Tải bản đầy đủ (.ppt) (40 trang)

Chuyên đề dạy học theo phương pháp: "Bàn tay nặn bột"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.77 KB, 40 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN MỸ ĐỨC

MÔN KHOA HỌC &TN-XH
Ở TIỂU HỌC


Nội dung

Phần thứ nhất: Giới thiệu chung về phương pháp”Bàn tay nặn bột”
1 Thế nào là “Bàn tay nặn bột” ?
2 Đặc điểm của PPBTNB
*Một số đặc điểm quan trọng để phân biệt Bàn tay nặn bột với các
phương pháp dạy học khác :
3 Một số lưu ý khi dạy pp : Bàn tay nặn bột.
4 Những ưu điểm của phương pháp: Bàn tay nặn bột.
Phần thứ hai: Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
1 Giới thiệu tổng thể các bước của tiến trình.
2 Giới thiệu , phân tích chi tiết từng bước. Ví dụ minh họa
3 Một số lưu ý khi lựa chọn bài và vận dụng các bước của PPBTNB
Phần thứ ba : Tổ chức soạn bài theo PPBTNB.
Phần thứ tư: Trình bày bài soạn của đơn vị mình và thảo luận.
Phần thứ 5: Lấy ý kiến nhận xét về PPBTNB, nêu khó khăn
thuận lợi, nhận xét đánh giá về chuyên đề, ….


Phần thứ nhất : Giới thiệu chung về phương
pháp “Bàn tay nặn bột”.
1.1 Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là gì ?
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy học
tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho dạy các
môn Khoa học tự nhiên.


“Bàn tay nặn bột” chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho
học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các
em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc
sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu
tài liệu hay điều tra…
-


1.2 Đặc điểm cơ bản của phương pháp
Bàn tay nặn bột ?
- Đặc điểm cơ bản của phương pháp Bàn tay nặn bột là
phương pháp giảng dạy dựa trên sự tìm tòi - nghiên cứu. Cũng
như các phương pháp dạy học tích cực khác, học sinh đóng vai
trò trung tâm trong quá trình dạy – học, tích cực, chủ động
lĩnh hội kiến thức. Giáo viên là người hướng dẫn, cố vấn, giúp
đỡ học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức thông qua các
hoạt động. Phương pháp này ngoài việc giúp học sinh lĩnh hội
kiến thức còn rèn luyện các kĩ năng và phát triển ngôn
ngữ( nói và viết) cho học sinh.


* Một số đặc điểm quan trọng để phân biệt Bàn
tay nặn bột với các phương pháp dạy học khác :
- Phương pháp Bàn tay nặn bột chú trọng biểu tượng ban
đầu của học sinh trước khi tiếp cận kiến thức mới.
- Sự tiếp thu kiến thức của học sinh thông qua việc giáo
viên giúp học sinh tự đi lại chính con đường mà các nhà khoa
học đã tìm ra chân lí(kiến thức):
- Đó là: Đặt giả thuyết ( biểu tượng ban đầu), đặt câu hỏi khoa
học, đề xuất phương án nghiên cứu và làm thí nghiệm để kiểm

chứng giả thuyết, đưa ra kết luận.


- Phương pháp Bàn tay nặn bột sử dụng vở thí nghiệm như là
một phương tiện để rèn luyện ngôn ngữ viết cho học sinh
trong quá trình học tập các kiến thức khoa học, tập làm quen
với ghi chép một cách khoa học các thông tin thu nhận được
trong giờ học.
-Việc phát hiện kiến thức của học sinh thông qua quá trình
tiến hành thực nghiệm, hs sẽ phân tích, suy luận, thảo luận
chung và tranh luận với bạn với giáo viên về những ý tưởng
hay kết quả thực nghiệm( Tức là bắt đầu từ đầu giống như các
nhà khoa học đã đi )


1.3 Một số lưu ý khi dạy pp : Bàn tay nặn bột.
- Người học phải tự nhiên như quá trình tìm ra chân lý hoạt
động tự nhiên.Với PPBTNB thì kể cả việc hs đọc sách trước,
học thêm trước, biết trước kiến thức thì khi đề xuất ra các thí
nghiệm để chứng minh,hs sẽ lúng túng khi được hỏi lại :
- Vì sao em biết điều đó? Làm sao em chứng minh được kết
luận của em là đúng ? Và nếu dạy trước thì tiết học sẽ không
tốt cho lắm.
-Sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột không được nhận xét
quan điểm của ai đúng, ai sai. ( Đây là một điều mà chúng ta
đặc biệt chú ý khi sử dụng phương pháp này và thông qua thí
nghiệm thì chính hs sẽ tự đánh giá mình đúng hay sai.(Tức là
hoàn toàn hs tự mình rút ra điều đó).



- PPBTNB rất phù hợp môn Tự nhiên & xã hội, môn
khoa học bởi vì nó liên quan đến quan sát, liên quan đến
thí nghiệm nhiều do đó mà nó rất phù hợp với bộ môn
nói trên.
- Trong chương trình hiện nay thì có những bài áp dụng
được cả quy trình của PPBTNB, nhưng có những bài chỉ
áp dụng một phần.


1.4 Ưu điểm của phương pháp: Bàn tay nặn bột.
- Trong dạy học theo phương pháp BTNB, học sinh là
người chủ động học tập, tự xây dựng kiến thưc thông
qua khám phá, thử nghiệm, thảo luận, hợp tác với bạn
với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên.Qua đó, học
sinh nắm được kiến thức, phát triển năng lực nhận thức
và tư duy sáng tạo; phát triển năng lực quan sát, thực
hành; kĩ năng làm việc hợp tác theo nhóm; … Góp phần
phát triển năng lực của học sinh.
- BTNB còn chú ý nhiều tới rèn kĩ năng diễn đạt thông
qua ngôn ngữ nói và viết để hs phát triển khả năng diễn
đạt, ngôn ngữ khoa học.
.


- Qua việc tích cực tham gia các hoạt động,
qua các bước của phương pháp BTNB, học
sinh hình thành các tác phong và thói quen làm
việc khoa học, thói quen độc lập suy nghĩ,
sáng tạo trong hành động, có lợi cho việc học
tập và nghiên cứu sau này.HS cũng dần được

hình thành, bồi dưỡng óc tò mò, ham muốn
khám phá, lòng yêu thích và say mê khoa học.


Phần thứ hai : Tiến trình dạy học theo
phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu
vấn đề .
Bước 2 : Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của học
sinh.
Bước 3 : Đề xuất câu hỏi(dự đoán/ giả thuyết) và
phương án tìm tòi. ( Đây là bước hoàn toàn mới ).
Bước 4 : Tiến hành thực nghiệm tìm tòi.
Bước 5 : Kết luận kiến thức.


Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu
vấn đề .
Là tình huống do GV chủ động đưa ra như là một
cách dẫn nhập vào bài. HS tiếp cận vấn đề đặt ra
qua tình huống(hay câu hỏi lớn của bài).
- Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài. GV
dùng câu hỏi mở. Tuyệt đối không dùng câu hỏi
đóng( Trả lời có hoặc không).


Bước 2: Hình thành biểu tượng ban đầu.
-Là những ý kiến biểu tượng ban đầu của học sinh trước khi
được tìm hiểu về bản chất.
- Đây là những quan niệm được hình thành trong vốn sống

của HS ,là các ý tưởng giải thích sự vật hiện tượng theo suy
nghĩ của HS.
- Sử dụng nhiều cách để hs bộc lộ quan niệm ban đầu đó là có
thể : Nói, có thể viết , có thể vẽ…


Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thực
nghiệm.
*Đề xuất câu hỏi
-Thông qua việc trình bày BTBĐ, GV giúp HS đề xuất các
câu hỏi nghiên cứu.
-Lưu ý: GV cần khéo léo lựa chọn những BTBĐ có liên quan
đến nội dung bài học để từ đó giúp HS dặt câu hỏi liên quan
đến bài học, xoáy sâu vào những quan niệm liên quan đến
kiến thức trọng tâm của bài học.
*Phương án thực nghiệm.
-Từ câu hỏi nghiên cứu GV đề nghị HS đề xuất PA thực
nghiệm tìm tòi-nghiên cứu.
Các PA có thể là:
Quan sát, thực hành thí nghiệm,nghiên cứu tài liệu,mô hình…


Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi- nghiên cứu.

-Từ các PA mà HS đưa ra, GV khéo léo lựa chọn PA thích
hợp và tối ưu nhất để HS thực hành nghiên cứu.
-Lưu ý: Nếu làm thí nghiệm thì ưu tiên TN trên vật thật. Nếu
không có thì cho HS quan sát mô hình, tranh ảnh.
+ Đối với PP quan sát, GV cho HS quan sát vật thật trước,
sau đó cho HS quan sát tranh khoa học, mô hình phóng to

những đặc điểm không thể quan sát rõ trên vật thật.
- HS phải tự đề xuất được các PA thực nghiệm và tự tiến hành
các thí nghiệm. Vì vậy các phương án phải đơn giản, dụng cụ,
đồ vật phải gần gũi với HS, dễ tìm kiếm trong đời sống hàng
ngày.


Bước 5: Kết hợp và Hợp thức hóa kiến thức.
-Sau khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu, các câu
trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm
chứng, kiến thức được hình thành.
- Tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chính xác một cách
khoa học.
-Vì vậy GV có nhiệm vụ chính xác hóa, bổ sung kết luận và
hệ thống lại để HS đối chiếu và ghi vào vở coi như là kiến
thức của bài học.



Một số lưu ý khi soạn bài, vận dụng các bước của
phương pháp BTNB:
Đối với môn khoa học thì hiện nay chúng ta đang dạy theo
chủ đề.
Có 3 chủ đề cơ bản : Sức khỏe và con người, Thực vật, động
vật, …Đặc điểm của môn khoa học, TN&XH là thiết kế theo
chủ đề do đó vấn đề là chúng ta dạy như thế nào trong một
chủ đề đó. Và đối với môn khoa học và môn TN&XH này thì
tinh thần là giáo viên hoàn toàn có quyền tự chủ trên cơ sở
sách giáo khoa, trên cơ sở chương trình quy định và sách
giáo khoa chỉ là một kênh tham khảo.

-Giáo viên có quyền thiết kế lại trật tự của sách giáo khoa đó
theo một chủ đề để phục vụ cho việc dạy học theo PPBTNB.
-Sử dụng linh hoạt PPBTNB.


10 nguyên tắc cơ bản khi áp dụng “Bàn tay nặn
bột” trong giảng dạy của giáo viên
Thứ nhất: Học sinh quan sát sự vật, hiện tượng trong thực tế gần gũi với
các em để các em dễ cảm nhận, dễ thực nghiệm trên chúng.
Thứ hai: Trong quá trình tự thực nghiệm, học sinh đưa ra ý kiến, nêu
thắc mắc, kết luận riêng và thảo luận trong tập thể (nhóm, cả lớp) từ đó
rút ra kiến thức khoa học.
Thứ ba: Giáo viên chỉ thực hiện vai trò đề xuất, tổ chức các thực nghiệm
cho học sinh theo một tiến trình sư phạm chặt chẽ. Giáo viên không làm
sẵn cho học sinh.
Thứ tư: Áp dụng phương pháp này cần một thời lượng tối thiểu là 2
giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Tính liên tục của các hoạt
động và những phương pháp giáo dục được bảo đảm suốt trong thời
gian học tập.
Thứ năm: Mỗi học sinh có quyển vở thực hành riêng do chính các em
ghi chép theo ngôn từ và cách thức của riêng mình.


Thứ sáu: Mục đích chính của phương pháp này là học sinh tiếp nhận
được các khái niệm khoa học và kĩ thuật thực hành. Song song đó là
củng cố ngôn ngữ viết và nói của các em.
Thứ bảy: Phụ huynh học sinh và tất cả mọi người xung quanh cần được
khuyến khích hỗ trợ những điều mà học sinh, lớp học cần để thực
nghiệm.
Thứ tám: Các đối tác khoa học (trường ĐH, CĐ, trường nghề, viện

nghiên cứu…) ở địa phương cần giúp các hoạt động của lớp theo khả
năng của mình.
Thứ chín: Ngành giáo dục, trường sư phạm giúp giáo viên các kinh
nghiệm và phương pháp giảng dạy.
Thứ mười: Giáo viên cần chủ động tự học, tự tìm hiểu tài liệu, kiến thức
liên quan; trao đổi với đồng nghiệp, các nhà khoa học… để nâng cao
kiến thức. Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất
những hoạt động của lớp mình phụ trách.


VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
A. Giáo viên: - Là người hướng dẫn:
+ Đề ra những tình huống, thách thức.
+ Định hướng các hoạt động.
+ Thu hẹp cái có thể.
+ Chỉ ra thông tin.
- Là người trung gian: Là nhà trung gian giữa “thế giới” khoa học và HS.
- Là người đàm phán với HS những thay đổi nhận thức liên quan với
những câu hỏi được xử lí với các thiết bị thí nghiệm thích đáng , với mô
hình giải thích hợp lí.
- Đảm bảo sự đón trước và giải quyết những xung đột nhận thức.
- Hành động bên cạnh HS cũng như mỗi nhóm, lớp.
B. Học sinh :Chủ động tìm đến những kiến thức khoa học theo sự định
hướng của GV.
- Độc lập suy nghĩ, phán đoán, lập luận, bảo vệ ý kiến.
- Thảo luận, tranh luận với bạn bè bằng các hình thức nghiên cứu khác
nhau để minh chứng cho những kết luận khoa học của mình, nhóm mình
đưa ra.



. KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
 .HỌC SINH 
Khó khăn :
Trình độ HS chưa đồng đều, Thao tác thực hành (còn chậm).
HS còn thụ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
HS chưa có thói quen sử dụng vở thí nghiệm.
HS đặt câu hỏi không sát với nội dung bài học 
BP Khắc phục:
Cần cho các em làm quen dần với PPBTNB.
Nói cho các em biết rõ hơn về PPDH mới.
Tạo một thói quen khi học tập với PPBTNB.
Khuyến khích HS còn hạn chế trình bày các ý kiến cá nhân ở tất
cả các môn học.
Giáo viên phải biết chọn lọc câu hỏi.


KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
 . THIẾT BỊ
Khó khăn :
Trang thiết bị chưa đầy đủ phục vụ cho việc thí nghiệm.
Rất khó tổ chức cho các em đi thám điều tra
BP Khắc phục:
GV tận dụng những nguyên vật liệu rẻ tiền có sẵn ở địa phương
để phục vụ cho việc giảng dạy.
Có thể kết hợp với các lực lượng GD khác trong và ngoài nhà
trường.


KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
 .  BIÊN CHẾ LỚP HỌC

Khó khăn :
- Sĩ số đông ảnh hưởng đến việc tổ chức các hình thức dạy học.
BP Khắc phục:
 Sắp xếp bàn ghế phù hợp. - Bố trí nhóm từ 4 – 6 người.- Có chỗ
dành riêng để vật liệu thí nghiệm. 


KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
 .  THỜI LƯỢNG TIẾT HỌC
Khó khăn :
Thời lượng cho 1 tiết dạy ở Tiểu học 35 - 40 phút nên GV thường
bị ràng buộc về thời gian.
Làm thí nghiệm có thể thất bại nhiều lần.
Thời gian dành cho các hoạt động thí nghiệm (mất nhiều thời gian).
BP Khắc phục: Thời gian không quy định. Tuy nhiên nên hạn chế.
Lớp 1,2,3 khoảng 50-60p. Lớp 4,5 khoảng 60- 70. Lưu ý : Cần báo
cáo BGH khi dạy PPBTNB.
Sử dụng phương pháp này thường xuyên để rèn thói quen cho HS.
Rèn cho HS có kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc
GV cần có mặt kịp thời nhằm giúp nhóm trình bày ý tưởng, có thể
điều chỉnh kịp thời để tránh thất bại nhiều lần.
Những vấn đề chưa cần thiết giải quyết trong tiết học GV hẹn dịp
khác.
Đề xuất ý kiến lên các cấp quản lí giáo dục.


×