Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận nguồn bổ trợ của luật quốc tế bản chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.72 KB, 15 trang )

CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ

CHƯƠNG 1 : NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Khác với những nguồn chủ yếu, nguồn bổ trợ của Luật quốc tế không phải là hình thức biểu hiện trực
tiếp sự thỏa thuận giữa các quốc gia về các qui phạm pháp lý quốc tế, nhưng nó là nhân tố quan trọng trong
quá trình hình thành hoặc xác định sự tồn tại vad hiệu lực hiện hành của một qui phạm pháp lý nào đó của
Luật quốc tế. Mở đầu quá trình nghiên cứu, nhóm xin đưa ra những lý luận chung nhất về nguồn bổ trợ của
Luật quốc tế trước khi đi vào tìm hiểu sâu hơn.

1.

Tổng quan

1.1.

Khái niệm

Trên thực tế, tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về Luật quốc tế, tùy thuộc vào thời điểm, bối cảnh
định nghĩa cũng như quan điểm của tác giả định nghĩa, tuy nhiên, để đơn giản hóa, thì bài tiểu luận đề cập tới
khái niệm dễ hiểu nhất đó là: “Luật quốc tế là hệ thống những nguyên tắc và quy phạm pháp luật do chủ thể
của Luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh (chủ yếu
là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể của Luật quốc tế với nhau.”
Sau khi hiểu rõ về khái niệm Luật quốc tế thì cần phải xem xét đến nguồn của Luật quốc tế. Nguồn của
Luật quốc tế là hình thức biểu hiện các quy phạm pháp luật biểu hiện dưới dạng thành văn hoặc bất thành
văn. Nguồn thành văn chính là các nguyên tắc, quy phạm pháp Luật quốc tế chứa đựng trong các điều ước
quốc tế song phương và đa phương đã thiết lập nên các nguyên tắc được các bên tranh chấp thừa nhận.
Nguồn bất thành văn bao gồm các tập quán quốc tế và các nguyên tắc pháp luật chung được các nước văn
minh thừa nhận.
Để nắm rõ hơn nguồn của Luật quốc tế người ta chia ra làm hai loại đó là nguồn cơ bản và nguồn bổ
trợ.


 Nguồn cơ bản là loại nguồn được hình thành từ sự thỏa thuận của các chủ thể Luật quốc tế, trực tiếp
chứa đựng các quy phạm pháp Luật quốc tế, có giá trị ràng buộc đối với các chủ thể quan hệ pháp
Luật quốc tế, chủ yếu bao gồm điều ước quốc tế (nguồn thành văn) và tập quán quốc tế (nguồn bất
thành văn).

 Nguồn bổ trợ là loại nguồn không trực tiếp chứa đựng các quy phạm pháp Luật quốc tế, hầu như chỉ
có ý nghĩa khuyến nghị đối với các chủ thể Luật quốc tế, chúng bao gồm án lệ, các học thuyết khoa
học, nguyên tắc chung được các nước văn minh trên thế giới thừa nhận, tuyên bố đơn phương của các
chủ thể quốc tế, nghị quyết của các tổ chức chính phủ.
Với phạm vi bài tiểu luận, nhóm xin nêu và phân tích kỹ về nguồn bổ trợ của Luật quốc tế.


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ

1.2.

Cơ sở pháp lý xác định nguồn của Luật quốc tế

Cơ sở pháp lý để xác định các loại nguồn Luật quốc tế là một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Cơ sở pháp lý ghi nhận các loại nguồn của Luật quốc tế giúp khẳng định tính hợp pháp cảu một quy phạm
pháp lý quốc tế được viện dẫn và sử dụng trong thực tiễn. Bởi lẽ, nguồn của Luật quốc tế chính là hình thức
pháp lý ghi nhận sự tồn tạo các quy phạm pháp luật quốc tế.
Khoản 1 Điều 38 Quy chế Tòa án công lý quốc tế của Luật quốc tế quy định “
“1. Tòa án, với chức năng là giải quyết phù hợp với Luật quốc tế các vụ tranh chấp được chuyển đến
Tòa án, sẽ áp dụng:
a. Các điều ước quốc tế, chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên tắc được các bên đang tranh chấp
thừa nhận;
b. Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa nhận như những quy phạm pháp luật;
c. Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn mình thừa nhận;
d. Với những điều kiện nêu ở điều 59, các án lệ và các học thuyết của các chuyên gia có chuyện môn cao nhất

về Luật quốc tế của các quốc gia khác nhau được coi là phương tiện để xác định các quy phạm pháp luật”
Như vậy, Điều 38 Quy chế tòa án công lý quốc tế đã đưa ra danh sách các nguồn bổ trợ của Luật quốc
tế như: các nguyên tắc chung của Luật quốc tế được các quốc gia văn minh thừa nhận, án lệ và các học thuyết
của các chuyên gia có chuyên môn cao.

2.

Mối quan hệ giữa các nguồn bổ trợ với Điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế.

 Các loại nguồn bổ trợ là những phương tiện giải thích, làm sáng tỏ nội dung của các nguồn cơ bản
(Điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế);

 Các loại nguồn bổ trợ là cơ sở để hình thành nên các loại nguồn cơ bản;
 Các loại nguồn bổ trợ có thể được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ pháp lý quốc tế trong trường
hợp không có nguồn cơ bản để điều chỉnh.

3.

Ý nghĩa của nguồn bổ trợ đối với Luật quốc tế
Mặc dù không có giá trị pháp lý bắt buộc đối như nguồn cơ bản của Luật quốc tế (Điều ước quốc tế và

Tập quán quốc tế) nhưng nguồn bổ trợ hết sức quan trọng và có giá trị thực tiễn cao trong khoa học pháp lý.
Các loại nguồn bổ trợ đóng vai trò là cơ sở để hình thành nguồn cơ bản, đồng thời là phương tiện giải
thích, làm sáng tỏ nội dung của nguồn cơ bản. Các loại nguồn bổ trợ có thể được sử dụng để điều chỉnh các
quan hệ pháp lý quốc tế trong trường hợp không có nguồn cơ bản để điều chỉnh. Nguồn bổ trợ là có sở có tính
thuyết phục cao nhằm xác định các tiêu chuẩn pháp lý, đặc biệt là khi có sự không thống nhất về một vấn đề
nào đó của Luật quốc tế. Trên cơ sở khẳng định sự đúng đắn và hợp lý, các nguồn bổ trợ có vai trò là cơ sở
vật chất để làm nền tảng xây dựng các quy phạm mới của Luật quốc tế, kể cả việc hình thành các quy phạm
pháp Luật quốc tế dưới dạng các tập quán.



CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Ngoài ra, các nguồn bổ trợ còn có ảnh hưởng tích cực đến quá trình phát triển của Luật quốc tế và nhận
thức của con người về khoa học Luật quốc tế. Từ đây khi xây dựng các Điều ước quốc tế và Tập quán quốc
tế, chúng đóng góp vai trò không nhỏ trong việc hình thành các điều ước quốc tế mới.


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ

CHƯƠNG 2: CÁC NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Phần trọng tâm của bài tiểu luận là đề cập đến nguồn bổ trợ của Luật quốc tế. Nhóm sẽ đi cụ thể hóa
khái niệm, đặc điểm, vai trò của Án lệ; Các học thuyết khoa học về Luật quốc tế; Nguyên tắc chung được các
nước văn minh trên thế giới thừa nhận; Tuyên bố đơn phương của các chủ thể Luật quốc tế và Nghị quyết của
các tổ chức quốc tế liên chính phủ.

1.

Án lệ

1.1.
1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm
Khái niệm

Theo hệ thống thông luật, án lệ là việc làm luật của tóa án khi công nhận và áp dụng các quy tắc mới
trong quá trình xét xử; hay vụ việc đã được giải quyết làm cơ sở để đưa ra phán quyết cho những trường hợp
có tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này.
Ở các quốc gia thông luật, án lệ được xem là nguồn luật chủ yếu, nhiều lĩnh vực pháp luật không pháp
điển thành các bộ luật, đặc biệt ở Anh, nguồn luật án lệ được áp dụng triệt để nhất. Ở các nước này, các thấm

phán vừa sáng tạo ra các quy tắc án lệ vừa chịu sự ràng buộc từ các quy tắc án lệ đã có.

1.1.2.

Đặc điểm

Thứ nhất, án lệ do tòa án tạo ra trong quá trình xét xử nên nguồn luật án lệ còn được gọi là luật được
hình thành từ vụ việc hay luật do thẩm phán ban hành..
Thứ hai, án lệ được hình thành phải mang tính mới. Đặc điểm này được hiểu là quy tắc chưa có trước
đó. Tính mới ở đây được hiểu là khi giải quyết một vụ việc mà chưa có các quy tắc tiền lệ trước đó về vụ án
này thì lúc này án lệ mới ra đời.
Thứ ba, kỹ thuật xây dựng và vận hành là dựa vào yếu tố tương tự. Khi vụ việc đầu tiên được giải
quyết để hình thành án lệ thì quy tắc án lệ chỉ là bản mẫu chưa hoàn hảo, qua quá trình xây dựng và áp dụng
án lệ cho các vụ án tương tự sau này thì quy tắc án lệ mới được hoàn thiện để tạo nên cách giải quyết chung
cho các vụ án tương tự sau này.

1.2.

Án lệ trong hệ thống Luật quốc tế

Từ cách hiểu khái quát về án lệ đã nêu trên, trong hệ thống Luật quốc tế ngoại trừ các Điều ước quốc tế
và Tập quán quốc tế là nguồn cơ bản đóng vai trò chủ yếu trong Luật quốc tế thì án lệ - tuy không phải là
nguồn cơ bản nhưng án lệ lại có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với các đối tượng áp dụng pháp Luật quốc tế cũng
như các chủ thể áp dụng Luật quốc tế.


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Án lệ hay những bản án, quyết định xét xử của Tòa án quốc tế được xác định là một nguồn bổ trợ của
Luật quốc tế. “Theo tập quán xét xử của Tòa án là từ việc khởi hành từ án lệ, khi cần thiết tron g một số
trường hợp, việc tạo ra ngoại lệ như nguyên tắc chung của Tòa án, đóng một vai trò vô cùng hiệu quả trong

quyết định của Tòa án quốc tế nó được xem là một nguồn Luật quốc tế.” Như vậy, án lệ được xác định là một
nguồn bổ trợ của Luật quốc tế hay còn gọi là “nguồn bổ trợ để xác định các quy tắc pháp luật”.
Các loại án lệ trong nguồn bổ trợ của Luật quốc tế:
Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế:
Kết luận tư vấn của Tòa án công lý quốc tế: các kết luận tư vấn của Tòa được xem như là “án lệ đặc
biệt”.
Những phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế khác đã có những đóng góp không nhỏ trong sự
phát triển của Luật quốc tế nói chung và án lệ nói riêng đặc biệt khi chúng được viện dẫn trong các vụ tranh
chấp quốc tế và được sử dụng như các công trình nghiên cứu về Luật quốc tế của Ủy ban Pháp Luật quốc tế
của Liên hợp quốc. Do đó, trong khoa học Luật quốc tế, khái niệm “án lệ” nên được hiểu theo nghĩa rộng chỉ
cho tất cả những phán quyết, kết luận tư vấn của các cơ quan tài phán quốc tế, trong đó trước tiên và chủ yếu
là của ICJ và của Liên hợp quốc.

1.3.

Vai trò của án lệ trong Luật quốc tế

Mặc dù không có giá trị pháp lý bắt buộc như hai loại nguồn cơ bản của Luật quốc tế là Điều ước quốc
tế và Tập quán quốc tế, án lệ đóng một vai trò hết sức quan trọng và có giá trị thực tiễn cao trong khoa học
pháp lý.
Thứ nhất, chúng là cơ sở thực tế có tính thuyết phục cao nhằm xác định các tiêu chuẩn pháp lý
chung,đặc biệt khi có sự không thống nhất về một vấn đề nào đó của Luật quốc tế. Vai trò quan trọng của án
lệ được thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau:
Một là, các án lệ khi được viện dân có ý nghĩa quan trọng làm sáng tỏ nội hàm của một khái niệm pháp
lý trong Luật quốc tế. Đây có thể được coi là một vai trò cơ bản và rõ rệt nhất của các án lệ.
Hai là, thông qua các án lệ những nội dung cơ bản của các nguyên tắc và quy phạm Luật quốc tế được
ghi nhận trong các điều ước quốc tế được làm rõ.
Ba là, các án lệ có ý nghĩa khẳng định sự tồn tại một vấn đề cơ bản ở những lĩnh vực trong khoa học
Luật quốc tế mà hiện nay quá trình pháp điển hóa còn đang tiếp diễn, chẳng hạn như vấn đề trách nhiệm pháp
lý quốc tế.

Thứ hai, trên cơ sở khẳng định sự đúng đắn và hợp lý, các án lệ có vai trò là cơ sở vật chất làm nền
tảng xây dựng các quy phạm mới của Luật quốc tế (ví dụ tính đúng đắn của đường cơ sở thẳng, nguyên tắc
công bằng trong phân định biển, vấn đề chiếm hữu thực sự đối với tranh chấp lãnh thổ) kể cả việc hình thành
các quy phạm Luật quốc tế dưới dạng các tập quán.


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Thứ ba, án lệ không chỉ do Tòa viện dẫn trong phần lập luận của mình để đưa ra quyết định về vụ án
mà nó còn là nguồn quan trọng cho các bên tranh chấp có thể viện dẫn án lệ để đưa ra quan điểm của mình
hay phản biện lại lập luận của đối phương.

2.

Các học thuyết khoa học về Luật quốc tế

2.1.

Khái niệm

Trong số các nguồn bổ trợ của Luật quốc tế thì học thuyết của các học giả danh tiếng đóng vai trò quan
trọng, là căn cứ để nghiên cứu về nhiều vấn đề quốc gia, dân tộc, có tác động thúc đẩy nhanh hơn, tạo tiền đề
lí luận cho nguồn cơ bản ra đời. Các học thuyết về Luật quốc tế là những tư tưởng, quan điểm của các học giả
nổi tiếng thể hiện trong các công trình nghiên cứu, tác phẩm và các kết luận của các tác giả về những vấn đề
lý luận cơ bản của Luật quốc tế. Những tư tưởng, quan điểm này là sự phản ánh những hiện tượng và quan hệ
quốc tế nhất định. Trong nhiều trường hợp các học thuyết đó đưa ra những ý kiến đóng góp, những lý giải,
giải thích khoa học để làm sáng tỏ nội dung của các quy phạm pháp luật của Luật quốc tế. Mặt khác, các học
giả có thể đưa ra những lí lẽ phân tích dựa trên những nền tảng lý luận pháp luật về các Điều ước quốc tế và
Tập quán quốc tế để làm rõ ràng hơn các quy định.
Các học thuyết này do các luật gia nổi tiếng, cán bộ nghiên cứu khoa học pháp lý đưa ra, nó thường
được thể hiện dưới dạng các bài viết, các công trình nghiên cứu, các bài tham luận và không có giá trị bắt

buộc đối với cơ quan thực thi pháp luật. Trong số các hoạt động đó, không thể phủ nhận vai trò của các
trường đại học như Havard, Ottawa,... các trung tâm nghiên cứu luật như International Environmental Law
Research Centre (IELRC), Research Centre for Law và các luật gia có uy tín.
Theo điểm d, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 38 Quy chế Tòa án quốc tế quy định như sau: “Các án lệ và
các học thuyết khoa học của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về Luật quốc tế của các quốc gia khác
nhau được coi là phương tiện để xác định quy phạm pháp luật. Quyết định này không nằm ngoài quyền giải
quyết vụ việc của Tòa án, xác định như vậy, nếu các bên thỏa thuận điều này”. Dựa trên tinh thần đó, thì có
thể hiểu rằng các học thuyết của các học giả danh tiếng, có uy tín và vì những ảnh hưởng tích cực của chúng
đến quá trình phát triển của Luật quốc tế và quá trình nhận thức của con người về khoa học Luật quốc tế nên
được xem như là nguồn bổ trợ của Luật quốc tế.

2.2.
2.2.1.

Các học thuyết tiêu biểu
Các bài viết khoa học của các tác giả nổi tiếng
“Luật các quốc gia” của J.Bierly được viết vào năm 1928. Học thuyết cho rằng có hai quan điểm
được cho là truyền thống chính thống của lý luận pháp lý quốc tế, đó là: quan điểm của các nhà tự
nhiên, các nguyên tắc của Luật quốc tế hoặc ít nhất là những nguyên tắc cơ bản nhất, có thể suy ra
từ bản chất tự nhiên của quốc gia – con người.


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
“Khái niệm về Luật” của H.L.A.Hart được viết vào năm 1961. Việc thiếu một cơ quan lập pháp
quốc tế, một tòa án với thẩm quyền bắt buộc và sự trừng phạt được tổ chức tập trung, dù sao cũng
gây nên nỗi lo âu trong tâm khảm của các nhà lý luận pháp luật. Luật quốc tế không chỉ thiếu những
quy định bậc hai về sự thay đổi và quy chế xét xử dành cho cơ quan lập pháp và tòa án, mà còn thiếu
cả quy định thống nhất để nhận biết các nguồn cụ thể của luật và cung cấp những tiêu chuẩn chung
để xác định đâu là quy định của luật.
“Xác định và đánh giá các hệ thống đa dạng của trật tự công cộng” của M.McDougal và

H.Lasswell được viết vào năm 1959.
“Quan điểm của các quốc gia Á Phi về một số vấn đề của Luật quốc tế” (R.Anand) trong F.Snvder
và S.Sathirathai, “Quan điểm của các nước thế giới thứ ba về Luật quốc tế” được viết vào năm 1987.
Luật quốc tế “không còn là lĩnh vực hầu như của riêng những dân tộc mang dòng máu châu Âu
nữa”, mà bây giờ phải tính đến các dân tộc khác và rõ ràng cần sự đồng thuận không kém của những
dân tộc này.

2.2.2.

Các học thuyết khoa học
Thuyết tài vật
Thuyết cai trị
Thuyết thẩm quyền

Các học thuyết nêu trên đều xem xét quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ một cách hình thức và
sai lệch. Dù ở mỗi mức độ khác nhau nhưng các học thuyết đó đều phủ nhận một phần hoặc toàn bộ nội dung
quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ. Đến nay các học thuyết trên không được thừa nhận bởi vì nội
dung của nó không còn phù hợp với bản chất và các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại.
Một số học thuyết thụ đắc lãnh thổ như:
Thuyết phát hiện, thuyết này cho thấy rằng chỉ cần các nhà hàng hải của một quốc gia cắm một lá cờ
lên một hòn đảo, thậm chí một thuyền trưởng của một nước nhìn thấy một vùng đất mới, quốc gia đó có
quyền ưu tiên chiếm hữu. Tuy nhiên trên thực tế việc phát hiện như trên chưa bao giờ tự nó đem lại cho quốc
gia phát hiện chủ quyền lãnh thổ vì rất khó xác định chính xác thế nào là phát hiện, xác nhận việc phát hiện
và xác định giá trị pháp lý của việc phát hiện ra một vùng lãnh thổ.
Thuyết chiếm hữu danh nghĩa, ra đời vào thế kỉ XVI theo đó quốc gia phát hiện ra vùng lãnh thổ vô
chủ phải để lại dấu vết trên lãnh thổ mà họ phát hiện như cột bia hay cột mốc chủ quyền hay một dấu hiệu
quốc gia có giá trị hợp lệ mới được coi là có chủ quyền lãnh thổ.
Thuyết chiếm hữu thực tế, ra đời vào thế kỉ XIX theo đó quốc gia nào phát hiện ra một vùng lãnh thổ
vô chủ và quản lý vùng lãnh thổ đó trong một thời gian dài, không chịu sự phản đối của bất kì quốc gia nào
thì quốc gia chiếm hữu đó được thụ đắc vùng lãnh thổ. Học thuyết này ra đời nhằm giải tỏa những khúc mắt

và bảo đảm cho sự chiếm hữu thực tế là có gia trị thực thi. Từ đó việc chiếm hữu thực tế tạo nên quyền xác


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
lập chủ quyền lãnh thổ và nhận được sự tôn trọng đối với vùng lãnh thổ mà các nước giành được quyền
chiếm đóng.

2.3.

Vai trò của các học thuyết khoa học

Theo tinh thần của Điều 38 Khoản 2 điểm d quy chế Tòa án công lý quốc tế, các học thuyết của các
chuyên gia có chuyên môn cao nhất về Luật quốc tế của các quốc gia khác nhau được coi là phương tiện bổ
trợ để xác đinh các tiêu chuẩn pháp lý. Chính vì vậy, các học thuyết có vai trò như sau:
Thứ nhất, các học thuyết về Luật quốc tế chứa đựng những tư tưởng, quan điểm thể hiện trong các
công trình nghiên cứu, tác phẩm và kết luận của các học giả về những vấn đề lý luận cơ bản của Luật quốc tế.
Thứ hai, trong nhiều trường hợp các học thuyết đó đưa ra những lý giải, phân tích về điều ước quốc tế
và tập quán quốc tế để làm sáng tỏ nội dung của nó, qua đó giúp cho việc áp dụng một cách đúng đắn quy
phạm pháp Luật quốc tế vào từng trường hợp cụ thể.
Thứ ba, nếu các học thuyết đó có nội dung tiến bộ, khoa học thì nó sẽ ảnh hưởng tích cực đến nhận
thức hành vi của các cá nhân, cơ quan tổ chức nhà nước có thẩm quyền ở các quốc gia hoặc các tổ chức quốc
tế, qua đó tác động đến quan điểm của các quốc gia trong quá trình thực thi và tuân thủ Luật quốc tế.
Mặc dù vậy nhưng bản thân các học thuyết không thể trở thành nguồn của Luật quốc tế vì:
Thứ nhất, học thuyết về Luật quốc tế không phải là văn bản pháp lý ràng buộc giữa các quốc gia,
không thể hiện ý chí của các quốc gia được nâng lên thành luật;
Thứ hai, các học thuyết về Luật quốc tế không chứa đựng các quy phạm pháp luật, không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể với nhau trong quan hệ quốc tế;
Thứ ba, học thuyết về Luật quốc tế không có sự công nhận chính thức từ các quốc gia mà chúng chỉ là
kết quả nghiên cứu mang tính cá nhân hoặc của tập thể cácc chuyên gia Luật quốc tế. Chính vì vậy, áp dụng
hay không áp dụng học thuyết trong quan hệ quốc tế là quyền của các chủ thể Luật quốc tế.


3.

Nguyên tắc chung được các nước văn minh trên thế giới thừa nhận

3.1.

Khái niệm

Theo quy định tại Điều 38 khoản 1 Quy chế Tòa án công lý quốc tế, bên cạnh điều ước quốc tế và tập
quán quốc tế thì “Các nguyên tắc pháp luật chung được các dân tộc văn minh thừa nhận” cũng là nguồn của
Luật quốc tế nhưng đứng trong vai trò là nguồn bổ trợ.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về “các nguyên tắc pháp luật chung”. Có quan điểm cho
rằng nguyên tắc chung của pháp luật là các nguyên tắc được ghi nhận trong pháp luật của các quốc gia -“các
dân tộc văn minh”. Quan điểm khác lại cho rằng, nguyên tắc pháp luật chung chính là nguyên tắc của luật tự
nhiên (droit naurel) và luật thực định (droit positif) hoặc là các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Tuy


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
nhiên, quan điểm được thừa nhận rộng rãi hiện nay là, các nguyên tắc pháp luật chung chính là các nguyên
tắc mà ICJ áp dụng để giải thích và làm sáng tỏ nội dung quy phạm Luật quốc tế, như nguyên tắc tận tâm
thực hiện các cam kết quốc tế ( Pacta sunt servanda);... .

3.2.
3.2.1.

Nguyên tắc chung trong hệ thống Luật quốc tế
Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda)

Nguyên tắc này được hiểu là khi các bên chủ thể trong quan hệ quốc tế tham gia vào kí kết các Điều

ước quốc tế thì phải trên cơ sở của sự thỏa thuận và tự nguyện, bình đẳng. Đồng thời khi tham gia vào các
Điều ước quốc tế đó thì các quốc gia phải có nghĩa vụ tuân thủ nội dung mà mình đã cam kết. Được ghi nhận
trong tuyên ngôn 1970 và tại các điều ước quốc tế song và đa phương khác.
Nguyên tắc này bao gồm các nội dung chính sau:

 Mọi quốc gia phải tận tâm, thiện chí, nổ lực thực hiện, thực hiện vô điều kiện các cam kết quốc tế.
Điều này xuất phát từ việc các quốc gia tiến hành thực hiện các cam kết do chính mình đưa ra.
 Các quốc gia thành viên của Điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy định của luật quốc gia để
coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện các cam kết quốc tế.
 Nếu có điều ước quốc tế trái với Hiến chương thì ưu tiên áp dụng Hiến chương.
Ngoại lệ của nguyên tắc Pacta sunt servanda:

 Khi ký kết mà trái với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và nguyên tắc ký kết thì không được thực hiện
 Khi Điều ước quốc tế có nội dung trái với Hiến chương Liên hợp quốc, trái với các nguyên tắc và
quy phạm được thừa nhận rộng rãi của quốc tế.

 Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ trong điều ước thì các bên còn lại không phải thực hiện nghĩa
vụ đối với bên vi phạm, vì nghĩa vụ theo Điều ước quốc tế chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở
nguyên tắc có đi có lại nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi giữa các bên ký kết.
 Khi xuất hiện điều khoản Rebus sic Stantibus: khi có sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh thì các Điều
ước quốc tế được ký kết trước đây không nhất thiết phải thực hiện nữa. Khi xuất hiện điều khoản
này,các quốc gia có thể viện dẫn để thực hiện một trong ba hành vi sau:

 Chấm dứt hiệu lực hành vi này làm mất hoàn toàn hiệu lực của Điều ước uốc tế, hành vi này chỉ tạm thời.
 Tạm đình chỉ hiệu lực của Điều ước quốc tế làm mất hiệu lực của Điều ước quốc tế.
 Rút khỏi quan hệ điều ước quốc tế, hành vi này không làm chấm dứt hiệu lực hoàn toàn của Điều ước quốc
tế. Điều ước quốc tế chỉ mất hiệu lực với quốc gia viện dẫn điều khoản Rebus sic stantibus, nó vẫn có hiệu
lực đối với các quốc gia thành viên khác của điều ước.
Hoàn cảnh bị thay đổi được ghi nhận trong Điều 62 Công ước viên 1969 phải là cơ sở chủ yếu tạo nên
sự thỏa thuận của các bên; hoàn cảnh này các bên không thể thấy trước( dự liệu trước) vào thời điểm ký kết

Điều ước quốc tế.


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh được hiểu là: hoàn cảnh đó bị xáo trộn lớn đến mức làm biến đổi một
cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà các bên sự thay đổi này vượt ra khỏi tầm kiểm soát vẫn còn phải
thi hành theo điều ước các bên không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình trong quan hệ của các bên hệ
điều ước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh sẽ không thể được
nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi quan hệ điều ước nếu đó là điều ước liên quan đến việc thiết lập
biên giới quốc gia; hoặc sự thay đổi đó là kết quả của một sự vi phạm nghiêm trọng của chính bên nêu lên nó.
Trong trường hợp này, bên còn lại có thể viện dẫn chính điều khoản Rebus sic stantibus để giải thoát mình
khỏi các nghĩa vụ trong cam kết mà không bị coi là vi phạm nguyên tắc Pacta sunt servanda. Tuy nhiên , việc
áp dụng điều khoản Rebus sic stantibus phải được thông báo cho bên kia biết bằng văn bản.

3.2.2.

Nguyên tắc luật sau thay thế luật trước( lex posteriori derogat priori)

Nguyên tắc này có thể được hiểu là các luật ra đời sau sẽ chiếm ưu thế hơn, hay sẽ bác bỏ các luật
trước đó không phù hợp.
Trong Luật quốc tế, các Tập quán quốc tế và Điều ước quốc tế có vị trí bình đẳng và mối quan hệ giữa
chúng được dẫn theo các nguyên tắc cũ của luật dân sự, đó là các luật ra đời sau sẽ thắng thế so với các luật
ra đời sớm hơn, nhưng các luật ra đời sau vẫn phải đứng sau các luật mang tính chất đặc biệt ra đời trước, đó
là một quy tắc đặc biệt chiếm ưu thế trong pháp luật nói chung. Ví dụ cho nguyên tắc này, khi cân nhắc giữa
Điều ước quốc tế và luật quốc gia, Mỹ đã chọn luật quốc gia vì luật quốc gia ban hành sau nên nó hiệu lực
pháp lý cao hơn Điều ước quốc tế.

3.2.3.

Nguyên tắc luật riêng thay thế luật chung( lex specialis derogat generalis)


Trong lý thuyết pháp lý và thực tế, đây là một nguyên tắc liên quan đến việc giải thích pháp luật, và có
thể áp dụng đối với cả luật quốc gia và Luật quốc tế. Nguyên tắc cho rằng sẽ có hai hướng luật sẽ cùng chi
phối một tình huống thực tế. Một luật sẽ điều chỉnh một đối tượng cụ thể( lex specialis) ghi đè lên một luật
mà chỉ điều chỉnh những vấn đề chung( lex generalis).
Nguyên tắc này cũng được áp dụng để xây dựng một hệ thống pháp luật hoặc chỉ một bộ phận nhỏ của
pháp luật có chứa cả hai quy định cụ thể và tổng quát.

3.2.4.

Nguyên tắc không ai có thể trao quyền cho người khác hơn những quyền mà mình có( nemo plus
iuris transferren potest quam inpse habet):

Theo nguyên tắc này, người chuyển nhượng- người không còn quyền sở hữu với tài sản chuyển
nhượng, thì không thể chyển quyền sở hữu.
Một ví dụ trong dân sự: Người mua một món hàng bị đánh cắp bởi một tên trộm sẽ không có quyền sở
hữu đối với món hàng đó. Người mua hàng hóa từ một người như vậy cũng sẽ không có quyền đối với tài sản
nếu mua tài sản từ một người không có quyền sở hữu đối với tài sản nếu so sánh với các chủ sở hữu thực sự.


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Như vậy, người mua sẽ không có quyền tài sản nếu mua tài sản đó từ một người không có quyền sở hữu đối
với tài sản đó. Và tất nhiên người có quyền sở hữu hợp pháp sẽ có thể cung cấp quyền này cho người mua.

3.2.5.

Nguyên tắc tôn trọng quyền thụ đắc( principe du respect de droits acquyss):

Trong lịch sử phát triển lâu dài của luật pháp quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm pháp luật xác
định chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở của thực tiễn quốc tế, trong đó có các phương thức thụ

đắc lãnh thổ mà các bên tranh chấp thường dựa vào để bảo vệ cho quan điểm pháp lý của mình, đó là:

 Quyền thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc “kế cận địa lý”
Quyền thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc “kế cận địa lý”: một số quốc gia đã dựa vào sự kế cận về vị trí
địa lý để bảo vệ cho yêu sách chủ quyền lãnh thổ của mình, họ thường nói vùng lãnh thổ này ở gần lãnh thổ
của họ hoặc nằm trong vùng biển, thềm lục địa của họ, nên “đương nhiên” thuộc chủ quyền của họ. Trong
thực tiễn giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lập luận này không được thừa nhận như là một nguyên tắc
pháp lý. Bởi vì, có rất nhiều vùng lãnh thổ nằm sát ngay bờ biển của nước này nhưng vẫn thuộc chủ quyền
của nước khác và không hề có sự tranh chấp nào xảy ra

 Ngoài ra, còn một số nguyên tắc khác như: nguyên tắc không ai có thể trở thành thẩm phán trong vụ
việc của mình; nguyên tắc gây thiệt hại thì phải bồi thường; nguyên tắc tôn trọng quyết định của tòa
án hay nguyên tắc mọi người đếu bình đẳng trước pháp luật...
Trên thực tế, khi viện dẫn các nguyên tắc này, Tòa án chỉ sử dụng chúng để hỗ trợ những kết luận được
rút ra trên những cơ sở khác. Các nguyên tắc chung không được coi như một cơ sở duy nhất cho phán quyết
của Tòa. Các Tòa án quốc tế hiện nay vẫn xác định các nguyên tắc chung đã được đúc kết hoặc khái quát hoá
từ điều ước hay luật tập quán hoặc được các quốc gia dùng để xây dựng những tiêu chuẩn nền tảng cho hành
vi ứng xử của xã hội quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, trong các phán quyết của Tòa án quốc tế, những nguyên tắc
này lại không được viện dẫn như một cơ sở duy nhất cho phán quyết, mà chỉ để củng cố các kết luận đã đạt
được khi xem xét nhiều loại nguồn khác.

3.3.

Vai trò của nguyên tắc chung trong nguồn bổ trợ của Luật quốc tế.

Về phương diện lý luận, mặc dù không chứa đựng các quy phạm pháp luật thực định điều chỉnh trực
tiếp các quan hệ xã hội, nhưng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng đối với hoạt động xây
dựng, giải thích và thực hiện pháp luật trên thực tế. Do vậy, nếu hiểu và vận dụng đúng tinh thần, nội dung
của các nguyên tắc chung của pháp luật sẽ thúc đẩy các hoạt động đó một cách thống nhất, đồng bộ và chính
xác hơn.

Các nguyên tắc này sẽ được áp dụng trong trường hợp các Điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế
không trù liệu cách giải quyết hoặc không thể giải quyết một cách thích đáng các vấn đề quốc tế. Do đó, Quy


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
chế Tòa án quốc tế cũng đã công nhận các nguyên tắc chung được các quốc gia văn minh trên thế giới thừa
nhận là một loại nguồn của Luật quốc tế bên cạnh Điều ước quốc tế và tòa án quốc tế.

4.

Tuyên bố đơn phương của các chủ thể Luật quốc tế

4.1.

Khái niệm

Tuyên bố đơn phương là: “Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng
(những gì đã tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính
cách ràng buộc của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào
tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng”.

4.2.
4.2.1.

Tuyên bố đơn phương trong hệ thống Luật quốc tế
Tuyên bố đơn phương với tư cách là nguồn bổ trợ của Luật quốc tế với các tuyên bố đơn phương
khác

Về bản chất, hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia không được coi là nguồn của Luật quốc tế, vì
bản thân nó không đảm bảo yếu tố “thỏa thuận” . Tuy nhiên, nó sẽ trở thành nguồn bổ trợ của Luật quốc tế

khi hành vi đơn phương này “có khả năng” tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể khác trong quan hệ quốc
tế. Ví dụ: Thụy sỹ đơn phương đưa ra tuyên bố sẽ trở thành quốc gia trung lập vĩnh viễn. Tuy nhiên, trên thực
tế có rất nhiều tuyên bố của các quốc gia nhưng không phải các tuyên bố đó đều là nguồn bổ trợ của Luật
quốc tế ví dụ như:
Quyết định đơn phương của Trung Quốc thi hành Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông năm 2013 từ
12 giờ ngày 16/5 đến 12 giờ ngày 1/8/2013 với phạm vi bao gồm cả một số vùng biển của Việt Nam.
Như vậy, những tuyên bố trên không phải là nguồn bổ trợ của Luật quốc tế vì nó không thỏa những đặc
điểm cơ bản đã trình bày ở trên. Những tuyên bố này chỉ mang tính chất giống như một lời cảnh báo, đe dọa
hoặc chỉ đơn thuần là một thông báo và không tạo nên nghĩa vụ pháp lý cho quốc gia đã ra tuyên bố.

4.2.2.

Một số loại tuyên bố đơn phương

 Tuyên bố đơn phương về chủ quyền
Một tuyên bố đơn phương độc lập (UDI - Unilateral Declaration of Independence): là một khẳng định
độc lập của một nhà nước hoặc một phần lãnh thổ của một quốc gia tuyên bố chính nó độc lập và có chủ
quyền mà không có một sự chấp nhận chính thức của nhà nước đã thôn tính nó trước đây hoặc Nhà nước mà
nó tuyên bố ly khai. Có thể kể đến một tuyên bố đơn phương độc lập điển hình sau: “Tuyên bố của Việt Nam
là một quốc gia độc lập năm 1945: Ngày 2/9/1945 , Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại
quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hành động tuyên bố này của
Hồ Chí Minh có thể xem là một tuyên bố đơn phương về việc thành lập một quốc gia.”


NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
Như vậy, có thể thấy rằng các quốc gia tuyên bố độc lập hoặc khi có sự bất mãn với chế độ cũ muốn
thành lập Nhà nước hoặc ly khai để thành lập một Nhà nước tốt hơn Nhà nước hiện tại; hoặc khi nhận thấy
chế độ kinh tế hay chính trị của quốc gia hiện tại không đảm bảo sự phát triển của đất nước.
Việc tuyên bố đơn phương độc lập của một quốc gia, một mặt giúp cho quốc gia đó nhanh chóng xác
định địa vị pháp lý của quốc gia mình trên trường quốc tế mà không cần sự chấp nhận hay không của một

quốc gia khác. Nhưng một mặt nó nhằm tạo ra cơ hội cho những nhóm người có tư tưởng phản động bất mãn
chế độ hay những kẻ thù ở nước ngoài “giật dây, lôi kéo, dụ dỗ người dân trong nước”; lợi dụng việc tuyên
bố đơn phương để ly khai, tự trị nhằm chia rẽ đất nước dân tộc hòng chiếm đoạt quốc gia.

 Tuyên bố đơn phương chủ quyền trên biển
Điển hình về hành vi đơn phương của quốc gia là tuyên bố Truman ngày 28/9/1945 liên quan đến các
nguồn tài nguyên khoáng sản của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Từ khi tuyên bố này ra đời trở thành cơ
sở để các quốc gia Mỹ Latinh như Mehico 1946, Panama 1947,… tuyên bố mở rộng thềm lục địa. Tiếp theo
đó là các tuyên bố đơn phương của Peru, Chile, Equateur liên quan đến việc yêu cầu lãnh hải rộng 200 hải lí
và sau đó là các tuyên bố đa phương của các quốc gia như Mỹ Latinh, tuyên bố chung Santiago 1952,
Montevideo 1970.

 Tuyên bố chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của cơ quan tài phán
Tuyên bố chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của ICJ. Về nguyên tắc này, tất cả các thành
viên của Liên hợp quốc đương nhiên trở thành viên của quy chế Tòa án. Các nước không là thành
viên của Liên hợp quốc vẫn có thể trở thành một bên của Tòa án nếu các quốc gia này tuyên bố chấp
nhận các phán quyết của ICJ nói chung, hoặc đối với từng tranh chấp cụ thể.
Ví dụ: Một quốc gia nào đó chưa là thành viên của Liên hợp quốc nhưng đưa ra tuyên bố đơn phương
chấp nhận thẩm quyền giải quyết của ICJ khi có tranh chấp. Vậy thì khi có tranh chấp giữa quốc gia đưa ra
tuyên bố đơn phương trước đó với một quốc gia khác mà quốc gia này không chấp nhận thẩm quyền giải
quyết của ICJ thì tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của quốc gia kia cũng không có hiệu lực.
Tuyên bố chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài quốc tế Tương tự như việc chấp
nhận trước thẩm quyền của ICJ đã trình bày. Điều này có nghĩa là các bên có thể đưa ra tuyên bố
đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Trọng tài quốc tế để minh thị cho việc chấp nhận thẩm
quyền của Trọng tài quốc tế khi có tranh chấp xảy ra.

 Tuyên bố đơn phương không thực hiện các Điều ước quốc tế
Trên thực tế có những tuyên bố đơn phương không thực hiện Điều ước quốc tế là nguồn bổ trợ của
Luật quốc tế như Bản tuyên ngôn độc lập 1945 của Việt Nam, Bác Hồ tuyên: “... chúng tôi, lâm thời Chính
phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ



NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
hết những Hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước
Việt Nam.”

4.3.

Vai trò của tuyên bố đơn phương

Bên cạnh vai trò quan trọng và chủ yếu của nguồn cơ bản thì nguồn bổ trợ cũng đóng vai trò quan
trọng và ngày càng được áp dụng phổ biến, có sự ảnh hưởng rõ rệt trong quan hệ quốc tế. Chẳng hạn như,
“Việc Indonesia cho phép tàu tuần tra của nước này được bắn và đánh chìm tàu đánh cá nước ngoài đánh
bắt hải sản trái phép trong vùng biển của Indonesia. Đây là một thông tin gây lo ngại sâu sắc cho ngư dân
làm nghề đánh cá xa bờ của các nước Đông Nam Á trong đó có nước ta.”

5.

Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ

5.1.
5.1.1.

Khái niệm, đặc điểm và phân loại
Khái niệm

Nghị quyết là văn bản do các cơ quan có thẩm quyền của tổ chức quốc tế thông qua. Ở đây, do L uật
quốc tế chỉ đề cập đến tổ chức quốc tế liên chính phủ nên các nghị quyết là nguồn bổ trợ của Luật quốc tế
cũng chỉ dừng lại ở các nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ, mà tiêu biểu là nghị quyết của Liên
hợp quốc – tổ chức quốc tế đa phương toàn cầu lớn nhất hiện nay.


5.1.2.

Phân loại

Căn cứ vào tính chất nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ được chia làm 2 loại:

 Nghị quyết có tính chất bắt buộc: các nghị quyết này chủ yếu quy định các vấn đề liên quan đến các
đóng góp cho hoạt động cua tổ chức… những nghị quyết này sẽ là nguồn luật được viện dẫn đến để
giải quyết các quan hệ phát sinh giữa các quốc gia thành viên của tổ chức đó.
 Nghị quyết có tính chất khuyến nghị: nhằm hướng dẫn, giải thích các quy phạm Luật quốc tế và thể
hiện cách nhìn của tổ chức quốc tế về một vấn đề nào đó.

5.1.3.

Đặc điểm

Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ không được gọi là điều ước quốc tế vì nghị quyết được
đưa ra nhân danh một chủ thể nhất định, chứ không phải là sự thỏa thuận của các chủ thể. Do đó, mặc dù nó
có giá trị bắt buộc với các quốc gia thành viên, nhưng nó không phải điều ước quốc tế.

5.2.

Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ trong hệ thống Luật quốc tế

Trong quan hệ quốc tế, các chủ thể Luật quốc tế thường quan tâm đến các nghị quyết của Liên hợp
quốc vì tính chất toàn cầu của tổ chức này. Lưu ý rằng, không phải mọi nghị quyết của tổ chức liên chính phủ
đều được xếp vào nhóm này, chỉ những nghị quyết chứa đựng nội dung liên quan đến các vấn đề kinh tế, xã
hội…còn những nghị quyết có tính chất gây hại đến quan hệ giũa các quốc gia sẽ không được xếp vào nhóm



NHÓM 4 – D01 – NGUỒN BỔ TRỢ CỦA LUẬT QUỐC TẾ
này. Mọi nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đều có giá trị ràng buộc với các quốc gia thành viên,
ngoại trừ các nghị quyết liên quan đến hành chính và thủ tục.

5.3.

Ý nghĩa của Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ

 Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ mang tính bắt buộc là nguồn của Luật quốc tế,
nhưng không phải là nguồn của Luật quốc tế chung mà là của luật tổ chức quốc tế. Có giá trị bắt buộc
đối với từng tổ chức quốc tế, cơ quan và thành viên của nó.

 Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ mang tính khuyến nghj: Tự bản thân các nghị
quyết này chỉ có tính khuyến nghị mà không sinh ra quy phạm pháp lý, không có hiệu lực pháp lí bắt
buộc vì thế chúng không được coi là nguồn của Luật quốc tế.
 Tuy nhiên các khuyến nghị trong những nghị quyết của đại hội đồng bảo an liên hợp quốc thường có
quy định nghĩa vụ hợp tác và tôn trọng. Sự công nhận một khuyến nghị có thể chuyển đổi một
khuyến nghị thành một hiệp định ràng buộc, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến
nó.
Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành cũng
như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập quán



×