Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghiên cứu bảo tồn các loài cây thuộc ngành thông (pinophyta) tại vườn quốc gia hoàng liên lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.45 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------

HOÀNG XUÂN CHUNG

NGHIÊN CỨU BẢO TỒN CÁC LOÀI CÂY
THUỘC NGÀNH THÔNG (PINOPHYTA) TẠI VƯỜN QUỐC GIA
HOÀNG LIÊN, LÀO CAI

Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG VĂN SÂM

Hà Nội, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học có ý nghĩa chiến lược trong thời đại
hiện nay. Hội nghị thượng đỉnh Rio De Janeiro ngày 05 tháng 06 năm 1992 là
tiếng chuông thức tỉnh toàn thế giới “Hãy cứu lấy trái đất” vì sự đa dạng sinh
vật liên quan đến sự sống của trái đất (ghi theo Richard B. Primack, 1999).


Việt Nam là một trong những trung tâm đa dạng sinh học của thế giới,
trong những năm qua tài nguyên đa dạng sinh vật bị khai thác quá mức và tàn
phá nặng nề, nên vấn đề bảo tồn đa dạng sinh vật là một yêu cầu cấp bách ở
nước ta hiện nay.
Vườn quốc gia (VQG) Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai nằm trong hệ thống
các VQG của Việt Nam, được thành lập từ tháng 07 năm 2002 trên cơ sở
chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Hoàng Liên Sa Pa thành VQG
Hoàng Liên. Đây là một trong những VQG có vị trí rất đặc biệt của Việt Nam,
có dãy núi Hoàng Liên Sơn là phần kéo dài của núi Ailao Shan từ Trung Hoa,
bắt nguồn từ dãy núi Himalaya. VQG Hoàng Liên nằm ở phía Đông của dãy
núi Hoàng Liên, gồm hầu hết các đỉnh núi có độ cao trên 1.000m, trong đó có
đỉnh Phan Si Păng cao tới 3.143m so với mặt nước biển, được ví như nóc nhà
của Đông Dương nói chung và của Việt Nam nói riêng. Đồng thời dãy núi
Hoàng Liên còn là nơi giao thoa của hai tiểu vùng khí hậu ôn đới núi cao và á
nhiệt đới. Vì vậy, VQG Hoàng Liên được các nhà khoa học xác định là một
trong những trung tâm đa dạng sinh vật vào bậc nhất của Việt Nam, là nơi còn
sót lại nhiều loài đặc hữu quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam và
Sách Đỏ thế giới.
Dãy Hoàng Liên Sơn cũng là nơi phân bố chính của một số loài thực
vật thuộc ngành Thông. Tại đây, các loài thuộc ngành Thông xuất hiện tương
đối nhiều như Kim giao núi đá (Nageia fleuryi), Pơ mu (Fokienia hodginsii),
Thiết sam (Tsuga dumosa), Thông tre (Podocarpus neriifolius), Thông tre lá
ngắn (Podocarpus pilgeri), Sa mộc (Cunninghamia lanceolata)… Và đặc biệt
có loài Vân sam Phansipăng là loài đặc hữu của đỉnh Phan Si Păng, Thiết sam


2

núi đất là loài của dãy núi Himalaya mọc thành quần thể nhỏ ở độ cao trên
2.400m và một quần thể duy nhất của loài Bách Đài Loan đã được tìm thấy tại

đây. Như vậy, dãy Hoàng Liên Sơn khá đa dạng về các loài thực vật ngành
Thông, là nơi còn sót lại một số loài đặc hữu quý hiếm được ghi trong Sách
Đỏ Việt Nam cũng như Sách Đỏ thế giới. Hầu như các loài cây thuộc ngành
Thông ở đây đều bị đe dọa ở mức độ nhất định. Phần lớn các loài này cho gỗ
quý rất thích hợp cho sử dụng làm đồ mỹ nghệ (Pơ mu, Thông tre) hay cho
xây dựng (Vân sam phansipăng, Pơ mu), trong khi đó Pơ mu lại có giá trị làm
hương liệu quý hoặc dùng làm thuốc trong cả y học truyền thống (Kim giao
Nageia fleuryi) hay y học hiện đại (Thông đỏ Taxus). Đe dọa do khai thác
trực tiếp còn kèm theo việc biến đổi những diện tích rừng lớn thành đất nông
nghiệp, nương trồng Thảo quả.
Trong thời gian gần đây mặc dù các cấp, các ngành chức năng, cũng
như nhân dân các dân tộc địa phương trong vùng đã rất cố gắng trong việc
bảo vệ rừng, bảo vệ tính đa dạng sinh học, song do nhiều nguyên nhân khác
nhau và do chưa tìm được giải pháp hữu hiệu nhất nên nguồn tài nguyên thực
vật rừng nói chung và thực vật ngành Thông nói riêng ở đây vẫn bị tàn phá
nặng nề. Các loài có giá trị kinh tế cao hay có công dụng đặc biệt thường là
những loài có nguy cơ lớn. Nhiều vụ đốt rừng làm nương rẫy thường xuyên
xảy ra và đặc biệt là tệ nạn khai thác và buôn bán tài nguyên thiên nhiên trái
phép với số lượng lớn vẫn diễn ra đã làm suy giảm nghiêm trọng số lượng
cũng như nơi sống của các loài này. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu bảo tồn các
loài thực vật thuộc ngành Thông ở đây là rất cần thiết, không những có ý
nghĩa về mặt khoa học sâu sắc mà còn có ý nghĩa thực tiễn lớn lao.
Xuất phát từ những thực tiễn trên, việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu
bảo tồn các loài cây thuộc ngành Thông (Pinophyta) tại Vườn quốc gia
Hoàng Liên, Lào Cai” là cần thiết, phù hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn
ở địa phương, góp phần bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học của tỉnh Lào Cai
nói riêng và trên toàn quốc gia, thế giới nói chung.


3


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu trên thế giới
Thế giới thực vâ ̣t thâ ̣t phong phú và đa da ̣ng với khoảng 250.000 loài
thực vâ ̣t bâ ̣c cao, trong đó thực vâ ̣t ngành Thông chỉ chiế m có trên 600 loài,
mô ̣t con số đáng khiêm tố n [7], [13].
Cây thuộc ngành Thông là những loài cây có nguồn gốc cổ xưa nhất,
khoảng trên 300 triệu năm. Các vùng rừng cây ngành Thông tự nhiên nổi
tiếng thường được nhắc tới ở Châu Âu với các loài Vân sam (Picea), Thông
(Pinus); Bắc Mỹ với các loài Thông (Pinus), Cù tùng (Sequoia,
Sequoiadendron) và Thiết sam (Pseudotsuga); Đông Á như Trung Quốc và
Nhật Bản với các loài Tùng bách (Cupressus, Juniperus) và Liễu sam
(Cryptomeria). Các loài cây thuộc ngành Thông đã đóng góp một phần không
nhỏ vào nền kinh tế của một số nước như Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, New
Zealand... Lịch sử lâu dài của Trung Quốc cũng đã ghi lại nguồn gốc các cây
ngành Thông cổ thụ hiện còn tồn tại đến ngày nay mà có thể dựa vào nó để
đoán tuổi của chúng. Chẳ ng hạn trên núi Thái Sơn (Sơn Đông) có cây Tùng
ngũ đại phu do Tần Thủy Hoàng phong tặng tên; cây Bách Hán tướng quân ở
thư viện Tùng Dương (Hà Nam), cây Bạch quả đời Hán trên núi Thanh Thành
(Tứ Xuyên); cây Bách nước Liêu (còn gọi là Liêu bách) trong công viên
Trung Sơn (Bắc Kinh)... Đồng thời, nhiều nơi khác trên thế giới cũng có một
số cây cổ thụ nổi tiếng như cây Cù tùng (Sequoia) có tên “cụ già thế giới” ở
California (Mỹ) đã trên 3.000 năm tuổi, cây Tuyết tùng (Cedrus deodata) trên
đảo Ryukyu (Nhật Bản) qua máy đo đã 7.200 năm tuổi. Tại Li Băng hiện còn
một đám rừng gồm 400 cây Bách Libăng (Cedrus) nổi tiếng từ thời tiền sử,
trong đó có 13 cây cổ địa có hàng nghìn năm tuổi [17].


4


Cây trong ngành Thông là một trong những nhóm cây quan trọng nhất trên
thế giới. Các khu rừng cây ngành Thông rộng lớn của Bắc bán cầu là nơi lọc khí
cacbon, giúp làm điều hòa khí hậu thế giới. Rất nhiều dãy núi trên thế giới gồm
rừng các loài cây ngành Thông chiếm ưu thế đóng một vai trò quyết định đối với
việc điều hòa nước cho các hệ thống sông ngòi chính. Những trận lụt lội khủng
khiếp gần đây ở các vùng thấp như ở các nước Trung Quốc và Ấn Độ có quan hệ
trực tiếp tới việc khai thác quá mức rừng cây ngành Thông phòng hộ đầu nguồn.
Rất nhiều loài thực vật, động vật và nấm phụ thuộc vào cây ngành Thông để tồn
tại, do đó không có cây ngành Thông thì những loài này sẽ bị tuyệt chủng. Ngành
Thông cung cấp một phần chính gỗ cho xây dựng, ván ép, bột và các sản phẩ m
giấy của thế giới. Nhiều loài còn cho gỗ quí với những công dụng đặc biệt như
dùng đóng tàu hay làm đồ mỹ nghệ. Phần lớn cây thuộc ngành Thông có gỗ dễ gia
công, bền. Ở Chi Lê cây Fitzroya cupressoides là một loài cây ngành Thông rừng
ôn đới có chiều cao đạt tới trên 50m và tuổi trên 3.600 năm. Thân cây này được
tìm thấy từ các đầm lầy nơi chúng đã bị chôn vùi từ trên 5.000 năm trước nhưng
gỗ vẫn có giá trị sử dụng tốt. Loài cây được dùng trồng rừng nhiều nhất trên thế
giới là Thông Pinus radiata, là nguyên liệu cơ bản cho công nghiệp rừng của châu
Úc, Nam Mỹ và Nam Phi, với tổng diện tích lớn hơn cả diện tích Việt Nam. Tại
sinh cảnh nguyên sản của cây ở California loài chỉ có ở 5 đám nhỏ còn sót lại và
đang bị đe do ̣a nghiêm trọng. Cây thuộc ngành Thông còn là nguồn cung cấp
nhựa quan trọng trên toàn thế giới. Hạt của nhiều loài còn là nguồn thức ăn quan
trọng cho dân địa phương ở các vùng xa như ở Chi Lê, Mexico, Úc và Trung
Quốc. Phần lớn các cây thuộc ngành Thông có chứa các hoạt chất sinh hoá mà
đang ngày càng được sử dụng làm thuốc chữa các căn bệnh thế kỷ như ung thư
hay HIV. Cây thuộc ngành Thông còn có vai trò quan trọng trong các nền văn hoá


5


cả ở phương Đông và phương Tây. Các dân tộc Xen-tơ và Bắc Âu ở châu Âu thờ
cây Thông đỏ Taxus baccata như một biểu tượng của cuộc sống vĩnh hằng. Người
Anh Điêng ở Pehuenche, Chi Lê tin rằng các cây đực và cây cái loài Bách tán
(Araucaria araucana) mang các linh hồn tạo nên thế giới của họ [7], [17].
Hiện tại có trên 200 loài cây thuộc ngành Thông được xếp là bị đe dọa
tuyệt chủng ở mức toàn thế giới [17]. Rất nhiều loài khác bị đe dọa trong một
phần phân bố tự nhiên của loài. Những đe do ̣a hay gặp nhất là việc khai thác
quá mức lấy gỗ hay các sản phẩm khác, phá rừng làm bãi chăn thả gia súc,
trồng trọt và làm nơi sinh sống cho con người cùng với sự gia tăng tần suất của
các đám cháy rừng. Tầm quan trọng đối với thế giới của cây thuộc ngành
Thông làm cho việc bảo tồn chúng trở nên có ý nghĩa đặc biệt. Sự phức tạp
trong các yếu tố đe dọa gặp phải đòi hỏi cần có một loạt các chiến lược được
thực hành để bảo tồn và sử dụng bền vững các loài cây này. Bảo tồn tại chỗ
thông qua các cơ chế như hình thành các Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên
nhiên là một giải pháp tốt, có hiệu quả đối với những khu vực lớn còn rừng
nguyên sinh. Công tác bảo tồn đòi hỏi sự cộng tác của mọi người từ các ngành
nghề và tổ chức khác nhau. Những người làm công tác này đều phụ thuộc vào
việc định danh chính xác loài cây mục tiêu hay các sinh vật khác có liên quan
và vào các thông tin cập nhật ở các mức độ địa phương, khu vực, quốc gia và
quốc tế.
1.2. Nghiên cứu tại Việt Nam
Hiện tại có khoảng 29 loài cây thuộc ngành Thông ở Việt Nam. Mặc dù
chỉ dưới 5% số loài cây trong ngành Thông đã biết trên thế giới được tìm thấy
ở Việt Nam nhưng ngành Thông Việt Nam lại chiếm đến 27% số các chi và 5
trong số 8 họ đã biết [17] (xem bảng 1.1).


6

Bảng 1.1. Cây thuộc ngành Thông ở Việt Nam trong so sánh với thế giới

Số các chi / loài

Số chi ở

Số loài / loài đặc

trên thế giới

Việt Nam

hữu ở Việt Nam

Bách tán (Araucariaceae)

3/ 41

0

0/0

Đỉnh tùng (Cephalotaxaceae)

1/5-11

1

1/0

Hoàng đàn (Cupressaceae)


30/135

7

7/2

Phyllocladaceaae

1/4

0

0/0

Thông (Pinaceae)

11/225

5

10/1-2*

Kim giao (Podocarpaceae)

18/190

4

6/1-3**


Sciadopityaceae

1/1

0

0/0

Thông đỏ (Taxaceae)

5/23

2

6/2

70/635

19

29-30/5

Họ

Tổng số

* một loài Thông mới vừa mới phát hiện ở Việt Nam và có thể là loài đặc hữu;
** số lượng các loài Thông tre ở miền Bắc Việt Nam chưa được xác định chắc chắn
– có thể có 2-3 loài chưa được mô tả và những loài này có thể là loài đặc hữu.


Tất cả các loài cây ngành Thông ở Việt Nam đều có ý nghĩa lớn. Hai chi đơn
loài Bách vàng (Xanthocyparis) và Thuỷ tùng (Glyptostrobus) cũng là các chi đặc
hữu của Việt Nam. Chi Bách vàng mới chỉ được phát hiện vào năm 1999 trong
khi chi Thuỷ tùng chỉ còn 2 quần thể nhỏ với tổng số cây ít hơn 250 cây thuộc tỉnh
Đắk Lắk. Loài này là đại diện cuối cùng cho một dòng giống các loài cây cổ. Hoá
thạch của những cây này đã được tìm thấy ở những nơi cách rất xa như ở nước
Anh. Năm 2001 một quần thể nhỏ gồm hơn 100 cây của chi đơn loài Bách tán Đài
Loan (Taiwania cryptomerioides) được tìm thấy ở tỉnh Lào Cai. Trước đây chi
này chỉ được biết có ở Đài Loan, Vân Nam và Đông Bắc Myanma. Những quần
thể lớn loài Sa mộc dầu Cunninghamia konishii, một chi cổ khác chỉ gồm 2 loài,
vừa được tìm thấy ở Nghệ An và các vùng phụ cận của Lào. Bốn trong số 6 loài
Dẻ tùng (Amentotaxus) được biết (họ Thông đỏ - Taxaceae) đã thấy có ở Việt
Nam. Hai loài trong số đó là cây đặc hữu (Dẻ tùng pô lan A. poilanei và Dẻ tùng


7

sọc nâu A. hatuyenensis) và những quần thể chính của hai loài khác cũng nằm ở
Việt Nam (Dẻ tùng sọc trắng A. argotaenia và Dẻ tùng Vân Nam A. yunnanensis).
Thậm chí những loài cây không phải là đặc hữu của Việt Nam nhưng vẫn có ý
nghĩa lớn. Thông ba lá (Pinus kesiya) gặp từ Đông Bắc Ấn Độ qua Philippin
nhưng các xuất xứ ở Việt Nam lại cho thấy có năng suất cao nhất trong các khảo
nghiệm ở châu Phi và châu Úc. Những thực tế này thể hiện tầm quan trọng của
các loài thuộc ngành Thông Việt Nam đối với thế giới [7], [17].
Tầm quan trọng của ngành Thông Việt Nam được xác định bởi tính ổn định
tương đối về địa chất và khí hậu của Việt Nam trong vòng hàng triệu năm, kết hợp
với địa mạo đa dạng hiện tại của đất nước và nhiều kiểu dạng sinh cảnh kèm theo.
Nhìn chung, khí hậu trái đất đã trở nên khô và lạnh hơn, nhiều loài cây trong
ngành Thông vốn thích nghi với điều kiện ấm và ẩm bị tuyệt chủng. Tuy vậy, một
số loài đã di cư được đến các vùng thích hợp hơn như ở Tây Nam Trung Quốc và

miền Bắc Việt Nam. Sa mô ̣c (Cunninghamia), Bách tán Đài Loan (Taiwania) và
Dẻ tùng (Amentotaxus) là những ví dụ của những chi trước đây có phân bố rất
rộng trên thế giới. Phạm vi vĩ độ của Việt Nam (8o - 24o) gồm các nơi từ gần xích
đạo cho đến vùng cận nhiệt đới cùng với phạm vi độ cao của các hệ núi chính có
nghĩa là các sinh cảnh thích hợp vẫn còn tồn tại và các loài như vậy có khả năng
sống sót. Các thay đổi khí hậu trên Bắc bán cầu có ảnh hưởng đến các nhóm cây
ngành Thông rất khác nhau. Một số bị tuyệt chủng hay phải di cư tới các vùng mà
còn có khí hậu thích hợp, trong khi đó một số loài khác tiến hoá và đã có thể sống
được ở những sinh cảnh đã thay đổi trong điều kiện khí hậu mới. Các loài Thông
ở Việt Nam là ví dụ cho cả hai hình thức này. Loài Thông lá dẹt (Pinus krempfii)
được coi là một loài cây cổ tàn dư còn lại mà không có loài nào có quan hệ gần
gũi còn sống sót, trong khi đó Thông ba lá (P. kesiya) là loài mới tiế n hóa gầ n đây.
Sự gần gũi của Việt Nam về địa lý với vùng nhiệt đới còn có nghĩa là những loài
phát tán hạt nhờ chim chóc của một số họ trong ngành Thông ở Nam bán cầu như


8

họ Kim giao (Podocarpaceae) đã có khả năng di cư lên phía Bắc. Hệ thực vật
ngành Thông Việt Nam do đó chứa đựng một sự pha trộn kỳ lạ giữa các loài cây
thuộc ngành Thông cả Bắc và Nam bán cầu.
Ngành Thông Việt Nam gặp ở 4 vùng chính sau:
Hình 1.1: Các vùng phân bố
chính của Thông ở Việt Nam

1

2

1: Đông Bắc


3

2: Hoàng Liên Sơn
3: Tây Bắc và Bắc Trung bộ
4: Tây Nguyên

4

(Nguồn: Cây lá kim Việt Nam)
Hầu như tất cả các loài Thông tự nhiên của Việt Nam đều bị đe doạ ở
những mức độ nhất định. Phần lớn các loài này cho gỗ quí rất thích hợp cho
sử dụng làm đồ mỹ nghệ (Pơ mu Fokienia, Bách vàng Xanthocyparis) hay
cho xây dựng (phần lớn các loài Thông Pinus, Du sam Keteleeria, Pơ mu
Fokienia, Sa mộc dầu Cunninghamia), trong khi đó các loài khác lại có giá trị
làm hương liệu quí (Hoàng đàn Cupressus, Pơ mu Fokienia, Bách xanh
Calocedrus) hoặc được dùng làm thuốc cả trong y học truyền thống (Kim
giao Nageia) hay y học hiện đại (Thông đỏ Taxus). Một số loài chỉ được sử
dụng tại địa phương nhưng thường đây là những loài có phân bố hạn chế (ví


9

dụ như Bách vàng Xanthocyparis). Đe dọa do khai thác trực tiếp còn kèm
theo việc biến đổi những diện tích rừng lớn thành đất nông nghiệp, đặc biệt ở
các vùng núi có độ cao khoảng 800 đến 1.500m nơi mà các loài cây trong
ngành Thông như Du sam (Keteleeria) và Bách xanh (Calocedrus) thường
sinh sống. Việc chia cắt rời rạc các cánh rừng là một vấn đề có liên quan
khác. Các đám rừng nhỏ còn sót lại dễ bị cháy hơn và dễ bị ảnh hưởng do tính
di truyền suy giảm, các loài có các quần thể tự nhiên nhỏ đặc biệt rất nhạy

cảm với những đe dọa này. Những loài có các quần thể phân bố rộng (ví dụ
như phần lớn các loài thuộc họ Kim giao - Podocarpaceae), trong một số
trường hợp còn phân bố cả ở nước khác (như Du sam Keteleeria), có thể tạo
ra cảm tưởng rằng loài ít bị đe dọa hơn so với thực tế vì việc khai thác quá
mức và nạn phá rừng là những vấn đề của tất cả các nước ở Đông Nam Á.
Loài cây trong ngành Thông bị đe dọa nhất ở Việt Nam có lẽ là Hoàng
đàn (Cupressus funebris) ở vùng Đông Bắc. Hiện tại trong vòng 5 năm qua
mới chỉ tìm thấy được 1 cây còn lại trong tự nhiên. Các cây khác đều đã bị
chặt lấy gỗ và bị đào rễ làm hương. Thuỷ tùng (Glyptostrobus pensilis) là loài
chỉ được biết ở hai khu bảo tồn nhỏ của tỉnh Đắk Lắk. Phần lớn những cây
còn lại (số này ít hơn 250 cây) đều đã bị ảnh hưởng của lửa rừng. Hầu như
toàn bộ sinh cảnh của loài trên đầm lầy đã bị chuyển thành vườn cà phê và
không thấy có cây tái sinh, hai loài này đang đứng trước sự tuyệt chủng. Tình
trạng của một loạt các loài khác (Bách tán Đài Loan Taiwania cryptomerioides
và Bách vàng Xanthocyparis vietnamensis) có thể sẽ trở nên ở mức tương tự nếu
không có những hành động bảo tồn toàn diện được tiến hành.
Trong vòng 15 năm qua có nhiều Vườn quốc gia và khu bảo tồn đã
được thiết lập ở Việt Nam. Một số nơi này có các quần thể cây trong ngành
Thông bị đe dọa. Bên ngoài các khu vực này các qui định pháp luật được ban
hành nhằm ngăn chặn việc khai thác trái phép. Mặc dù vậy, việc khai thác tại


10

địa phương, cả hợp pháp và trái phép vẫn còn là vấn đề nan giải. Các loài có
giá trị kinh tế cao hay có công dụng đặc biệt thường là những loài có nguy cơ
lớn. Vì vậy, bảo tồn tại chỗ cần được bổ sung bởi bảo tồn chuyển vị và các
chương trình lâm sinh chung. Những chương trình này cần gồm cả kế hoạch
về giáo dục cũng như thu hái và bảo quản hạt giống, trồng phục hồi và làm
giàu rừng trong và xung quanh các khu bảo tồn. Các loài cây dẫn nhập có thể

có vai trò trong việc hỗ trợ cho bảo tồn tại chỗ.
Như vậy đã có 2 loài cây trong ngành Thông đang trên bờ vực tuyệt
chủng và việc ngăn chặn những loài cây khác tiếp tục nhập vào danh sách này
là mối quan tâm của tất cả mọi người.
Nhiều loài Thông có ý nghĩa kinh tế và khoa học đã được nghiên cứu
phục vụ công tác bảo tồn và trồng rừng. Trong số 30 loài Thông được biết ở
Việt Nam đã có hơn một nửa số loài được thử nghiệm nhân giống bằng giâm
hom. Hai tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa, Trần Văn Tiến cho thấy tại Lâm
Đồng đã tiến hành thử nghiệm nhân giống bằng hom cho các loài Bách xanh
(Calocedrus macrolepis), Pơ mu (Fokienia hodginsii) và Thông đỏ (Taxus
wallichiana) với vật liệu hom Bách xanh thu hái từ cây 2 tuổi và 7-8 tuổi, Pơ mu
cây non 1 tuổi và Thông đỏ từ cây lớn tuổi trong rừng tự nhiên và các hom được
xử lý với nhiều loại chất điều hòa sinh trưởng với các nồng độ khác nhau.[10]
Huỳnh Văn Kéo, Lương Viết Hùng, Trương Văn Lung đã nghiên cứu
giâm hom loài Hoàng đàn giả (Dacrydium elatum) đã sử dụng IBA với các
nồng độ khác nhau làm chất điều hòa sinh trưởng cho thấy với loài Hoàng đàn
giả có khả năng nhân giống bằng hom và tỷ lệ ra rễ của hom thu hái từ cây
trưởng thành thấp hơn cây non [11].
Đã có nhiều nghiên cứu về thực vật ngành Thông tại Việt Nam như:
Bộ thực vật chí Đông Dương do H. Lecomte chủ biên (1907-1952) các
tác giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khoá mô tả các loài thực vật có
mạch trên toàn lãnh thổ Đông Dương trong đó các loài ngành Thông đã được
giới thiệu và mô tả khá rõ tại đây.


11

Trên cơ sở bộ thực vật chí Đông Dương, gần đây bộ thực vật chí
Campuchia, Lào và Việt Nam do Aubréville khởi xướng và chủ biên (19601997) cùng với nhiều tác giả khác đã công bố rất nhiều các loài cây có mạch.
Trong đó các loài ngành Thông đã được giới thiệu.

Trong thời gian gần đây, hệ thực vật Việt Nam đã được thống kê lại bởi
các nhà thực vật Liên Xô và Việt Nam trong kỳ yếu cây có mạch của thực vật
Việt Nam – Vassular Plants Synopiss of Vietnamese Flora tập 1-2 (1996) và
tạp chí Sinh học số 4 chuyên đề (1994 và 1995).
Đáng chú ý nhất là phải kể đến bộ Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng
Bộ (1991-1993) xuất bản tại Canada và được tái bản có bổ xung tại Việt Nam
trong 2 năm (1999-2000). Đây là bộ sách khá đầy đủ và dễ sử dụng góp phần
đáng kể cho khoa học thực vật ngành Thông Việt Nam.
Gần đây nhất là cuốn sách: Cây lá kim Việt Nam của Nguyễn Nghĩa
Thìn (2004), hay cuốn Thông Việt Nam nghiên cứu hiện trạng bảo tồn 2004
Nguyễn Tiến Hiệp cùng các cộng sự. Đây chính là các cuốn sách nghiên cứu,
mô tả sâu sắc tỉ mỉ một số loài cây lá kim, cũng như đưa ra được hiện trạng và
công tác bảo tồn một số loài cây thuộc ngành Thông tại Việt Nam.
1.3. Nghiên cứu tại Vườn quốc gia Hoàng Liên
Giai đoạn trước khi miền Bắc giải phóng (1955), những nghiên cứu thực
vật để xây dựng bộ Thực vật chí đại cương Đông Dương phải kể đến nhà thực
vật người Pháp Pê-tê-lô (Petelot) đã có nhiều đóng góp trong việc thu thập và
định tên hầu hết các loài đã thu được. Có thể nói đây là những sưu tập có giá
trị và vẫn được bảo quản một cách nguyên vẹn tại Bảo tàng Pari (Pháp), Bảo
tàng của Viện sinh học nhiệt đới ở thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng thực
vật của Trường Đại học Tổng hợp trước đây nay là Trường Đại học KHTN –
ĐHQGHN.
Sau thời kì miền Bắc được giải phóng, vừa xây dựng lại đất nước vừa tập
trung sức lực cho giải phóng miền Nam cho nên việc nghiên cứu chưa được


12

quan tâm nhiều và chỉ có một số nghiên cứu lẻ tẻ. Cuộc thám hiểm đầu tiên
phải kể đến do Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội tổ chức từ 12/1964 – 1966.

Một số nhà thực vật học như Dương Hữu Thời, Thái Văn Trừng, Võ Văn Chi,
Nguyễn Văn Diễn đã tham gia trong cả hai đợt 1964 – 1966. Trong thời gian
đó cùng với các nhà thực vật Việt Nam, một số nhà thực vật nước ngoài như
Ngô Chính Dật (Trung Quốc), Karen và Takhtajan (Nga), Kooc Nát (Ba Lan)
cũng đã nghiên cứu ở núi Hoàng Liên. Năm 1968 một nhóm nghiên cứu của
Khoa Sinh, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội bao gồm Võ Văn Chi, Trịnh
Tam Kiệt, Nguyễn Nghĩa Thìn, Trần Ninh đã tiến hành nghiên cứu Nấm
hương của Hoàng Liên. Đáng chú ý năm 1970, Võ Văn Chi đã tổng kết và
xây dựng Tập danh lục các loài thực vật đầu tiên của núi Hoàng Liên.
Năm 1992 cuộc khám phá đỉnh Phansipăng do GS. Nguyễn Nghĩa Thìn
và Nguyễn Văn Trừu Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Sa Pa dẫn đầu cùng
nhóm chuyên gia người Anh, Úc, Nhật, Ailen do TS. Keith Rushforth đại diện
đã mở đầu một giai đoạn mới. Nhóm nghiên cứu trên tiếp tục các cuộc khám
phá của mình trên các hướng khác nhau đến năm 1995. Các kết quả nghiên
cứu từ 1992 đến 1994 đã được Nguyễn Nghĩa Thìn cùng Nguyễn Thị Thời
tổng kết và công bố vào năm 1998. Đây là tài liệu đầu tiên có tính hệ thống và
được công bố chính thức. Tiếp theo một số tác giả như Trần Đình Lý, Đỗ Hữu
Thư, Lê Đồng Tấn, Trịnh Minh Quang thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật đã nghiên cứu thảm thực vật núi cao Sa Pa (1992 – 1994), năm 1994,
Kemp, Lê Mộng Chân, Đin Jơ thuộc tổ chức Frontier đã cùng tập thể tiến
hành nghiên cứu và công bố kết quả thành phần thực vật và lớp phủ của nó.
Năm 1999, Anđơru, Xtivan, Mak và Hana thuộc tổ chức Frontier công bố
cuốn sách thứ hai về thảm thực vật Hoàng Liên.
Nguyễn Quốc Trị (2007), Tính đa dạng thực vật và sự biến đổi của thực
vật theo đai cao ở Vườn Quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.


13

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài thuộc ngành Thông hiện có tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, Lào Cai.
2.2. Mục tiêu nghiên cứu
 Xây dựng được cơ sở dữ liệu về đặc điểm sinh học, sinh thái học, phân
bố và hiện trạng bảo tồn của một số loài cây thuộc ngành Thông tại
Vườn quốc gia Hoàng Liên.
 Đề xuất được các giải pháp bảo tồn và phát triển các loài thuộc ngành
Thông hiện có tại đây.
2.3. Nội dung nghiên cứu
 Nghiên cứu thành phần và xác định sự phân bố của các loài thuộc ngành
Thông (Pinophyta) theo đai cao tại VQG Hoàng Liên.
 Nghiên cứu hiện trạng bảo tồn các loài cây thuộc ngành Thông ở khu
vực nghiên cứu.
 Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái học một số loài thực vật thuộc
ngành Thông ở khu vực nghiên cứu.
 Đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài thuộc ngành Thông.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp lý thuyết
 Những thông tin, tư liệu về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã
hội khu vực nghiên cứu.
 Những kết quả nghiên cứu, những văn bản có liên quan của các nhà
khoa học đã nghiên cứu về các loài cây thuộc ngành Thông tại Vườn
quốc gia Hoàng Liên và ở Việt Nam trong những năm trước đây.


14

2.4.2. Phương pháp thực nghiệm

2.4.2.1. Điều tra thu thập số liệu theo tuyến.
 Tuyến điều tra được thiết kế vạch sẵn trên bản đồ địa hình để kiểm tra
các thông tin đã được thảo luận với các chuyên gia địa phương như tình
trạng phân bố, bảo tồn.
 Các tuyến được bố trí điển hình trên các kiểu sinh cảnh được dự đoán
có khả năng xuất hiện các loài có mặt trong khu vực.Tuyến điều tra có
chiều dài không giống nhau được xác định đảm bảo đi qua tất cả các
trạng thái rừng. Tuyến điều tra được đánh dấu trên bản đồ và đánh dấu
trên thực địa bằng sơn, phấn hoặc dây có màu dễ nhận biết.
 Cùng với chuyên gia địa phương và cán bộ Kiểm Lâm của VQG Hoàng
Liên tiến hành kiểm tra các thông tin về sự xuất hiện của các loài thuộc
ngành Thông trên tuyến điều tra.
 Dùng máy định vị GPS để xác định phân bố của các loài trên các tuyến
điều tra vào bản đồ thảm thực vật rừng của VQG Hoàng Liên.
 Các tuyến điều tra:
- Tuyến số 1: Núi Xẻ - Phansipăng
- Tuyến số 2: Bản Cát Cát – Phansipăng
- Tuyến số 3: Bản Cát Cát – Xã San Sả Hồ
- Tuyến số 4: Bản Sín Chải – Phansipăng
- Tuyến số 5: Bản Tả Van Mông – Lao Chải
- Tuyến số 6: Tả Van – Séo Mí Tỷ
- Tuyến số 7: Tả Van – Bản Hồ
- Tuyến số 8: Bãi rác Bản Khoang – Bản Can Hồ A
- Tuyến số 9: Thác Bạc – Cầu Mười
- Tuyến số 10: Sín Chải – Trạm Tôn
- Tuyến số 11: Bản Hồ - Séo Trung Hồ


15


- Tuyến số 12: Séo Mí Tỷ - Suối Thâu
Trên các tuyến, cứ 200m tiến hành khảo sát ra 4 bên, bán kính khảo sát
khoảng 50m.
+ Khoanh vẽ diện tích của quần thể, xác định số lượng cá thể trong quần thể.
Đặt OTC điển hình 2.500m2 trong vùng diện tích phân bố của quần thể (tỉ lệ
rút mẫu > 2%). Trong ÔTC tiến hành xác định các cấu trúc của loài cây
nghiên cứu, xác định các loài cây cùng tầng thứ với loài nghiên cứu để tính
toán mối quan hệ giữa các loài này với loài nghiên cứu.
+ Trong mỗi ÔTC tiến hành đặt 5 ô dạng bản 4 m2 (2m x 2m) ở giữa và 4 góc
để điều tra tái sinh. Chỉ đo đếm, đánh giá các cây tái sinh của các loài nghiên
cứu có 0,5 m ≤ H ≤ 2m, đánh giá phẩm chất tốt, trung bình, xấu làm cơ sở xác
định cây tái sinh triển vọng, thống kê theo ha.
+ Tiến hành điều tra phẫu diện đất trong các ÔTC bằng cách đào 01 phẫu diện
điển hình trong ÔTC có cây tái sinh và cây trưởng thành của các loài nghiên
cứu mọc tương đối tập trung và nhiều. Tiến hành mô tả các phẫu diện (loại
đất, độ dày, tỉ lệ đá lẫn). Lấy mẫu đất 03 tầng: từ 0-30cm, 30-60cm và 60100cm cho phân tích tại phòng thí nghiệm.
2.4.2.2. Điều tra thu thập số liệu
a. Điều tra cá thể tầng cây cao.
 Điều tra, thu thập tiêu bản, đo tính tất cả các cá thể loài Thông được tìm
thấy có đường kính ngang ngực (D1.3) lớn hơn hoặc bằng 6cm
 Đo D1.3 bằng thước kẹp kính
 Đo chiều cao vút ngọn (Hvn) và chiều cao dưới cành (Hdc) bằng thước
đo cao Blummleiss.
 Đo đường kính tán (Dt) bằng thước dây theo hai chiều Đông Tây - Nam Bắc.
 Đối với những cây khó tới gần (do địa hình hiểm trở) sử dụng phương
pháp mục trắc theo kinh nghiệm từ những cây đã đo.


16


Mẫu biểu 01: Biểu điều tra các cây theo tuyến
Tuyến số:……………………………………………………………………
Kiểu rừng chính:……………………………………………………………
Độ cao:……………….Độ dốc:……………….Hướng dốc:………….……
Ngày điều tra:………………..Người điều tra:……………..………………
TT

Tên loài

D1.3 Hvn
(cm) (m)

Ht
(m)

Độ cao

Sinh trưởng

Ghi chú

b. Điều tra, đo đếm cây tái sinh
 Điều tra các loài Thông tái sinh tự nhiên theo tuyến.
Quan sát tình trạng tái sinh trên tuyến điều tra. Bình quân quan sát kỹ
lưỡng khoảng 1/3 chiều dài tuyến, đặc biệt chú ý xung quanh gốc cây mẹ.
Mẫu biểu 02: Biểu điều tra cây tái sinh tự nhiên theo tuyến
Tuyến số:……………………………………………………………………
Trạng thái rừng:…………………………………………………………….
Người đo đếm:………………………….Ngày đo đếm:……………………
TT


Loài cây

Cấp chiều cao (cm)
<50

50-100

>100

Nguồn gốc
tái sinh
Hạt

Chồi

Sinh trưởng
Tốt

TB

Xấu

 Điều tra các loài Thông tái sinh tự nhiên quanh gốc cây mẹ.
Thiết lập các ô dạng bản kích thước 4m2 (2m x 2m) quanh gốc cây mẹ
theo bốn hướng, 04 ô trong tán, 04 ô ngoài tán.


17


Xác định mật độ cây tái sinh: Mật độ cây (N) được tính theo công thức:
N =(N/S)×10.000 (cây/ha)
Trong đó:
N: số cây đếm được trong diện tích S (cây)
S: diện tích đo đếm (ha)
c. Xác định sự phân bố theo đai cao
 Sử dụng định vị toàn cầu (GPS) để xác định độ cao phân bố của từng cá
thể thuộc ngành Thông. Căn cứ vào kết quả điều tra sự phân bố của các
loài và bản đồ địa hình đã được số hoá theo các độ cao khác nhau để
phân chia theo các đai cao phù hợp và chính xác.
d. Xác định loài cạnh tranh
 Sử dụng công thức của Hegyi (1974) áp dụng để tính chỉ số cạnh trạnh
cho cây trung tâm:
Trong đó:
CI là chỉ số cạnh tranh của loài cây j đối với cây trung tâm, CI càng lớn
cạnh tranh với cây trung tâm càng mạnh
Dj là các đường kính ngang ngực của cây cạnh tranh j
Di là đường kính ngang ngực của cây trung tâm
Lij là khoảng cách từ cây trung tâm đến cây cạnh tranh j
Bán kính của ô = đường kính tán lớn nhất có thể của cây trung tâm
2.4.3. Phương pháp phi thực nghiệm
2.4.3.1. Xử lý số liệu
 Số liệu được xử lý trên phần mềm Excel.
 Tính trị số trung bình của các loài: D1.3(cm), Hvn (m), Hdc (m), Dt (m).
 Dùng phương pháp so sánh cặp đôi để đánh giá kết quả
 Sử dụng các cấp đánh giá của Sách đỏ Việt Nam, 2007 (Phần II-Thực
vật), các tiêu chuẩn đánh giá của IUCN (2000), quy định của pháp luật Việt
Nam tại Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính Phủ và Quyết



18

định 74/2008/QĐ-BNN ngày 20/6/2008 của Bộ NN & PTNT ban hành Danh
mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục của
Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp;
của Quốc tế tại Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật
hoang dã nguy cấp (CITES).
2.4.3.2. Phỏng vấn chuyên gia địa phương
- Làm việc với các chuyên gia lâm nghiệp, bảo tồn thiên nhiên, tài
nguyên và môi trường ở địa phương, đặc biệt là các cán bộ chuyên môn của
VQG Hoàng Liên để thảo luận về:
+ Thành phần loài có mặt trong VQG Hoàng Liên từ đó sơ bộ xác định
phân bố các loài trên bản đồ (bản đồ phân bố lý thuyết).
+ Phân bố của một số loài trong VQG Hoàng Liên và những điểm quan
trọng khác.
- Tiến hành phỏng vấn người dân để thu thập thông tin về phân bố quần
thể của các loài cây cần nghiên cứu.
2.4.3.3. Nghiên cứu có sự tham gia của cộng đồng và đánh giá nhanh nông
thôn thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp người dân địa phương.
PRA (Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân), sử
dụng nhiều công cụ (cách) tiếp cận cho phép người dân cùng chia sẻ, nâng
cao và phân tích kiến thức của họ về đời sống và điều kiện nông thôn để lập
kế hoạch và hành động. Cần phải kết hợp cả phương pháp này để phát huy tối
đa năng lực của cộng đồng thông qua sự tham gia tích cực của họ vào hoạt
động điều tra trên thực địa, đồng thời phân tích những áp lực lên tài nguyên
rừng và tìm các giải pháp bảo tồn và phát triển.
RRA (Đánh giá nhanh nông thôn): là quá trình nghiên cứu được coi
như là điểm bắt đầu cho sự hiểu biết tình hình địa phương. Sử dụng phương



19

pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) với công cụ chính là bảng câu hỏi phỏng
vấn bán cấu trúc để phỏng vấn các đối tượng sau: nông dân, dân sống sát rừng;
cán bộ quản lý, bảo vệ rừng; cán bộ, lãnh đạo chính quyền địa phương; cán bộ
quản lý VQG Hoàng Liên; kiểm lâm; cán bộ khoa học kỹ thuật.
- Kết quả điều tra phỏng vấn được xử lý theo phương pháp thống kê,
tên các loài được hiệu đính theo các tài liệu: Danh mu ̣c các loài thực vâ ̣t Viêṭ
Nam 2001, tâ ̣p I và Tên cây rừng Việt Nam 2000.
2.4.3.4. Tiến hành thống kê, phân tích đánh giá thực trạng tài nguyên thiên
nhiên, kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu
2.4.3.5. Phương pháp bản đồ, sơ đồ
Sử dụng các phần mềm của GIS để xây dựng bản đồ phân bố các loài
trong ngành Thông. Các số liệu đầu vào của phân bố các loài được phân tích
về tọa độ, độ cao và địa danh.


20

Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên Vườn quốc gia Hoàng Liên
3.1.1. Vị trí địa lý
Vườn quốc gia Hoàng Liên nằm về phía Tây Bắc của huyện Sa Pa
thuộc khu vực Tây Bắc Việt Nam, có tọa độ địa lý:
22022’55” đến 22008’00” vĩ độ Bắc.
103045’20” đến 103059’40” kinh độ Đông
Về địa giới hành chính, VQG Hoàng Liên nằm trên địa bàn 6 xã: San
Sả Hồ, Lao Chải, Tả Van, Bản Hồ, Mường Khoa và Thân Thuộc thuộc huyện

Sa Pa của tỉnh Lào Cai và huyện Than Uyên của tỉnh Lai Châu, có ranh giới
tiếp giáp với:
- Phía Đông giáp xã Thanh Kim, Nậm Sài, Nậm Giang, huyện Sa Pa và
xã Tả Phời, thành phố Lào Cai.
- Phía Tây giáp xã Bản Bo, Bình Lư, Hồ Thầu huyện Tam Đường tỉnh
Lai Châu.
- Phía Nam và Đông Nam giáp huyện Văn Bàn và phần còn lại của hai
xã Mường Khoa, Thân Thuộc và các xã Hồ Mít, Pắc Ca, huyện Than Uyên
tỉnh Lai Châu.
- Phía Bắc giáp xã Tả Giàng Phình, Tả Phìn, Trung Trải huyện Sa Pa
tỉnh Lào Cai.
Trụ sở của ban quản lý VQG Hoàng Liên nằm tại thị trấn Sa Pa, cách
Lào Cai 36 km và cách Hà Nội 350 km. Tổng diện tích đất đai thuộc quản lý
của VQG Hoàng Liên là 51.000 ha, trong đó vùng lõi là 29,845 ha. Ranh giới
vùng lõi của VQG thuộc sườn phía Đông Bắc còn phần vùng đệm (thuộc
huyện Than Uyên) thì thuộc sườn Tây Bắc.


21

3.1.2. Địa hình, địa mạo
Vườn quốc gia Hoàng Liên nằm trong khu vực có địa hình đa dạng và
khá phức tạp, bao gồm chủ yếu là núi cao và cao trung bình, chạy dài liên
tục theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, suốt từ biên giới Trung Quốc đến Văn
Yên (Yên Bái), chiều rộng có chỗ tới 30km. Trong Vườn quốc gia có nhiều
đỉnh núi cao trên 2.000m, cao nhất là đỉnh Phan Si Păng 3.143m, được coi là
“nóc nhà” của Đông Dương. Tốc độ nâng lên trong thời kỳ Tân sinh khá
mạnh, kèm theo các quá trình xâm thực, bóc mòn xảy ra trong nham thạch
cứng (Macma axit) đã tạo cho địa hình núi những nét đặc sắc, đường phân
thủy rất sắc nhọn. Độ dốc bình quân tương đối lớn từ 250 - 350, ở những

ngọn núi cao nhiều khi độ dốc của sườn còn đạt tới 40 - 450. Độ chia cắt sâu
rất dữ dội, độ chênh lệch giữa các đỉnh và thung lũng (độ cao tương đối) rất
lớn, nhiều nơi sâu đến 1.000 – 1.500m. Tuy nhiên, do tốc độ nâng lên khi
nhanh, khi chậm, khi yên tĩnh... cũng hình thành nên các bề mặt san bằng cổ,
như các bề mặt 2.100 – 2.200m, 1.700 – 1.800m, 1.350 – 1.450m...
Ngoài những độ cao của các ngọn núi thì trong khu vực vẫn còn những
thung lũng mở rộng có đất bồi tụ khá màu mỡ như thung lũng Mường Hoa
thuộc xã Tả Van, Lao Chải (Sa Pa) và Thân Thuộc (Than Uyên).
Nhìn chung địa hình VQG bị chia cắt sâu và mạnh, núi cao, độ dốc lớn
với những kiểu địa hình chính như sau:
- Kiểu địa hình núi cao (N1):
Có độ cao trên 1.700m. Diện tích 16.786,2 ha, chiếm 53% diện tích
Vườn quốc gia, địa hình bị chia cắt mạnh, có nhiều đỉnh cao với những sườn
dốc đứng, lòng suối hẹp, là vùng có diện tích rừng tự nhiên khá tập trung, có
hệ động thực vật phong phú, đa dạng, đặc trưng cho vùng có hệ sinh thái á
nhiệt đới núi cao của miền Bắc Việt Nam. Đây chính là đối tượng cần được
bảo vệ nghiêm ngặt để lưu giữ nguồn gen động thực vật quý hiếm.


22

- Kiểu địa hình núi trung bình (N2):
Được hình thành trên đá biến chất có độ cao từ 700m – 1.700m. Kiểu
địa hình này phân bố chủ yếu ở phía Tây của VQG. Tác dụng xâm thực mạnh,
độ dốc vẫn còn tương đối lớn, trung bình trên 300, mức độ chia cắt còn khá
phức tạp. Kiểu địa hình này có diện tích là 13.535,1 ha, chiếm 42,7% tổng
diện tích tự nhiên.
- Kiểu địa hình núi thấp (N3):
Được hình thành trên các đá trầm tích và biến chất có nguồn gốc từ đá
macma, có độ cao từ 300m - 700m thuộc trung tâm của xã San Sả Hồ và một

số thôn bản của các xã Lao Chải, Tả Van..., độ cao, độ dốc giảm dần và mức
độ bị chia cắt cũng không còn phức tạp như vùng núi cao và núi trung bình.
Độ dốc bình quân ở đây trên 250, diện tích chiếm một phần rất nhỏ trong tổng
diện tích tự nhiên.
- Kiểu địa hình thung lũng (T1) và máng trũng (T2):
Đó là những vùng trũng, lòng thung lũng hẹp, độ cao cũng như độ dốc
giảm dần theo chiều nước chảy của các sông suối, có nhiều bãi bồi khá bằng
phẳng và màu mỡ. Kiểu địa hình này chủ yếu nằm tiếp giáp với phần ngoài
của VQG, do địa hình khá bằng phẳng, đất đai khá tốt lại gần nguồn nước
thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp nên dân cư tập trung ở đây khá đông.
Diện tích 1.367,1 ha, chiếm 4,3% tổng diện tích tự nhiên của VQG.
3.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng
Nguồn gốc của nền địa chất khu vực Hoàng Liên được kiến tạo từ kỷ
Triat và chịu ảnh hưởng nhiều của hoạt động tạo sơn Indexin, có tuổi địa chất
nhỏ nên dãy núi Hoàng Liên trong đó có đỉnh Phan Si Păng được xem là dãy
núi trẻ, đỉnh núi nhọn vì quá trình bào mòn địa chất tự nhiên còn chưa lâu.


23

Đá mẹ trong khu vực có 2 nhóm chính: Đá macma axit và đá biến chất
với các loại chính như: Granit, Gnai, Amphibolit, Filit, Đá vôi, đôi chỗ còn
lẫn phiến thạch sét, Sa thạch, Diệp thạch, trong đó đá Granit là phổ biến nhất.
Macma axit kết tinh chua là loại đá rất cứng rắn, khó phong hóa, nghèo
dinh dưỡng tiềm tàng trong đá, khi phong hoá cho mẫu chất thô to và đất nghèo
dinh dưỡng, thành phần cơ giới nhẹ, dễ bị xói mòn và rửa trôi tầng đất mặt.
Đá trầm tích và biến chất chiếm một tỷ lệ khá cao trong vùng, là loại đá
khá mềm và giầu dinh dưỡng tiềm tàng trong đá. Khi phong hóa khá triệt để,
đất có thành phần cơ giới nặng đến trung bình, là loại khá màu mỡ, đất có
tầng dầy, tơi xốp, độ thấm nước cao nên khó bị xói mòn rửa trôi hơn các loại

đất đá trên.
Thổ nhưỡng trong VQG có các loại đất chính sau:
- Đất mùn Alít núi cao N1 >1.700m:
Địa hình cao và rất dốc, tầng mùn dầy khoảng 50cm. Tuy có độ phì
tương đối cao, nhưng do địa hình ở đây quá dốc nên việc canh tác nông
nghiệp rất bị hạn chế, rừng vẫn còn nguyên sinh, vì vậy cần bảo vệ nguyên
diện tích rừng hiện có.
- Đất Feralit mùn trên núi trung bình N2 (700 – 1.700m):
Địa hình vừa cao vừa dốc, tầng đất mỏng đến trung bình, có nhiều đá
lẫn, tầng mùn khá dầy và có màu xám đen, đất khá tốt, nhưng rất rễ bị xói
mòn rửa trôi, rừng đã bị tác động nhưng chưa nhiều vì vậy cần phải bảo vệ
nghiêm ngặt và trồng mới thêm diện tích rừng.
- Đất Feralit vàng đỏ vùng núi thấp N3 (500 - 700m)
Nhóm đất này chiếm một phần nhỏ trong khu vực, địa hình không cao,
độ dốc thoải. Đất được hình thành trên nền vật chất khá cứng rắn, thành phần
cơ giới từ nhẹ đến nặng, cấu tượng không bền vững, diện tích này rừng đã bị
khai thác gần như cạn kiệt nên đất bị xói mòn và rửa trôi nhiều.


24

- Đất bồi tụ phù sa sông suối:
Nhóm đất này có diện tích không đáng kể trong khu vực, được hình
thành do quá trình bồi tụ và được phân bố rải rác ven các con sông suối, dạng
đất này có tầng đất sâu và màu mỡ, thành phần cơ giới nhẹ, tơi xốp, phù hợp
cho sản xuất nông nghiệp.
3.1.4. Khí hậu, thủy văn
3.1.4.1. Khí hậu
Vườn quốc gia Hoàng Liên ở phía Đông của dãy Hoàng Liên, có địa
hình phức tạp nên chế độ khí hậu khu vực VQG Hoàng Liên cũng bị phân hoá

mạnh mẽ theo độ cao và hướng địa hình.
Bảng 3.1: Một số yếu tố khí hậu của các xã xung quanh Vườn quốc gia
TT

Yếu tố khí hậu

Đơn vị

Lào Cai

Hoàng Liên Sa Pa

1

Nhiệt độ TB năm

0

C

22.9

22.8

15.2

2

T0 cực tiểu


0

C

1.4

-5.7

-3.2

3

T0 cực đại

0

C

41

24.9

29.8

4

Tổng lượng mưa

mm


1764

3552

2833

5

Mùa mưa

Tháng

4-10

11-3

4 - 10

6

Mùa khô

Tháng

11-3

12 - 2

11 - 3


7

Lượng mưa ngày lớn nhất

mm/ngày

191

287

350

8

Độ ẩm không khí

%

86

90

87

9

Độ ẩm cực tiểu

%


65

74

71

mm

816

494

826

10 Lượng bốc hơi

- Chế độ nhiệt: VQG Hoàng Liên nằm trong vùng khí hậu á nhiệt đới và ôn
đới núi cao. Theo số liệu của một số trạm khí tượng trong vùng cho thấy:
+ Nhiệt độ trung bình trong năm 20,30C, cao nhất là 410C, nhiệt độ thấp
nhất -5,70C, hàng năm có thể có tuyết rơi từ 1 - 3 ngày và cũng có thể có hiện
tượng đóng băng.


×