Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nghiên cứu một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học có sự tham gia của người dân tại xã chiềng bôm, huyện thuận châu, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------

ĐINH VĂN THÁI

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH
HỌC CÓ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TẠI XÃ CHIỀNG BÔM,
HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội - 2011


i

LỜI CẢM ƠN
Nhằm đánh giá kết quả học tập của học viên, được sự nhất trí của trường Đại
học Lâm nghiệp tôi tiến hành thực hiện luận văn tốt nghiệp: “Nghiên cứu một số
gải pháp bảo tồn đa dạng sinh học có sự tham gia của người dân tại xã Chiềng
Bôm, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La” do thầy giáo Đồng Thanh Hải hướng dẫn,
với mong muốn tìm ra những giải pháp bảo tồn ĐDSH có sự tham gia của người
dân tại khu rừng đặc dụng Côpia, đồng thời kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là
cơ sở để huyện Thuận Châu áp dụng triển khai nghiên cứu ở các xã khác để bảo tồn
ĐDSH cũng như nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống cho người dân trong toàn
huyện.
Trong thời gian thực hiện ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi nhận


được sự chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô Khoa đào tạo sau đại học – Trường Đại
học lâm nghiệp, các cán bộ BQL rừng đặc dụng Côpia. Đặc biệt là thầy giáo Đồng
Thanh Hải đã hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện.
Nhân đây tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo Khoa đào tạo
sau đại học, các cán bộ BQL rừng đặc dụng Coopia, đặc biệt là thầy giáo Đồng
Thanh Hải.
Tôi xin cam đoan các số liệu thu thập, kết quả nghiên cứu tính toán, các
thông tin trích dẫn trên luận văn đều được chỉ dẫn nguồn gốc.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2011
Học viên

Đinh Văn Thái


ii

MỤC LỤC
Lời cảm ơn...............................................................................................................i
Mục lục...................................................................................................................ii
Danh mục các từ viết tắt........................................................................................iii
Danh mục các bảng................................................................................................iv
Danh mục các hình.................................................................................................vi
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................................3
1.1. Một số công trình nghiên cứu về Đa dạng sinh học .............................................3
1.2. Phương pháp đánh nhanh nông thôn và phương pháp đánh giá nông thôn có sự
tham gia của người dân ..............................................................................................7
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI KHU
VỰC NGHIÊN CỨU ................................................................................................11

CHƯƠNG 3. MỤC TIÊU - NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............25
3.1. Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................................25
3.2. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................25
3.3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................25
3.4. Nội dung nghiên cứu ..........................................................................................25
3.5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................26
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................32
4.1. Hiện trạng đa dạng sinh học tại khu rừng đặc dụng Côpia ................................32
4.2. Thực trạng công tác bảo tồn đa dạng sinh học của BQL rừng đặc dụng Côpia 43
4.3. Đánh giá mức độ tham gia, nhận thức và sự phụ thuộc của người dân vào các
hoạt động quản lý và bảo tồn tại khu rừng đặc dụng Côpia ......................................55
4.4. Đánh giá cơ hội và thách thức khi người dân tham gia vào các hoạt động bảo
tồn ..............................................................................................................................64
4.5. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn có sự tham gia của người dân ......................76
KẾT LUẬN – TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ BIỂU


iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BQL

Ban quản lý

ĐDSH

Đa dạng sinh học


MH

Mô hình

UBND

Ủy ban nhân dân


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG
Nội dung

STT

Trang

2.1

Thành phần dân tộc trong khu rừng đặc dụng Côpia

14

2.2

Số bản, số hộ và số nhân khẩu trong khu rừng đặc dụng Côpia

14


2.3

Kết quả sản xuất trồng trọt của xã Chiềng Bôm năm 2009

21

4.1

Các kiểu thảm thực vật nguyên sinh đặc trưng tại khu rừng đặc dụng
Côpia

32

4.2

Một số kiểu thảm thực vật nguyên sinh đã bị tác động tại khu rừng
đặc dụng Côpia

33

4.3

Thành phần loài thực vật rừng tại khu vực Côpia

34

4.4

So sánh với một số khu rừng đặc dụng tại tỉnh Sơn La


34

4.5

10 họ thực vật có nhiều loài nhất tại khu rừng đặc dụng Côpia

35

4.6

Danh sách các loài thực vật quý hiếm được xếp cho rừng đặc dụng

36

Côpia
4.7

Số loài thực vật quý hiếm được xếp cho các khu rừng đặc dụng tại

37

tỉnh Sơn La
4.8

Thành phần loài động vật rừng tại khu vực Côpia

38

4.9


So sánh với một số khu rừng đặc dụng tại tỉnh Sơn La

39

4.10 Danh sách các loài động vật quý hiếm, nguy cấp được xếp cho rừng

40

đặc dụng Côpia
4.11 Số loài động vật quý hiếm được xếp cho các khu rừng đặc dụng tại

43

tỉnh Sơn La
4.12 Hiện trạng tổ chức của các BQL rừng đặc dụng trong tỉnh Sơn La

37

4.13 Một số chương trình,hoạt động liên quan đến công tác quản lý, bảo
vệ và phát triển rừng của BQL rừng đặc dụng Côpia

44

4.14 Diện tích phân khu bảo tồn nguyên vẹn của BQL rừng đặc dụng
Côpia

48

4.15 Diện tích phân khu phục hồi sinh thái của BQL rừng đặc dụng
Côpia


51

4.16 Kết quả kiểm kê tài nguyên rừng của xã Chiềng Bôm (năm 2009)

65

4.17 Đánh giá, lựa chọn cây lâm nghiệp

67

4.18 Khả năng kết hợp trồng giữa cây lâm nghiệp với cây nông nghiệp

68


v

lâu năm
4.19 Mô tả các mô hình

70

4.20 Các chỉ tiêu kinh tế của các mô hình sử dụng các loài cây lâm

71

nghiệp
4.21 Kết quả đánh giá hiệu quả xã hội của các mô hình sử dụng đất cây
lâm nghiệp


72

4.22 Kết quả đánh giá hiệu quả sinh thái môi trường của các mô hình sử
dụng đất cây lâm nghiệp

73

4.23 Hiệu quả tổng của các mô hình sử dụng đất cây lâm nghiệp

74

4.24 Quy hoạch sử dụng đất xã Chiềng Bôm giai đoạn 2010 – 2020

82

4.25 Dự toán vốn và lợi nhuận của phương án quy hoạch

84


vi

DANH MỤC CÁC HÌNH
Nội dung

STT

Trang


3.1

Sơ đồ xử lý số liệu

31

4.1

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của BQL rừng đặc dụng Côpia

44

4.2

Sơ đồ mục tiêu của BQL rừng đặc dụng Côpia

46

4.3

Sơ đồ nhiệm vụ của BQL rừng đặc dụng Côpia

47

4.4

Kết quả phỏng vấn người dân về các hoạt động liên quan đến quản

49


lý và bảo vệ rừng của BQL rừng đặc dụng Côpia
4.5

Các trạm bảo vệ của khu rừng đặc dụng Côpia

50

4.6

Phá rừng làm nương rẫy

62

4.7

Sơ đồ các nhóm giải pháp bảo tồn ĐDSH có sự tham gia của người
dân

77


1

MỞ ĐẦU
Đa dạng sinh học là thuật ngữ chỉ sự phong phú của tất cả các dạng sống trên
quả đất cùng với các quá trình sinh thái, tiến hoá để duy trì chúng. Sự biến đổi
ĐDSH được thể hiện từ các gen đến các vùng địa lý sinh học, ở các qui mô từ địa
phương đến toàn cầu, theo mùa và quá trình tiến hoá.
Đa dạng sinh học có giá trị lớn đối với con người: Là nguồn thức ăn quan
trọng, nguồn thuốc chữa bệnh quí giá, cung cấp gỗ củi, nhựa cho nhiều ngành kinh

tế, là nguồn giống vô tận cho sản xuất nông lâm nghiệp. Đa dạng sinh học duy trì
các quá trình sinh thái cơ bản, là nhân tố quan trọng để tạo ra và giữ vững cân bằng
sinh thái tự nhiên, tạo môi trường sống ổn định và bền vững cho con người.
Mặc dù giá trị của ĐDSH là rất lớn và không thể thay thế nhưng đã và đang
bị suy thoái trên trái đất. Theo Quĩ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF) suy thoái
ĐDSH trên thế giới diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến sự suy thoái ĐDSH. Nguyên nhân sâu xa của sự suy giảm ĐDSH đó là sự gia
tăng dân số và đói nghèo. Nạn mất rừng, chia cắt rừng thành từng mảnh nhỏ diễn ra
trong nhiều thập kỷ qua đã làm cho tính ĐDSH rừng bị suy giảm. Nhiều loài động
thực vật trở nên khan hiếm hoặc có nguy cơ bị tiêu diệt như Hoàng đàn, Pơ mu,
Cẩm lai, Tê giác một sừng, Bò tót, Bò xám, Voi… Sự xoá sổ nhiều khu rừng tự
nhiên là những mất mát không thể tính bằng tiền. Chúng ta đã đánh mất một kho
tàng nguồn gen động thực vật hoang dã quí hiếm, đánh mất lá phổi xanh của nhân
loại và đánh mất những cỗ máy giúp điều hoà khí hậu, bảo vệ môi trường sống cho tất cả
các loài sinh vật trên quả đất.
Nhận thức được giá trị to lớn của ĐDSH và đứng trước sự suy thoái nghiêm
trọng của nguồn tài nguyên này, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất
quan tâm đến công tác bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên rừng. Các hành động
cụ thể như thành lập các Khu bảo tồn và Vườn Quốc gia, thực hiện các dự án trồng
rừng, xúc tiến tái sinh khoanh nuôi bảo vệ rừng tự nhiên, bảo vệ môi trường quốc
gia.
Mặc dù đã có rất nhiều các chương trình bảo tồn đa dạng sinh học được thực
hiện, tuy nhiên hiệu quả mang lại chưa thực sự đáp ứng được mong đợi. Một trong
các vấn đề quan trọng được xác định là thiếu sự hoà hợp giữa con người với thiên
nhiên, những xung đột giữa cư dân địa phương với các nhà quản lý là những thách
thức lớn nhất hiện nay trong công tác quản lý rừng đặc dụng ở Việt Nam.


2


Khu rừng đặc dụng Côpia huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La là nơi còn lưu giữ
nhiều nguồn gen động thực vật quí hiếm (Pơ mu, Thông tre, Gấu chó, Rắn hổ
mang... )
Mặc dù trong những năm qua, các ngành chức năng cũng đã rất cố gắng thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao song do nhiều nguyên nhân khác nhau, rừng ở đây vẫn
bị tàn phá nặng nề. Hiện tượng chặt rừng, đốt để làm nương rẫy, khai thác và buôn
bán gỗ, săn bắn động thực vật vẫn thường xuyên diễn ra, tính ĐDSH ngày càng bị
suy giảm. Vì vậy, việc nghiên cứu hiện trạng tài nguyên ĐDSH của Khu rừng đặc
dụng Côpia, đánh giá sự phụ thuộc của người dân địa phương vào tài nguyên rừng
cũng như những khó khăn thuận lợi trong công tác bảo tồn là điều rất cần được
quan tâm hiện nay. Số liệu thu thập được sẽ là cơ sở giúp cho các nhà quản lý đưa
ra những giải pháp hữu hiệu trong công tác bảo tồn ĐDSH, bảo tồn những nguồn
gen động thực vật và phát triển bền vững tài nguyên rừng trong khu vực.
Với mong muốn được đóng góp một phần công sức của mình vào việc bảo
tồn ĐDSH của địa phương, Tôi đã chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên
cứu một số giải pháp bảo tồn ĐDSH có sự tham gia của người dân tại xã Chiềng
Bôm, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La".


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Một số công trình nghiên cứu về Đa dạng sinh học
1.1.1. Trên thế giới
Nghiên cứu của Berkmuller và các cộng sự năm 1992 cho rằng việc nâng cao
nhận thức và mối quan tâm của cộng đồng địa phương đối với bảo tồn thiên nhiên
và các hoạt động có liên quan là rất quan trọng. Tác giả cho rằng nếu không nâng
cao nhận thức trong nhóm mục tiêu về các giá trị sinh thái và giá trị vô hình của khu

bảo tồn thiên nhiên thì rừng sẽ tiếp tục bị xem như là một tài nguyên có thể khai
thác. Để thực hiện thành công những giải pháp dài hạn cho những vấn đề về môi
trường, cần đưa việc giáo dục về các giá trị của môi trường vào trong các chương
trình giáo dục cho các khu bảo tồn 24.
Việc xây dựng các qui tắc và qui định cho vùng đệm, vùng tái sinh và vùng
lõi của khu BTTN với sự tham gia của các cộng đồng và chính quyền địa phương đã
được Gilmour và Nguyễn văn Sản (1999), Đặng Đình Trân (1997), Mackinnon
(1986), Sayer (1991) đề xuất một số hướng dẫn cho các vùng quản lý khác nhau:
cấm đốt thảm thực vật trong vùng đệm, tránh trồng những loại cây dễ bắt lửa, cấm
đưa vào trong vùng đệm các loài động vật và thực vật có nhiều khả năng xâm lấn
hay đe doạ khu vực bảo tồn. Cấm bất kỳ một hành động nào có khả năng đe doạ các
loài có nguy cơ tuyệt chủng trong khu bảo tồn. Tránh trồng các loài cây dễ khuyến
khích động vật hoang dã ra ăn cỏ ngoài khu bảo tồn  26,27.
Với nghiên cứu của mình và các đồng sự, Power (2000) đã khẳng định trong
tương lai các khu bảo tồn cần tập trung khuyến khích việc sử dụng ít vật tư từ bên
ngoài và sản xuất nông nghiệp bền vững. Các kỹ thuật canh tác cần tập trung vào
việc cải tạo chất lượng đất, tối ưu hoá chất dinh dưỡng sẵn có, quản lý nguồn nước,
phòng trừ sâu bệnh hại tổng hợp và khuyến khích đa dạng hoá cộng đồng 29.
Về chính sách lâm nghiệp, Sheppherd (1986) cho rằng đối với cộng đồng
dân cư sống trong và gần các khu bảo tồn thiên nhiên, một giải pháp đề nghị là cho
phép người dân địa phương củng cố quyền lợi của họ theo cách hiểu của các hệ
quản lý nông nghiệp hiện đại, bằng cách trồng cây, cho và nhận đất, Nhà nước cần


4

xác định rõ các quyền lợi chính trị của dân trên mảnh đất mà họ nhận, với mục đích
tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập và giảm tác động đến tài nguyên rừng
21.
Tại Nepan, Subedi và cộng sự đã dùng phương pháp đánh giá nhanh (RA) để

nghiên cứu việc quản lý cây và đất tại hai cộng đồng nông thôn ở miền đông Terai
(vùng thấp). Nghiên cứu được thiết kế nhằm góp sức vào việc phát triển lợi tức và
công ăn việc làm thông qua dự án do cơ quan phát triển Quốc tế Thuỵ Điển (SIDA)
và FAO tài trợ. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cộng đồng và quản lý của thôn xã,
tầm quan trọng của việc thu hút người dân sử dụng tài nguyên và những nhóm sử
dụng trực tiếp tham gia vào việc phát triển, cách giải quyết vấn đề khan hiếm tài
nguyên và công bằng xã hội đã được thảo luận 33.
Ở Canada, trong bài viết của Sherry (1999) về sự hợp tác quản lý tại vườn
quốc gia Vutut (vừa là một khu bảo tồn thiên nhiên vừa là khu di sản văn hoá của
người thổ dân vùng Bắc cực), liên minh giữa chính quyền và thổ dân đã làm thay
đổi chiều hướng bảo tồn tự nhiên hoang dã và tăng giá trị của vườn quốc gia. Hợp
tác quản lý đã kết hợp được giữa các mối quan tâm và kiến thức bản địa với mục
tiêu bảo tồn. Ban quản lý vườn giúp người dân về kỹ thuật xây dựng các mô hình,
về bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế xã hội. Hợp tác quản lý ở đây được đánh
giá là rất thành công, theo tác giả thì nó được thiết kế để “kết hợp giữa sự tốt đẹp
nhất của hai thế giới” nhà nước văn minh và thổ dân 32.
Poffenberger và McGean (1993), trong báo cáo “Liên minh cộng đồng: đồng
quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu điểm tại Vườn quốc gia Dong Yai nằm
ở đông bắc và khu phòng hộ Nam Sa ở phía bắc Thái lan. Tại Dong Yai người dân
đã chứng minh được khả năng của họ trong việc tự tổ chức các hoạt động bảo tồn,
đồng thời phối hợp với Cục lâm nghiệp Hoàng gia xây dựng hệ thống quản lý rừng
đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái, đồng thời phục vụ lợi ích của người dân
trong khu vực. Tại NamSa cộng đồng người dân cũng rất thành công trong công tác
quản lý rừng phòng hộ. Họ khẳng định nếu chính phủ có chính sách khuyến khích
và chuyển giao quyền lực cho họ thì chắc chắn họ sẽ thành công trong việc kiểm soát khai
thác tài nguyên 28.
Gilmour (1999) lại cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tính kém hiệu quả
của các chương trình dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên là chưa giải quyết tốt mối
quan hệ lợi ích giữa các cá nhân trong cộng đồng, giữa lợi ích cộng đồng địa



5

phương với lợi ích quốc gia, do đó chưa phát huy được năng lực nội sinh của các
cộng đồng cho quản lý tài nguyên. Vì vậy, quản lý tài nguyên cần phát triển theo
hướng kết hợp giữa hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên với hoạt động sản
xuất để cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, thống nhất lợi ích của người dân
với lợi ích quốc gia trong hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng 26.
Chương trình hỗ trợ đa dạng sinh học (The Biodiversity Support Program,
BSP) (2000) đã thực hiện nhiều dự án với mục tiêu nhằm đạt được tác động thật sự
đối với bảo tồn. Những nghiên cứu bước đầu đã chỉ ra một số điều kiện thành công
của bảo tồn: Một là, mục tiêu bảo tồn phải được thảo luận, đàm phán và nhất trí bởi
tất cả các chủ thể hoặc đối tác có liên quan. Hai là, các hoạt động bảo tồn phải xác
định và hỗ trợ các lợi ích và nhu cầu địa phương. Ba là, nhận thức, kiến thức về bảo
tồn đa dạng sinh học sẽ dẫn đến động lực, nhưng động lực không thì chưa đủ. Để
biến ý tưởng thành hành động thì con người phải có đầy đủ kỹ năng và năng lực cần
thiết.
Quĩ Quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF), 2001 đã đưa ra một thông điệp
chung rất đơn giản: “Hoạt động bảo tồn phải đề cập đến vấn đề xoá đói giảm nghèo
như là một phần quan trọng của chính sách bảo tồn tài nguyên rừng” 35.
1.1.2. Tại Việt Nam
Việt Nam nằm ở Đông Nam bán đảo Đông Dương, có phần đất liền rộng
khoảng 330.000 km2, với bờ bển dài khoảng 3.200 km. Việt Nam có đường biên
giới đất liền giáp với 3 nước láng giềng dài khoảng 4.630 km, trong đó có 1.463 km
với Trung Quốc, 2.067 với Lào và trên 1.100 km với Campuchia. Ba phần tư diện
tích của cả nước là đồi núi, với đỉnh cao nhất là Phansipan 3.143m ở phía Tây Bắc.
Nơi đây các dãy núi cao được hình thành do sự kéo dài của dãy núi Himalaya…Do
phạm vi rộng của vĩ độ và độ cao mà khí hậu Việt Nam không đồng nhất, khí hậu
thay đổi từ những vùng nhiệt đới ẩm ở các vùng thấp phía Nam đến các điều kiện
ôn hòa ở vùng núi cao phía Bắc. Với các điều kiện như vậy dẫn đến tính đa dạng

các nhóm sinh vật ở Việt Nam khá lớn: Thực vật có mạch khoảng 10.066 loài, Nấm
khoảng 600 loài, Tảo khoảng 1000 loài, rêu 793 loài; cá khoảng 2.472 loài, ếch,
nhái khoảng 80 loài, bò sát khoảng 189 loài, chim khoảng 826 loài và thú khoảng
275 loài [18].
Từ những năm 1960, Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản pháp qui, chỉ
thị và chính sách liên quan đến bảo vệ rừng. Tuy nhiên do yêu cầu trước mắt ưu tiên


6

cho phát triển kinh tế xã hội và chống đói nghèo nên trong những năm qua Việt nam
chưa quan tâm đầy đủ tới mối quan hệ giữa phát triển và bảo tồn tài nguyên sinh
học. Từ những năm 1980, Chính phủ đã bắt đầu có những quan tâm đặc biệt tới phát
triển và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nhiều văn bản
pháp qui liên quan đến các khu bảo tồn đã được ban hành, nhiều dự án, chuơng
trình lớn được thực hiện đã tạo ra nền tảng để nâng cao nhận thức và các hoạt động
bảo tồn ĐDSH ở Việt nam. Tuy nhiên, sự hiểu biết về BTTN nói chung và KBT nói
riêng còn rất nhiều bất cập, nhất là đối với các cộng đồng sinh sống ở miền núi và
vùng sâu vùng xa. Để ngăn chặn việc khai thác, sử dụng trái phép TNTN ngày càng
gia tăng do yêu cầu ở trong nước và xuất khẩu, tạo sự liên kết và hỗ trợ của Quốc tế,
Chính phủ Việt nam cũng đã tham gia vào 4 trong 5 công ước Quốc tế liên quan đến
công tác bảo tồn ĐDSH, quản lý khu bảo tồn và quản lý các loài động thực vật
hoang dã 24.
Đánh giá hiệu quả của công tác bảo vệ các khu bảo tồn ở Việt nam Nguyễn
Bá Thụ (1997) nhận định: Công tác này phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết
những vấn đề tồn tại tồn tại trên vùng đệm gồm nâng cao đời sống của nhân dân
vùng đệm; chuyển đổi hoặc thay thế tập quán dùng củi, gỗ bừa bãi và lãng phí của
người dân sống trên vùng đệm; nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác nông nghiệp,
lâm nghiệp, đẩy mạnh thâm canh, nâng cao năng suất cây trồng, nhanh chóng từ bỏ
lối canh tác du canh, quảng canh; nâng cao trình độ hiểu biết về bảo tồn, sử dụng

hợp lý và bền vững tài nguyên cho người dân địa phương 13.
Báo cáo kết quả dự án bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển nông thôn - dự
án khu BTTN ChưmomRay đã kết luận bảo vệ tính đa dạng sinh học của khu bảo
tồn thiên nhiên trước hết là làm giảm sự phụ thuộc của người dân lên vùng được
bảo vệ, đảm bảo được mức độ cao hơn về an toàn lương thực, gia tăng thu nhập hộ
gia đình, xoá nạn mù chữ, cải thiện vấn đề sức khoẻ tạo ra các cơ hội và giúp các
nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, bản địa phát triển các yếu tố truyền thống văn hoá.
Bằng việc phát triển phúc lợi xã hội của các cộng đồng sống trong vùng đệm,
khuyến khích các hoạt động nông nghịêp bền vững, phát triển cơ sở hạ tầng nông
thôn 14.
Việc xây dựng vùng đệm Kỳ Thượng ở khu BTTN Kẻ gỗ được Võ Quí và
Đồng Nguyên Thuỵ nghiên cứu trong đề tài KT02-08-1992. Nghiên cứu chỉ ra rằng
để có thể bảo vệ đựơc rừng thì điều cần thiết phải cộng tác với nhân dân địa


7

phương, động viên họ bảo vệ rừng và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ bằng
cách giúp họ nâng cao năng suất lúa với giống mới phù hợp với địa phương, thực
hiện nông lâm kết hợp, tổ chức trồng cây ăn quả, nuôi ong, xây dựng thuỷ điện nhỏ
cho gia đình… Huấn luyện nhân dân cách xây dựng và quản lý vùng đệm, sử dụng
bền vững tài nguyên rừng, giảm bớt sức ép lên rừng 16.
Năm 1998 khi nghiên cứu kiến thức bản địa của đồng bảo vùng cao trong
nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc đã
khẳng định tầm quan trọng của kiến thức bản địa trong quản lý tài nguyên thiên
nhiên. Chính những cộng đồng địa phương là những người hiểu biết sâu sắc nhất về
những tài nguyên thiên nhiên nơi họ sinh sống, về cách thức giải quyết những mối
quan hệ kinh tế- xã hội trong cộng đồng. Họ có khả năng phát triển những loài cây
trồng vật nuôi cho hiệu quả cao và bền vững trong hoàn cảnh sinh thái của địa
phương. Cộng đồng dân cư địa phương vừa là người thực hiện các chương trình

quản lý tài nguyên, vừa là người hưởng lợi từ hoạt động quản lý tài nguyên, nên
những giải pháp quản lý tài nguyên phù hợp với những phong tục, tập quán, những
nhận thức, kiến thức của họ sẽ có tính khả thi cao.
Báo cáo tại hội thảo quốc gia năm 1999 “Để cuộc sống và môi trường của
người dân miền núi được bền vững”, Võ Quý cho rằng để duy trì cuộc sống, nhiều
người sinh sống trong các khu bảo tồn buộc phải khai thác các nguồn tài nguyên
thiên nhiên ở đây mà đáng ra họ phải góp phần bảo vệ. Vì vậy, để giải quyết mâu
thuẫn nói trên phải chú ý đến vấn đề kinh tế xã hội phức tạp mà chủ yếu là tìm các
biện pháp hữu hiệu để cải thiện mức sống của người dân, nhất là những người dân
nghèo, đồng thời phải nâng cao nhận thức của họ về bảo vệ thiên nhiên và môi
trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, kể cả đất và rừng mà họ có trách
nhiệm bảo vệ và họ được quyền quyết định về cách sử dụng tốt nhất cho cuộc sống
của họ và cho cả cộng đồng 17.
1.2. Phương pháp đánh nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp đánh giá
nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA)
Phương pháp RRA được biết đến vào những năm 1930, nhưng nổi bật hơn là
sau chiến tranh thế giới thứ II. Bởi vì do có một sự khác biệt giữa các cộng đồng ở
nông thôn và thành thị, giữa các nhóm dân tộc ít người và các nhóm khu vực, giữa
các cộng đồng với những lối sống và hệ giá trị khác nhau. Sự khác biệt này chỉ có
thể vượt qua bằng chính ảnh hưởng của cộng đồng tới những dịch vụ mà họ được


8

cung cấp và chính quần chúng phải có vai trò của mình trong hệ thống. Đó là một hệ
thống tổ chức xã hội phát huy sự hợp tác, tương trợ trong các cộng đồng nhằm huy
động một cách có hiệu quả nguồn lực để giải quyết những vấn đề lợi ích về thiên
nhiên và môi trường chung [13].
Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) được đưa ra vào những năm
cuối thập niên 70 và được sử dụng để đưa ra các thông tin nhanh và chính xác cho

việc nhận dạng và đánh giá các chương trình phát triển nông thôn [4].
Trong RRA, yếu tố liên ngành là rất quan trọng. Các vấn đề của người nông dân
là phức tạp bao gồm toàn bộ hệ tài nguyên nông thôn chứ không chỉ riêng cây trồng.
Do tính phức tạp của hệ thống địa phương, đối với một chuyên gia của một chuyên
môn nhất định khó có thể hiểu đầy đủ mọi yếu tố mà người nông dân đấu tranh với
chúng và cũng khó đề xuất ra một gợi ý can thiệp nào mà hoàn toàn phù hợp và có thể
tồn tại được ở địa phương.
RRA có thể tập trung vào đánh giá tổng thể hệ thống làng, xã, hoặc đánh giá
mang tính thời sự, hay mang tính chuyên sâu. RRA được thực hiện theo một số yêu
cầu chung mà không để ý đến công cụ sử dụng. Trong RRA, các nhà nghiên cứu
tiến hành đánh giá thông qua các câu hỏi phát sinh trong quá trình phỏng vấn.
Người nghiên cứu cố tránh hoặc giảm đến mức thấp nhất những định kiến nhỏ của
một nhóm nghiên cứu liên ngành, có nam có nữ. Người nghiên cứu phải lắng nghe
người địa phương, coi họ như những thầy giáo có kiến thức đặc biệt về các điều
kiện nông thôn mà ngoài họ ra không có ai khác. Cuối cùng các nhóm nghiên cứu
cần phải nghiên cứu cùng một vấn đề, cùng một câu hỏi bằng nhiều phương pháp
khác nhau, vừa để kiểm tra chéo vừa để hoàn thiện bức phác họa tổng thể.
RRA là phương pháp nghiên cứu nông thôn linh hoạt nhanh chóng và chi phí
thấp, có khả năng ứng dụng rộng rãi. Đây là phương pháp có khả năng dùng được ở bất
kỳ nơi nào cần thông tin kịp thời, tập trung và có hiệu quả. Vì nó có tính linh động cao
nên nó có thể dùng được ở phạm vi rộng để trả lời những vấn đề nảy sinh. Nó cung cấp
thông tin nhanh, do đó trong giám định các đề án nó có thể xác định được các vấn đề
đúng lúc để can thiệp.
Tuy nhiên, sự tham gia của người dân phần nào còn thụ động, và các giải
pháp phát triển phần lớn do những nhà nghiên cứu xác lập. Đây là một trong những
nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả của chúng.
Để khắc phục tồn tại trên, người ta đã cố gắng tìm ra những phương pháp
đánh giá nông thôn mới bằng những cách nào đó không chỉ lôi cuốn nông dân vào



9

quá trình thu thập thông tin, đánh giá những vấn đề đang tồn tại trong cộng đồng,
mà cả trong quá trình nghiên cứu ra quyết định về những giải pháp phát triển, lập kế
hoạch thực hiện những giải pháp đã đề ra, kiểm tra, giám sát và điều chỉnh những
kế hoạch đó trong toàn bộ quá trình phát triển của cộng đồng. Do đòi hỏi của thực
tiễn, từ những năm 80 bắt đầu hình thành phương pháp mới - phương pháp đánh giá
nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA, hay phương pháp nghiên cứu tham
dự).[4,13]
PRA là một trong những phương pháp lôi cuốn sự tham gia tích cực của
nông dân vào quá trình thu thập, phân tích thông tin, đề ra những giải pháp để giải
quyết những vấn đề đang tồn tại trong cộng đồng của họ.
PRA dựa trên cơ sở phương pháp luận đã được Gordon Conway và Robert
Chambers phát triển trong thời gian họ làm việc tại Viện Quốc tế Môi trường và Phát
triển. Dưới tên gọi là đánh giá nông thôn nhanh (RRA), phương pháp luận cơ sở đã
được chuyên môn hoá theo các hướng nhỏ bao gồm các RRA mang tính thời sự,
RRA khảo sát và RRA giám sát cũng như các phương pháp đánh giá nông thôn tham
dự (PRA). PRA xuất phát từ niền tin vững chắc vào phương pháp tham dự. Trước
đây, do thiếu phương pháp luận có kết cấu chặt chẽ, phương pháp tham dự trở nên
tốn kém và không hiệu quả đối với các cơ quan phát triển. PRA tạo ra một kết cấu
quy tụ được các dân cư, các thủ lĩnh của các cộng đồng, các nhân viên kỹ thuật của
vùng và các tổ chức phi chính phủ. Việc lấp các hố ngăn giữa người hưởng lợi theo
dự kiến và những người quản lý các nguồn lực dẫn đến những hoạt động mà các thiết
chế làng xã có thể duy trì. Trong RRA và PRA đã phát huy được tối đa những kinh
nghiệm của cả những người nghiên cứu cũng như người dân nông thôn.[13]
Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước, tính cộng đồng và những
quan hệ trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam là yếu tố tạo nên kết quả đạt được
trong công cuộc thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ. Ngày nay trong công
cuộc xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá thì chúng ta cũng
không thể bỏ quên vấn đề tham gia của cộng đồng.

Người dân địa phương là vốn quý cho công tác bảo tồn, nguồn lực trong
công tác bảo tồn và khôi phục đất rừng. Tại bất cứ nước nào, khi người dân địa
phương mà phần đông trong số này là rất nghèo, có cơ hội, họ đã sẵn lòng đầu tư rất
nhiều thời gian và của cải vốn khan hiếm để bảo tồn các khu rừng và khôi phục đất
đã bị thoái hoá.


10

Cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, Gordon Conway, Robert Chambers và
những người khác đã xây dựng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham
gia (PRA). Phương pháp này đã được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ và nhiều nước khác
ở Châu á, Châu Phi vào các dự án phát triển nông thôn trên các lĩnh vực quản lý tài
nguyên thiên nhiên, nông nghiệp, các chương trình xã hội, xoá đói giảm nghèo, Y
tế, an toàn lương thực. PRA vẫn đang tiếp tục phát triển và sử dụng rộng rãi.
Từ năm 1994 đến nay chương trình phát triển Nông thôn do SIDA tài trợ tiếp
tục sử dụng PRA cho việc lập kế hoạch, thực hiện giám sát, đánh giá dự án các cấp
thôn bản. Phương pháp PRA ngày càng được hoàn thiện phù hợp với điều kiện
nông thôn miền núi Việt Nam.


11

CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khu rừng đặc dụng Côpia
2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên khu rừng đặc dụng Côpia
2.1.1.1. Vị trí và ranh giới
Ngày 11/11/2002, UBND tỉnh Sơn La có quyết định: Số 3440/2002 QĐ –

UBND về việc thành lập BQL bảo tồn thiên nhiên Côpia thuộc chi cục kiểm lâm
Sơn La; và ngày 14/7/2008, UBND tỉnh Sơn La có quyết định: Số 1723/2008 QĐ –
UBND về việc đổi tên BQL bảo tồn thiên nhiên Côpia thành BQL rừng đặc dụng
Côpia.
- Vị trí - Ranh gới:
Khu rừng đặc dụng Côpia nằm phía Tây – Nam Thị trấn Thuận Châu, cách
thành phố Sơn La 70 km về phía Tây; gồm các xã Co Mạ, Long Hẹ, Púng Tra,
Chiềng Bôm và Nậm Lầu (Thuộc huyện Thuận Châu).
+ Phía Bắc: Giáp tiểu khu 245a, 242 và 234 thuộc xã Long Hẹ và Chiềng
Bôm.
+ Phía Nam: Giáp 2 xã Chiềng Phung và Nậm Ty của huyện Sông Mã.
+ Phía Đông: Giáp tiểu khu 256, 265 và 279 thuộc xã Nậm Lầu.
+ Phía Tây: Giáp tiểu khu 246, 259 và 271a thuộc xã Co Mạ.
- Toạ độ địa lý:
Khu nghiên cứu có toạ độ địa lý:
+ Từ 21017’30’’ đến 21023’30’’ vĩ độ Bắc
+ Từ 103032’00’’ đến 103040’00’’ kinh độ Đông
2.1.1.2. Địa hình
Khu điều tra tài nguyên thực vật gồm phần lớn địa hình đồi núi có độ cao
trên 1000m so với mặt biển. Đỉnh Pu Sam Sao cao 1821m là đỉnh cao nhất của khu
vực, Đỉnh Côpia nổi tiếng cao 1816m nằm trên ranh giới xã Cò Mạ với xã Nậm
Lầu – Chiềng Bôm là đỉnh cao thứ hai. Độ cao thấp hơn 800 m của khu nghiên cứu


12

có diện tích nhỏ nằm cạnh đường ô tô phía đông bắc đỉnh Côpia thuộc xã Chiềng
Bôm huyện Thuận Châu.
Địa hình trong khu nghiên cứu bị chia cắt mạnh do các dông núi phụ, các khe
suối chạy từ trên các đỉnh cao xuống và còn do trong khu nghiên cứu có xen kẽ một

số đỉnh núi cao đơn lẻ, khá hiểm trở. Do độ chênh cao lớn nên khu nghiên cứu có
độ dốc trung bình 25 - 35o , nhiều nơi có độ đốc >35o rất khó đi lại. Nhìn chung địa
hình khu nghiên cứu thuộc loại trung địa hình vùng núi cao, có độ chênh cao trên
1000m, càng đi về phía trung tâm khu nghiên cứu càng cao và độ dốc càng lớn,
nhiều núi cao, thung lũng sâu, sườn núi dốc.
2.1.1.3. Địa chất và thổ nhưỡng
- Đá mẹ: Trong khu nghiên cứu đá mẹ thuộc 2 nhóm chính: Đá macma axit
và đá biến chất với các loại chính như: Granit, Amphibolit, Đá Diệp Thạch, đôi chỗ
còn lẫn cả phiến thạch sét, Sa thạch.
- Các loại đất chính trong khu vực:
+ Đất mùn màu xám vàng trên núi cao, thành phần cơ giới nhẹ thường có ở
độ cao 1600 - 1800m. Loại đất này trong khu nghiên cứu có diện tích rất nhỏ.
+ Đất Feralit mùn vàng đỏ phát triển trên đá Axit hoặc trên đá biến chất núi
cao trung bình, thành phần cơ giới Trung bình đến nhẹ thường ở độ cao 700 1700m.
+ Đất Feralit màu nâu vàng phát triển trên đá Axit hoặc đá biến chất, đá Diệp
Thạch, Đá phiến lẫn Sa thạch, thành phần cơ giới trung bình ở độ cao 700-1700m
+ Đất Feralit màu xám biến đổi do trồng lúa, có thành phần cơ giới trung
bình, phân bố quanh làng bản và trên các sườn núi có nguồn nước.
Nhìn chung đất trong khu vực là đất thịt tới sét nhẹ, tơi, xốp, có độ ẩm cao
nơi còn rừng, đất dể bị khô cứng nơi mất rừng, đất có thành phần cơ giới từ nhẹ đến
trung bình, kết cấu viên nhỏ và có độ mùn từ trung bình đến khá, còn tính chất đất
rừng rất thuận lợi cho quá trình phát triển và phục hồi rừng nếu ngăn chăn được nạn
lửa rừng.
2.1.1.4. Khí hậu thuỷ văn
* Khí hậu khu nghiên cứu thuộc kiểu khí hậu á nhiệt đới núi trung bình (ôn
đới cận nhiệt đới).
Khí hậu Thuận Châu (Theo trạm khí tượng Thuận Châu) có các đặc trưng
chính sau:
- Nhiệt độ



13

+ Nhiệt độ bình quân năm 190C.
+ Nhiệt độ tối cao 370 C, Nhiệt độ tối cao bình quân 320C nhiệt độ tối thấp
bình quân 140C , nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 00C
+ Mùa lạnh nhất từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau, trên các đỉnh
cao đôi khi nhiệt độ xuống tới gần 0oC.
- Độ ẩm
Độ ẩm tương đối bình quân năm cao là 85%, Độ ẩm tương đối tối cao bình
quân năm 90%,Độ ẩm tương đối tối thấp bình quân năm 70%. Nhiều ngày trong
năm có sương mù.
- Lượng mưa
+ Lượng mưa bình quân năm 1400 - 1600mm
+ Mùa mưa từ tháng 4 - 9; Mùa khô từ tháng 10 - 3 năm sau. Mưa tập trung
các tháng 6 đến 8 chiếm 70% tổng lượng mưa năm.
- Nắng: Tổng số giờ nắng bình quân năm thấp, Tháng 4 nắng nhiều nhất
tháng 10 là tháng nắng ít nhất.
- Sương mù: bình quân có 160 ngày có sương mù trong năm.
- Sương muối: bình quân 5 - 8 ngày có sương muối trong năm nhưng đôi khi
có đợt kéo dài 3 đến 5 ngày cao nhất tới 11 ngày và thường xuất hiện vào các tháng
12 và1.
- Gió: Hướng gió thịnh hành của khu nghiên cứu là Đông Bắc, Tây Nam, gió
nhẹ 2,7m/s, Hàng năm vào các tháng 3,4,5 đôi khi có gió tây khô nóng xuất hiện.
Trong các tháng 4,5 đôi khi có mưa đá.
Nhìn chung khí hậu Khu nghiên cứu là mát vào mùa hè, lạnh về mùa đông,
riêng mùa đông có nhiệt độ thấp, lại có sương mù sương muối nên ít nhiều gây cản
trở tới các hoạt động sản xuất lâm nghiệp đặc biệt là khâu gieo ươm cây con.
* Thuỷ văn: Trong khu nghiên cứu không có sông. Đáng chú ý có các suối:
Suối Đen, Suối Đá, Hua Nhứ, Suối Nhôp., Nậm Cang, Nậm Ty, Suối Liệp có nước

quanh năm. Các suối chính trên, lưư lượng nức chảy mạnh về mùa hè, còn mùa
đông nước rất cạn. Ngoài những con suối chính kể trên, trong khu nghiên cứu còn
một số con suối nhỏ có nhiều nước trong những ngày mưa to còn ít ngày sau mưa
là nước cạn chỉ còn là những rãnh nước nhỏ. Mật độ suối cao 3.12km/1000Ha
nhưng thường gây ra lũ quét, lũ ống nhưng khan hiếm nước vào mùa khô vì các
suối có độ dốc cao.


14

2.1.2. Tình hình dân sinh kinh tế - xã hội của khu rừng đặc dụng Côpia
2.1.2.1. Dân tộc và dân số
Khu rừng đặc dụng Côpia huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La nằm trên địa bàn
hành chính của các xã: Nậm Lầu, Co Mạ, Long Hẹ, Púng Tra và Chiềng Bôm.
- Thành phần dân tộc:
Bảng 2.1. Thành phần dân tộc trong khu rừng đặc dụng Côpia
Dân Tộc

TT

Số người

Tỷ lệ (%)

1

Thái

11.787


59

2

H’mông

6.044

30

3

Kháng

1.649

8

4

Khơ mú

347

2

5

Khác


1

Khu rừng đặc dụng Côpia Có 4 dân tộc anh em sinh sống từ lâu đời: Thái
đen, H’mông, Kháng và Khơ Mú.
- Số hộ, số bản và số nhân khẩu
Bảng 2.2. Số bản, số hộ và số nhân khẩu trong khu rừng đặc dụng Côpia
TT

Tên xã

Sô bản

Số hộ

Số nhân khẩu

1

Chiềng Bôm

17

1009

5.315

2

Co Mạ


22

668

4.372

3

Long Hẹ

19

414

2.759

4

Nậm Lầu

26

807

5.717

5

Púng Tra


12

377

2.589

Mật độ trung bình tính chung cả 5 xã là 10 người/1km2. Mật độ trung bình
tính riêng của 5 xã cho diện tích khoanh nuôi của khu rừng đặc dụng lên đến 99
người/1km2. Nhìn chung dân số, mật độ phân bố dân số thuộc diện thấp, còn có khẳ
năng cho phép quy hoạch khu dân cư và khu rừng đặc dụng Côpia để phục vụ chủ
trương phát triển kinh tế xã hội địa phương nói riêng và trong hệ thống phát triển
kinh tế xã hội đất nước nói chung.
2.1.2.2. Tập quán canh tác, sinh hoạt văn hóa và phong tục địa phương


15

a. Tập quán canh tác
- Mặt bằng chung các dân tộc sống tồn tại thông qua lao động truyền thống
bằng nông nghiệp, chủ yếu từ chọc lỗ, cuốc hố bỏ hạt cho đến cày, cấy lúa nước.
Kinh tế lạc hậu, lao động thủ công năng suất thấp, lệ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên;
sản xuất mang tính tự cung, tự cấp. Do điều kiện địa lý và sự phân bố các dân tộc
đều sống thành cụm bản làng. Dân tộc Thái chủ yếu sống tập trung ở các chân núi
theo hạ lưu các khe suối nhỏ, sống chủ yếu bằng trồng cấy lúa nước và vừa trồng
cấy trên các sườn núi, cuộc sống tương đối ổn định, định cư và luân canh nương
rẫy. Còn các dân tộc Kháng, H’mông và Khơ Mú lại phân bố trên các sườn cao định
cư nhưng du canh. Trước đây còn sống du canh du cư; do cuộc sống khó khăn kéo
dài và đó cũng là nguyên nhân cơ bản của việc phá đốt rừng, săn bắn chim thú rừng
làm giảm số lượng và chất lượng của chúng dẫn đến sự suy thoái, cá thể các loài
động thực vật quý hiếm đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.

Hiện nay nhờ có Đảng, Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,
đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật đến hướng dẫn sản xuất cho dân, giúp dân phát
triển kinh tế, ổn định cuộc sống giảm bớt khó khăn. Nhưng trồng trọt vẫn chiếm
một tỷ trọng lớn là nguồn thu nhập chính của người dân trong vùng. Ruộng nước ít,
hầu như không đáp ứng đủ nhu cầu lương thực tại chỗ, năng suất lại thấp. Còn
ngành chăn nuôi chưa thành nguồn chính do chủ yếu chăn nuôi bằng các giống địa
phương, số lượng còn ít.
- Sản xuất lâm nghiệp: Còn nặng về lệ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, nên
việc khai thác sử dụng lâm sản không có kế hoạch, tự phát, sử dụng vào mục đích
làm nhà, chuồng trại chăn nuôi và đồ gia dụng. Trong khai thác lâm sản còn lãng
phí nhiều do chưa hiểu biết về lợi ích lâu dài và tác dụng đa dạng của rừng nên chưa
chú ý trong lợi dụng lâm sản và phát triển rừng, nên làm cho diện tích rừng ngày
càng thu hẹp, số lượng và chất lượng giảm dần dẫn đến giảm số loài động thực vật
trong khu rùng đặc dụng.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Nhà nước, của tỉnh Sơn
La, UBND huyện Thuận Châu, đặc biệt là hạt kiểm lâm huyện Thuận Châu, BQL
rừng đặc dụng Côpia các hoạt động bảo vệ rừng nói riêng và phát triển lâm nghiệp
nói chung đã được thực hiện như khoanh nuôi bảo vệ rừng, trồng rừng.
a. Sinh hoạt văn hóa và phong tục của địa phương
- Trong khu rừng đặc dụng Côpia có số lượng đông nhất là dân tộc Thái đen
và ít nhất là dân tộc Khơ Mú. Nhưng các dân tộc đều có những phong tục tập quán,


16

hình thức sinh hoạt văn hóa riêng, thể hiện bản sắc dân tộc của mình; dân tộc Thái ở
nhà sàn có cấu trúc tương đối bền, kín đáo; còn dân tộc Kháng, Khơ Mú cũng ở nhà
sàn nhưng cấu trúc đơn giảm, tạm thời; dân tộc H’mông ở nhà đất trên núi cao, thiết
kế thấp...nhưng các dân tộc đều mang cái chung là tập trung thành các bản.
- Trong sinh hoạt văn hóa trong các dân tộc đều mang sắc thái riêng biệt; còn

nhiều cái lạc hậu gây ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Những hiện tượng này
cần được tuyên truyền hạn chế và tiến tới xóa bỏ, thông qua biện pháp giáo dục để
phát huy giữ gìn bản sắc tốt đẹp phù hợp trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay và
sự đổi mới nông thôn miền núi.
2.1.2.3. Tình hình kinh tế
a. Các hoạt động kinh tế
- Nhìn chung đời sống kinh tế trong khu vực nghiên cứu chậm phát triển, vẫn
còn mang nặng tính tự cung tự cấp.
- Các hoạt động kinh tế chủ yếu là trồng cây lương thực, trồng cây lúa nước
và phá rừng làm rẫy trên đất dốc.
- Chăn nuôi gia súc, gia cầm theo các gia đình, dừng lại ở việc đáp ứng nhu
cầu trao đổi trong khu vực và để cải thiện bữa ăn, phục vụ cho các ngày lễ tết, chưa
hình thành chăn nuôi có quy mô lớn và chăn nuôi công nghiệp sản xuất hàng hóa.
- Về trồng cây công nghiệp theo chương trình phát triển kinh tế đồi rừng
trang trại yếu kém, trồng được vài ha cà phê nhưng do điều kiện thời tiết sương
muối, sản phẩm sau thu hái giá cả tiêu thụ khó khăn cho nên diện tích không được
mở rộng.
b. Những ảnh hưởng bất lợi đến đến khu rừng đặc dụng
- Do điều kiện địa hình phức tạp, độ dốc lớn, lượng nước để sinh hoạt, sản
xuất thiếu; diện tích ruộng để canh tác ít, do đó khó khăn nhiều về vấn đề ổn định
lương thực, cái ăn của dân sở tại, thức ăn phục vụ cho chăn nuôi, giải quyết thực
phẩm cho cộng đồng dân cư. Tình trạng du canh du cư ở một vài nơi còn xảy ra đã
tác động đến việc phá rừng làm rẫy, tác động đến hệ sinh thái rừng, tới môi trường
sinh thái, tới giá trị bảo tồn các nguồn gen động thực vật. Đặc biệt hơn là vấn đề
nguồn nước dùng cho sinh hoạt, dùng để sản xuất rất khó khăn.
- Sự gia tăng dân số là sức ép gây ảnh hưởng lớn đến tài nguyên rừng như
hiện tượng khai thác gỗ làm nhà, buôn bán lâm sản, dược liệu, săn bắt các loài động
thực vật rừng thường xuyên xảy ra, hiện tượng cháy rừng chưa chấm dứt.
Thực trạng nêu trên là các nguyên nhân chính vì đời sống kinh tế của nhân



17

dân còn nhiều khó khăn.
- Do sự hiểu biết của người dân còn thấp, nhận thức về giá trị bảo tồn đa
dạng sinh học và sự cần thiết phải được bảo vệ nuôi dưỡng, giữa lợi ích trước mắt
và lâu dài, giữa lợi ích cá nhân và cộng đồng còn nhiều hạn chế.
2.1.2.4. Y tế, cơ sở kết cấu hạ tầng
a. Y tế
Có 5 trung tâm y tế cum xã, mỗi xã có một trung tâm; bình quân có 1 y sỹ, 1
y tá. Bình quân mỗi trung tâm có 3 đến 4 giường bệnh. Nhưng chủ yếu mới đủ khẳ
năng khám và chữa các bệnh thông thường, các bệnh năng phải đưa ra tuyến huyện
để điều trị. Việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân trong vùng đã và đang được quan
tâm của cấp trên. Tuy nhiên, nhà làm việc, dụng cụ y tế, ánh sáng điện và cơ số
thuốc còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu khám và chữa bệnh tại chỗ cho nhân
dân trong vùng.
b. Cơ sở kết cấu hạ tầng
- Có hơn 40 km đường 108 từ huyện vào trung tâm xã Co Mạ đã được rải
nhưa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại giao lưu và vận chuyển hàng hóa trong
khu vực.
- Các trụ sở UBND xã, trung tâm y tế xã đã được xây dựng theo kiêu nhà cấp
IV.
- Điện lưới đã được thắp sáng trên 50% các hộ dân.
- Thủy lợi: toàn bộ khu vực có 13 đập nước, dẫn nước tạm thời phục vụ sản
xuất và sinh hoạt. Hệ thống nước sạch phục vụ nông thôn có 116 bể.
2.2. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội xã Chiềng Bôm huyện Thuận Châu
tỉnh Sơn La
2.2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
2.2.1.1.Vị trí địa lí, ranh giới hành chín.
Xã Chiềng Bôm nằm phía Tây Nam của huyện Thuận Châu, trung tâm xã cách

thị trấn huyện 10 km.
+ Phía Bắc giáp xã Phỏng Lập, xã Phỏng Lăng.
+ Phía Nam giáp xã Cò Mạ, xã Nậm Lầu.
+ Phía Đông giáp xã Long Hẹ, xã Cò Mạ.
+ Phía Tây giáp xã Chiềng Ly, xã Púng Tra.
2.2.1.1. Địa hình


18

Có địa hình dốc và chia cắt mạnh. Điển hình có các dãy núi chạy theo hướng
Tây Bắc- Đông Nam, có nhiều ngọn núi cao trên 1000 m so với mực nước biển, xen
kẽ với các dãy núi là các thung lũng, phiêng bãi, ruộng nước nhỏ có địa hình tương
đối bằng phẳng phục vụ cho canh tác nông nghiệp của người dân. Độ cao trung bình
khoảng 650- 700 m so với mặt nước biển.
Độ đốc trung bình 20 - 220
2.2.1.3. Đất đai thổ nhưỡng
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã 9218,40ha. Đất được hình thành chủ yếu
trên đá mẹ phiến thạch sét và một phần đá sa thạch, bao gồm 2 loại chính, đó là:
+ Đất Ferelít nâu vàng phát triển trên đá mẹ phiến thạch sét, sa thạch, tầng
đất trung bình.
+ Đất Feralít dốc tụ tại các yên ngựa và các khe suối có tầng đất dày, độ phì
tương đối cao.
Nhìn chung đất đai của xã Chiềng Bôm phù hợp với nhiều nhóm cây trồng,
nhưng phần lớn diện tích đang bị suy thoái do thảm thực vật bị tàn phá và tập quán
canh tác lạc hậu, quảng canh ‘‘bóc lột’’ đất. Hiện nay xã có 4.456,44ha đất chưa sử
dụng, trong đó 3445,26ha đất đồi núi bị thoái hoá, bạc màu mất khả năng canh tác
và 1.011,18ha núi đá. Do vậy cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật để nâng cao hiệu
qủa sử dụng đất.
2.2.1.4. Khí hậu

Xã Chiềng Bôm nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang đặc trưng
khí hậu vùng núi Tây Bắc, mùa đông lạnh, mùa hè nóng.
- Nhiệt độ trung bình năm khoảng 220C, mùa hè trung bình từ 28- 32oC, mùa
đông trung bình từ 16- 18oC. Nhiệt độ tối cao trung bình 37.6oC vào tháng 5, nhiệt
độ thấp nhất trung bình 11oC vào tháng 12.
- Lượng mưa trung bình khoảng 1.371,8 mm/năm, phân bố không đều trong
năm và hình thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài 6 tháng (từ tháng 4 đến tháng 9
hàng năm) chiếm khoảng 80% tổng lượng mưa cả năm, mùa khô kéo dài 6 tháng (
từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau) chiếm khoảng 20% tổng lượng mưa cả năm.
- Độ ẩm không khí bình quân hàng năm là 80%, độ ẩm và lượng bốc hơi phụ
thuộc vào từng thời điểm khác nhau trong năm. Mùa mưa lượng bốc hơi không
đáng kể và độ ẩm đất cao, ngược lại mùa khô lượng bốc hơi cao hơn lượng mưa
nhiều lần, độ ẩm tầng đất mặt rất thấp.


×