Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Nghiên cứu bệnh hại thân, cành keo lai (acacia hybrid) tại tuyên quang và đề xuất biện pháp quản lý dịch bệnh theo hướng phòng trừ tổng hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 94 trang )

Bộ Giáo dục và Đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

Tr-ờng đại học lâm nghiệp

=======o0o=======

Trần quang khải

Nghiên cứu bệnh hại thân, cành Keo lai (Acacia hybrid)
và Keo tai t-ợng (Acacia mangium) tại Tuyên Quang
và đề xuất biện pháp quản lý dịch bệnh
theo h-ớng phòng trừ tổng hợp

luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp

Hà Tây - 2007


Bộ Giáo dục và Đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

Tr-ờng đại học lâm nghiệp

=======o0o=======

Trần quang khải

Nghiên cứu bệnh hại thân, cành Keo lai (Acacia hybrid)


và Keo tai t-ợng (Acacia mangium) tại Tuyên Quang
và đề xuất biện pháp quản lý dịch bệnh
theo h-ớng phòng trừ tổng hợp

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số
: 60.62.60
luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
PGS.TS. phạm quang thu

Hà Tây - 2007


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sinh quyển, rừng là một hệ sinh thái đảm bảo cho nông nghiệp
và thuỷ lợi phát triển bền vững, là nhân tố quan trọng bảo vệ môi trường.
Chiến lược lâm nghiệp toàn cầu giai đoạn 2000 – 2015, Hội nghị Lâm nghiệp
FAO lần thứ 2 năm 1999, đã nhấn mạnh tầm quan trọng to lớn của rừng đối
với việc tạo phúc lợi, việc làm, an toàn lương thực cho loài người và các thế
hệ trong tương lai, vai trò của rừng với việc thiết lập hệ thống hỗ trợ cuộc
sống của loài người trên toàn hành tinh. Hội nghị cũng quan tâm sâu sắc tới
các thách thức to lớn của việc mất rừng nhanh chóng, quá trình thoái hoá tại
nhiều vùng, đồng thời cũng nhấn mạnh việc cần thiết phải giữ gìn toàn vẹn
rừng và các hệ sinh thái trên phạm vi toàn cầu 1.
Thập kỷ 70 của thế kỷ XX cho đến ngày nay, rừng bị suy giảm nghiêm
trọng cả về số lượng và chất lượng. Hiện tượng rừng bị suy thoái là do có rất

nhiều nguyên nhân khác nhau như: kinh doanh rừng không hợp lý, khai thác
rừng bừa bãi, du canh du cư, đốt rừng làm nương rẫy, công tác phòng chống
cháy rừng chưa tốt… Một trong những nguyên nhân không kém phần quan
trọng là công tác bảo vệ rừng, phòng chống sâu bệnh hại chưa được quan tâm
đúng mức. Hàng năm có hàng nghìn ha rừng, đặc biệt là rừng trồng bị các
trận dịch sâu bệnh tàn phá, ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng, phát triển của
rừng mà chưa có biện pháp phòng trừ hữu hiệu.
Để khắc phục thực trạng trên, nhiệm vụ chính và quan trọng của ngành
Lâm Nghiệp cũng như toàn xã hội phải bảo vệ và duy trì vốn rừng hiện có, đi
đôi với công tác cải tạo và xây dựng vốn rừng. Đảng và nhà Nước có chiến
lược phát triển ngành Lâm nghiệp giai đoạn 2001 – 2010 nhằm đẩy nhanh tốc
độ trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ vốn rừng. Phấn đấu đến
năm 2010 nâng độ che phủ của rừng lên 43% diện tích cả nước 2.


2

Sau 5 năm thực hiện chiến lược phát triển Lâm Nghiệp, đến năm 2005
cả Nước đã nâng được độ che phủ của rừng lên 37%, với tổng diện tích rừng
là 12.616.000 ha 37.
Công tác chọn loài cây trồng phù hợp với mục đích kinh doanh và yêu
cầu phòng hộ là một vấn đề quan trọng, trong đó cây keo được coi là một
trong các loài cây trồng chủ yếu cùng với bạch đàn và thông ở các chương
trình, dự án tạo rừng. Keo là một trong những loài cây chủ đạo của chương
trình phát triển bền vững tài nguyên rừng và ổn định cuộc sống của người dân
miền núi. Theo thống kê của Viện Điều tra qui hoạch rừng, đến năm 2005
nước ta trồng được 2.333.000 ha rừng, trong đó tỉnh Tuyên Quang trồng được
81.197,1 ha rừng và chủ yếu trồng các loài cây nhập nội như keo, bạch đàn,
thông…. Diện tích rừng trồng keo của toàn tỉnh đạt được khoảng 80% so với
diện tích rừng trồng các loài cây khác 3.

Keo là loài cây có phạm vi sinh thái rộng, thích ứng với các điều kiện
lập địa khác nhau, sinh trưởng tốt trên đất trống đồi núi trọc, đất Feralit
nghèo, tầng đất mỏng, tỷ lệ đá lẫn tương đối cao, có khả năng đảm bảo thành
công trong công tác trồng rừng và đã được khẳng định. Là loài cây sử dụng
chủ yếu trong chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, cải tạo đất. Keo
có giá trị lớn về mặt kinh tế và môi trường, có giá trị sử dụng nhiều mặt,
chúng cung cấp nguyên vật liệu cho ngành sản xuất giấy, ngành xây dựng. Gỗ
keo được sử dụng trong công nghiệp chế biến ván dăm, làm đồ gia dụng, …
Lá và hạt keo được dùng trong công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, lá keo
còn được sử dụng trong công nghiệp chế biến phân vi sinh, … Keo giữ vai trò
quan trọng trong bảo vệ môi trường sinh thái, chống xói mòn, bảo vệ đất, giữ
và điều tiết nguồn nước. Keo còn được trồng tạo cảnh quan trong các khu du
lịch, danh lam thắng cảnh như trong các chương trình, dự án xây dựng làng
sinh thái, trường sinh thái, …


3

Hiện nay công tác tạo rừng Keo kinh doanh gặp phải nhiều khó khăn
trong việc bảo vệ rừng, sâu bệnh hại thường xuyên xảy ra ở vườn ươm và
rừng trồng, ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng rừng. Những thập kỷ gần
đây bên cạnh những loài sâu nâu ăn lá keo, sâu túi nhỏ hại lá keo, sâu cuốn lá,
sâu đục lá, … thì bệnh hại cây keo cũng xuất hiện khá nhiều và chia làm hai
loại là bệnh hại lá và bệnh hại thân cành: bệnh hại lá gồm bệnh phấn trắng,
bệnh bồ hóng, bệnh đốm lá do tảo, bệnh đốm lá do nấm. Bệnh hại thân, cành
keo gồm có bệnh phấn hồng, bệnh loét thân cành và bệnh rỗng ruột, chúng
gây tác hại nghiêm trọng ở các tỉnh trong cả nước, có nơi tỷ lệ cây bị ngọn
chết lên đến 90% 44. Bệnh có thể làm cây chết với diện tích lớn ở các khu
rừng trồng. Trong các loại bệnh hại phổ biến, nghiêm trọng và nguy hiểm
nhất gần đây là bệnh hại thân, cành keo.

Bệnh hại thân cành keo là bệnh nguy hiểm ở các tỉnh Tuyên Quang,
Hoà Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lâm Đồng, Kon Tum và Thừa Thiên
Huế… gây ảnh hưởng lớn đến sản lượng và chất lượng rừng trồng, bệnh có
thể làm cho cây chết trên diện tích lớn. Tuy nhiên cho đến nay chưa có nhiều
công trình nghiên cứu và số liệu thống kê cụ thể về bệnh hại này. Để có thể
ngăn chặn, hạn chế sự phát dịch của bệnh, yêu cầu phải tìm hiểu nguyên nhân
gây bệnh, đặc điểm sinh thái học và sinh vật học của vật gây bệnh làm cơ sở
khoa học đề xuất các giải pháp phòng trừ và quản lý dịch bệnh có hiệu quả.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu bệnh hại thân, cành keo lai (Acacia hybrid) và Keo tai
tượng (Acacia mangium) tại Tuyên Quang và đề xuất biện pháp quản lý
dịch bệnh theo hướng phòng trừ tổng hợp”


4

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Trên thế gới
1.1.1. Nghiên cứu về bệnh hại cây rừng
Bệnh cây rừng đã được bắt đầu nghiên cứu trên 150 năm nay, là một
môn khoa học còn rất non trẻ nhưng sự cống hiến cho công tác nghiên cứu
khoa học, phục vụ cho đời sống sản xuất thực tiễn của các nhà bệnh cây hết
sức to lớn.
Năm 1874 ở châu Âu, Robert Hartig (1839-1901) là người đặt nền móng
cho việc nghiên cứu môn khoa học bệnh cây rừng. Ông đã phát hiện ra sợi
nấm nằm trong gỗ và công bố nhiều công trình nghiên cứu, đến nay đã trở
thành môn khoa học không thể thiếu được. Kể từ đó đến nay trên thế giới đã
có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh lý cây rừng như: G.H.Hapting nhà
bệnh lý cây rừng người Mỹ trong 30 năm nghiên cứu bệnh cây (1940-1970),

đã đặt nền móng cho công việc điều tra chủng loại và mức độ bị hại liên quan
tới sinh lý, sinh thái cây chủ và vật gây bệnh 19.
Những năm ở thập kỷ 50 của thế kỷ XX, nhiều nhà bệnh cây đã tập trung
vào việc xác định loài, mô tả nguyên nhân gây bệnh và điều kiện phát sinh,
phát triển của bệnh. Đặc biệt ở các nước nhiệt đới, L. Roger (1953) đã nghiên
cứu các loại bệnh hại cây rừng được mô tả trong cuốn sách bệnh cây rừng các
nước nhiệt đới (Phytopathologie des pays chauds). Trong đó có một số bệnh
hại lá của thông, keo, bạch đàn … 66.
John Boyce năm 1961 xuất bản sách Bệnh cây rừng (Forest pathology)
đã mô tả một số bệnh hại cây rừng. Cuốn sách này được xuất bản ở nhiều
nước như: Anh, Mỹ, Canada 58.


5

1.1.2. Nghiên cứu về bệnh hại keo
Với tổng số trên dưới 1200 loài, chi keo Acacia là một chi thực vật quan
trọng đối với đời sống xã hội của nhiều nước (Boland, 1989; Boland et al.,
1984; Pedley, 1987). Theo các ghi chép của Trung tâm giống cây rừng
Ôxtrâylia (dẫn từ Maslin và McDonald, 1996) thì các loài keo Acacia của
Ôxtrâylia đã được gây trồng ở trên 70 nước với diện tích khoảng 1.750.000 ha
vào thời điểm đó. Nhiều loài trong số đó đã đáp ứng được các yêu cầu về sử
dụng cho các mục tiêu công nghiệp, xã hội và môi trường. Các loài có tiếng
về cung cấp nguyên liệu gỗ và bột giấy là keo lá tràm (A. auriculiformis), keo
lá liềm (A. crassicarpa), keo tai tượng (A. mangium), keo đa thân (A.
aulacocarpa) v.v. còn các loài khác như A. colei, A .tumida lại có tiềm năng
cung cấp gỗ củi, chống gió và hạt làm thức ăn cho người ở một số vùng
(Cossalter, 1987; House and Harwood, 1992) 36.
Năm 1961 – 1968 John Boyce, nhà bệnh cây rừng người Mỹ đã mô tả
một số bệnh cây rừng, trong đó có bệnh hại keo 58.

Năm 1953 Roger đã nghiên cứu một số bệnh hại trên cây bạch đàn và
keo. G.F. Brown (người Anh, 1968) cũng đề cập đến một số bệnh hại keo
66, 57.
Cây trồng bị khô héo, rụng lá và tàn lụi từ trên xuống dưới (chết ngược)
do loài nấm hại lá Glomerlla cingulata (giai đoạn vô tính là nấm
Colletotrichum gleosporioides.) đó là nguyên nhân chủ yếu của sự thiệt hại
với loài keo Acacia mangium trong vườn giống ở Papua New Guinea (FAO
1981) và Ấn Độ. Theo nghiên cứu của Lee và Goh năm 1989 loài nấm này
còn gây hại với các loài Acacia ssp. Đặc biệt dưới điều kiện khí hậu ẩm ướt
lá và thân cây keo bị bệnh nguyên nhân do loài Cylindroladium
quinqueseptatum (theo nghiên cứu của Mohaman và Shaama 1988).


6

Nhiều nhà nghiên cứu của Ấn Độ, Malaysia, Philipin, Trung Quốc cũng
được công bố nhiều loại nấm bệnh gây hại các loài keo như các công trình của
Vannhin, L. Rogen (1953). Spauding (1961), Peace (1962), Bakshi (1964).
Tại hội nghị lần thứ III nhóm tư vấn nghiên cứu và phát triển của các loài
Acacia, họp tại Đài Loan cuối tháng 6 năm 1964 nhiều đại biểu kể cả các tổ
chức Quốc tế như CIFOR (Trung tâm nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế) cũng
đã đề cập đến các vấn đề sâu bệnh hại các loài Acacia.
Năm 1988-1990 Benergee R. (Ấn Độ) đã xem xét nghiên cứu vùng trồng
Keo lá tràm ở Kalyani Nadia và đã phát hiện nấm bồ hóng Oidium sp. gây hại
trên cây non từ 1-15 tuổi.
Florence E.J và đồng nghiệp (1982-1985) ở viện Nghiên cứu Lâm nghiệp
Kerela Ấn Độ đã phát hiện ra bệnh phấn hồng do nấm Corticium
salmonicolor gây hại trên vùng trồng A. auricuformis bang Kerela, tỷ lệ cây
chết khoảng 10%.
Trong thực tế có một số nấm bệnh đã được phân lập từ một số loài keo.

Đó là nấm Glomerella cingulata gây bệnh đốm lá ở A. simsii; nấm
Uromycladium robinsonii gây bệnh rỉ sắt ở lá giả loài A. melanoxylon; nấm
Oidium sp. có trên các loài A. mangium và A. auriculiformis ở Trung Quốc
nhưng loài A. confusa (Đài Loan tương tư) địa phương lại không bị bệnh 36.
Các nghiên cứu về các loại bệnh ở keo Acacia cũng đã được tập hợp khá
đầy đủ vào cuốn sách “Cẩm nang bệnh keo nhiệt đới ở Ôxtrâylia, Đông Nam Á
và ấn Độ” (A Manual of Diseases of Tropical Acacias in Australia, South-east
Asia and India. Old et al., 2000) trong đó có các bệnh khá quen thuộc đã từng
gặp ở nước ta như bệnh bệnh phấn trắng (Powdery mildew), bệnh đốm lá, bệnh
phấn hồng và rỗng ruột (Heart rot) 36.
Về phòng trừ vật gây hại nói chung, bệnh cây nói riêng, trong những
năm gần đây các nhà khoa học đã kết hợp việc khống chế sinh vật với lợi ích


7

kinh tế và cân bằng sinh thái đã đưa ra khái niệm về quản lý vật gây hại tổng
hợp hay phòng trừ tổng hợp IPM (Integrated Pest Management).
Năm 1974, Water đã định nghĩa IPM như sau: “ Quản lý vật gây hại
tổng hợp là sách lược thông qua việc vận dụng nguyên lý sinh thái học phù
hợp với hiệu quả kinh tế và xã hội, bao gồm các biện pháp đề phòng vật gây
hại phát sinh, làm giảm bớt và điều chỉnh quần thể vật gây hại, giữ mật độ
quần thể ở mức độ có thể chịu đựng được, nghĩa là từ thiết kế đến thi công,
trong quá trình quản lý tài nguyên rừng phải hoàn toàn tổng hợp”.
Hufaker (1972) và Apple (1977) đã đề ra các bước nghiên cứu IPM như
sau:
- Phân tích vị trí vật gây hại trong hệ sinh thái rừng, xác định ngưỡng gây hại
kinh tế của vật gây hại.
- Lập phương án làm giảm sâu bệnh hại chủ yếu bao gồm cả việc tạo sinh vật
thiên địch mới trong tự nhiên, chọn cây chống chịu, thay đổi môi trường sống

của vật gây hại.
- Trong tình hình khẩn cấp, tìm biện pháp phòng trừ ít ảnh hưởng đến hệ sinh
thái. Nếu cần có thể dùng thuốc hoá học nhưng phải nghiên cứu tỷ mỷ đến
loại thuốc, liều lượng, nồng độ, thời gian và phạm vi sử dụng.
- Xây dựng phương án kỹ thuật khống chế sâu hại 19.
Theo Willson (1995), vi khuẩn nội sinh là vi khuẩn tiền nhân sống trong
mô của thực vật mà không gây bệnh cho cây chủ. Theo Chanway (1998), vi
khuẩn nội sinh tìm thấy ở nhiều loài cây và có rất nhiều loài cũng giống như
các loài vi khuẩn sống trong đất, nước như: P. seudomonas, Bacillus và
Azospirillum ...
Bal, A.S, Chanway (2000), tiến hành phân lập và định danh các loài vi
khuẩn sống ở trong mô của thực vật của 2 loài thông: Thông Loggepole
(Pinus contara) và Thông đỏ (Thuija plicata) 56.


8

Năm 2000, Jinwi Kim đã phân lập và tách hợp được chất ức chế

-lactamase từ vi khuẩn sống trong mô của thực vật. Tác giả đã phân lập và
tuyển chọn vi khuẩn sống trong mô của 25 loài cây khác nhau đã phân lập
được 600 chủng vi khuẩn 61.
Miss Yuparet Puangmali (2000) đã phân lập và tuyển chọn một số loài vi
khuẩn sống trong mô của cây cỏ có khả năng sản xuất ra chất kháng sinh
L-sparaginase. Tác giả đã phân lập được 657 loài vi khuẩn từ những cây thân
thảo để sản xuất ra L-sparaginase. Ông đã tìm ra được 200 loài có khả năng
kháng vật gây bệnh mạnh 63.
1.2. Ở Việt Nam.
Keo lá tràm là loài keo được trồng đầu tiên ở các tỉnh phía Nam từ năm
1980. Hiện nay trong vườn thực vật của Trung tâm Khoa học Sản xuất Lâm

nghiệp Đông Nam Bộ nằm trên địa phận thị trấn Trảng Bom, huyện Thống
Nhất, tỉnh Đồng Nai còn tồn tại hai hàng Keo lá tràm được trồng từ đầu
những năm 1960, thuộc loại lớn tuổi nhất của nước ta (Nguyễn Hoàng Nghĩa,
1992). Cây có chiều cao khoảng trên dưới 20 m và đường kính 40 - 60 cm.
Cây to nhất có đường kính đạt tới 80 cm, thậm chí có cây hai thân, mỗi thân
có đường kính 50 cm. Sau này, loài keo này cũng đã trở nên quen thuộc trong
các chương trình trồng rừng ở các tỉnh phía Bắc 36.
Từ đầu những năm 1980 trở lại đây, nhiều loài keo đã được nhập về thử
nghiệm ở nước ta như Keo tai tượng (A. mangium), Keo lá liềm (A.
crassicarpa), Keo đa thân (A. aulacocarpa), Keo bụi (A. cincinnata), Keo lá
sim (A. holosericea) và sau này là keo lai tự nhiên được phát hiện và chủ
động lai tạo (Sedgley et al., 1992) 36.
Năm 1960, Hoàng Thị My khi điều tra bệnh cây rừng ở miền Nam
nước ta đã đề cập đến một số loại bệnh hại.


9

Từ năm 1971, với nhiều công trình nghiên cứu của mình, Trần Văn
Mão đã bắt đầu công bố một số bệnh trên các loài cây: Trẩu, Sở, Quế, Hồi, …
Bệnh hại thân cành đã được các tác giả: Lê Văn Liễu (1974), Nguyễn Sỹ Giao
(1966-1969), Nguyễn Kim Oanh (1974, 1994), Đỗ Xuân Quy (1974), Phạm
Văn Mạch (1990-1991), Phạm Quang Thu (2000-2006) nêu lên một cách tỷ
mỷ.
Ở nước ta các tác giả: Trần Văn Mão (1994), Phạm Quang Thu (20012002) đã phát hiện thấy xuất hiện bệnh hại thân cành trong một số tỉnh như
Lào Cai, Thừa Thiên Huế, Lâm Đồng, …
Trong những năm gần đây nhiều nhà nghiên cứu bệnh cây rừng nước
ngoài đã tiến hành nghiên cứu lâu năm ở nước ta về bệnh hại keo như Hodge
(1990), Zhon (1992), Sharma (1994) đã công bố trong báo cáo chuyên đề
bệnh cây ở Việt Nam.

Mùa xuân năm 1990, các xuất xứ keo tai tượng và keo lá tràm gieo tại
vườn ươm Chèm, Từ Liêm, Hà Nội đã bị bệnh phấn trắng lá với các mức độ
khác nhau. Nhìn bề ngoài, lá keo như bị rắc một lớp phấn trắng hay vôi bột.
Mức độ bệnh đã được đánh giá qua quan sát bằng mắt thường và được xếp
theo thứ tự nặng hay nhẹ. Nhìn chung bệnh đã chưa gây nên ảnh hưởng lớn
tới sinh trưởng của cây con tại vườm ươm và khi đó cũng không có điều kiện
để tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc bệnh và các vấn đề có liên quan (Nguyễn
Hoàng Nghĩa, 1993) 36.
Một vài năm gần đây khi diện tích gây trồng keo đã tăng lên đáng kể
(gần 230.000 ha vào cuối năm 1999) thì cũng đã xuất hiện bệnh ở rừng trồng.
Tại Đạ Tẻh (Lâm Đồng) Keo tai tượng trồng thuần loài trên diện tích 400 ha
đã có 118,5 ha bị bệnh với tỷ lệ từ 7 đến 59% trong đó có một số diện tích bị
khá nặng (Phạm Quang Thu, 2002). Tại Bầu Bàng, một số dòng keo lai đã bị
mắc bệnh phấn hồng (Pink Disease) với tỷ lệ mắc và mức độ bệnh khá cao


10

gây thiệt hại cho sản xuất. Tại Kon Tum năm 2001, có khoảng 1000 ha rừng
keo lai 2 tuổi bị nhiễm bệnh loét thân, thối vỏ và dẫn đến khô ngọn. Tỷ lệ
nặng nhất là ở Ngọc Tụ, Ngọc Hồi (Kon Tum) lên đến 90% số cây bị chết
ngọn 36, 45.
* Một số nghiên cứu về sử dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp IPM ở
Việt Nam:
Biện pháp phòng trừ các loại nấm bệnh bằng các chế phẩm sinh học có
nguồn gốc từ nấm và vi khuẩn đã được rất nhiều nhà khoa học trong nước
nghiên cứu và áp dụng. Nguyễn Lân Dũng, Phạm Văn Ty và Lê Mai Hương
(1998) đã sử dụng xạ khuẩn để phòng chống bệnh thối cổ rễ cây thông con ở
vườn ươm do nấm Fusarium oxysporum gây ra 8. Phạm Văn Mạch, năm
1991 trong công trình nghiên cứu của mình đã sử dụng các chủng Tricoderma

spp, xạ khuẩn Streptomyces spp để phòng chống bệnh thối cổ rễ cây thông
con vườn ươm 17. Tuy nhiên những nghiên cứu này mới dừng lại ở những
thí nghiệm các chủng nấm và xạ khuẩn đều được phân lập từ đất.
Sử dụng vi sinh vật nội sinh thực vật có khả năng ức chế sự phát triển
của nấm gây bệnh cây rừng đã được nghiên cứu ở Việt Nam từ năm 2002
(Phạm Quang Thu, 2002-2006) 43. Các tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu khả
năng tương tác của các vi sinh vật có khả năng ức chế sinh vật gây bệnh với
các loài sinh vật đặc thù khác nhau như vi sinh vật phân giải lân, vi sinh vật
kích thích sinh trưởng, vi sinh vật cố định đạm nội sinh và cộng sinh, vi sinh
vật đối kháng với nấm gây bệnh, ... để tạo ra chế phẩm hỗn hợp được gọi là
“phân vi sinh chức năng’’. Phân vi sinh chức năng này đã được nghiên cứu và
sản xuất thử cho từng đối tượng cây trồng như: cây Bông, cây Đậu, cây Cà
chua, cây Điều và một số cây khác như cây keo, cây Thông nhựa, Thông mã
vĩ (Phạm Văn Toản, Nguyễn Phương Chi, Phạm Việt Cường, Phạm Quang
Thu, 2004).


11

Bệnh hại thân cành keo được nghiên cứu đề cập đến về các mặt như phát
hiện bệnh, mô tả triệu chứng của bệnh, … của Paulding (1961), Trần Văn
Mão (1994, 1998), Phạm Quang Thu (2001-2002), ...
Các công trình trên đã đánh dấu một bước phát triển mới về nghiên cứu
bệnh hại cây rừng nói chung và bệnh hại thân cành keo nói riêng. Những
nghiên cứu trên có ý nghĩa rất lớn trong sản xuất thực tiễn và khoa học.
Nhưng việc điều tra nghiên cứu tỷ lệ bị bệnh (P%), mức độ bị bệnh (R%), xác
định vật gây bệnh, đặc tính sinh thái học và sinh vật học của vật gây bệnh, đề
xuất các giải pháp phòng trừ và quản lý dịch bệnh hại thân cành keo ở nước ta
có rất ít tài liệu, công trình nghiên cứu được công bố. Công trình nghiên cứu
này sẽ góp phần nhỏ trong việc điều tra nghiên cứu về bệnh hại, xác định vật

gây bệnh, đặc tính sinh thái học và sinh vật học của vật gây bệnh, đề xuất các
giải pháp phòng trừ và quản lý dịch bệnh hại nhằm phát triển tốt loài cây này
phục vụ các nhu cầu về kinh tế.


12

Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Bệnh loét thân, cành keo trên loài Keo lai (Acacia hybrid) và Keo tai
tượng (Acacia mangium).
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được tiến hành tại phòng Nghiên cứu bảo vệ thực vật rừng, viện
Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và khu vực rừng trồng Keo lai (Acacia
hybrid), Keo tai tượng (Acacia mangium) tại lâm trường Tân Phong, Hàm
Yên, Tân Thành và Trạm thực nghiệm cây nguyên liệu giấy thuộc huyện
Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
2.3. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được sinh vật gây bệnh loét thân, cành trên loài Keo lai
(Acacia hybrid) và Keo tai tượng (Acacia mangium).
Điều tra, đánh giá được tình hình và thực trạng vấn đề bệnh loét thân,
cành Keo lai (Acacia hybrid), Keo tai tượng (Acacia mangium) ở Tuyên
Quang.
Đề xuất các giải pháp phòng trừ và quản lý dịch bệnh hại.
2.4. Nội dung nghiên cứu
2.4.1. Xác định nguyên nhân gây bệnh
2.4.1.1. Mô tả triệu chứng, phân lập vật gây bệnh
2.4.1.2. Thí nghiệm gây bệnh nhân tạo

2.4.1.3. Xác định nguyên nhân gây bệnh


13

2.4.2. Xác định tỷ lệ bị bệnh (P%) và mức độ bị bệnh (R%) của bệnh loét
thân, cành keo tại khu vực nghiên cứu
2.4.3. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái học của bệnh
2.4.3.1. Ảnh hưởng của địa hình (Độ dốc, hướng phơi và vị trí) đến tỷ lệ và
mức độ bị bệnh
2.4.3.2. Ảnh hưởng của độ tàn che đến tỷ lệ và mức độ bị bệnh
2.4.3.3. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến tỷ lệ và mức độ bị bệnh
2.4.3.4. Ảnh hưởng của tuổi cây đến tỷ lệ và mức độ bị bệnh
2.4.3.5. Ảnh hưởng của loài cây đến tỷ lệ và mức độ bị bệnh
2.4.4. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh vật học của vật gây bệnh trong
nuôi cấy thuần khiết
2.4.4.1. Đặc điểm nẩy mầm của bào tử
2.4.4.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến sinh trưởng và phát triển của
khuẩn lạc
2.4.4.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm đến sinh trưởng và phát triển của
khuẩn lạc
2.4.4.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của pH môi trường đến sinh trưởng và phát
triển của khuẩn lạc
2.4.5. Đề xuất các biện pháp phòng trừ và quản lý dịch bệnh hại theo
hƣớng IPM
2.4.5.1. Biện pháp lâm sinh
2.4.5.2. Biện pháp sinh học
2.4.5.3. Biện pháp hoá học



14

2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Phƣơng pháp xác định nguyên nhân gây bệnh
2.5.1.1. Mô tả triệu chứng và quan sát cơ quan sinh sản của nấm bệnh
Quan sát triệu chứng bằng mắt thường hoặc kính lúp các đặc điểm bên
ngoài của thân cành bị bệnh như biến đổi về màu sắc chỗ thân cành bị bệnh,
bệnh trạng, sự phân bố bệnh trạng trên thân cành. Mô tả và chụp ảnh thân
cành bị bệnh.
Trong trường hợp cơ quan sinh sản của vật gây bệnh chưa xuất hiện thì
có thể dùng phương pháp giữ ẩm của Naumov, mẫu thân cành bị bệnh để
trong hộp petri có giấy hút ẩm để vật gây bệnh hình thành cơ quan sinh sản.
Đối với trường hợp trên thân cành xuất hiện cơ quan sinh sản có thể lấy
trực tiếp vật gây bệnh trên mẫu bệnh.
2.5.1.2. Phân lập vật gây bệnh
Phương pháp tiến hành như sau: Lấy mẫu bệnh được thu thập, bảo quản
tốt, không để dập nát. Mẫu bệnh được rửa sạch cho hết bụi đất, rửa lại bằng
nước cất sau đó ngâm mẫu bệnh trong dung dịch khử trùng bằng cồn 60 70% khoảng 10 phút. Vớt các mẫu ra rửa lại 3 - 4 lần bằng nước cất vô trùng.
Cắt tổ chức bị bệnh thành từng miếng mỏng nhỏ, sau đó cấy vào đĩa petri có
chứa môi trường dinh dưỡng PDA ( potato dextrose agar). Đặt các hộp lồng
đã cấy ở nhiệt độ 250C - 280C, sau khoảng thời gian 24 – 48 giờ vật gây bệnh
sinh trưởng. Sau khi vật gây bệnh mọc, tiến hành phân lập bằng cách dùng
que cấy, cấy truyền các mầm bệnh từ môi trường dinh dưỡng hoặc lấy trực
tiếp từ các mẫu bệnh được đặt trong hộp lồng ẩm sang các hộp lồng petri mới,
có môi trường PDA. Vật gây bệnh được phân lập không bị lẫn với các nấm
mốc khác, sợi nấm phân lập được có mầu xám trắng đến xám đen. Khi thấy


15


vật gây bệnh trong các hộp petri đã mọc tốt và thuần không bị lẫn tạp với các
nấm khác đồng thời có bào tử xuất hiện thì dừng lại.
2.5.1.3. Phƣơng pháp thí nghiệm gây bệnh nhân tạo
Thí nghiệm gây bệnh nhân tạo là phương pháp kiểm tra và khẳng định
được loài nấm phân lập từ các tổ chức bị bệnh trên thân, cành có chính xác
hay không.
Phương pháp thí nghiệm: Lấy bào tử từ cơ quan sinh sản của nấm bằng
que cấy inox được khử trùng trên ngọn đèn cồn, cho bào tử nấm vào cốc
nước vô trùng tới khi mật độ đạt khoảng 1 x 10 6 tế bào/ml. Rồi tiến hành
nhúng các mẫu lá keo vào cốc nước bào tử đó, sau đó để lá vào trong hộp
lồng petri giữ ẩm, mỗi hộp để 3 lá và băng keo lại xung quanh hộp. Theo dõi
thời gian bệnh xuất hiện và kiểm tra bào tử nấm trên các lá gây bệnh nhân
tạo.
2.5.1.4. Tài liệu định loại
Sử dụng tài liệu phân loại nấm của các tác giả Zhao Liping(1983), F.G.
Brown(1968) và Sutton B. 1980 để định loại vật gây bệnh.
2.5.2. Phƣơng pháp điều tra đánh giá ảnh hƣởng của các yếu tố sinh thái
đến tỷ lệ và mức độ bị bệnh
2.5.2.1. Điều tra sơ bộ
Phương pháp điều tra sơ bộ: Lập các tuyến điều tra đại diện cho các
dạng địa hình, loài cây, đất đai, thực bì. Tuyến điều tra đi theo đường đồng
mức, đường mòn. Trên tuyến, cứ cách 100m lại xác định một điểm điều tra
vuông góc với tuyến và cách tuyến điều tra 20m. Căn cứ vào kết quả điều tra
để xác định điểm bị bệnh hại thân cành keo, khoanh trên bản đồ địa hình hoặc


16

bản đồ hiện trạng sử dụng đất những diện tích bị bệnh hại làm cơ sở cho điều
tra tỷ mỷ.

2.5.2.2. Điều tra tỷ mỉ
Mục đích là để nắm vững tình hình phân bố, mức độ bị bệnh đồng thời
nghiên cứu mối quan hệ giữa vật gây bệnh và các nhân tố sinh thái xung
quanh ảnh hưởng tới sự phát sinh, sinh trưởng và phát triển của bệnh.
Trong khu vực nghiên cứu tại các vị trí địa hình như chân, sườn, đỉnh ;
hướng phơi, loài cây, tuổi cây ... tiến hành lập các ô tiêu chuẩn đại diện để
điều tra, diện tích mỗi ô tiêu chuẩn là 1000 m2 (40 m x 25 m), dung lượng
mẫu điều tra đủ lớn n  30. Sau khi điều tra trên ô tiêu chuẩn tỷ lệ và mức độ
bị bệnh được tính toán như sau :
* Điều tra tỷ lệ bị bệnh (P%).
Trong mỗi ô tiêu chuẩn, đếm tổng số cây điều tra và số cây bị bệnh
thân, cành trong ô. Tỷ lệ bị bệnh trong ô tiêu chuẩn được tính theo công thức
của James năm 1974 như sau:

P=

n
x 100
N

(2-1)

Trong đó:
P là tỷ lệ bị bệnh (%).
n là số cây bị bệnh
N là tổng số cây điều tra trong ô tiêu chuẩn
Nếu 0 < P < 5%
5% ≤ P < 25%

: Phân bố cá thể

: Phân bố cụm


17

25% ≤ P <50%

: Phân bố đám

P ≥ 50%

: Phân bố đều

* Mức độ bị bệnh:
Điều tra toàn bộ số cây trong ô tiêu chuẩn (sao cho dung lượng mẫu đủ
lớn n 30). Sau đó tiến hành điều tra ở toàn bộ thân, cành và tán của cây. Căn
cứ vào diện tích bị bệnh ở thân, cành và lá để phân cấp bệnh. Phân cấp bệnh
theo Kenneth Old và cộng sự năm 2000.
Cấp 0

: cây khỏe, không bị bệnh

Cấp 1

: < 10% Diện tích thân, cành ngọn bị bệnh

Cấp 2:

:10  25% Diện tích thân, cành ngọn bị bệnh


Cấp 3

: 26  50% Diện tích thân, cành ngọn bị bệnh

Cấp 4

: > 50% Diện tích thân, cành ngọn bị bệnh, cây bị khô

ngọn
Mức độ bị bệnh được tính bình quân gia quyền theo số cây ở các chỉ số
bệnh trong ô tiêu chuẩn.
Mức độ bị bệnh được tính theo công thức của Guzman (1985) và Singh
và Mishra cải biên (1992):
i

R =

 ni.vi
1

N .V

x 100

(2-2)

Trong đó: R là mức độ bị bệnh (Severity of attack)
ni là số cây bị bệnh theo cấp bệnh i
vi là chỉ số của cấp bệnh i
N là tổng số cây điều tra trong ô tiêu chuẩn

V là trị số của cấp bệnh cao nhất, trong trường hợp này V = 4


18

Mức độ bị bệnh của toàn khu vực điều tra được tính theo công thức:
Rtb =
Trong đó:

 Ri
n

(2-3)

Rtb là mức độ bị hại của toàn khu vực điểu tra.
Ri là mức độ bị hại của từng ô tiêu chuẩn.
n là tổng số ô tiêu chuẩn.

Sau khi tính toán mức độ bị bệnh, căn cứ vào các chỉ tiêu sau để đánh giá:
R ≤ 10%

: Cây khoẻ

10% < R ≤ 15%

: Cây bị bệnh nhẹ.

15% < R ≤ 25%

: Cây bị bệnh trung bình.


25% < R ≤ 50%

: Cây bị bệnh nặng.

R > 50%

: Cây bị bệnh rất nặng.

2.5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của nấm gây
bệnh
2.5.3.1. Nghiên cứu ảnh hƣởng của nhiệt độ đến đặc điểm nẩy mầm của
bào tử nấm
Mẫu thân, cành bị bệnh đưa lên kính hiển vi soi nổi để quan sát, sau đó
dùng dao cấy lấy thể quả của nấm trên thân, cành bệnh, cho vào lam kính có
chứa giọt nước cất, đậy lamen đưa lên kính hiển vi và kiểm tra bào tử. Khi
quan sát thấy có bào tử, đặt lam kính có bào tử vào hộp lồng có để giấy hút
ẩm ở dưới đáy, băng kín lại để ở các mức nhiệt độ khác nhau trong tủ định
ôn: 20˚C ± 1; 250C ± 1; 30˚C ± 1; 35˚C ±1.
Sau 2 giờ, 4 giờ, 8 giờ, 20 giờ và 24 giờ, lấy ra kiểm tra tỷ lệ nảy mầm
của bào tử bằng cách đếm trên một lam kính, mỗi hiển vi trường thu thập
được những thông số sau: Tổng số bào tử, số bào tử nảy mầm, thời gian quan
sát và thực hiện trên 5 lam kính, mỗi lam kính đo trên 10 hiển vi trường.


19

Cách tính tỷ lệ nảy mầm theo công thức sau:
n


 Xi *
0

X% =

n

 Xi

x 100

(2-4)

1

Trong đó : X % là tỷ lệ nảy mầm.
Xi* là số bào tử nảy mầm trong hiển vi trường thứ i.
Xi là tổng số bào tử có trên hiển vi trường thứ i nào đó.
Sau thời gian 2 giờ, 4 giờ, 6 giờ, 8giờ, 16giờ và 24giờ, chúng tôi tiến
hành đo tốc độ nảy mầm của bào tử nấm ở nhiệt độ không khí thích hợp. Mỗi
lam kính đo 10 bào tử, thực hiện đo trên 6 lam kính và lấy giá trị bình quân.
Tốc độ nảy mầm của bào tử nấm được tính theo công thức:
1
t

T= xL

(2-5)

Trong đó : T là tốc độ nảy mầm của bào tử nấm

t là thời gian

L

là chiều dài trung bình của sợi nấm sau thời gian t giờ

2.5.3.2. Nghiên cứu ảnh hƣởng của nhiệt độ đến tốc độ sinh trƣởng và
phát triển của khuẩn lạc
Thí nghiệm được thực hiện trên môi trường dinh dưỡng PDA, đặt trong
tủ định ôn có các mức nhiệt độ không khí khác nhau. Phương pháp thí nghiệm
được tiến hành như sau:
Đổ môi trường dinh dưỡng PDA đã nấu vào đĩa petri được khử trùng
dầy 2 – 3 mm, để nguội cho môi trường đông cứng lại, cấy giống nấm đã
được phân lập từ 10 – 12 ngày tuổi vào chính giữa hộp lồng rồi băng lại cho
kín. Xếp các hộp lồng vào tủ định ôn có nhiệt độ: 200C ±1; 250C ±1; 300C


20

±1; 350C ±1, mỗi tủ đặt 2 hộp lồng. Đo đường kính của khuẩn lạc theo hai
chiều vuông góc, lấy trị số trung bình và đo ở ngày thứ 3 - 6. Thí nghiệm
được lập lại 2 lần và lấy trị số bình quân làm đại diện cho thí nghiệm.
2.5.3.3. Nghiên cứu ảnh hƣởng của độ ẩm đến tốc độ sinh trƣởng và phát
triển của khuẩn lạc
Thí nghiệm được tiến hành theo phương pháp của Both.C. Dung dịch
NaCL được pha với các nồng độ khác nhau trong bình hút ẩm tạo cho chúng
ta có được các độ ẩm như sau:

NaCl(g/lit)


0

16

32

48

64

RH%

100

90

80

70

60

Dung dịch pha xong đổ vào bình hút ẩm loại lớn, đậy nắp lại để ở
phòng thí nghiệm, trong tối có nhiệt độ không khí khoảng 23 - 270C. Sau 3
ngày trong các bình hút ẩm khác nhau sẽ có độ ẩm không khí khác nhau, phụ
thuộc vào nồng độ của NaCl, khi nồng độ của NaCl càng lớn thì độ ẩm của
môi trường càng nhỏ và ngược lại nồng độ của NaCl càng nhỏ thì độ ẩm của
môi trường càng lớn. Môi trường PDA sau khi hấp khử trùng được đổ vào
hộp lồng đã được khử trùng một lớp dày 2 - 3 mm. Cấy giống nấm đã được
phân lập từ 10 - 12 ngày tuổi vào chính giữa hộp lồng bằng que cấy. Đặt hộp

lồng vào các bình hút ẩm có độ ẩm không khí khác nhau, mỗi bình ta đặt 2
hộp. Sau 3 ngày lấy hộp lồng đo đường kính khuẩn lạc theo hai chiều vuông
góc, lấy trị số bình quân của các hộp lồng đặt trong mỗi bình hút ẩm. Thí
nghiệm được lặp lại 2 lần.


21

2.5.3.4. Nghiên cứu ảnh hƣởng của pH môi trƣờng đến tốc độ sinh trƣởng
phát triển của khuẩn lạc
Thí nghiệm được tiến hành trên môi trường dinh dưỡng PDA có độ pH
khác nhau. Môi trường lỏng nước khoai tây, đã đun sôi và lọc, cho vào 3.5g
thạch và 4g đường D – glucoza, một lít môi trường cho đều vào 5 bình tam
giác có dung tích 250ml. Dùng máy đo pH để xác định trị số pH của môi
trường. Dung dịch gốc có pH = 6.0, dùng HCL 10% để điều chỉnh các mức
pH của môi trường là: 4.0, 5.0 và NaOH để điều chỉnh pH môi trường theo
các mức: 7.0, 8.0. Sau đó nút miệng bình tam giác bằng bông sạch và quấn
giấy báo phía trên, môi trường được hấp khử trùng ở 121˚C, áp suất 1 atm
trong 30 phút. Đổ mỗi môi trường có các mức pH khác nhau vào 2 hộp lồng
đã được khử trùng dày 2-3 mm. Sau khi mặt thạch khô, đông cứng lại rồi tiến
hành cấy giống nấm vào chính giữa hộp lồng 1 điểm giống nhau đúng bằng
que cấy. Băng kín hộp lồng lại và để trong tủ định ôn có nhiệt độ 25˚C±1. Đo
đường kính khuẩn lạc theo hai chiều vuông góc rồi lấy trị số trung bình, đo ở
ngày thứ 3 - 7. Thí nghiệm được lặp lại 2 lần và lấy trị số đường kính khuẩn
lạc bình quân làm đại diện cho thí nghiệm.

2.5.4. Đề xuất biện pháp phòng trừ
2.5.4.1. Xác định biện pháp phòng trừ dựa trên chỉ số tổn thất
Chỉ số tổn thất được xác định thông qua công thức sau:
DI (%) = R% x P%


(2-6)

Trong đó:
R (%) mức độ bị bệnh
P (%) tỷ lệ bị bệnh
Căn cứ vào trị số DI xác định được biện pháp phòng trừ:


22

DI < 0,05

không cần phun thuốc phòng trừ

0.05 ≤ DI < 0,1

cần phun thuốc phòng trừ

0,1 ≤ DI < 0,25

cần loại bỏ lá, thân cành bệnh và phun
thuốc phòng trừ

0,25 ≤ DI < 0,5

cần cắt bỏ lá và thân cành bệnh, loại bỏ
cây bệnh nặng và phun thuốc phòng trừ

DI ≥ 0,5


chặt bỏ cây bệnh

2.5.4.2. Nghiên cứu hiệu lực diệt nấm của một số loại thuốc hoá học
Môi trường nghiên cứu được chọn từ thí nghiệm trên cho vào bình tam
giác hấp khử trùng ở 1210C tương ứng với 1atm trong vòng 30 phút. Đổ môi
trường đã được hấp vào hộp lồng một lớp dày 2-3mm. Chờ mặt thạch đông
cứng lại rồi tiến hành cấy giống nấm khoảng 10-12 ngày tuổi vào 3 điểm sát
mép hộp lồng. Băng kín lại và để các hộp lồng đã được cấy nấm vào tủ định
ôn 25oC ±1 trong vòng hai ngày để sợi nấm mọc. Khi sợi nấm đã mọc, tiến
hành đặt vào chính giữa hộp lồng một đĩa giấy có đường kính 8 mm (do
Whatman, Đức sản xuất) đã tẩm các loại thuốc hoá học. Mỗi loại thuốc, tiến
hành làm thí nghiệm với hai hộp lồng và tiến hành lặp lại hai lần. Sau khi cho
thuốc vào giấy hút ẩm ta băng kín lại và để ở nhiệt độ 25 0C± 1. Đối chứng là
những hộp lồng cho nước cất vô trùng. Sau khoảng 2-3 ngày bắt đầu tiến
hành quan sát và đánh giá hiệu lực diệt nấm của từng loại thuốc bằng việc đo
đường kính vòng ức chế.


23

Chƣơng 3
ĐẶC ĐIỂM CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiên tự nhiên
3.1.1 Vị trí địa lý
Hàm Yên là một huyện miền núi nằm ở phía Bắc của tỉnh Tuyên
Quang, cách trung tâm thị xã khoảng 43 km, nằm trong tọa độ địa lý từ: 210
50’ đến 220 23’ kinh Đông và 380 0339’ đến 410 0122’ vĩ độ Bắc.
Địa giới hành chính huyện:
- Phía Đông giáp huyện Na Hang và huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên

Quang.
- Phía Tây giáp huyện Yên Bình và huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái.
- Phía Nam giáp huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Phía Bắc giáp huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
Huyện Hàm Yên nằm bám dọc theo đường Quốc lộ 2. Đây là điều kiện
thuận lợi tạo cho huyện khả năng phát triển và giao lưu kinh tế, văn hóa - xã
hội, từng bước hòa nhập với nền kinh tế của tỉnh và khu vực. Toàn huyện có
tổng diện tích đất tự nhiên là 89.769 ha, với 18 đơn vị hành chính, bao gồm
17 xã, 1 thị trấn.
3.1.2. Địa hình, thổ nhƣỡng
* Địa hình
Là Huyện miền núi nằm phía Bắc của tỉnh Tuyên Quang. Địa hình đồi
núi phức tạp bị chia cắt bởi nhiều sông suối và những dẫy núi cao là khu vực
phía bắc của huyện. Phía Nam địa hình thấp dần có nhiều đồi thấp và thung
lũng theo sông suối.


×