`
HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
chất lợng cán bộ, công chức cấp xã
là ngời dân tộc thiểu số ở tỉnh lào
cai
Chuyờn ngnh
Mó s
:
:
Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
60 38 01 01
LUN VN THC S LUT
Ngi hng dn khoa hc: TS. TRN èNH THNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Khái niệm chất lượng cán bộ công chức cấp xã là người dân tộc
thiểu số
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là
người dân tộc thiểu số
1.3. Các tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là
người dân tộc thiểu số
Chương 2: THỰC TRẠNG
10
10
23
29
CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
TỈNH LÀO CAI
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến chất lượng cán
bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai
2.2. Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số ở Lào Cai
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế về chất lượng cán bộ, công
chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai
40
40
45
62
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƯỜI
DÂN TỘC THIÊU SỐ Ở TỈNH LÀO CAI
3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
66
66
71
95
97
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BC
:
Báo cáo
BCT
:
Bộ Chính trị
BNV
:
Bộ Nội vụ
BTC
:
Bộ Tài chính
BLĐ,TB&XH :
Bộ Lao động, thương binh và xã hội
CBCC
:
Cán bộ, công chức
CNXH
:
Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐA
:
Đề án
HĐND
:
Hội đồng nhân dân
NĐ
:
Nghị định
NQ
:
Nghị quyết
Nxb
:
Nhà xuất bản
QĐ
:
Quyết định
THCS
:
Trung học cơ sở
THPT
:
Trung học phổ thông
TTLT
:
Thông tư liên tịch
TTg
:
Thủ tướng
TU
:
Tỉnh ủy
UBND
:
Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng. Vì vậy cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [48, tr.269].
Hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI
năm 1986 đến nay, công tác cán bộ nói chung và cán bộ, công chức cơ sở là
người dân tộc thiểu số nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng,
quan tâm. Tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Đảng ta khẳng định: “Cán bộ là
nhân tố trực tiếp quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng” [23, tr.34]. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán
bộ ngang tầm với nhiệm vụ nặng nề hiện nay, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có vị trí rất quan trọng trong
hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta hiện nay, vấn đề này được ghi nhận
tại Điều 110 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013. Cấp xã là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, là nơi trực tiếp thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và
nhiệm vụ cấp trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống hàng ngày của
nhân dân địa phương. Cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp tiếp xúc với nhân
dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Họ có vai trò rất quan
trọng trong việc quyết định hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở,
từ đó góp phần làm cho cả hệ thống chính trị thêm vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: Cấp xã là cấp gần gũi dân
nhất, là nền tảng của hành chính, cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều
xong xuôi. Cấp xã là nơi thực tiễn diễn ra sôi động hàng ngày; nơi trực tiếp
biến mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
2
thành hiện thực sinh động của cuộc sống; nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của
chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết của Đảng
có đi vào cuộc sống, có trở thành hiện thực hay không một phần rất quan trọng
tùy thuộc vào đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Người cán bộ, công chức cấp xã
có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân.
Để thực hiện được vai trò đó, muốn chăm lo cho dân, muốn phát triển
sức dân thì phải có tổ chức bộ máy tốt, có đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm
chất và năng lực tương xứng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đó là những
người tận tâm, liêm khiết, tháo vát, sáng tạo, đặc biệt cần có năng lực tổ chức
thực tiễn.
Thực tiễn cho thấy nơi nào có đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở vững
mạnh, thì nơi đó tình hình chính trị, xã hội ổn định; kinh tế, văn hóa phát
triển; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Ngược lại, cơ sở nào cán bộ công
chức không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín thì địa phương đó sẽ gặp khó
khăn, kinh tế - xã hội chậm phát triển. Điều đó cho thấy cán bộ, công chức
cấp xã có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và
củng cố hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt ở những vùng miền núi, vùng có
đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống thì vai trò của người cán bộ, công
chức cấp xã, nhất là cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số càng
quan trọng hơn, bởi họ là lực lượng nòng cốt trong bộ máy tổ chức của Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, hơn nữa bản thân họ cũng là dân cư ở
địa phương, cùng sinh sống, làm việc với nhân dân địa phương. Do vậy họ có
vai trò không nhỏ trong việc tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, hệ thống chính trị từ
Trung ương đến cơ sở cần phải được đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động và chỉnh đốn tổ chức, nâng cao hiệu lực lãnh đạo và quản lý. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX xác định: Xây dựng
đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực và vận động nhân dân thực hiện đường lối
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân,
3
biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ,
chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách
đối với cán bộ cơ sở.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương: “Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công
chức thực sự là công bộc của dân” và đưa ra giải pháp: “Đổi mới chính sách
cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh
bạch, đội ngũ cán bộ công chức có đủ năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa
đáng và công bằng” [28, tr.254].
Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc, có diện tích 635,708 ha phía
Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Tây giáp tỉnh
Sơn La và Lai Châu, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Lào Cai
có đường biên giới giáp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa dài 203 km. Dân
số khoảng 63 vạn người, có trên 64% dân số là người dân tộc thiểu số với 25
thành phần dân tộc tộc khác nhau. Hiện nay Lào Cai có 9 đơn vị cấp huyện,
thành phố và 144 đơn vị cấp xã, phường.
Thực tiễn ở tỉnh Lào Cai trong những năm qua cho thấy, thành công hay
thất bại trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng này phụ thuộc rất lớn
vào việc tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số
có phẩm chất, năng lực đáp ứng được yêu cầu. Đây là nhân tố nội sinh quyết
định quá trình phát triển ở địa bàn hết sức đặc thù này. Vì vậy xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ngày càng trở nên cấp bách
trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Trong những năm qua, tỉnh Lào Cai đã quan tâm, tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị,
nhất là ở cơ sở. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số ngày một tăng về số lượng và được nâng cao về chất lượng. Năng
lực quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở Lào Cai
cũng được cải thiện đáng kể, nhiều người đã được bố trí vào các vị trí lãnh
đạo, quản lý chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở.
4
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai,
cùng với sự chỉ đạo và thực hiện của Đảng ủy và chính quyền các cấp, trong
những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số
đã phát huy được vai trò và trách nhiệm trong hoạt động quản lý nhà nước và
đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn
định chính trị - xã hội của địa phương.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực nói trên, đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở Lào Cai vẫn còn bộc lộ một số hạn
chế yếu kém nhất định. Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và lý luận
chính trị của đội ngũ này vẫn còn thấp và không đồng đều.
Do trình độ kiến thức các mặt hạn chế, nên sức thuyết phục của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số trong lãnh đạo, quản lý đối
với quần chúng còn yếu. Chính quyền cơ sở nhiều nơi chưa làm tốt chức năng
quản lý nhà nước, nhất là trên lĩnh vực: đất đai, hộ tịch, hộ khẩu; các tổ chức
đoàn thể hoạt động hiệu quả chưa cao, còn nặng về hình thức và mang tính
hành chính. Vì vậy, trong quá trình quản lý khi gặp những tình huống, những
vụ việc rắc rối đã không đề ra được phương án giải quyết tối ưu. Những lúng
túng, va vấp trong công việc là điều khó tránh khỏi. Đây là vấn đề rất lớn đặt
ra cho tỉnh Lào Cai về đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực cho cán bộ,
công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số.
Nhìn một cách toàn diện, những hạn chế và bất cập nói trên xuất phát
từ nhiều nguyên nhân khác nhau, như: Sự phát triển kinh tế - xã hội ở
những vùng có đồng bào dân tộc còn lạc hậu, trình độ dân trí thấp ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển con người nói chung và bản thân
cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số nói riêng và tác động tới
quá trình hình thành kỹ năng công tác, nâng cao trình độ, năng lực tư duy
của họ. Trong khi đó, công tác cán bộ chưa xác định tiêu chuẩn, cơ cấu cán
bộ dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình địa phương; quán triệt chưa thật
đầy đủ nhận thức cho cán bộ, đảng viên về chính sách dân tộc trong lĩnh
5
vực cán bộ. Chính sách dân tộc chưa khuyến khích được con em các dân
tộc sau khi tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp về
công tác ở cơ sở. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là
người dân tộc thiểu số còn thiếu một chiến lược với những kế hoạch khả thi
dài hạn, vẫn còn chắp vá từ khâu tạo nguồn…
Trước thực trạng đó, trong công tác cán bộ, tỉnh Lào Cai cần chú trọng
nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số, kịp
thời khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, đồng thời vận dụng, tổ chức thực
hiện giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế, góp phần quan trọng trong việc
hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Do đó cần làm rõ
thực trạng, nguyên nhân, chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số ở Lào Cai hiện nay, từ đó đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng cho đội ngũ này.
Trước yêu cầu cấp thiết của thực tế địa phương, tác giả lựa chọn đề tài
“Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào
Cai” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã không còn là vấn đề mới, nhưng
luôn là đề tài có tính thời sự và cũng không kém phần phức tạp. Vấn đề này
đã được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, hoạch định chính sách và hoạt động
thực tiễn tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, khảo sát. Đến nay đã có nhiều công
trình được công bố dưới những góc độ, khía cạnh, mức độ khác nhau và đã được
đăng tải trên một số sách, báo, tạp chí ở Trung ương và địa phương, như:
- Phạm Thị Thu Vinh (2003), Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ
chính quyền cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Quản lý nhà
nước, Hà Nội.
- Lê Thị Lý (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức xã trước yêu
cầu đổi mới, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- Thái Vĩnh Thắng (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã, phường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 4).
6
- Dương Hương Sơn (2004), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thanh (2006), Hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công
chức cấp xã ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại Luật
thành phố Hồ Chí Minh.
- TS Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về cán bộ công chức chính
quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách
chuyên khảo, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
- Hồ Đức Việt, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng
Ban Tổ chức Trung ương (2010), Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Lý luận
chính trị, (số 2).
- Võ Công Khôi (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tạp chí Tổ chức nhà nước (số 9).
- Võ Thanh Bình (2009), Tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở miền
núi, vùng đồng bào dân tộc trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Tổ nhà nước (số 8).
Các tác giả đều đã phân tích một cách hệ thống và tương đối toàn diện
về vấn đề chất lượng cán bộ, công chức cấp xã nói chung dưới góc độ lý luận
cũng như sự vận dụng lý luận đó vào việc nâng cao chất lượng cán bộ công
chức cấp xã tại một số địa phương cụ thể, đó đều là những công trình nghiên
cứu có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, là cơ sở để kế thừa cho việc
nghiên cứu tiếp theo.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã vẫn
còn là vấn đề mang tính thời sự và cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và
hoàn thiện. Riêng đối với tỉnh Lào Cai, để thực hiện 7 chương trình công tác
trọng tâm và 29 đề án của tỉnh, và đặc biệt hơn là để hoàn thành tiêu chí cán
bộ, công chức trong xây dựng nông thôn mới. Cho đến nay chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về vấn đề chất lượng cán
7
bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số của tỉnh Lào Cai. Vì vậy, việc
chọn nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị của tỉnh Lào Cai hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng, luận văn chỉ ra nguyên nhân và
đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công
chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai, nhằm đáp ứng yêu cầu
đòi hỏi của thực tiễn địa phương trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận về cán bộ, công chức cấp xã và
chất lượng cán bộ, công chức cấp xã, trên cơ sở đó làm rõ khái niệm, đặc
điểm, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số, trong đó
hệ thống hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng, Nhà nước ta về cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc
thiểu số; khái niệm và những tiêu chí đánh giá, những yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số.
- Phân tích thực trạng chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiếu số ở tỉnh Lào Cai, qua đó nêu lên những vấn đề tồn tại cần khắc
phục cũng như phân tích các nguyên nhân dẫn đến hạn chế về chất lượng cán
bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai, nhằm đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn nghiên cứu về cán bộ, công chức cấp xã gồm các chức vụ
và các chức danh được quy định tại khoản 2 và khoản 3, Điều 62 - Luật Cán
8
bộ công chức năm 2008 và theo quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP
ngày 22/10/2009 của Chính phủ “Về chức danh, số lượng, một số chế độ,
chính sách đối với cán bộ công chức ở xã, phường, thị trấn và những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”.
- Luận văn nghiên cứu về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai giai đoạn từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về
cán bộ và chất lượng cán bộ, công chức nói chung, chất lượng cán bộ, công chức
cấp xã là người dân tộc thiểu số nói riêng; đồng thời luận văn có kế thừa và vận
dụng có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số tác giả về vấn đề này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, luận
văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh…để làm sáng tỏ vấn đề
nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã. Đặc biệt làm rõ đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã là
người dân tộc thiểu số, nêu bật những cơ sở khách quan để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào
Cai, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương trong giai đoạn mới.
- Làm rõ thực trạng chất lượng của cán bộ, công chức cấp xã là người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai, đánh giá chung về chất lượng của đội ngũ
này, đồng thời chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế, từ đó làm tiền đề để xây dựng và nâng cao hơn nữa chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai.
9
- Đề xuất và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những kết luận và những giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài
liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chính sách, quy hoạch đào tạo,
bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu
số ở tỉnh Lào Cai.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh, các Trung tâm Bồi
dưỡng chính trị huyện, thành phố của tỉnh Lào Cai.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên
cứu liên quan sau này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ LÀ
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Để làm rõ khái niệm chất lượng cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số, trước hết cần làm rõ một số vấn đề và khái niệm có liên quan
sau:
* Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Đây là khái niệm phản ánh đặc sắc riêng của nền công vụ và tổ
chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Ở các quốc gia tồn tại nhiều đảng phái
chính trị, công chức chỉ được hiểu là những người giữ công vụ thường xuyên
trong các cơ quan nhà nước, được xếp vào ngạch, bậc công chức, hưởng
lương từ ngân sách nhà nước. Còn ở những nước chỉ có duy nhất một Đảng
lãnh đạo nhà nước và xã hội thì quan niệm công chức được mở rộng hơn,
ngoài những chủ thể trên còn gồm cả những đối tượng có dấu hiệu tương tự,
nhưng làm việc trong các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội.
Ở Úc và Niu Dilân, quan niệm công chức chỉ gồm những người làm
việc trong các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, trong đó có các cơ
quan hành chính và đơn vị sự nghiệp của Nhà nước mà không gồm những
người làm việc trong các cơ quan của Đảng hoặc tổ chức chính trị - xã hội. Pháp
lại quan niệm về công chức rất rộng, gồm hai loại: Những công chức làm việc
thường xuyên trong bộ máy nhà nước, bị chi phối bởi Luật Công chức; những
công chức bị chi phối bởi Luật Lao động, hợp đồng lao động và luật tư.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, năm
2006), cán bộ là “người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan
nhà nước, Đảng và đoàn thể có chức vụ”, công chức là “những người được
11
tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước,
hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp” [71].
Luật Cán bộ công chức được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực chính
thức từ ngày 01/01/2010 quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị
sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước;
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Hiện nay, theo Luật CBCC năm 2008 và theo quy định tại Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ “Về chức danh, số lượng,
một số chế độ, chính sách đối với CBCC ở xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”, thì CBCC cấp xã gồm:
12
Cán bộ cấp xã: là những người giữ các chức vụ sau đây:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND;
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam);
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Công chức cấp xã: Là những người được bổ nhiệm vào ngạch sau đây:
+ Trưởng Công an;
+ Chỉ huy trưởng Quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc Địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội.
Số lượng CBCC cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành chính cấp xã:
Cấp xã loại 1 không quá 25 người, cấp xã loại 2 không quá 23 người, cấp xã
loại 3 không quá 21 người. Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp xã thực hiện
theo quy định tại Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính
phủ về việc phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Từ những quy định trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của
CBCC cấp xã như sau:
Cán bộ, công chức cấp xã có tiêu chuẩn chung được quy định tại Quyết
định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Trưởng Bộ Nội vụ và
13
Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 5/12/2011 của Chính phủ về công chức
xã, phường, thị trấn. Tiêu chuẩn chính trị đảm bảo cho CBCC xã đủ phẩm
chất để lãnh đạo các mặt công tác quan trọng nên được coi là một trong những
tiêu chuẩn hàng đầu của CBCC cấp xã.
Cán bộ cấp xã được hình thành từ rất nhiều nguồn: Điều này do cán bộ
là những chức danh được bầu cử ở các tổ chức chính trị - xã hội như: Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể, những chức danh này thường xuyên được thay
đổi qua các nhiệm kỳ. Cũng xuất phát từ lý do trên nên cán bộ xã thường
xuyên biến động, thay đổi vị trí công tác do yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính
trị tại địa phương.
Trình độ chuyên môn của cán bộ không đồng đều: Nguyên nhân là do
cán bộ hình thành từ cơ chế bầu cử nên tiêu chuẩn chuyên môn chưa được chú
ý đúng mức. Cán bộ Mặt trận và đoàn thể chưa có chuyên môn phù hợp. Tuy
nhiên, do cán bộ được sự tín nhiệm nên được giữ những trọng trách quan
trọng mặc dù có thể chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định.
Theo quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004
của Bộ Trưởng Bộ Nội vụ, công chức cấp xã phải có trình độ chuyên môn phù
hợp từ trung cấp trở lên. Chính từ quy định này nên công chức xã có sự đồng
nhất và tương đối đạt chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Tính ổn định của công chức cấp xã cao hơn so với cán bộ cấp xã: Họ
phải thông qua tuyển dụng, quy trình tuyển dụng đã được quy định chặt chẽ
tại Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 5 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ
về công chức xã, phường, thị trấn. Họ cũng phải phụ trách những lĩnh vực
công tác cụ thể nên nhìn chung có sự đảm bảo về tiêu chuẩn và tính ổn định
trong công tác. Công chức xã trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo UBND cấp xã
trong việc điều hành, chỉ đạo công tác. Chất lượng của công chức cấp xã sẽ
góp phần quyết định đến hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước của
cấp xã.
14
Cán bộ, công chức cấp xã là lực lượng gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc
với nhân dân, làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; là lực lượng
đông nhưng trình độ lại thấp trong đội ngũ CBCC của cả nước nói chung.
Cán bộ, công chức cấp xã đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và là lực lượng
chiếm số lượng hết sức đông đảo trong tổng số biên chế hiện nay. Chính vì
vậy, việc xác định rõ đặc điểm, vị trí, vai trò của CBCC cấp xã là vấn đề cần
thiết để có chủ trương, chính sách phù hợp.
Từ những phân tích trên, ta có thể khái niệm như sau: CBCC cấp xã là
công dân Việt Nam, được bầu cử hoặc tuyển dụng để giữ chức vụ theo nhiệm
kỳ trong tổ chức Đảng, HĐND, UBND, các tổ chức chính trị - xã hội hoặc
giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
* Vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
Khi nói đến vấn đề cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Cán bộ
là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng” [48, tr.269]. Vị trí của người cán bộ là “cầu nối”
giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân, Người đặt cán bộ ở vị trí có tính chất
quyết định: chính sách đúng có thể không thu được kết quả nếu cán bộ sai,
cán bộ yếu kém. Xác định vai trò của người cán bộ, Hồ Chí Minh đánh giá:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hoặc kém” [46, tr.240, 269].
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta luôn xác định, con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong đó, “Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng” [25, tr.34].
15
Ở nước ta, cấp xã có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong
cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng dân cư và toàn thể
người dân trong xã; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là mắt xích
quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân dân. Mọi chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải thực hiện ở cấp xã. Với vị trí
là “nền tảng”, vai trò của CBCC cấp xã được thể hiện qua các mối quan hệ:
với đường lối, chính sách và pháp luật; với bộ máy chính quyền; với công
việc và với quần chúng nhân dân, cụ thể ở các điểm cơ bản sau:
- Quan hệ giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị với CBCC cấp xã là mối
quan hệ nhân - quả. CBCC cấp xã có phẩm chất và năng lực tốt mới có thể cụ
thể hóa, bổ sung hoàn chỉnh đường lối và tổ chức thực hiện tốt đường lối. Nếu
CBCC cấp xã không vững mạnh thì cho dù đường lối, nhiệm vụ chính trị có
đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực. Như vậy, CBCC cấp xã góp phần quyết
định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
- Cán bộ, công chức cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành;
đồng thời nắm bắt tình hình triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự
điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, vị trí, vai
trò của CBCC cấp xã là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng nhân dân.
- Cán bộ, công chức cấp xã là nhân tố chủ yếu, hàng đầu và là nhân tố
“động” nhất ở cơ sở, tuy nhiên CBCC cấp xã lại chịu sự chi phối, ràng buộc
của tổ chức. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã buộc người CBCC cấp xã
phải hoạt động theo những nguyên tắc và khuôn khổ nhất định. Tổ chức bộ
máy chính quyền cấp xã khoa học và hợp lý sẽ nhân sức mạnh của CBCC cấp
xã lên gấp nhiều lần. CBCC cấp xã chỉ có sức mạnh khi gắn với tổ chức chính
quyền và nhân dân, nếu tách rời thì CBCC cấp xã mất sức mạnh quyền lực và
hiệu lực do nhân dân tạo nên.
16
- Cán bộ, công chức cấp xã là lực lượng “nòng cốt” trong quản lý và tổ
chức công việc ở cấp xã. Mỗi CBCC cấp xã được giao thực hiện một khối
lượng công việc rộng, nhiều và có tác động ảnh hưởng lớn trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Chính họ cũng có khả
năng đóng góp một khối lượng lớn ý kiến đề xuất với các cơ quan nhà nước
cấp trên để xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp hướng tới Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
- Cán bộ, công chức cấp xã là những người gần dân nhất, có vai trò trực
tiếp bảo đảm kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ,
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã
hội, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Họ là những người đóng vai trò
tiên phong, đi đầu trong đấu tranh chống các hiện tượng quan liêu, tham
nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác, làm cho tổ chức Đảng, bộ máy chính
quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thông
qua hoạt động của CBCC cấp xã, nhân dân thể hiện được quyền làm chủ và
trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình.
Tóm lại, CBCC cấp xã có vị trí, vai trò hết sức to lớn, trong nhiều năm
qua, đội ngũ CBCC cấp xã ở nước ta đã khẳng định được vị trí, vai trò quan
trọng của mình, đã có nhiều đóng góp to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã
hội ở cơ sở, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Dân tộc thiểu số và CBCC cấp xã là người dân tộc thiểu số
Có hai quan niệm về dân tộc thiểu số: một là, những dân tộc có số dân
dưới 10.000 người; hai là, tất cả các dân tộc, trừ dân tộc Kinh. Hiện nay trên
văn bản của Đảng và Nhà nước, khái niệm dân tộc thiểu số được hiểu theo
nghĩa thứ hai. Như vậy, trong 54 dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nam, trừ người Kinh ra, 53 dân tộc còn lại đều là dân tộc thiểu số. Quá trình
kết hôn, hòa huyết giữa các dân tộc hiện nay khá phổ biến, nên luật pháp Việt
Nam quy định việc xác định thành phần dân tộc của một người gắn liền với
nguồn gốc xuất thân của cha hoặc mẹ, và do họ tự quyết định. Tuy nhiều dân
tộc mang truyền thống mẫu hệ, nhưng nhiều trường hợp con sinh ra giữa mẹ
17
là người Kinh và cha là người dân tộc thiểu số vẫn có thể mang thành phần
dân tộc là dân tộc thiểu số.
Từ những phân tích trên, ta có thể khẳng định: CBCC cấp xã là người
dân tộc thiểu số là người dân tộc thiểu số mang quốc tịch Việt Nam, được bầu
cử hoặc tuyển dụng để giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong tổ chức Đảng,
HĐND, UBND, các tổ chức chính trị - xã hội hoặc giữ một chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
Từ khái niệm có thể đưa ra một số đặc điểm của CBCC cấp xã là người
dân tộc tộc thiểu số như sau:
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị, họ là những người có lòng nhiệt tình
cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm tổ chức
thực hiện những chủ trương của Đảng và nhà nước vào thực tế để nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở địa phương. Trong cuộc sống họ
luôn là người đi đầu, gương mẫu tìm tòi các mô hình kinh tế để hướng dẫn
nhân dân.
Cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số là những người chất
phác, trung thực, thật thà trong từng lời ăn, tiếng nói. Họ có lối sống giản dị,
không thích phô trương, hình thức, hòa đồng, gần gũi và có uy tín đối với quần
chúng người dân tộc thiểu số. Họ có khả năng chịu áp lực công việc lớn, điều
kiện sống và làm việc không thuận lợi, ít đòi hỏi quyền lợi, ít tranh đua chức vụ .
Họ trọng tình hơn trọng lý, quan tâm đến mọi người. Tuy nhiên lề lối phong cách
làm việc của họ thường thiếu tính kỷ luật, xuề xòa, đại khái. Họ dễ dàng rời vị trí
công tác giữa chừng vì một mối quan tâm khác: gia đình có sự kiện, bạn bè nơi
khác đến thăm, thậm chí không làm cán bộ nữa vì gia đình bắt về lấy chồng (vợ)
hoặc không cho đi làm cán bộ nữa. Đặc biệt, họ là những người am hiểu các
phong tục, tập quán của đồng bào nên họ luôn là chỗ dựa tinh thần cũng như
vật chất cho bà con. Vì vậy, họ có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh
thần của nhân dân địa phương. Thực tế tại các địa phương khi có những vấn
đề lớn của dòng tộc, gia đình cần phải giải quyết, thì đa số người dân đều
18
tham khảo ý kiến của CBCC ở địa phương. Nhiều vị lãnh đạo xã đồng thời
cũng là những thầy cúng với phẩm cấp cao nhưng họ không hành nghề đó để
kiếm tiền mà dùng uy tín của mình để tuyên truyền, vận động nhân dân về
nếp sống mới.
Thứ hai, về trình độ học vấn, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ của
CBCC người dân tộc thiểu số, có thể nói đây là những đặc thù rõ ràng nhất
của cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số.
Về học vấn, hiện nay rất nhiều cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số có trình độ học vấn thấp hơn so với tiêu chuẩn; nhiều cán bộ của
các đoàn thể, cá biệt có những nơi, Bí thư, Phó Bí thư, Thường trực Đảng ủy
xã hoặc Phó Chủ tịch HĐND, UBND xã mới chỉ tốt nghiệp tiểu học và chỉ
dừng ở mức đọc thông, viết thạo nên việc đọc văn bản quản lý, việc ra văn
bản quản lý là rất khó khăn và chất lượng không cao.
Về trình độ chính trị và quản lý hành chính của CBCC cấp xã là người
dân tộc thiểu số cũng còn thấp. Nguyên nhân của vấn đề này chính là do trình
độ học vấn thấp, nên công tác đào tạo về lý luận chính trị đối với đối tượng
này gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề khó khăn gặp phải ngay từ khâu tuyển
sinh đến việc tổ chức lớp học và thực hiện giảng dạy. Khi tuyển sinh những
người có trình độ học vấn cao lại không trong diện được quy hoạch, hoặc
không được nhân dân tín nhiệm bầu, nên để tuyển sinh được một lớp đào tạo
lý luận chính trị - hành chính thuần túy cho cán bộ, công chức cấp xã thường
không đủ chỉ tiêu, nếu để họ học cùng với đối tượng là cán bộ, công chức ở
các cơ quan của huyện, của tỉnh thì lại khó khăn cho việc tổ chức lớp học và
hoạt động giảng dạy của giảng viên, thậm chí khó khăn cho chính người học,
vì nhận thức của học viên không đồng đều. Việc học lý luận của những cán
bộ, công chức này thường được tổ chức kèm theo việc học văn hóa, nên thời
gian học của học viên rất căng thẳng. Điều này cũng dẫn đến một thực tế là
khi họ được bầu vào những chức danh chủ chốt ở địa phương thường họ sẽ
phải mất từ hai đến ba năm đầu nhiệm kỳ cho việc học kiến thức trung học
phổ thông và học lý luận chính trị. Đây là một khó khăn rất lớn cho chính
19
quyền các xã, vì không có người làm việc. Ở nhiều xã vùng sâu, vùng xa, biên
giới cả bộ máy lãnh đạo xã thay nhau đi học nên không tránh khỏi sự bê trễ
trong công việc. Những điều đó có tác động rất lớn đến chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã.
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đối với những cán bộ, công chức
trẻ hiện nay, đã có một số được đào tạo có trình độ Đại học hoặc Trung cấp ;
CBCC có trình độ sơ cấp không nhiều; Một số CBCC đã lớn tuổi, nhưng chưa
được đào tạo về chuyên môn mà chỉ được bồi dưỡng các lớp ngắn ngày, kiến
thức chắp vá, làm việc bằng kinh nghiệm là chính, nên khả năng bao quát tình
hình, xác định nhiệm vụ, đề ra nghị quyết, chủ trương, điều hành công việc
còn yếu. Năng lực làm việc độc lập, tự chủ, sáng tạo, khả năng lãnh đạo, quản
lý, nghiên cứu, tổng hợp tình hình, tiếp nhận xử lý thông tin còn chậm. Nên
mặc dù có phẩm chất chính trị vững vàng nhưng do hạn chế trong nhận thức
các quy luật vận động của kinh tế - xã hội, nên khi có những tình huống xảy
ra rất lúng túng trong việc tìm ra giải pháp phù hợp. Những đối tượng này rất
khó bố trí đi học để nâng cao trình độ vì tuổi đời đã cao nhưng họ lại là người
được nhân dân tín nhiệm nên cũng chưa thể thay thế được.
Thứ ba, về khả năng hoàn thành nhiệm vụ, do còn nhiều cán bộ, công
chức cấp xã là người dân tộc thiểu số chưa được đào tạo, bồi dưỡng một cách
bài bản, nên khả năng điều hành, quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
Trong việc đề ra các chủ trương, chính sách để phát triển địa phương còn lúng
túng, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, chủ yếu làm theo chỉ đạo điều hành của
cấp trên nên thiếu tính sáng tạo trong công việc, cá biệt có những xã chính
quyền không xác định được cơ cấu kinh tế tại địa phương gồm những ngành
nghề gì, do vậy việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế ở địa phương gặp
không ít khó khăn. Một bộ phận CBCC cấp xã này tuổi cao, trình độ học vấn
hạn chế, song lại có uy tín, có tiếng nói trong xã thông qua bầu cử giữ các
chức danh cán bộ chuyên trách lại có khả năng vận động quần chúng, song lại
có tư duy kinh nghiệm. Vì vậy, đối với công việc, khi thì giải quyết công việc
20
quá nguyên tắc, cứng nhắc, thiếu mềm dẻo, linh hoạt; nhưng đôi khi lại giải
quyết công việc theo ý chí chủ quan, tình cảm nên nhiều khi thiếu đi sự công
bằng và không đạt được hiệu quả công việc; khả năng giao tiếp còn kém, đặc
biệt trong việc giao tiếp với nhân dân.
Thứ tư, về cơ cấu cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số,
hiện tại số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là người dân tộc thiểu số
chưa phải là nhiều, nhưng phân bố không đồng đều, đa số công tác ở các đoàn
thể chính trị; tỷ lệ CBCC nữ còn ít, điều này xuất phát từ vị trí của người phụ
nữ trong nhiều dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa rất thấp nên cơ hội để
người phụ nữ được cử đi học, được tham gia công tác ở chính quyền xã là rất
khó khăn. Cùng với sự phát triển của xã hội, số CBCC nữ là người dân tộc
thiểu số tham gia công tác chính quyền đã nhiều hơn, nhưng trong công tác
chị em gặp rất nhiều khó khăn từ gia đình cũng như xã hội.
Thứ năm, CBCC cấp xã là người dân tộc thiểu số thường công tác
trên địa bàn phức tạp, chịu nhiều sức ép từ nhiều phía, nên nguy cơ sai lầm
cao, khu vực miền núi, biên giới có vị trí mang tầm chiến lược về an ninh,
quốc phòng, nên CBCC cấp xã là người dân tộc thiểu số ở nơi này chịu nhiều
tác động chống phá, đe dọa, lôi kéo của các thế lực thù địch, nếu không giữ
được bản lĩnh chính trị sẽ giảm sút ý chí chiến đấu, dẫn đến che giấu đối
tượng, che giấu âm mưu thủ đoạn của các cá nhân, tổ chức phản động trên địa
bàn, nhiều vấn đề mâu thuẫn xã hội liên quan đến đất đai, khoáng sản, rừng
nảy sinh giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh, với chính quyền,
với doanh nghiệp, nông, lâm trường…CBCC cấp xã là người dân tộc thiểu số
có lợi ích gắn bó với lợi ích gia đình, dòng tộc, nếu thiếu kinh nghiệm, thiếu
kiến thức sẽ lúng túng, xử lý tình huống mang cảm tính sai nguyên tắc; thậm
chí nếu thiếu đạo đức cách mạng, thoái hóa biến chất, sẽ lợi dụng chính sách
của Đảng, Chính phủ mà tư lợi, tham nhũng.
Một đặc thù cũng rất rõ ràng của cán bộ, công chức cấp xã là người dân
tộc thiểu số đó là, họ chủ yếu là người trực tiếp sản xuất, họ là trụ cột, là lao
21
động chính trong gia đình nhưng lại là cán bộ, do đó cũng hạn chế về thời
gian nghiên cứu các các chủ trương, chính sách để cụ thể hóa vào thực tế địa
phương. Đặc biệt, trong thời gian lễ hội trong văn hóa của các dân tộc hoặc
vào mùa vụ thì thường họ bị chi phối nhiều vào các hoạt động của lễ hội, việc
gia đình và sẽ ít quan tâm đến công việc của xã, hoặc cũng có thể do phong
tục tập quán nên trong năm sẽ có một số ngày cấm kỵ, nên người ngoài làng,
bản không thể đi vào trong địa bàn của địa phương được; còn người dân của
địa phương thì không tiếp xúc, không làm việc trong những ngày cấm kỵ ấy,
nên rất có thể các công việc của chính quyền sẽ tạm dừng trong thời gian ấy.
Do đặc thù thành phần dân cư trong một xã gồm nhiều dân tộc anh em
cùng sinh sống. Nhiều xã có đến 7, 8 dân tộc vì vậy trong cơ cấu cán bộ, công
chức thành phần dân tộc cũng rất đa dạng. Trái lại có những xã chỉ có hai đến
ba dân tộc cùng sinh sống. Chính vì vậy, có nhiều địa phương đang ở trong
tình trạng nhiều người trong một gia tộc nắm những vị trí quan trọng ở xã với
những chức danh Bí thư Đảng ủy, Bí thư Đoàn thanh niên, Hội trưởng Hội
Phụ nữ xã…Điều này là do tâm lý dòng họ vì người đương chức có thể xin
hoặc cử con em trong gia đình đi học dưới danh nghĩa “dự nguồn”, khi bổ
nhiệm hoặc tuyển dụng họ là những người có bằng cấp lại là người địa
phương nên được ưu tiên tuyển dụng.
Như vậy, việc xác định rõ đặc điểm đặc thù của đội ngũ CBCC cấp xã là
người dân tộc thiểu số hiện nay, sẽ là cơ sở để các cấp ủy đảng dự báo, định
hướng cơ cấu cũng như chuẩn bị điều kiện hỗ trợ đội ngũ này thực hiện nhiệm
vụ trong tương lai.
* Khái niệm chất lượng
“Chất lượng” hiểu ở nghĩa chung nhất là “Cái tạo nên phẩm chất, giá
trị của một con người, một sự vật, sự việc” [71, tr.44].
Chất lượng của cá nhân được hiểu là tổng hợp những phẩm chất nhất
định về sức khỏe, trí tuệ khoa học, chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo
đức, ý chí, niềm tin, năng lực; luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng và
tham gia một cách tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.