi
trường; khuyến khích phát triển công nghiệp theo hướng xuất khẩu. Tăng cường
kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
tài nguyên, môi trường.
Phát triển mạnh công nghiệp chế biến trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu
sẵn có tại địa phương, gắn với phát triển hợp lý vùng nguyên liệu. Chú trọng đầu tư,
khôi phục và phát triển các làng nghề, những sản phẩm có thị trường và thu hút
nhiều lao động như: Dệt, may thổ cẩm; chế biến chè; sản xuất rượu, mây tre đan; chế
tác, sản xuất hàng lưu niệm và tiêu dùng...
Tập trung huy động, khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để xây dựng
kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
Tiếp tục kiến nghị đầu tư, nâng cấp các tuyến giao thông trọng điểm, như tuyến
đường nối Hà Giang với đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai, Quốc lộ 4C, 279 và các
tuyến kết nối giao thông giữa Hà Giang với các tỉnh giáp ranh; tuyến đường kết nối
với các cửa khẩu, lối mở; đường tỉnh. Ưu tiên đầu tư nâng cấp các tuyến đường đến
trung tâm các xã đảm bảo đạt tiêu chuẩn đường giao thông cấp VI miền núi và chương
trình cứng hoá giao thông nông thôn theo phương thức "Nhà nước và Nhân dân cùng
làm", phấn đấu đến năm 2020 trên 90% số thôn, bản có đường xe cơ giới thông suốt
quanh năm. Tiếp tục quản lý quy hoạch và từng bước triển khai lập các dự án đầu tư
xây dựng sân bay Phong Quang và Tân Quang, các bãi cất hạ cánh trực thăng.
Tranh thủ các nguồn vốn để đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi, cấp nước,
giải quyết cơ bản nước sinh hoạt cho đồng bào vùng cao núi đá. Phấn đấu đến năm
2020 tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt trên 86%, khu vực đô
thị đạt 100%. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án điện nông thôn, ưu tiên đầu tư lưới
điện cho các khu công nghiệp, khu du lịch, khu dân cư mới để đảm bảo đáp ứng nhu
cầu sản xuất và đời sống cho người dân.
Tiếp tục đầu tư hoàn thiện các tiêu chí đô thị loại III của thành phố Hà Giang,
tiêu chí đô thị loại IV và nâng cấp thị trấn Việt Quang thành thị xã thuộc tỉnh. Tiếp
tục huy động, khơi thông nguồn lực để triển khai Đề án hợp khối trụ sở các cơ quan
hành chính cấp tỉnh, hạ tầng khu hành chính huyện Bắc Quang mới, Đề án di chuyển
các trường chuyên nghiệp của tỉnh vào xã Phong Quang, huyện Vị Xuyên. Khuyến
khích, thu hút đầu tư phát triển các khu đô thị, khu dân cư tập trung, phía Đông Sông
Lô huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, phía Nam huyện Đồng Văn và phía Tây Nam Sông
Gâm huyện Bắc Mê. Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ đô thị hóa đạt 15 - 20%. Tập
trung đầu tư xây dựng trung tâm các xã, đặc biệt là các xã điểm xây dựng nông thôn
mới, hạ tầng Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, cửa khẩu Xín Mần - Đô Long, cửa
khẩu Săm Pun - Điền Bồng.
Phát triển thương mại, dịch vụ với tốc độ nhanh
Tiếp tục đầu tư và có chính sách khuyến khích thu hút đầu tư để nâng cấp và
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại như: Chợ cửa khẩu, siêu thị, chợ bán
buôn, chợ đầu mối, chợ vùng nông thôn... Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Cuộc vận
động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và Chương trình “Đưa hàng
Việt về nông thôn”. Nâng cao hiệu quả công tác quảng bá, xúc tiến thương mại, tổ
chức hội chợ thương mại, tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa địa
phương. Phấn đấu đưa tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội giai
đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân 10%.
Tăng cường các hoạt động thương mại biên giới với Trung Quốc qua các cửa
khẩu, lối mở. Thực hiện triệt để việc cải cách thủ tục hành chính hải quan, có cơ chế
để thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn.
Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đến năm 2020 đạt 880 triệu USD,
tăng bình quân 17%/năm.
Tập trung đầu tư, huy động các nguồn lực, khai thác hiệu quả tiềm năng du
lịch, phấn đấu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, từng bước xây dựng
thương hiệu du lịch Hà Giang
Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành quy hoạch chi tiết các khu chức năng Công viên
địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, khu dịch vụ du lịch giải trí cao cấp tại
thành phố Hà Giang và lập các dự án đầu tư xây dựng.
Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng du lịch tại vùng cao nguyên đá, các huyện phía
Tây và trung tâm thành phố Hà Giang, nhằm phát huy giá trị Công viên địa chất toàn
cầu cao nguyên đá Đồng Văn và di tích quốc gia ruộng bậc thang Hoàng Su Phì...; bảo
tồn, khai thác, phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc trở thành các sản phẩm du lịch
độc đáo.