Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Nghiên cứu đề xuất những nội dung cơ bản quy hoạch lâm nghiệp huyện đô lương tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 85 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và PTNT

Tr-ờng đại học lâm nghiệp
--------------------------------------------

Hoàng văn thắng

Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng
hỗn loài cây lá rộng bản địa cung cấp gỗ lớn ở
Ngọc Lặc - Thanh Hoá và Cầu Hai - Phú thọ
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
TS. Võ Đại Hải

Hà Tây - Năm 2007


3

Chương 1
Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Trên thế giới
Kinh nghiệm nhiều năm về trồng rừng ở nhiều nước trên thế giới cho
thấy do rừng trồng thuần loài đã bộc lộ nhiều nhược điểm nên nhiều nước trên
thế giới đã quan tâm nghiên cứu tạo lập các lâm phần rừng trồng hỗn loài


bằng nhiều loài cây khác nhau nhằm kinh doanh rừng theo hướng bền vững.
Các công trình nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài trên thế giới đã quan tâm
đến một số biện pháp kỹ thuật như việc chọn loài cây trồng, phương thức,
phương pháp trồng và mối quan hệ giữa qua lại giữa các loài cây trong các mô
hình rừng trồng hỗn loài.
Các nghiên cứu liên quan đến chọn loài cây trồng đã được thực hiện từ
khi loài người biết trồng rừng. Bắt đầu từ những thí nghiệm thăm dò đến khảo
nghiệm loài và xuất xứ, các thí nghiệm được bố trí một cách nghiêm ngặt theo
các nguyên tắc khoa học để từ đó chọn được loài thích hợp cho mỗi vùng sinh
thái. Tại nhiều nước đã có một số nghiên cứu dùng các mô hình toán để tối ưu
cơ cấu cây trồng cho từng vùng. ở các nước vùng ôn đới số loài cây chính
dùng trong trồng rừng thường rất ít, nên người ta đã tìm hiểu mối quan hệ giữa
cây và lập địa rất cụ thể, chi tiết cho từng loài (dẫn theo Trần Văn Con, 2005)
[10].
Nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài đã được các nước châu Âu tiến hành
từ những năm đầu thế kỷ 19. Điển hình là công trình nghiên cứu trồng hỗn
loài Quercus và Ulmus campestris với tên kiểu hỗn loài Donsk của tác giả
Tikhanop (1872). Trong mô hình này do đặc tính sinh vật học và mối quan hệ
qua lại giữa các loài cây chưa được nghiên cứu kỹ, do đó loài Ulmus
campestris với đặc tính sinh trưởng nhanh hơn nên sau khi trồng vài năm đã
lấn át loài Quercus. Để giải quyết sự cạnh tranh này năm 1884 tác giả


4

Polianxki đã cải tiến kiểu hỗn loài Donsk song vẫn không thành công. Một số
tác giả khác như Kharitonovis (1950); Grixenco (1951); Timofeev (1951);
Encova (1960) và các cộng sự đã phân tích nguyên nhân thất bại của kiểu
Donsk và chỉ ra rằng các phitonxit của loài Ulmus campestris đã tác động xấu
tới loài cây Quercus. Nghiên cứu về ảnh hưởng tương hỗ giữa các loài, các tác

giả cho rằng sự cảm nhiễm tương hỗ là yếu tố quan trọng khi lý giải cơ chế
cạnh tranh sinh học của thực vật [39]. Trên cơ sở nghiên cứu tạo rừng hỗn loài
giữa Quercus và Fraxinus, tác giả JB. Ball, T.J Wormald (1994) cho thấy sinh
trưởng của Quercus trồng hỗn loài tốt hơn Quercus trồng thuần loài. Ngoài ra,
khi trồng Quercus hỗn loài với các loài cây khác theo băng hẹp (3 - 4 hàng)
hoặc theo hàng cũng cho thấy sinh trưởng của Quercus tốt hơn [36].
Kết quả nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài các tác giả trên đều cho rằng
việc bố trí các loài cây trong mô hình rừng trồng hỗn loài thường có ảnh
hưởng tới sinh trưởng của chúng tùy theo số cá thể và cự ly trồng từng loài.
Kolexnitsenko (1977) khi nghiên cứu về sự phối hợp giữa các loài cây gỗ
trong trồng rừng hỗn loài đã đúc kết được 5 nguyên tắc lựa chọn loài cây
trồng, đó là:
Nguyên tắc kinh nghiệm.
Nguyên tắc kiểu lâm hình học.
Nguyên tắc lý sinh.
Nguyên tắc sinh vật dinh dưỡng.
Nguyên tắc cảm nhiễm tương hỗ.
Có thể nói đây là những nguyên tắc rất cơ bản và tương đối toàn diện về
các lĩnh vực của rừng trồng hỗn loài. Để xây dựng thành công các mô hình
rừng trồng hỗn loài cần phải dựa vào 5 nguyên tắc trên. Trong đó nguyên tắc
cảm nhiễm tương hỗ là rất quan trọng và phải cần có thời gian dài nghiên cứu.
Nhìn chung, các nguyên tắc này phản ánh được mối quan hệ bên trong và có
tính chi phối tới sự tồn tại và sinh trưởng của các loài. Sự phân loại theo đặc


5

điểm hoạt hóa của chúng như kích thích, ức chế hoặc kìm hãm quá trình sống
thông qua ảnh hưởng của phitonxits là căn cứ để quyết định tỷ lệ tổ thành các
loài cây trong lâm phần hỗn loài. Nghiên cứu về vấn đề này tác giả

Kolexnitsenko đã đề nghị mật độ loài cây trồng chính trong mô hình trồng
rừng hỗn loài không nên ít hơn 50%, loài cây hoạt hoá không quá 30 - 40%,
loài cây ức chế không quá 10 - 20% trong tổng các loài cây trong mô hình
[39].
Việc tạo lập các loài cây hỗ trợ ban đầu cho cây trồng chính trước khi
xây dựng các mô hình rừng trồng hỗn loài là rất cần thiết. Nghiên cứu về lĩnh
vực này điển hình có tác giả Matthew (1995). ông đã nghiên cứu tạo lập mô
hình rừng trồng hỗn loài giữa cây thân gỗ với cây họ đậu. Kết quả cho thấy
cây họ đậu có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho cây trồng chính [37]. Như vậy,
nghiên cứu này cho thấy sử dụng các loài cây họ đậu làm cây phù trợ cho các
loài cây trồng chính trong mô hình rừng trồng hỗn loài là rất phù hợp. Ngoài
việc xác định được loài cây phù trợ thích hợp thì việc nghiên cứu về đặc điểm
sinh thái của các loài cây cũng là vấn đề rất quan trọng khi xây dựng mô hình
rừng trồng hỗn loài. Trên thế giới đến nay vẫn chưa có nhiều công trình
nghiên cứu đầy đủ về vấn đề này. Do hiểu biết về yêu cầu sinh thái của các
loài cây rừng mưa còn nghèo nàn nên các tác giả Rod Keenan, David Lamb,
Gary Sexton khi xây dựng rừng trồng hỗn loài (giai đoạn 1945 -1995) đã gặp
nhiều khó khăn trong việc bố trí và điều chỉnh các mô hình rừng trồng hỗn
loài theo quá trình sinh trưởng của chúng. Vì vậy mô hình rừng trồng hỗn loài
đã không được thành công như mong muốn [40].
Nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật điều chỉnh các lâm phần rừng
trồng hỗn loài theo quá trình sinh trưởng các tác giả Ball, Wormald và Russo
(1994) đã tác động vào các lâm phần rừng trồng hỗn loài thông qua việc giảm
bớt sự cạnh tranh giữa các loài cây. Kết quả cho thấy sau khi được tác động


6

các biện pháp tỉa cành, tỉa thưa các loài cây mục đích đã được được tạo điều
kiện thuận lợi để sinh trưởng phát triển tốt hơn [36].

Đặc điểm nổi bật của rừng hỗn loài là có kết cấu nhiều tầng tán. Vì thế
nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng đã được một số nước trên thế giới
quan tâm. Khi nghiên cứu về cấu trúc tầng tán của lâm phần hỗn loài tác giả
Bernar Dupuy (1995) thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng hỗn loài phụ
thuộc vào đặc tính sinh trưởng và tính hợp quần của các loài cây trong lâm
phần [35]. Điều này cho thấy để tạo được các mô hình rừng trồng hỗn loài có
cấu trúc hợp lý, tận dụng được tối đa không gian dinh dưỡng thì cần phải dựa
vào đặc tính sinh trưởng cũng như phải quan tân đến mối quan hệ qua lại giữa
các loài cây để lựa chọn các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là những cơ sở
quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của các mô hình rừng
trồng hỗn loài.
Dự án xây dựng rừng nhiều tầng ở Malaysia (1999) đã nghiên cứu tạo
rừng hỗn loài nhiều tầng bằng nhiều phương thức khác nhau. Tuỳ theo các đối
tượng khác nhau là rừng tự nhiên, rừng Keo tai tượng 10-15 tuổi hay rừng Keo
tai tượng 2-3 tuổi mà mở các băng chặt và chừa khác nhau. Chiều rộng băng
chặt và chừa từ 6m (chặt 1 hàng) đến 60m (chặt 20 hàng). Thời gian đưa các
loài cây bản địa vào trồng hỗn loài trong các băng chặt cũng rất khác nhau, từ
1-7 năm sau khi mở băng chặt. Các loài cây bản địa đưa vào trồng trong các
băng chặt tương đối phong phú, từ 14-23 loài cây khác nhau với số hàng từ 3
đến 16 hàng. Kết quả cho thấy trong các loài cây bản địa được trồng trong các
băng có 3 loài cây có sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất là S.
roxburrghii; S. ovalis; S. leprosula. Sinh trưởng chiều cao của các loài cây
trồng trong băng 10m và 40m tốt hơn băng 20m. Khu trồng theo hàng có sinh
trưởng chiều cao tốt nhất ở công thức trồng 1 hàng Keo xen 1 hàng cây bản
địa. Dự án còn đưa ra kế hoạch điều chỉnh quá trình sinh trưởng của các mô
hình thí nghiệm theo 8 thời điểm từ 2 - 47 năm sau khi trồng [41]. Như vậy,


7


đây là một trong những công trình nghiên cứu tạo rừng trồng hỗn loài trên thế
giới tương đối toàn diện về các biện pháp kỹ thuật, từ việc chọn loài cây trồng
đến nghiên cứu phương thức trồng, thời điểm trồng và sự điều chỉnh mô hình
theo quá trình sinh trưởng trong thời gian dài. Do đó những mô hình thí
nghiệm này hứa hẹn nhiều thành công trong tương lai.
Ngoài các công trình đã được đề cập ở trên, một số công trình nghiên
cứu khác như trồng rừng dưới tán, trồng theo băng, theo rạch dưới tán che nhẹ
ở các nước châu Phi và châu á thực chất cũng nhằm tạo các lâm phần hỗn loài
trên cơ sở các loài đã có sẵn trong tự nhiên. Đối với những khu vực có tỷ lệ tổ
thành các loài cây có giá trị kinh tế thấp thì có thể cải thiện chất lượng của
rừng bằng cách tăng loài cây và số lượng cá thể của các loài có giá trị kinh tế
thông qua biện pháp gây trồng bổ sung. Điển hình là ở các nước Nêgiêria,
Công Gô, Camơrun,... Đây là những công trình đã đạt được nhiều kết quả tốt
do lợi dụng được thảm che tự nhiên, chúng đã hỗ trợ tốt cho cây trồng chính
trong giai đoạn đầu. Các loài cây mục đích trồng bổ sung vẫn được sống trong
lòng rừng ẩm. Mặt khác khi cây trồng lớn lên thì việc mở dần tán che của các
loài cây tầng trên đã được điều chỉnh kịp thời. Việc phát luỗng dây leo, cây
bụi cũng được thực hiện một cách đều đặn nên các loài cây mục đích trồng bổ
sung đã sinh trưởng phát triển tốt, tạo thành các lâm phần rừng trồng hỗn loài
đạt hiệu cao. Đây là những bài học quan trọng trong việc lựa chọn cây phù trợ
cho đề tài nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật trồng rừng hỗn loài các loài cây
lá rộng bản địa.
1.2. ở Việt Nam
Trồng rừng hỗn loài ở Việt Nam đã được nghiên cứu từ năm 1931. Điển
hình là công trình nghiên cứu trồng rừng hỗn loài Sao đen, Dầu rái và Vên vên
ở Trảng Bom Đồng Nai của tác giả người Pháp Maurand. Trong giai đoạn
1930-1985 có rất ít các công trình nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài và
nghiên cứu chọn loài cây trồng cũng chỉ tập trung cho một số loài cây thuộc



8

họ Dầu. Từ năm 1985 đến nay, việc nghiên cứu trồng rừng hỗn loài bằng các
loài cây bản địa được triển khai nhiều hơn kể cả về loài cây và diện tích trồng
rừng. Trong giai đoạn này nhiều loài cây lá rộng bản địa đã được lựa chọn để
nghiên cứu cho các vùng sinh thái trong cả nước. Các loài cây lá rộng bản địa
được lựa chọn để nghiên cứu trồng rừng hỗn loài chủ yếu là các loài có giá trị
kinh tế cao. Một số loài cây bản địa được lựa chọn cho vùng Tây Nguyên và
Nam Bộ là Gõ đỏ, Cẩm lai, Căm xe, Xà cừ, Tếch,... và được trồng chủ yếu tại
các trạm thực nghiệm Trảng Bom, Lang Lanh, Ekmat, Măng Linh, Tân Tạo. ở
Miền Bắc, các loài cây chủ yếu được lựa chọn để trồng rừng hỗn loài là Lim
xanh, Lim xẹt, Giổi xanh, Re gừng, Mỡ, Bồ đề, Lát hoa, Ràng ràng mít, Lim
xẹt, Xoan đào, Vạng trứng,... và được trồng chủ yếu ở Cầu Hai (Phú Thọ),
Hữu Lũng (Lạng Sơn), Tân Lạc (Hoà Bình).
Tổng kết các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay Bộ NN&PTNT
(2005) đã đưa ra được danh mục các loài cây chủ yếu cho trồng rừng sản xuất
theo 9 vùng sinh thái lâm nghiệp, bao gồm cả các loài cây bản địa và cây nhập
nội, trong đó có nhiều loài cây có thể trồng hỗn loài với nhau [3]. Chương
trình 327 và 661 đã đưa ra một bảng danh mục với hơn 60 loài cây phục vụ
cho việc tạo lập các lâm phần rừng trồng trong cả nước. Trần Quang Việt và
cộng sự (1997) đã đánh giá tập đoàn cây trồng trong chương trình 327 trên các
vùng sinh thái trong cả nước và thống kê được 70 loài cây đã được sử dụng
trồng rừng trong Chương trình 327. Theo tác giả Hoàng Hoè và Trần Xuân
Thiệp (1999) thì ở nước ta có khoảng 250 loài cây bản địa và nhập nội đã và
đang được sử dụng để trồng rừng (dẫn theo Trần Văn Con, 2005) [10]. Như
vậy, việc tạo lập các lâm phần rừng trồng nói chung và các lâm phần rừng
trồng hỗn loài nói riêng ở nước ta đã chọn ra được nhiều loài cây trồng phù
hợp cho các vùng sinh thái trong cả nước. Đó là cơ sở khoa học quan trọng
cho việc xây dựng và nâng cao năng suất chất lượng rừng trồng ở nước ta.



9

Với đặc tính của hầu hết các loài cây lá rộng bản địa là thường ưa bóng
trong giai đoạn còn nhỏ, do vậy việc tạo được lớp áo che cho các loài cây
bản địa trong giai đoạn đầu của quá trình sinh trưởng là việc làm đầu tiên và
rất cần thiết khi muốn tạo lập lâm phần hỗn loài, đặc biệt là trên đối tượng đất
trống, đồi trọc. Nghiên cứu lựa chọn cây phù trợ để xây dựng rừng trồng hỗn
loài đã được nhiều tác giả quan tâm. Điển hình là một số công trình sau:
- Năm 1931 tác giả Maurand đã sử dụng lớp cây bụi thảm tươi trong
rạch làm cây phù trợ để tạo rừng hỗn loài giữa Sao đen, Dầu rái và Vên vên ở
Trảng Bom Đồng Nai. Ban đầu tác giả đã áp dụng phương thức trồng rừng
dưới tán che dày và thấp sau 2 năm phương thức này đã được cải tiến thành
phương thức "trồng dưới tàn che cao và nhẹ". Sau khi được cải tiến phương
thức trồng, các loài cây trồng chính vẫn sinh trưởng phát triển kém nên tác giả
tiếp tục dùng thảm che nhân tạo với các loài cây họ đậu là Muồng đen và Đậu
tràm. Kết quả cho thấy rằng dùng cây che phủ ban đầu kết hợp cây che trung
gian là có hiệu quả (dẫn theo Nguyễn Bá Chất, 1976) [6]. Như vậy, trong công
trình này tác giả đã sử dụng cả 2 loại thảm che tự nhiên và thảm che nhân tạo
để làm cây phù trợ. Tuy nhiên, sự kết hợp hai loại thảm che này không được
tính đến từ đầu khi thiết kế rừng trồng, do đó chưa đánh giá được tác dụng
riêng rẽ của từng loại thảm che.
- Giai đoạn 1971 - 1976 tác giả Nguyễn Bá Chất và các cộng sự đã sử
dụng cây phù trợ là các loài cây có khả năng cố định đạm như: Cốt khí, Ràng
ràng mít, Lim xẹt để tiến hành thí nghiệm trồng rừng hỗn loài Bồ đề với Mỡ
và Xoan đào ở Tuyên Quang và Phú Thọ. Kết quả sau 5 năm cho thấy năng
suất rừng Bồ đề trồng hỗn loài có cây phù trợ tăng 15 - 20% so với rừng Bồ đề
trồng thuần loài không có cây phù trợ. Lượng thảm mục dưới rừng trồng hỗn
loài cũng tăng lên 10 - 20%, đất đai dưới rừng trồng hỗn loài được cải thiện
hơn so với rừng trồng thuần loài [6].



10

- Năm 1985 các tác giả Nguyễn Minh Đường và Lê Đình Cẩm đã sử
dụng các loài cây Muồng đen, Keo lá tràm, Đậu triều và Keo dậu làm cây phù
trợ để xây dựng rừng trồng hỗn loài Sao đen, Dầu rái, Gõ đỏ, Cẩm lai, Căm xe
cung cấp gỗ lớn ở lâm trường La Ngà (Đồng Nai). Các công thức được trồng
hỗn loài theo hàng và theo băng với kích thước các băng chặt, chừa là 10m và
20m. Xen giữa 2 hàng cây trồng chính là các hàng cây phù trợ. Sau một năm
trồng cho thấy cây phù trợ mới chỉ có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của các loài
cây trồng chính [13]. Nhìn chung, các thí nghiệm trồng Dầu rái, Sao đen, Gõ
đỏ trên các loại đất xám phù xa cổ thoái hoá ở Trảng Bom, đất ba gian nông
màu đen ở Bàu Cạn, trên đất phiến thạch sét ở Mã Đà (Đồng Nai), đất phù sa
cổ sâu ẩm ở Dương Minh Châu cũng chỉ có nhận xét tương tự.
- Năm 1995 tác giả Phạm Đình Tam đã sử cây Keo lai làm cây phù trợ
để tạo rừng trồng hỗn loài giữa Trám trắng và Lim xẹt ở Bình Thanh - Hoà
Bình [27]. Đến năm thứ 4 Keo lai sinh trưởng nhanh đã bắt đầu che bóng Lim
xẹt và Trám trắng. Hiện tại mô hình đang có sự cạnh tranh mạnh, các loài
Trám trắng và Lim xẹt đang bị Keo lai lấn át nên các loài cây trồng chính
trong lâm phần đều không sinh trưởng phát triển tốt.
- Giai đoạn 1994-1998 Trần Nguyên Giảng đã nghiên cứu tạo rừng
trồng hỗn loài ở Vườn Quốc gia Cát Bà - Hải Phòng. Trên đối tượng đất trống,
đồi trọc, tác giả đã trồng Keo tai tượng và Keo lá tràm làm áo che phủ. Khi
rừng Keo bắt đầu khép tán tác giả đã đưa vào trồng dưới tán Keo 10 loài cây lá
rộng bản địa khác nhau. Sau 4 năm thí nghiệm tác giả cho thấy phương pháp
trồng rừng ẩm dưới tàn che nhìn chung là thích hợp cho cả các loài trung sinh
trong giai đoạn 1- 2 năm đầu. Biện pháp lột tán theo định kỳ thích hợp cho
loài chịu bóng mọc chậm như Gội trắng, Giổi xanh, Re gừng nhưng lại cản trở
cây ưa sáng mọc nhanh như: Lát hoa, Sấu, Nhội và Muồng đỏ. Kết quả cũng

cho thấy dùng cây che phủ ban đầu Keo lá tràm là thích hợp nhất [16]. Tuy
nhiên, do thí nghiệm mới tiến hành trong giai đoạn ngắn nên chưa thể biết


11

được 10 loài cây đó sẽ tồn tại như thế nào trong các giai đoạn sau. Việc sử
dụng các loài cây ưa sáng như Lát hoa và Muồng đỏ trồng duới tán Keo hiện
tại đã cho thấy khó khăn trong việc nuôi dưỡng mô hình này. Mặt khác
phương pháp trồng hỗn loài theo hàng dưới tán Keo tác giả chưa cho thấy rừng
hỗn loài này sẽ có cấu trúc ra sao theo thời gian. Tuy vậy, có thể nói rằng đây
là mô hình tương đối toàn diện về các biện pháp kỹ thuật trồng rừng hỗn loài,
từ việc tạo áo che, đến việc xác định thời điểm đưa các loài cây bản địa vào
trồng dưới tán và các biện pháp lột dần tán che để các loài cây trồng chính
sinh trưởng, phát triển.
- Ngoài các công trình nghiên cứu đã nêu, Chương trình 327, Dự án 661
cũng đã tạo ra nhiều mô hình rừng trồng hỗn loài các loài cây lá rộng bản địa,
trong đó chủ yếu là tạo rừng phòng hộ cho các vùng xung yếu trong cả nước.
Trong các mô hình này hầu hết đều sử dụng các loài cây phù trợ như Keo tai
tượng, Keo Lá tràm, Keo lai, Muồng đen, với tỷ lệ hỗn loài là 600 cây bản
địa và 1.000 cây phù trợ. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tán che của các loài cây
phù trợ trong các mô hình rừng trồng hỗn loài đã không được điều chỉnh kịp
thời nên các loài cây trồng chính chỉ còn lại với tỷ lệ thấp và thường sinh
trưởng, phát triển không tốt. Đây cũng là tồn tại chung của hầu hết các công
trình nghiên cứu xây dựng rừng trồng hỗn loài có sử dụng cây phù trợ.
Nghiên cứu phương thức và phương pháp hỗn loài cũng đã được nhiều
tác giả quan tâm. Thực tế cho thấy các mô hình rừng trồng hỗn loài ở nước ta
đến nay chủ yếu là áp dụng theo phương thức trồng rừng hỗn loài giữa cây cao
với cây cao. Điển hình là thí nghiệm trồng rừng hỗn loài theo hàng giữa Mỡ
với các loài cây Lim xanh, Xà cừ, Tếch của Trung tâm Lâm sinh Cầu Hai, Phú

Thọ (1962) [15]; nghiên cứu phương thức trồng rừng hỗn loài giữa cây trồng
chính, rụng lá mùa khô là Tếch với cây bạn thường xanh là Muồng đen và cây
phù trợ là Đậu tràm ở Tây Nguyên của Nguyễn Xuân Quát (1985-1990) [26];
nghiên cứu tạo rừng hỗn loài giữa cây lá kim (Thông đuôi ngựa) và cây lá


12

rộng (Keo lá tràm và Bạch đàn trắng) ở Núi Luốt Xuân Mai, Hà Tây của
Phùng Ngọc Lan (1986) [18]; nghiên cứu phương thức trồng hỗn loài Mỡ và
Bồ đề của Ngô Quang Đê (1991); nghiên cứu thiết lập rừng trồng hỗn loài
giữa các loài cây ưa sáng Bạch đàn trắng và Keo lá tràm của Nguyễn Hữu
Vĩnh và các cộng tác viên (1991-1993) [34], Hầu hết các công trình nghiên
cứu này đều áp dụng phương pháp trồng hỗn loài theo hàng hoặc theo băng.
Các kết quả nghiên cứu của các công trình này cho thấy dù được xây dựng
theo phương thức và phương pháp nào thì rừng trồng hỗn loài đều cho năng
suất, chất lượng cao hơn và cải thiện tốt hơn điều kiện đất đai so với rừng
trồng thuần loài.
Từ năm 1980 trở lại đây, việc phục hồi rừng thông qua tạo lập các lâm
phần rừng trồng hỗn loài bằng các loài cây lá rộng bản địa đã được nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu. Nổi bật là công trình nghiên cứu phục hồi rừng vùng
Sông Hiếu thông qua việc xây dựng cấu trúc hỗn loài Lát hoa với một số loài
cây khác của Nguyễn Bá Chất (1981-1985). Tác giả đã trồng hỗn loài cây Lát
hoa với các loài cây lá rộng bản địa như Lim xẹt, Giổi xanh, Thôi chanh, Lõi
thọ, Ràng ràng nhằm tạo được một cấu trúc rừng hợp lý. Mô hình này được
theo dõi đến năm thứ 10 và cho thấy sinh trưởng rừng Lát hoa trồng hỗn loài
tốt hơn rừng Lát hoa trồng thuần loài. Kiểu cấu trúc rừng Lát hoa hỗn loài sử
dụng lớp thực bì phục hồi tự nhiên có ưu điểm hơn về sinh trưởng của các loài
cây trồng và có dấu hiệu phục hồi đất tốt hơn [7].
Dự án RENFODA (Rehabilitation of Natural Forest in Degraded

Watershed Area in the North of Vietnam) do JICA tài trợ đã nghiên cứu các
biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng tự nhiên bị suy thoái ở Cao Phong - Hoà
Bình bằng cách tạo ra rừng trồng hỗn loài các loài cây lá rộng bản địa theo
phương thức hỗn loài giữa các loài cây cao ưa sáng và chịu bóng với nhau.
Các loài cây lá rộng bản địa được kết hợp để tạo rừng trồng hỗn loài là Giẻ đỏ,
Lim xanh, Trám trắng và Sồi phảng. Phương pháp hỗn loài là theo rạch và


13

theo đám. Kết quả sau 4 năm thí nghiệm (2004-2007) cho thấy các loài cây
trồng đều rất có triển vọng, tỷ lệ sống của các loài đều đạt trên 95%. So với
phương pháp trồng hỗn loài theo đám thì sinh trưởng của các loài cây trồng
theo rạch đều tốt hơn [33].
Nghiên cứu tạo rừng trồng hỗn loài nhiều tầng, Trần Ngũ Phương
(2000) [25] đã đề xuất mô hình thiết kế rừng hỗn loài nhiều tầng cho mục đích
phòng hộ và sản xuất thông qua các phương thức hỗn loài khác nhau như hỗn
loài giữa cây cao và cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ trên
công trình nghiên cứu các quy luật chủ yếu của rừng tự nhiên miền Bắc Việt
Nam tác giả đã chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nước ta đều phân thành nhiều
tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chưa kể tầng cây nhỡ và thảm tươi. Tính chất này
đã được xác nhận bởi kết quả điều tra rừng Việt Nam. Dựa trên quy luật đó tác
giả đã đề xuất mô hình trồng rừng hỗn loài đáp ứng mục tiêu phòng hộ đầu
nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó có 2 mô hình hỗn loài nổi bật là mô
hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và rừng sản xuất thứ sinh tạm
thời nhiều tầng.
Xác định thời điểm hỗn loài là một trong những nội dung quan trọng
khi xây dựng rừng trồng hỗn loài, đặc biệt là khi muốn tạo lập rừng trồng hỗn
loài giữa các loài cây ưa sáng và cây chịu bóng, giữa loài cây sinh trưởng
nhanh và loài cây sinh trưởng chậm. ở Việt Nam nghiên cứu về việc xác định

thời điểm hỗn loài cũng đã được một số tác giả quan tâm. Tuy nhiên, việc xác
định thời điểm hỗn loài cho các loài cây mục đích chưa được quan tâm nhiều.
Trên thực tế các công trình nghiên cứu xác định thời điểm hỗn loài chủ yếu
vẫn là giữa loài cây phù trợ và các loài cây trồng chính. Thông thường trong
các mô hình trồng rừng hỗn loài trên đối tượng đất thoái hoá thì cây phù trợ
được trồng trước một thời gian tuỳ theo đối tượng đất, sau đó mới đưa các loài
cây mục đích vào trồng.


14

Hiện nay nhiều đối tượng rừng trồng thuần loài đều tuổi ở nước ta đã và
đang được nghiên cứu để chuyển hoá thành rừng hỗn loài khác tuổi, có cấu
trúc ổn định và bền vững hơn thông qua việc đưa thêm một số loài cây mục
đích vào trồng theo các thời điểm khác nhau. Điển hình của kiểu làm này là
dự án trồng rừng Việt Đức ở các tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn và Quảng Ninh.
Ban đầu rừng trồng của dự án ở các tỉnh này là rừng thuần loài Thông mã vĩ
hoặc Keo tai tượng, sau 7 năm dự án đã thí nghiệm chuyển hoá thành rừng
hỗn loài Thông mã vĩ hoặc Keo tai tượng với một số loài cây lá rộng bản địa
khác bằng cách chặt tỉa Thông mã vĩ và Keo tai tượng, mở thành các rạch rộng
3m sau đó đưa các loài cây lá rộng bản địa vào trồng xen giữa hai hàng Thông
mã vĩ và Keo tai tượng. Như vậy, xét về thời điểm hỗn loài thì đây có thể coi
là một trong những thí nghiệm điển hình và có tính thực tiễn cao vì phần lớn
diện tích rừng trồng của nước ta hiện nay đều là rừng trồng thuần loài, một đối
tượng cần được chuyển hoá thành rừng hỗn loài nhằm kinh doanh rừng theo
hướng ổn định, bền vững hơn.
Dự án trồng rừng hỗn loài các loài cây gỗ giá trị cao để cung cấp gỗ và
tăng cường các dịch vụ cộng đồng ở Việt Nam và Australia (2002-2006) đã
thiết lập rừng trồng hỗn loài giữa các loài cây nhập nội và cây bản địa với các
thời điểm hỗn loài khác nhau tại 3 địa điểm: i) Tại Đoan Hùng - Phú Thọ:

trồng cùng thời điểm các loài Bạch đàn urophylla, Giổi xanh, Lát hoa và Trám
trắng; ii) Tại vườn quốc gia Tam Đảo: trồng hỗn loài Sấu, Xà cừ, Lim xanh và
Keo lai vào cùng một thời điểm; iii) Tại đèo Hải Vân - Huế tạo rừng hỗn loài
giữa Keo tai tượng với Sao đen, Dầu rái và Chò chỉ, trong đó Keo tai tượng
được trồng trước 7 năm sau đó được chặt theo băng để đưa các loài cây bản
địa vào trồng dưới tán với mật độ 250 cây/ha. Kết quả sau 3 năm cho thấy các
loài cây trồng đều có tỷ lệ sống cao, sinh trưởng tốt và có nhiều triển vọng.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả bước đầu. Mặt khác khi thiết kế xây dựng
mô hình, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các loài cây chưa được chú ý. Vì


15

vậy, với các mô hình này cần phải theo dõi để có biện pháp tác động kịp thời,
điều chỉnh sự cạnh tranh giữa các loài, đặc biệt là các loài cây mọc nhanh như
Bạch đàn và Keo lai, tạo điều kiện để mô hình sinh trưởng, phát triển bình
thường.
Cũng trên nền tảng là rừng Thông đuôi ngựa trồng thuần loài tại Núi
Luốt - Xuân Mai, Trường Đại học Lâm nghiệp đã nghiên cứu tạo rừng hỗn
loài Thông đuôi ngựa với một số loài cây lá rộng bản địa. Cách tạo rừng trồng
hỗn loài ở đây là thông qua việc đưa thêm các loài cây lá rộng bản địa vào
trồng dưới tán rừng Thông đuôi ngựa theo các thời điểm khác nhau. Rừng
Thông đuôi ngựa sau khi trồng được 6 năm thì bắt đầu đưa các loài cây lá
rộng bản địa vào trồng dưới tán. Đến thời điểm hiện nay bước đầu đã tạo lập
được rừng trồng hỗn loài khép tán. Việc mở dần tán che của Thông để tạo
không gian dinh dưỡng phù hợp cho các loài sinh trưởng phát triển ổn định đã
và đang được tiến hành nghiên cứu.
1.3. Nhận xét và đánh giá chung về rừng trồng hỗn loài
Điểm qua các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước về các
vấn đề có liên quan tới đề tài có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

- Các công trình nghiên cứu trên thế giới về rừng trồng hỗn loài tương
đối phong phú và toàn diện về tất cả các mặt nhưng tập trung nhiều vào chọn
loài cây trồng và các biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng hỗn loài theo
quá trình sinh trưởng. Các thí nghiệm đã được bố trí định vị lâu dài tới vài
chục năm, đặc biệt đã có một số công trình đi sâu nghiên cứu mối quan hệ qua
lại giữa các loài cây trong lâm phần hỗn loài thông qua hoạt chất phitônxit,
làm cơ sở khoa học vững chắc cho việc xây dựng rừng trồng hỗn loài. Đây là
những tài liệu tham khảo và bài học kinh nghiệm có giá trị cho việc thiết lập
các lâm phần rừng trồng hỗn loài trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng.


16

- Các nghiên cứu, thực nghiệm về trồng rừng hỗn loài ở Việt Nam đã
được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm và được đẩy mạnh vào những năm 1990
khi Nước ta bước vào thực hiện Chương trình 327 và Dự án 661. Vấn đề
nghiên cứu trọng tâm là xác định loài cây trồng, tạo cây phù trợ, phương thức
và phương pháp trồng rừng, Phần lớn các nghiên cứu đều quan tâm đến tạo
rừng trồng hỗn loài bằng các loài cây lá rộng bản địa, một vài nghiên cứu khác
đã chú ý đến đối tượng cây nhập nội hoặc cây có chu kỳ kinh doanh ngắn,...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trồng rừng hỗn loài chỉ thực hiện trong
thời gian ngắn nên những diễn biến về đất đai, hoàn cảnh rừng, sự sai khác về
năng suất chưa có đủ thời gian đánh giá và khẳng định sự thành công hay thất
bại của mô hình; các mô hình chủ yếu được thiết lập trên đối tượng đất còn
tốt, đất rừng thoái hoá chưa được chú ý nhiều; vấn đề quan trọng nhưng còn
nhiều tồn tại ở nước ta nằm ở khâu nuôi dưỡng rừng, đặc biệt là việc xử lý và
điều chỉnh cây phù trợ như thế nào cho cây bản địa sinh trưởng và phát triển
tốt.
Nhằm góp phần giải quyết những vấn đề tồn tại nêu trên, đề tài:

Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng hỗn loài cây lá rộng bản
địa cung cấp gỗ lớn ở Ngọc Lặc - Thanh Hoá và Cầu Hai - Phú Thọ đặt ra là
rất cần thiết và có ý nghĩa cả về khoa học lẫn thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho
Dự án 661 và các chương trình trồng rừng ở Việt Nam.


17

Chương 2
mục tiêu, Đối tượng, giới hạn, nội dung
và phương pháp nghiên cứu

2.1. Mục tiêu đề tài
* Về khoa học:
Nghiên cứu được một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh trồng rừng hỗn
loài cây lá rộng bản địa cung cấp gỗ lớn ở Ngọc Lặc - Thanh Hoá và Cầu Hai
- Phú Thọ.
* Về thực tiễn:
- Xây dựng được hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng hỗn loài cây lá rộng
bản địa cung cấp gỗ lớn ở Ngọc Lặc - Thanh Hoá và Cầu Hai - Phú Thọ.
- Xây dựng được một số mô hình rừng trồng hỗn loài cây lá rộng bản
địa cung cấp gỗ lớn ở Ngọc Lặc - Thanh Hoá và Cầu Hai - Phú Thọ.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loài cây lá rộng bản địa cung cấp
gỗ lớn.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Về địa điểm: Thí nghiệm được bố trí tại 2 địa điểm:
Trạm Nghiên cứu Lâm nghiệp Ngọc Lặc thuộc huyện Ngọc Lặc tỉnh
Thanh Hoá.
Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm Lâm sinh Cầu Hai thuộc huyện

Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ.
- Về đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loài cây bản địa lá rộng cung cấp
gỗ lớn, trong phạm vi đề tài giới hạn nghiên cứu 5 loài cây: Re gừng
(Cinnamomum obtusifolium), Lim xanh (Erythrofloeum fordii), Trám trắng


18

(Canarium album), Sồi phảng (Lithocarpus fissus) và Vạng trứng
(Endospermum chinensis).
- Về nội dung nghiên cứu:
Tổng kết, đánh giá các mô hình trồng rừng hỗn loài: giới hạn ở 7 tỉnh
phía Bắc là Yên Bái, Phú Thọ, Hoà Bình, Hà Tây, Hải Phòng, Thanh
Hoá và Nghệ An.
Các biện pháp kỹ thuật trồng rừng: giới hạn trong nghiên cứu cây phù
trợ và phương pháp hỗn loài.
Kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng: giới hạn trong nghiên cứu biện pháp
kỹ thuật tỉa cành và tỉa thưa cây phù trợ trong mô hình thí nghiệm ở Cầu
Hai - Phú Thọ.
Hướng dẫn kỹ thuật: giới hạn trong các khâu trồng, chăm sóc và nuôi
dưỡng rừng, không bao gồm nội dung tạo cây con.
2.4. Nội dung nghiên cứu:
Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài đặt ra các nội dung nghiên cứu sau
đây.
- Tổng kết, đánh giá các mô hình rừng trồng hỗn loài cây lá rộng bản
địa đã có ở một số tỉnh phía Bắc.
- Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng hỗn loài cây lá rộng
bản địa cung cấp gỗ lớn.
- Nghiên cứu kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng hỗn loài cây lá rộng bản

địa cung cấp gỗ lớn.
- Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng hỗn loài cây lá rộng bản địa
cung cấp gỗ lớn.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm và cách tiếp cận trong nghiên cứu
Việc nghiên cứu trồng rừng hỗn loài đòi hỏi phải có một thời gian dài
và rất phức tạp, nhất là khi nghiên cứu mối quan hệ qua lại về mặt hoá sinh


19

giữa các loài cây sống chung trong một quần thể để lựa chọn được các loài cây
có thể trồng hỗn loài với nhau. Thảm thực vật rừng nhiệt đới nói chung và ở
Việt Nam nói riêng với đặc trưng cơ bản là rừng hỗn loài khác tuổi gợi ý cho
chúng ta vô số các mô hình hỗn loài đã thích ứng trong một quá trình chọn lọc
tự nhiên lâu dài. Tuy nhiên, chúng ta không thể xây dựng các mô hình hỗn
loài phức tạp của tự nhiên vì rất khó phục vụ mục tiêu cung cấp gỗ công
nghiệp và việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh cũng rất khó khăn. Mô
phỏng các mô hình rừng hỗn loài trong tự nhiên là hướng giải quyết đúng đắn
vừa có cơ sở thực tiễn lại vừa rút ngắn được thời gian nghiên cứu. Vì thế đề tài
đã lấy các lâm phần hỗn loài trong tự nhiên làm mẫu để mô phỏng xây dựng
mô hình rừng trồng hỗn loài. Tuy nhiên, các mô hình rừng trồng hỗn loài này
cần được đơn giản hoá về thành phần loài cây và được thiết lập trên những
điều kiện đất đai, khí hậu cụ thể, phù hợp với các loài cây được lựa chọn.
Các loài cây bản địa với đặc tính là những loài cây ít nhiều chịu bóng ở
giai đoạn còn nhỏ và chỉ sinh trưởng tốt trong một cấu trúc hỗn loài. Do đó
một trong những nội dung quan trọng của việc trồng rừng hỗn loài bằng các
loài cây lá rộng bản địa là cần tạo lập được môi trường thích hợp trước khi đưa
các loài cây bản địa vào trồng dưới tán. Vì thế để xây dựng các mô hình rừng
trồng hỗn loài bằng các loài cây lá rộng bản địa cần xác định và đảm bảo được

các yếu tố:
Tạo lập được tiểu hoàn cảnh rừng thích hợp để đưa các loài cây bản địa
vào trồng: Yếu tố môi trường đầu tiên cần được tạo lập cho các loài cây
bản địa trong giai đoạn đầu của quá trình sinh trưởng chính là tạo được
áo che nhằm tạo ra một độ tàn che nhất định hỗ trợ cho cây bản địa
trong giai đoạn còn nhỏ. Để tạo được áo che có thể sử dụng nhiều loài
cây khác nhau, trong đó các loài cây họ đậu được sử dụng nhiều nhất vì
ngoài tác dụng che bóng chúng còn có khả năng cải tạo đất, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho các loài cây trồng chính sinh trưởng, phát triển.


20

Xác định được loài cây có thể trồng hỗn loài với nhau: Trong quá trình
sinh trưởng và phát triển các loài cây đều có mối quan hệ mật thiết với
nhau, mối quan hệ này có thể là hỗ trợ nhau cùng phát triển hoặc có thể
đối kháng, cạnh tranh nhau. Do đó để mô hình sinh trưởng, phát triển
ổn định thì việc xác định được các loài cây bạn với cây trồng chính là
rất cần thiết. Đề tài kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có về nhóm loài
sinh thái để lựa chọn các loài cây trồng kết hợp với nhau trong mô hình
hỗn loài.
Xác định được thời điểm và phương thức trồng rừng hỗn loài: Trong
rừng trồng hỗn loài vì có nhiều loài cây cùng sinh trưởng phát triển, mỗi
loài cây lại có một đặc tính sinh vật học riêng, đặc biệt là rừng trồng có
các loài cây phù trợ đi kèm. Do đó để rừng trồng sinh trưởng phát triển
ổn định cần xác định được thời điểm đưa các loài cây trồng hợp lý.
Trên quan điểm đó, đề tài đã tiến hành nghiên cứu các yếu tố đã được đề
cập ở trên làm cơ sở cho việc xây dựng các lâm phần rừng trồng hỗn các loài
cây lá rộng bản địa cung cấp gỗ lớn và tăng khả năng phòng hộ của rừng.
2.5.2. Phương hướng giải quyết vấn đề

Đề tài bắt đầu từ việc thu thập các tài liệu, số liệu đã có liên quan đến
các nội dung của đề tài, tiến hành tổng kết và đánh giá các mô hình rừng trồng
hỗn loài đã có ở một số tỉnh phía Bắc, đặc biệt là các mô hình trong Chương
trình 327, Dự án 661, các mô hình nghiên cứu,... từ đó bố trí các thí nghiệm
định vị nghiên cứu về cây phù trợ và phương pháp hỗn loài cũng như các biện
pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng,... Trên cơ sở của kết quả nghiên cứu, kết hợp
với việc tổng kết những kinh nghiệm đã có về trồng rừng hỗn loài, tiến hành
xây dựng hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng hỗn loài cây lá rộng bản địa cung cấp
gỗ lớn. Phương hướng giải quyết vấn đề của đề tài được mô hình hoá theo sơ
đồ dưới đây.


21

Tổng kết đánh giá
các mô hình rừng
trồng hỗn loài

Thu thập các
tài liệu, số liệu
đã có

Lựa chọn
địa điểm,
bố trí thí
nghiệm

Thí nghiệm
cây phù trợ


Thí nghiệm phương
pháp hỗn loài

Thí nghiệm kỹ thuật
nuôi dưỡng

Đánh giá kết quả
thí nghiệm

Xây dựng hướng
dẫn kỹ thuật

Hình 2.1: Sơ đồ phương hướng giải quyết vấn đề của đề tài
2.5.3. Phương pháp nghiên cứu chung
Đề tài áp dụng phương pháp kế thừa số liệu, phương pháp điều tra, đánh
giá các mô hình rừng trồng hỗn loài đã có kết hợp với bố trí thí nghiệm định vị
ngoài thực địa, phân tích trong phòng, sử dụng phương pháp toán thống kê
trong sinh học để xử lý các số liệu trên máy vi tính bằng phần mềm SPSS.


22

2.5.4. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.5.4.1. Tổng kết đánh giá các mô hình và biện pháp kỹ thuật trồng rừng
hỗn loài đã có ở một số tỉnh phía Bắc.
áp dụng phương pháp kế thừa tài liệu và điều tra thu thập số liệu trên các ô
tiêu chuẩn điển hình, tạm thời.
- Những tài liệu được đề tài kế thừa gồm:
Các công trình nghiên cứu, đánh giá đã có về rừng trồng hỗn loài cũng
như các biện pháp kỹ thuật đã được áp dụng trong các mô hình rừng

trồng hỗn loài cây lá rộng bản địa.
Các quy trình, quy phạm, hướng dẫn kỹ thuật cũng như các tài liệu khác
có liên quan.
- Phương pháp điều tra ngoại nghiệp: Trên cơ sở tham khảo các tài liệu đã
có, làm việc với các đơn vị quản lý ở các địa phương như Chi cục Lâm nghiệp,
Ban quản lý Dự án 661, để nắm được bức tranh chung về các mô hình và
các biện pháp kỹ thuật trồng rừng hỗn loài đã được áp dụng ở địa phương, từ
đó phân loại đối tượng điều tra và lựa chọn địa điểm khảo sát chi tiết. Các mô
hình rừng trồng hỗn loài được chia thành 3 loại:
+ Các mô hình xây dựng trong Chương trình 327.
+ Các mô hình xây dựng trong Dự án 661.
+ Các mô hình nghiên cứu, thử nghiệm và các mô hình khác.
Sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia
(Participatory Rural Appraisal) để thu thập thông tin về kỹ thuật trồng rừng
hỗn loài đã được áp dụng ở địa phương. Các đối tượng được phỏng vấn là các
nhà quản lý của các Chi cục Lâm nghiệp, Ban quản lý Dự án, cán bộ Lâm
trường và các hộ dân. Đối với mỗi một mô hình, lập 3 ô tiêu chuẩn điển hình
tạm thời, diện tích mỗi ô là 500 m2 (20mx25m). Trong mỗi ô thu thập các chỉ
tiêu: D1,3, Hvn, Dt, tình hình sâu bệnh hại, của tất cả các cây trong ô.


23

- Các số liệu thu thập được xử lý và tính toán bằng phần mềm SPSS trên
máy vi tính để đánh giá các mô hình đã điều tra.
2.5.4.2. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng hỗn loài cây lá
rộng bản địa cung cấp gỗ lớn.
Từ kinh nghiệm thực tiễn, với mục tiêu trồng rừng cung cấp gỗ lớn, đề
tài đã bố trí các thí nghiệm trồng rừng hỗn loài với mật độ là 1.100 cây/ha (cự
ly 3mx3m). Các công thức thí nghiệm được bố trí theo phương pháp ngẫu

nhiên, đầy đủ và lặp lại 3 lần.
a). Nghiên cứu lựa chọn loài cây phù trợ thích hợp
+ Phương pháp bố trí thí nghiệm:
Các thí nghiệm nghiên cứu được bố trí theo phương pháp hỗn loài theo
cây trên hàng tại 2 địa điểm là Ngọc Lặc - Thanh Hoá và Cầu Hai - Phú Thọ.
- Tại Ngọc Lặc- Thanh Hoá
Cây phù trợ là rừng Keo tai tượng trồng 1994, được chặt theo băng rộng
10m và chừa 10m; chặt 20m và chừa 20m để trồng các loài cây bản địa. Loài
cây bản địa trồng trong các CTTN là Lim xanh và Re gừng được trồng vào các
băng chặt tháng 8/2001. Diện tích mỗi công thức thí nghiệm là 0,7 ha. Các
công thức thí nghiệm về cây phù trợ gồm:
CT1: Cây phù trợ Keo tai tượng băng chặt - chừa 10m.
CT2: Cây phù trợ Keo tai tượng băng chặt - chừa 20m.
CT3: Cây phù trợ là thảm che tự nhiên.
CT4: Đối chứng trồng thuần loài Linh xanh, Re gừng không có cây phù
trợ.
- Tại Cầu Hai - Phú Thọ:
Cây phù trợ Keo tai tượng được trồng vào tháng 7/2000, Cốt khí gieo
tháng 1/2001. Loài cây bản địa gồm Trám trắng, Re gừng, Sồi phảng và Vạng
trứng được trồng tháng 7/2001. Diện tích mỗi công thức thí nghiệm là 1 ha.
Các công thức thí nghiệm về cây phù trợ gồm:


24

CT1: Cây phù trợ Keo tai tượng.
CT2: Cây phù trợ Cốt khí.
CT3: Các ô đối chứng, trồng thuần loài, không có cây phù trợ.
+ Phương pháp thu thập và xử lý số liệu:
Số liệu được thu thập trên các ô định vị, mỗi công thức thí nghiệm lập 3 ô

tiêu chuẩn, 1 ô/lặp, diện tích mỗi ô là 500 m2 (20mx25m, đối với công thức
cây phù trợ là thảm che tự nhiên và Cốt khí) và 1.000 m2 (33mx30,3m, đối với
các công thức cây phù trợ là Keo tai tượng). Số liệu sinh trưởng được thu thập
trong 4 năm 2002, 2003, 2004 và 2007, mỗi năm đo 1 lần. Trong mỗi ô tiêu
chuẩn đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng: D1,3; Hvn; Dt; chất lượng cây trồng; tỉ lệ
sống; tình hình sâu bệnh hại của tất cả các cây. Ngoài ra trong mỗi ô tiêu
chuẩn lập 4 ô dạng bản ở 4 góc của ô tiêu chuẩn để thu thập vật rơi rụng. Diện
tích mỗi ô dạng bản là 4m4 (2mx2m). Số liệu vật rơi rụng được thu thập trong
năm 2004.
áp dụng phương pháp phân tích phương sai 1 nhân tố bằng phần mềm
SPSS 13.0 trên máy vi tính để đánh giá kết quả nghiên cứu.
Vật rơi dụng được thu thập trong 1 năm, theo định kỳ 2 tháng/lần. Mẫu
đất được thu thập ở tầng mặt, từ 0 - 30 cm để đánh giá khả năng cải tạo điều
kiện đất đai của rừng trồng hỗn loài cây phù trợ Keo tai tượng. Phân tích tính
chất hoá học của đất trong phòng thí nghiệm theo các phương pháp sau: Mùn
theo phương pháp Walkley-Black, đạm theo phương pháp Kjendhal, pH theo
phương pháp pH metter, P2O5 dễ tiêu theo phương pháp Bray II và K2O dễ tiêu
theo phương pháp Flame photometer.
b). Nghiên cứu về phương pháp hỗn loài:
+ Phương pháp bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm nghiên cứu về phương pháp hỗn loài được bố trí tại Ngọc
Lặc - Thanh Hoá. Loài cây trồng trong các công thức thí nghiệm gồm: Trám


25

trắng, Lim xanh và Re gừng. Diện tích mỗi công thức thí nghiệm là 0,7 ha.
Các công thức thí nghiệm về phương pháp hỗn loài gồm có:
CT1: Hỗn loài theo hàng (trên mỗi hàng trồng 1 loài cây, một hàng Lim
xanh xen kẽ một hàng Re gừng).

CT2: Hỗn loài theo cây trên hàng (trên mỗi hàng trồng 2 loài cây, các
loài cây trồng xen kẽ nhau).
CT3: Trồng thuần loài (đối chứng).
+ Phương pháp thu thập và xử lý số liệu:
Số liệu được thu thập trên các ô định vị, mỗi công thức thí nghiệm lập 3
ô tiêu chuẩn, 1 ô/lặp, diện tích mỗi ô là 500 m2 (20mx25 m). Số liệu được thu
thập trong 4 năm 2002, 2003, 2004 và 2007, mỗi năm đo 1 lần. Trong mỗi ô
tiêu chuẩn đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng: D1,3; Hvn; Dt; chất lượng cây trồng;
tỉ lệ sống; tình hình sâu bệnh hại của tất cả các cây. áp dụng phương pháp
phân tích phương sai 1 nhân tố bằng phần mềm SPSS 13.0 trên máy vi tính để
đánh giá kết quả nghiên cứu.
2.5.4.3. Nghiên cứu kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng hỗn loài cây lá rộng
bản địa.
+ Phương pháp bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm nghiên cứu kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng hỗn loài được
bố trí tại Cầu Hai - Phú Thọ, gồm các thí nghiệm về kỹ thuật tỉa cành và tỉa
thưa cây phù trợ (Keo tai tượng). Thí nghiệm tỉa cành cây phù trợ được thực
hiện ở tuổi 3 (năm 2004), thí nghiệm tỉa thưa cây phù trợ được tiến hành ở tuổi
4 (2005). Diện tích mỗi CTTN là 0,42 ha. Các CTTN được bố trí như sau:
- Thí nghiệm tỉa cành cây phù trợ, tỉa từ dưới lên trên, gồm các công thức:
Tỉa 1/4 số cành cây phù trợ.
Tỉa 1/3 số cành cây phù trợ.
Không tỉa (đối chứng).


26

- Thí nghiệm tỉa thưa cây phù trợ, gồm các công thức:
Tỉa thưa cây phù trợ với cường độ tỉa là 25%, cách 3 cây tỉa 1 cây.
Tỉa thưa cây phù trợ với cường độ tỉa là 50%, cách 1 cây tỉa 1 cây.

Tỉa thưa cây phù trợ với cường độ tỉa là 75%, cách 1 cây tỉa 3 cây.
Không tỉa (đối chứng).
+ Phương pháp thu thập và xử lý số liệu:
Số liệu được thu thập trên các ô định vị, mỗi công thức thí nghiệm lập 3
ô tiêu chuẩn, 1 ô/lặp, diện tích mỗi ô là 1.000 m2 (33mx30,3m). Số liệu thí
nghiệm tỉa cành được thu thập trong năm 2004, số liệu thí nghiệm tỉa thưa
được thu thập trong 3 năm 2005, 2006 và 2007, mỗi năm đo 1 lần. Trong mỗi
ô tiêu chuẩn đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng: D1,3; Hvn; Dt; chất lượng cây
trồng; tình hình sâu bệnh hại của tất cả các cây. áp dụng phương pháp phân
tích phương sai 1 nhân tố bằng phần mềm SPSS 13.0 trên máy vi tính để đánh
giá kết quả nghiên cứu.
2.5.4.4. Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng hỗn loài cây lá rộng bản
địa cung cấp gỗ lớn.
Hướng dẫn kỹ thuật được xây dựng trên cơ sở các kết quả nghiên cứu
của đề tài, kết hợp với những kinh nghiệm đã có.
2.5.5. Tổng hợp các số liệu phục vụ đề tài
Số liệu 27 ô tiêu chuẩn của 9 mô hình rừng trồng hỗn loài trong Chương
trình 327 ở 4 tỉnh phía Bắc: Yên Bái, Phú Thọ, Hoà Bình và Thanh Hoá.
Số liệu 51 ô tiêu chuẩn của 17 mô hình rừng trồng hỗn loài trong Dự án
661 ở 3 tỉnh phía Bắc: Yên Bái, Phú Thọ và Hoà Bình.
Số liệu 18 ô tiêu chuẩn của 6 mô hình nghiên cứu trồng rừng hỗn loài
và các mô hình khác ở 5 tỉnh phía Bắc: Phú Thọ, Hà Tây, Hoà Bình, Hải
Phòng và Nghệ An.
7 CTTN về cây phù trợ, trong đó ở Ngọc Lặc có 4 công thức và Cầu Hai
3 công thức. Tổng diện tích các CTTN cây phù trợ là 6 ha.


×