Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Đánh giá tác động của dự án trồng rừng việt đức (KFW2) tại vùng dự án xã kỳ lạc, huyện kỳ anh, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 84 trang )

bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

trường đại học lâm nghiệp

trần Văn Thông

Đánh giá tác động của dự án
trồng rừng Việt - Đức (KFW2) tại vùng
dự án xã Kỳ Lạc, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh

Luận văn thạc Sỹ khoa học lâm nghiệp

Tài liệu tham khảo
Hà Nội, năm 2008


1
Chưong 1

Đặt Vấn đề
Mất rừng và suy thoái rừng ở mức báo động là một trong những mối quan
tâm lớn nhất trong phạm vi một quốc gia và toàn cầu. Theo thống kê của Tổ chức
FAO (1997), trong giai đoạn 1980-1990 mỗi năm thế giới có 15,5 triệu ha rừng tự
nhiên bị mất, còn trong giai đoạn 1990-1995 mỗi năm vẫn mất tới 13,7 triệu ha. Đặc
biệt ở khu vực Đông Nam á có tỷ lệ mất rừng cao nhất là 1,6% mỗi năm, trong khi
đó ở Bắc Mỹ chỉ là 0,1% (tỷ lệ chung của thế giới là 0,8%).
ở Việt Nam, năm 1943 cả nước ta có 14,3 triệu ha rừng, độ che phủ là 43%,
đến năm 1990 chỉ còn 9,18 triệu ha, độ che phủ rừng 27,2 %. Con số này quả là quá
thấp để có thể đảm bảo an toàn môi trường sinh thái cho một quốc gia. Thấy rõ được


tầm quan trọng của rừng đối với nền kinh tế quốc dân và đối với việc bảo vệ môi
trường sinh thái, Chính phủ Việt Nam đã đặc biệt quan tâm lưu ý đến việc bảo vệ,
phát triển và khai thác hợp lý tài nguyên rừng bằng các giải pháp chính sách, tổ
chức quản lý. Việt Nam là một trong nhiều quốc gia đang có những chuyển biến rất
lớn về phát triển lâm nghiệp. Rừng Việt Nam đã và đang đóng vai trò to lớn về môi
trường, kinh tế, xã hội vì vậy việc bảo vệ và phát triển rừng đang là vấn đề quan tâm
của Nhà nước nói chung và của ngành lâm nghiệp nói riêng.
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng sinh thái kinh tế Bắc Trung bộ. Tài nguyên rừng
Hà Tĩnh có tính đa dạng sinh học cao. Độ che phủ của rừng đến năm 1997 là 31%,
với chủ yếu là diện tích rừng tự nhiên được phân bố dọc theo dãy Trường Sơn, giáp
biên giới Việt Lào. Tuy nhiên, độ che phủ của rừng ở một số xã vùng núi còn lại
rất thấp, có xã chỉ còn lại 5- 6%. Đời sống của hầu hết nhân dân thuộc các xã vùng
núi hết sức khó khăn. Thu nhập chủ yếu là từ khai thác củi, lâm sản ngoài gỗ, thậm
chí có một số nơi nguồn thu nhập chính là từ khai thác gỗ trái phép trong rừng tự
nhiên. Đó cũng nguyên nhân chính làm cho diện tích rừng bị suy giảm hoặc làm
giảm khả năng tự phục hồi của rừng .
Nhằm nâng cao độ che phủ của rừng và góp phần cải thiện môi trường, nâng
cao mức sống cho nhân dân ở miền núi, giảm sức ép mang tính tiêu cực của người
dân sống gần rừng đối với rừng tự nhiên, những năm trước cũng như thời gian gần
đây ở địa phương đã được sự quan tâm đầu tư của ngành qua các dự án trồng rừng


2
trên đất trống, đồi núi trọc. Dự án trồng rừng ở các Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị
do Ngân hàng tái thiết Đức, Nước Cộng hoà Liên bang Đức tài trợ ( gọi tắt là Dự án
trồng rừng Việt - Đức, KFW2) là một trong những dự án như vậy. Dự án trồng rừng
Việt - Đức được triển khai thực hiện ở Hà Tĩnh từ tháng 7 năm 1997 đến tháng 12
năm 2001. Diện tích rừng trồng mới 6.726 ha, phủ xanh 8% diện tích đất trống, đồi
núi trọc quy hoạch cho lâm nghiệp. Diện tích rừng trồng mới được phân bố trên 4
huyện, 20 xã với 4.587 hộ tham gia dự án.

Xã Kỳ Lạc, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh là xã thuộc diện xã nghèo miền núi.
Diện tích tự nhiên 12.388 ha, diện tích đất trống, đồi trọc có 6.703 ha chiếm 54%
diện tích tự nhiên. Với diện tích đất chưa có rừng lớn, đời sống của nhân dân trong
vùng gặp nhiều khó khăn, vì vậy xã Kỳ Lạc được lựa chọn là 1 trong 20 xã tham gia
dự án từ năm 1999 đến năm 2001. Sau 3 năm thực thi dự án, diện tích rừng trồng
của xã đã tăng thêm 998 ha. Dự án trồng rừng Việt - Đức, KFW2 và hoạt động tại
vùng Dự án xã Kỳ Lạc khác với các dự án đầu tư : Sau khi hết thời hạn đầu tư tài
chính, về phía nhà tài trợ đã hoàn thành và kết thúc dự án nhưng ở Hà Tĩnh cũng như
các tỉnh tham gia dự án đã thành lập Ban quản lý hậu dự án trồng rừng Việt- Đức,
KFW2 để chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát công tác chăm sóc, bảo vệ và làm các thủ
tục rút tiền công trồng rừng trong tài khoản tiền gửi cho các hộ gia đình tham gia dự
án. Vì vậy, để có kết luận những đóng góp về mặt tích cực cũng như những mặt cần
bổ sung của dự án đối với cộng đồng, đặc biệt là giai đoạn hậu dự án để làm căn cứ
khuyến nghị, đề xuất đối với các dự án khác có đặc điểm tương tự, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: Đánh giá tác động của dự án trồng rừng Việt - Đức ( KFW2)
tại vùng dự án xã Kỳ Lạc, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.


3
Chương 2
Tổng quan nghiên cứu
2.1. Trên thế giới
2.1.1. Khái niệm về Dự án
Trong lý thuyết cũng như thực tiễn quản lý kinh tế hiện nay còn tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau về Dự án. Mỗi quan điểm về Dự án xuất phát từ cách tiếp cận
khác nhau tuỳ thuộc mục đích nghiên cứu, khái niệm về Dự án đã và đang được bổ
sung hoàn thiện [14].
Theo Cleland và King(1975): Dự án là sự kết hợp giữa các yếu tố nhân lực và tài
lực trong một thời gian nhất định để đạt đưọc một mục tiêu định trước.
Clipdap cho rằng: Dự án là một tập hợp các hoạt động để giải quyết một vấn đề

hay để hoàn thiện một trạng thái cụ thể trong một thời gian xác định.
Gittinger(1982) đưa ra quan điểm: Dự án là tập hợp các hoạt động mà ở đó tiền
tệ được đầu tư với hy vọng được thu hồi lại. Trong quá trình này các công việc kế
hoạch tài chính, vận hành hoạt động là một thể thống nhất, được thực hiện trong một
khoảng thời gian xác định.
Theo WB [7]: Dự án là tổng thể những chính sách, hoạt động và chi phí liên
quan với nhau được thiết kế nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một
khoảng thời gian nhất định.
Theo Lyn Squire [7] : Dự án là tổng thể các giải pháp nhằm sử dụng các nguồn
tài nguyên hữu hạn vốn có, nhằm đem lại lợi ích cho xã hội càng nhiều càng tốt.
Từ điển xã hội học của của David Jary và Julia Jury[17] , đưa ra định nghĩa về
Dự án như sau: Những kế hoạch được thiết lập với mục đích hỗ trợ các hành động
cộng đồng và phát triển cộng đồng. Theo định nghĩa này có thể hiểu Dự án là một
kế hoạch can thiệp có mục tiêu, nội dung, thời gian, nhân lực và tài chính cụ thể. Dự
án là sự hợp tác của các lực lượng xã hội bên ngoài và bên trong cộng đồng. Với
cách hiểu như trên thì thước đo sự thành công của Dự án không chỉ là việc hoàn
thành các hoạt động (đầu tư cái gì, cho ai, bao nhiêu, như thế nào) mà nó có góp
phần vào quá trình chuyển biến xã hội tại cộng đồng.

2.1.2. Đánh giá Dự án
Đánh giá là một khâu then chốt trong một chu trình Dự án, nhằm đưa ra những


4
nhận xét theo định kỳ về kết quả thực hiện các hoạt động của Dự án trên cơ sở so
sánh một số chỉ tiêu đã lập trước, hay nói khác đánh giá là quá trình xem xét một
cách hệ thống và khách quan nhằm cố gắng xác định tính phù hợp, tính hiệu quả và
tác động của các hoạt động ứng với mục tiêu đã vạch ra. Đánh giá là một công việc
thường xuyên diễn ra trong các hoạt động của Dự án.
Trong các Dự án mà ở đó vai trò tham gia của các bên liên quan có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng, thì công tác đánh giá đòi hỏi phải có sự tham gia của các bên liên
quan. Đánh giá có sự tham gia là một hệ thống phân tích được thực hiện bởi các nhà
quản lý Dự án và các thành viên được hưởng lợi từ Dự án, cho phép họ điều chỉnh, xác
định lại chính sách hoặc mục tiêu, chiến lược, sắp xếp lại các tổ chức các đơn vị triển
khai lại các nguồn lực nếu cần thiết. Nó là cơ hội cho cả người bên trong và người bên
ngoài cộng đồng dừng lại phản ánh về quá khứ và đưa ra quyết định cho tương lai.
Các lý thuyết về hướng dẫn và đánh giá được đề cập chi tiết trong các công
trình nghiên cứu của WHO, Gittinger, Dixon & Hufschmidt L.Therse Barker, Jim
Woodhill, FAO, WB. . .[20]
Các đánh giá liên quan đến việc đo lường hay đưa ra những nhận định, điển hình
là các công trình nghiên cứu của WHO, L.Therse Barker. Đây là một quá trình nhằm
đánh giá mức độ đạt được những mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể đã đề ra, tương
ứng với chúng là hệ thống các hoạt động, các nguồn lực đã được triển khai và sử dụng
như thế nào. Đối với một Dự án, đánh giá là xem xét một cách hệ thống để xác định
tính hiệu quả, mức độ thành công của Dự án, tác động xã hội cũng như các tác động
kinh tế môi trường đối với cộng đồng hưởng thụ[14] .
Trong một Dự án, hoạt động đánh giá là khâu cuối cùng trong tiến trình triển
khai Dự án cho cộng đồng. Thực ra đánh giá không chỉ tiến hành một lần vào cuối Dự
án - đó mới chỉ là đánh giá tổng thể. Trong quá trình thực hiện Dự án, hoạt động đánh
giá có thể được tiến hành vào những giai đoạn quan trọng, thường gọi là đánh giá giai
đoạn. Nhiều tác giả cho rằng, điều quan trọng là phải tiến hành đánh giá có sự tham
gia của các bên có liên quan mà quan trọng nhất là người hưởng lợi từ Dự án [19] .
Các tác giả và các tổ chức trên thế giới như Jim Woodhill, Lisa Robins, Joachim
Theis, Heather. M. Grady [17] đã phân chia thành hai loại đánh giá: Đánh giá mục
tiêu và đánh giá tiến trình. Đánh giá mục tiêu là xem xét liệu Dự án có đạt được mục
tiêu đã định hay không, nó tập trung vào việc phân tích các chỉ số đo đạc hiệu quả thu


5
được. Đánh giá tiến trình, mở rộng diện đánh giá hơn so với loại đánh giá trên, sử

dụng tri thức và hiểu biết của nhiều người để xem xét nhiều vấn đề của Dự án.
Các phương pháp đánh giá Dự án cũng được phát triển mạnh mẽ từ những năm
50, 60 của thế kỷ trước, khi các Dự án phát triển cộng đồng ra đời. Các phương pháp
bao gồm: Phương pháp người dân tham gia đánh giá (PRA), phương pháp phỏng vấn
2.1.3. Các khía cạnh đánh giá tác động của Dự án
Lịch sử việc đánh giá các tác động kinh tế, xã hội, môi trường của Dự án hay
một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó đã có hàng trăm năm có thể chia làm hai
giai đoạn.
Giai đoạn 1: Từ đầu những năm 1960 đến cuối những năm 1970 với đặc
trưng của giai đoạn này là những nghiên cứu xung quanh những vấn đề về chất
lượng môi trường mâu thuẫn với sự tăng trưởng kinh tế.
Ban đầu là những nghiên cứu về vấn đề đảm bảo an toàn lương thực, đồng thời
bảo vệ được môi trường sinh thái thông qua việc hạn chế nạn phá rừng. Nhiều công
trình nghiên cứu về ảnh hưởng của các phương thức sử dụng đất, các hoạt động canh
tác đến đất đai và môi trường đã được công bố như: Nghiên cứu của Freizendaling
(1968) về Tác động của con người đến sinh quyển; Gober (Pháp, 1968) về Đất và
việc giữ độ phì của đất - các nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất... Các mô hình canh
tác có hiệu quả như SALT 1, SALT 2, SALT 3, SALT 4 do Tổ chức nông nghiệp và
lương thực của Liên hợp quốc (FAO) đưa ra [16].
Đến đầu những năm 1970, Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành luật chính sách quốc
gia về môi trường, thường gọi tắt là NEPA. Luật này quy định rằng tất cả những kiến
nghị quan trọng ở cấp tiểu bang về luật pháp, hoạt động kinh tế, kỹ thuật lúc đưa ra xét
duyệt để được nhà nước chấp nhận đều phải kèm theo một báo cáo về tác động đến môi
trường của việc làm được kiến nghị. Tiếp theo Hoa Kỳ là Canada, Australia, Anh, Nhật,
Đức... cũng lần lượt ban hành luật đánh giá tác động môi trường (Lê Thạc Cán, 1994).
Trong những năm 1970 và đầu 1980, ở một số nước đang phát triển như Thái Lan,
Singapo, Philippine, Indonesia... đã ban hành những quy định về đánh giá tác động môi
trường [7] .
Năm 1972, Liên hiệp quốc đã tổ chức hội nghị về môi trường của con người
với mục đích là tìm hướng giải quyết những tác động không mong muốn mà cuộc



6
cách mạng khoa học và kỹ thuật gây ra đối với môi trường sống. Các tổ chức UNEP,
UNDP, WB đã công bố Tuyên bố về các chính sách và thủ tục về môi trường nói
lên quan điểm phải kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với việc bảo vệ môi
trường và quy định trong các Dự án phát triển do các cơ quan này viện trợ hoặc cho
vay vốn phải báo cáo đánh giá tác động môi trường (Lê Thạc Cán, 1994) [3] .
Năm 1979, tổ chức FAO đã xuất bản tài liệu Phân tích các Dự án lâm nghiệp
do Hans M-Gregersen và Amoldo H. Contresal biên soạn. Đây là tài liệu giảng dạy
dùng cho các địa phương mà tổ chức FAO có đầu tư Dự án trồng rừng và phát triển
lâm nghiệp; tài liệu này tương đối đầy đủ và phù hợp với điều kiện đánh giá hiệu quả
các Dự án lâm nghiệp ở các nước đang phát triển.
Giai đoạn 2: Từ đầu những năm 1980 đến nay, với đặc trưng của giai đoạn
này là phát triển bền vững, trong đó đã thể hiện được sự bổ sung hỗ trợ lẫn nhau
giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Từ những năm 1980 cho đến nay, khái niệm phát triển bền vững đã được nêu
ra và ngày càng trở nên phổ biến. Ngày nay quan điểm phát triển bền vững đã trở
thành một quan điểm chính thống và bắt buộc mọi người không thể bỏ qua. Bản báo
cáo Tương lai Chung của Chúng ta của ủy ban Brundtland (1987) đã công nhận
đánh giá tác động môi trường là một cấu thành thiết yếu trong quá trình thúc đẩy
phát triển bền vững. Báo cáo cũng đã vạch ra sự tham gia rộng lớn hơn của cộng
đồng vào các quyết định có ảnh hưởng đến môi trường, tạo điều kiện cho các cộng
đồng sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên địa phương.
Tại Hội nghị quốc tế về môi trường năm 1992, ở Rio de Janeiro (Braxin) đã đi
đến tiếng nói chung là: Phải kết hợp hài hoà giữa bảo vệ môi trường và phát triển
kinh tế - xã hội, hướng tới một sự phát triển bền vững trong phạm vi từng nước trên
thế giới [9].
Năm 1994, Walfredo Raqual Rola đã đưa ra một mô phỏng về tác động của
các phương thức canh tác [16]. Theo mô phỏng này hiệu quả của một phương thức

canh tác được đánh giá theo quan điểm tổng hợp, trên cả 3 mặt kinh tế, xã hội và
sinh thái môi trường. Tất cả các tác động đó đều nhằm mục tiêu cuối cùng là phát
triển bền vừng.


7
2.2. ở Việt Nam
2.2.1. Khái niệm về Dự án
ở Việt Nam khái niệm Dự án được đềcập đến nhiều vàokhoảng trong những
năm cuối cuối thế kỷ 20. Tuỳ vào các gốc độ, khía cạnh khi xem xét về Dự án, các
tác giả đã đưa ra các khái niệm về Dự án.
Trong tác phẩm phát triển cộng đồng của mình Nguyễn Thị Oanh[11] đưa ra
hai định nghĩa về Dự án như sau:
- Dự án là sự can thiệp một cách có kế hoạch nhằm đạt được một hay một số
mục tiêu cùng hoàn thành những chỉ báo thực hiện đã định trước tại một địa bàn và
trong một khoảng thời gian nhất định, có huy động sự tham gia thực sự của những
tác nhân và tổ chức cụ thể.
- Dự án là một tổng thể có kế hoạch những hoạt động (công việc) nhằm đạt một
số mục tiêu cụ thể trong một khoảng thời gian và trong khuôn khổ chi phí nhất định.
Theo Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang[6] , Dự án được hiểu như một kế
hoạch can thiệp để giúp cộng đồng dân cư hoặc cá nhân cải thiện điều kiện sống
trên một địa bàn nhất định.
Hội thảo PIMES về chương trình phòng ngừa thảm họa đã đưa ra hai khái niệm
về Dự án:
- Dự án là một quá trình gồm các hoạt động đã được lập kế hoạch nhằm đạt
được những thay đổi mong muốn hoặc đạt được một mục tiêu cụ thể nào đó.
- Dự án là một quá trình phát triển có kế hoạch, được thiết kế nhằm đạt được mục
tiêu cụ thể với khoản kinh phí xác định trong một thời gian nhất định.
Theo bài giảng về Quản lý lâm nghiệp xã hội của Trung tâm lâm nghiệp xã
hội, để nhìn nhận Dự án một cách đầy đủ nhất phải đứng trên nhiều khía cạnh khác

nhau: Về hình thức, về quản lý, về kế hoạch,về nội dung.
- Về mặt hình thức: Dự án là một tập tài liệu trình bày chi tiết và có hệ thống
các hoạt động và chi phí dưới dạng một bản kế hoạch để đạt được những kết quả và
thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai[14].
- Về mặt quản lý: Dự án là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư lao
động để tạo ra các kết quả kinh tế, tài chính xã hội, môi trường trong tuơng lai.
- Về mặt kế hoạch: Dự án là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết để đầu tư sản


8
xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài
trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động riêng lẻ, nhỏ nhất trong công tác kế hoạch nền kinh tế.
- Về mặt nội dung: Dự án được coi là một tập hợp các hoạt động có liên quan
đến nhau, được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra
các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng hợp lý các
nguồn lực xác định.
Mặc dù có sự khác nhau về cách định nghĩa Dự án, nhưng các tác giả đều
thống nhất cho rằng: Mục tiêu của Dự án đều là tạo sự thay đổi trong nhận thức và
hành động, thay đổi điều kiện sống của cộng đồng trên cả ba mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
2.2.2. Các khía cạnh đánh giá tác động của Dự án
Thời kỳ đầu, trong các Dự án đầu tư cũng như các Dự án phát triển rừng chúng
ta mới chỉ chú trọng đến hiệu quả kinh tế còn hiệu quả về xã hội và môi trường sinh
thái hầu như chưa được đề cập đến như những đóng góp quan trọng của Dự án.
Chính vì vậy vấn đề đánh giá tác động môi trường ở nước ta cho đến nay còn rất mới
mẻ, đặc biệt là đánh giá trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường của một Dự án.
Trước những năm 1980, ở Việt Nam chỉ có những nghiên cứu nhỏ, không tập
trung và chưa toàn diện về xói mòn đất. Tuy cũng đã có những nghiên cứu về ảnh
hưởng của các phương thức canh tác đến đất, nước nhưng còn sơ sài và ở mức độ
chung chung, các chỉ tiêu đánh giá còn đơn giản.
Từ sau những năm 1980, kinh tế đất nước phát triển kéo theo việc suy giảm

tài nguyên rừng cả về số lượng lẫn chất lượng do vậy công tác đánh giá tác động
môi trường bắt đầu được chú trọng và phát triển. Năm 1983, chúng ta mới chính
thức bắt đầu chương trình nghiên cứu về tài nguyên thiên nhiên và môi trường[9] .
Đến năm 1987, Nguyễn Ngọc Sinh lần đầu tiên đưa ra tài liệu Giới thiệu các
phương pháp đánh giá tác động môi trường [16].
Năm 1985, trong quyết định về điều tra, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã nêu: Trong
xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của các chương trình xây dựng lớn hoặc các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội quan trọng, cần tiến hành đánh giá tác động
môi trường. Như vậy có thể nói từ đây vấn đề đánh giá tác động Dự án đã trở thành
một yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta.


9
Năm 1994, Lê Thạc Cán hoàn thành công trình nghiên cứu Đánh giá tác động môi
trường - Phương pháp luận và kinh nghiệm thực tiễn tạo tiền đề cơ sở khoa học cho các
nhà nghiên cứu về môi trường thực hiện những nghiên cứu tiếp theo.
Hoàng Xuân Tý (1994) với công trình Bảo vệ đất và đa dạng sinh học trong
các Dự án trồng rừng bảo vệ môi trường đã tiến hành những nghiên cứu về kinh tế,
môi trường. Song, trong các phân tích, đánh giá tác giả thường thiên về một mặt
hoặc là kinh tế hoặc là môi trường hay xã hội mà không đánh giá một cách toàn diện
các mặt trên [16] .
Cũng trong năm 1994, nhiều công trình của nhiều tác giả khác đã tiến hành
những nghiên cứu về tác động môi trường và hiệu quả kinh tế - xã hội của các phương
thức canh tác như: Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm với công trình Hiệu quả các biện pháp
canh tác trên đất dốc và Sử dụng đất trống, đồi núi trọc và bảo vệ rừng; Đặng Trung
Thuận, Trương Quang Hải và tập thể với công trình Nghiên cứu và đề xuất mô hình
phát triển kinh tế môi trường tại một số vùng sinh thái điển hình; Phùng Ngọc Lan,
Vương Văn Quỳnh với đề tài Nghiên cứu khả năng giữ nước và bảo vệ đất của các

phương thức canh tác trong các hộ gia đình ở huyện Hàm Yên - Tuyên Quang[16].
Trần Hữu Dào (1995) đã nghiên cứu, đánh giá hiệu quả kinh doanh cả 3 mặt:
hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình trồng rừng quế thâm canh thuần
loài quy mô hộ gia đình tại Văn Yên - Yên Bái [4]. Trong đề tài tác giả đã trình bày,
sử dụng các phương pháp, kỹ thuật mới, tiến bộ trong phân tích kinh tế lâm nghiệp.
Tuy nhiên đề tài mới chỉ thiên về đánh giá hiệu quả kinh tế, chưa chú trọng và đề
cập sâu đến hiệu quả xã hội và môi trường.
Năm 1996, Đoàn Hoài Nam với luận văn thạc sỹ: Bước đầu đánh giá hiệu
quả kinh tế - sinh thái của một số mô hình rừng trồng tại Yên Hương - Hàm Yên Tuyên Quang[9] , đã đề cập đến hiệu quả tổng hợp về mặt kinh tế và sinh thái của
một số mô hình rừng trồng, tuy nhiên chưa thấy tác giả đề cập đến vấn đề xã hội.
Năm 1997, tiếp tục có những nghiên cứu về đánh giá hiệu quả kinh tế - môi
trường như: Nguyễn Thị Thanh An với luận văn thạc sỹ Đánh giá hiệu quả kinh tếmôi trường của một số mô hình theo phương pháp hệ số đường ảnh hưởng; Đoàn
Thị Mai với luận văn thạc sỹ Đánh giá hiệu quả kinh tế - môi trường vì mục tiêu
phát triển bền vững cho một số phương án sử dụng đất trong canh tác nông lâm
nghiệp ở vùng nguyên liệu giấy[8].


10
Năm 1998, Cao Danh Thịnh với đề tài thạc sỹ Thử nghiệm ứng dụng một số
phương pháp định lượng có trọng số để so sánh hiệu quả kinh tế và môi trường của một số
Dự án lâm nghiệp tại khu vực phòng hộ đầu nguồn sông Đà [16] đã đề cập đến hiệu quả
tổng hợp kinh tế - môi trường . Trong đề tài tác giả đã đề cập đến vấn đề định lượng có
trọng số các chỉ tiêu đánh giá và cho biết phương pháp tính trọng số bằng tương quan đạt
độ chính xác cao hơn cả.
Năm 2002, Phạm Xuân Thịnh với đề tài thạc sỹ Đánh giá tác động của Dự án
KFW1 tại vùng Dự án xã Tân Hoa huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang [17] đã đề cập đến
một số tác động của Dự án trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường, quá trình đánh giá có
sử dụng các chỉ tiêu chỉ báo, có sự so sánh các lĩnh vực trước và sau Dự án. Tuy nhiên tác
giả mới chỉ dừng lại ở những tác động tích cực chưa đi sâu phân tích những tác động tiêu
cực của Dự án.

Một số tác giả khác có đề tài nghiên cứu có liên quan như :
Phạm Xuân Nam ( 2004) : Đánh giá tác động của dự án trồng rừng cung cấp
nguyên liệu thuộc Công ty Lâm nghiệp Hoà Bình trên địa bàn xã Lâm Sơn, huyện Lương
Sơn, tỉnh Hoà Bình .
Võ Đình Tuyên ( 2005) : Nghiên cứu tác động của dự án khu vực Lâm nghiệp và
quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn tại xã Lương Sơn, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
Nguyễn Hữu Thọ ( 2007) : Đánh giá tình hình thực hiện dự án trồng rừng phòng hộ
đầu nguồn sông Thạch Hãn, tỉnh Quảng Trị .
Công tác đánh giá tác động kinh tế, xã hội và môi trường ở nước ta hiện nay có thể
nói còn rất mới mẻ, đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Đây lại là vấn đề phức tạp, đòi
hỏi phải có đầu tư thích đáng về thời gian và tiền của nên nhìn chung chúng ta còn thiếu
hụt về thông tin, về phương pháp luận và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn. Mặt khác, trong
điều kiện hiện nay có những dự án có vốn đầu tư nước ngoài sau khi kết thúc giai đoạn đầu
tư tài chính còn có giai đoạn hậu dự án nhưng chưa có nghiên cứu, đánh giá hoạt động của
giai đoạn này. Chính những tồn tại trên đây là một trong những nguyên nhân gây trở ngại
cho công tác quản lý và bảo vệ môi trường, thực hiện các chính sách về môi trường nói
chung. Do vậy chúng ta cần phải tiếp tục có những nghiên cứu nhằm hoàn thiện dần
phương pháp luận cũng như tích luỹ dần kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời làm phong phú
thêm nguồn thông tin cho các nhà nghiên cứu tiếp theo. Xuất phát từ những lý do nêu trên,
và cũng chính là cơ sở cho việc lựa chọn đề tài nghiên cứu.


11
Chương 3
Mục tiêu - đối tượng - nội dung
và phương pháp nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
3.1.1. Mục tiêu tổng quát :
Rút ra bài học kinh nghiệm để xây dựng các dự án trồng rừng có vốn đầu tư
nước ngoài trong thời gian tới .

3.1.2.Mục tiêu cụ thể :
1. Đánh giá kết quả thực hiện các hoạt động của Dự án trồng rừng KFW2 tại
xã Kỳ Lạc, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh từ khi kết thúc và giai đoạn hậu Dự án.
2. Phân tích một số tác động của Dự án đến phát triển kinh tế, xã hội và môi
trường trên địa bàn nghiên cứu từ khi kết thúc và giai đoạn hậu Dự án.
3. Đề xuất giải pháp để duy trì và phát triển các kết quả của Dự án và rút ra bài
học kinh nghiệm cho việc xây dựng các dự án trồng rừng có vốn đầu tư nước ngoài .
3.2.Đối tượng nghiên cứu :
Các bên có liên quan và hộ dân tham gia dự án trên địa bàn xã Kỳ Lạc
3.3 Giới hạn nghiên cứu
- Do thời gian trồng rừng của Dự án tại xã Kỳ Lạc chỉ từ năm 1999 đến 2001 và
hạn chế về mặt thời gian nên trong phạm vi đề tài này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu các hoạt
động Dự án trong khoảng thời gian từ khi thực thi Dự án và giai đoạn hậu Dự án.
- Việc đánh giá tác động của Dự án đến phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ
môi trường chỉ áp dụng một số chỉ tiêu phù hợp với đối tượng và nội dung nghiên
cứu của luận văn như : Sự tham gia của người dân và sự thay đổi nhận thức của
người dân trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Thay đổi về thu nhập trước Dự án và
trong giai đoạn hậu Dự án. Đóng góp của dự án trong việc cải thiện môi trường đất,
tiểu khí hậu cũng như nâng cao độ che phủ của rừng trong vùng .
3.4. Nội dung nghiên cứu
Căn cứ vào mục tiêu và giới hạn nghiên cứu, nội dung nghiên cứu của đề tài
được xác định như sau:
- Nghiên cứu bối cảnh ra đời của Dự án và tình hình triển khai thực hiện các
hoạt động của Trồng rừng Việt - Đức tại xã Kỳ Lạc từ năm 1999 đến năm 2008.


12
- Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, tài nguyên rừng, những khó
khăn, thuận lợi trong vùng Dự án.
- Đánh giá tình hình thực hiện các hoạt động của Dự án tại xã Kỳ Lạc trong

giai đoạn đầu tư và giai đoạn hậu Dự án .
- Bước đầu đánh giá một số tác động của Dự án đến phát triển kinh tế, xã hội
và môi trường trong giai đoạn đầu tư và giai đoạn hậu Dự án.
- Một số giải pháp để duy trì, phát triển các kết quả và mở rộng phạm vi hoạt
động của Dự án, có rút ra bài học kinh nghiệm cho việc triển khai thực hiện dự án
trồng rừng khác có vốn nước ngoài .
+ Về kinh tế
*Nghiên cứu sự thay đổi về cơ cấu sử dụng đất, cơ cấu thu nhập và chi phí
của hộ gia đình trong giai đoạn đầu tư và giai đoạn hậu Dự án .
*Nghiên cứu sự thay đổi về loại hình kinh tế hộ và các tiêu chí phân loại kinh
tế hộ gia đình trong giai đoạn đầu tư và giai đoạn hậu Dự án .
*Thu nhập của hộ gia đình tham gia Dự án trong giai đoạn hậu Dự án .
+ Về xã hội:
*Nghiên cứu mức độ tham gia của người dân đối với quá trình thực hiện Dự án.
*Nghiên cứu tác động của Dự án đến nhận thức của người dân trong công tác
trồng rừng, chăm sóc rừng và bảo vệ rừng. Tác động của Dự án đến chất lượng cuộc
sống của người dân. Quan tâm nghiên cứu việc thay đổi nhận thức của người dân khi
có Hợp tác xã trồng rừng được thành lập trong thời gian hậu Dự án.
+ Về môi trường:
* Độ che phủ của rừng.
*Tác động của Dự án đến khả năng chống xói mòn, bảo vệ đất.
*Tác động của Dự án đến tiểu khí hậu xung quanh.
*Mức độ hấp thụ khí CO2 của rừng
3.5.Phương pháp nghiên cứu
3.5.1. Quan điểm và phương pháp luận
- Bất kỳ một Dự án đầu tư nào khi đi vào hoạt động cũng có những tác động đến
kinh tế, xã hội, môi trường. Dựa theo mục tiêu của Dự án sẽ lựa chọn tác động nào là ưu
tiên. Những tác động đó cũng có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể là tích cực hay



13
tiêu cực. Tuy nhiên những tác động đó luôn thay đổi theo thời gian và không gian,
nắm được sự thay đổi đó con người có thể điều chỉnh theo mục đích của mình. Cũng
như các hoạt động của Dự án chúng ta có thể nghiên cứu và điều chỉnh sao cho đạt hiệu quả
cao nhất cả về kinh tế, xã hội và môi trường, hạn chế thấp nhất những tác động xấu.
- Dự án trồng rừng Việt - Đức do BQL dự án Việt- Đức Hà Tĩnh làm chủ
đầu tư và Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh làm chủ quản đầu tư được triển khai tại
vùng dự án xã Kỳ Lạc bắt đầu từ năm 1999, mục tiêu ban đầu của Dự án trồng mới
500 ha rừng. Về nguyên tắc khi đánh giá tác động của Dự án phải đứng trên tổng
thể các mối quan hệ của nó và quá trình đánh giá phải được thực hiện trong một thời
gian dài. Có thể là đánh giá giữa kỳ, đánh giá kết thúc dự án, đánh giá tác động hay đánh giá
sau khi kết thúc dự án. Đối với Dự án KFW 2 tại vùng Dự án xã Kỳ Lạc có giai đoạn hậu Dự
án cho nên cần có đánh giá tác động cả giai đoạn đầu tư và giai đoạn hậu Dự án. Tuy nhiên do
thời gian không cho phép nên đề tài chỉ giới hạn ở một số yếu tố và các yếu tố này có liên quan
mật thiết đến các hoạt động của Dự án trong cả 2 giai đoạn trên. Trong quá trình đánh giá các
yếu tố ta có thể đánh giá bằng định lượng (Được tính bằng đơn vị đo lường) và định tính (bằng
những chỉ tiêu khó lượng hoá hoặc không thể lượng hoá được).
- Đánh giá tác động của Dự án trên các mặt kinh tế- xã hội - môi trường trong cả 2 giai
đoạn đầu tư và gia đoạn hậu Dự án bằng các chỉ tiêu định tính, định lượng.
- Đánh giá dự án có sự tham gia của các bên liên quan: Vai trò của phụ nữ và
các tổ chức xã hội trong việc thực hiện Dự án .
- Đánh giá dự án dựa vào kết quả giám sát và các kết quả đánh giá kết quả
thực hiện của Ban quản lý các cấp.
3.5.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.5.2.1. Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu bao gồm:
1. Văn kiện Dự án , các văn bản của nhà nước như các Nghị định của Chính
phủ, Thông tư hướng dẫn của các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan, ảnh hưởng
đến Dự án.
2. Các báo cáo, hồ sơ thiết kế, giám sát và các báo cáo tổng kết thường kỳ
của Dự án .

- Diễn biến tài nguyên rừng và đất rừng qua từng năm thực hiện.
- Bản đồ hiện trạng, bản đồ qui hoạch ,
- Điều kiện kinh tế, xã hội, tài nguyên rừng vùng Dự án.


14
3. Các qui trình, qui phạm, các kết quả nghiên cứu có liên quan.
4. Các phần mềm xử lý số liệu như Excel, SPSS.
3.5.2.2.Thu thập tài liệu ngoại nghiệp :
1. Điều tra phỏng vấn người dân .
* Điều tra kinh tế:
Phỏng vấn 30 hộ gia đình đã tham gia Dự án, với mức độ giàu nghèo khác nhau
và được chia làm 3 nhóm hộ, trong đó hộ khá khoảng 10 hộ, hộ trung bình khoảng 10
hộ và hộ nghèo 10 hộ. Đối với điều kiện cụ thể tại xã Kỳ Lạc, tiêu chí phân loại hộ như
sau : Hộ khá ( nhóm I) là những hộ tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, có thu nhập trên
15 triệu đồng/năm, có tài sản từ 40 triệu đồng trở lên, có nhà xây kiên cố. Hộ trung
bình (nhóm II) là những hộ biết tổ chức sản xuất, thu nhập trên 10 triệu đồng/năm, có
nhà gỗ chắc chắn, có tài sản trên 25 triệu đồng. Hộ nghèo ( nhóm III) là những hộ tổ
chức sản xuất yếu, thu nhập dưới 10 triệu đồng/năm, nhà tranh tre, có tài sản dưới 20 triệu đồng.
Tuy nhiên đây không phải là con số tuyệt đối và số hộ có thể biến động qua lại
trong tổng số điều tra. Các thông tin phỏng vấn được ghi vào phiếu điều tra với
những thông tin cần thiết (xem phần Phụ lục )
Tổng hợp, phân loại kinh tế hộ gia đình từ các số liệu phỏng vấn .
* Điều tra xã hội :
Tác động của Dự án về mặt xã hội thường phức tạp, khó định lượng. Trong phạm vi
đề tài chỉ sử dụng một số phương pháp và nội dung sau :
- Mức độ chấp nhận và tham gia của người dân trên địa bàn đối với Dự án thông qua
tỷ lệ tham gia vào các hoạt động của Dự án.
- Thu hút lao động, khả năng tạo việc làm và sự thay đổi cơ cấu sử dụng thời gian khi
triển khai Dự án thông qua số ngày làm việc theo các công việc chính của hộ gia đình trước

và trong 2 giai đoạn của Dự án.
- Vai trò của người dân và nhận thức của họ trong việc bảo vệ và phát triển rừng trong
quá trình thực thi và trong giai đoạn hậu Dự án.
- Mức độ tham gia của phụ nữ trong các hoạt động của Dự án kể cả trong giai
đoạn thực thi và giai đoạn hậu Dự án.
* Điều tra môi trường :
Căn cứ vào hiện trạng, tình hình triển khai thực hiện Dự án trên địa bàn, tiến


15
hành điều tra một số chỉ tiêu cơ bản mà Dự án tác động đến: độ che phủ, khả năng
chống xói mòn, sự thay đổi của môi trường sinh thái xung quanh, khả năng hấp thụ khí
CO2 theo tiêu chuẩn CDM Việt Nam,.v.v
Đánh giá sự thay đổi độ phì đất vào thời điểm trước và sau dự án dựa vào một
số chỉ tiêu chính như: Độ PH, hàm lượng mùn tổng số, lân dễ tiêu. Trong thực tế độ
phì của đất được biểu hiện bằng nhiều tính chất cơ lý khác nhau tuy nhiên trong
phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ tập trung đánh giá một số yếu tố chính đã nêu trên.
2.Phương pháp thu thập số liệu trên các ô mẫu
Lập mỗi năm trồng 3 ô tiêu chuẩn (ÔTC) mỗi ô có diện tích 500m2 (20 m x
25 m). Trên các ÔTC tiến hành mô tả các yếu tố tự nhiên trên ô, thu thập các chỉ
tiêu điều tra cần thiết như loài cây, năm trồng, đường kính tại vị trí 1 m 3 (D 1.3),
chiều cao vút ngọn (Hvn),
+ Điều tra cây bụi thảm tươi, độ che phủ.v.v
+ Xác định độ tàn che, độ đầy của tầng thảm mục v.v
+ Xác định độ dốc bằng địa bàn cầm tay và thước đo cao.
+ Xác định độ xốp của đất bằng ống dung trọng (dung tích 100cm3)
3.5.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
1. Phương pháp đánh giá tác động kinh tế.
Chia số hộ gia đình được phỏng vấn làm 3 nhóm hộ theo mức độ khác
nhau: Hộ khá, trung bình và nghèo. Tiêu chí như đã nêu ở phần 1, mục 3.5.2.2

2. Phương pháp đánh giá tác động của Dự án về mặt xã hội
Tác động của Dự án về mặt xã hội được đánh giá trực tiếp bằng phương pháp
định tính và định lượng sau:
Để đánh giá tác động của Dự án về mặt xã hội chúng tôi sử dụng phương
pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân (Phương pháp PRA).
Đây là phương pháp đánh giá được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay trong việc đánh
giá các Dự án nông - lâm nghiệp. Dựa vào các nguồn thông tin thu thập trong quá
trình phỏng vấn, tài liệu thu thập, chúng tôi đánh giá một số chỉ tiêu sau:
+ Đánh giá mức độ chấp nhận của người dân được thể hiện qua số lượng các
hộ gia đình tham gia vào hoạt động của Dự án (trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ.v. v)


16
+ Các phương thức canh tác được người dân áp dụng (chấp nhận) là những
phương thức mang lại hiệu quả kinh tế cao, áp dụng kỹ thuật dễ dàng và các điều
kiện về vật tư, tiền vốn, tiêu thụ sản phẩm, bảo vệ môi trường cảnh quan được đáp
ứng thoả đáng.
+ Đánh giá hiệu quả giải quyết việc làm (mức độ thu hút lao động thông qua các
hoạt động của Dự án). Chúng tôi xác định số nhân công cần thiết cho các hoạt động
trong cả chu kỳ của Dự án. Thông qua đó có thể biết được khả năng giải quyết lao động
dư thừa, tạo công ăn việc làm cho người dân trong vùng.
+ Đánh giá khả năng phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất cũng như
tinh thần của người dân trong vùng Dự án.
3. Đánh giá tác động về môi trường sinh thái.
Tiêu chí 1: Đánh giá khả năng phòng hộ của rừng thông qua chỉ tiêu chống xói
mòn.
Để đánh giá được chỉ tiêu này chúng tôi tiến hành lập ô tiêu chuẩn đại diện
cho các mô hình trồng rừng và ô tiêu chuẩn ngoài đất trống làm đối chứng. Trên ô
tiêu chuẩn chúng tôi tiến hành điều tra các chỉ tiêu sau: Độ tàn che, thảm mục, độ
che phủ, chiều cao cây.v.v từ đó tính toán các hệ số và xác định chiều dầy lớp đất

bị xói mòn theo công thức.
d(mm) = 2,31 x 10-6 x K

2
2

(TC/H + Cp + TM) . X
Trong đó: TC : Độ tàn che tầng cây cao (%)

(3-1)

Cp : Độ tàn che của thảm tươi cây bụi (%)
: Độ dốc.
TM : Độ che phủ của thảm mục.
X

: Độ xốp của đất.

H : Chiều cao trung bình của tầng cây cao.
K : Chỉ số xói mòn của mưa hay đại lượng phản ánh năng lực gây xói
mòn đất của mưa, được xác định theo công thức (3-2):
12

K
i1

Ri
5 , 8263 2 , 481.Ln Ri 1
916 331.Lg
. 100

25 , 4
25 , 4



Ri: Lượng mưa tháng thứ i trong năm, tính bằng mm/tháng.

(3 2)


17
Các chỉ tiêu H, Cp, TM, TC, được xác định trực tiếp trên các ô tiêu chuẩn
điển hình . Độ xốp đo trực tiếp trên ô bằng ống dung trọng 100 cm3.
Tiêu chí 2 : Những tác động đến môi trường đất.
Tiến hành đào phẫu diện đất điển hình và phân tích so sánh các chỉ tiêu
chính: Độ PH, Mùn, lân, kali, xói mòn.
- Chống xói mòn bằng biện pháp canh tác. Tính lượng nước thấm vào đất
(W): xác định theo công thức của Vư- cốp - sky (1937) :
W = Po - (Eb + T + S)

(3-3)

Trong đó:
W là lượng nước thấm vào đất (mm/năm)
Po là lượng mưa trung bình năm của khu vực (mm)
Eb là lượng bốc hơi vật lý trung bình năm của khu vực (mm)
S là dòng chảy bề mặt trung bình hàng năm (mm)
T là lượng bốc hơi vật lý của thảm thực vật (mm) S và T được tra theo
bảng tra của Phạm Văn Sơn - Viện Khí tượng thuỷ văn.
Tiêu chí 3 :Tình hình sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất, vật liệu khó

tiêu huỷ.
Kết hợp sử dụng các công cụ đánh giá có tham gia người dân để thu
thập thông tin đánh giá bằng các câu hỏi, chỉ tiêu cụ thể.
Tiêu chí 4: Khả năng hấp thụ khí CO 2 của rừng trồng theo tiêu chuẩn
CDM.
Các loại tài liệu cần thu thập : Tài liệu dự án ( Nội dung, quy mô, cơ
cấu cây trồng, kỹ thuật, đối tượng dự án thực hiện). Những báo cáo tiến độ và
báo cáo kết quả đánh giá trong quá trình thực hiện dự án.
Ngoài ra khi sử dụng phương pháp này có những vấn đề phát sinh, những thông
tin mới ngoài bộ câu hỏi cũng được ghi chép .


18
Chương 4
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Quá trình hình thành và phát triển của Dự án KFW 2.
4.1.1. Bối cảnh ra đời của Dự án.
Tài nguyên rừng Việt Nam trong những năm gần đây tuy có tăng về số lượng
nhưng có nguy cơ suy giảm cả về chất lượng và tính đa dạng sinh học của rừng tự
nhiên, ở một số nơi diện tích rừng tiếp tục bị tàn phá. Trong hơn 50 năm qua, bình
quân mỗi năm diện tích rừng bị mất đi khoảng gần 100.000 ha. Hậu quả là cân bằng
sinh thái bị đe doạ, nguồn thu nhập của dân cư sống trong và gần rừng bị giảm và đã
để lại diện tích đất trống đồi núi trọc đáng kể ( chiếm khoảng 18,59 % diện tích tự
nhiên của cả nước).
Nạn phá rừng đốt nương làm rẫy, rừng bị tàn phá bởi chiến tranh và rừng bị
khai thác không đảm bảo tái sinh ở 3 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị trong
thời gian qua đã để lại cho các địa phương này diện tích đất trống đồi núi trọc rất
lớn. Tỷ lệ diện tích đất trống đối trọc so với diện tích tự nhiên trước năm 1995 của
các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị tương ứng là : 30%, 35%, 42% [2]. Đây
có thể được coi là thách thức cho phát triển lâm nghiệp của các địa phương nhưng

xét về khía cạnh trồng rừng thì đó cũng chính là một tiềm năng. Nhưng đối với các
địa phương khó khăn lớn nhất để phát triển lâm nghiệp là vốn đầu tư.
Trước thực trạng như trên, chương trình hợp tác phát triển giữa Chính phủ
Nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà Liên bang Đức trong năm
1992- 1995, tổng số tiền 15 triệu Mác Đức được dành từ quỹ hợp tác tài chính cho
một dự án bảo tồn thiên nhiên ở Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn ( trước đây là Bộ Lâm nghiệp) đã có văn bản đề nghị Bộ Kế
hoạch - Đầu tư trình văn bản đề nghị Chính phủ Cộng hoà Liên bang Đức xem xét
dự án viện trợ không hoàn lại nhằm cải thiện tình hình phát triển lâm nghiệp ở 3 tỉnh
miền Trung : Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị.
Chính phủ Cộng hoà Liên bang Đức thông qua Bộ Hợp tác kinh tế uỷ
nhiệm cho Ngân hàng Tái thiết Đức( KFW) xem xét văn bản đề nghị của phía Việt
nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn uỷ nhiệm cho Ngân hàng Tái thiết
Đức tổ chức đấu thầu và kết quả là Công ty các dự án nông nghiệp Đức (GFA)


19
Hamburg đã được giao nhiệm vụ lập báo cáo khả thi dự án. Tháng 9 năm 1995 Báo
cáo khả thi dự án đã được hoàn thành. Từ 15 tháng 01 năm 1996 đến 31 tháng 01
năm 1996, Ngân hàng Tái thiết Đức đã sang Việt Nam thẩm định dự án này. Sau đợt
thẩm định phía Ngân hàng Tái thiết Đức và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(bên nhận tài trợ) thống nhất ký kết Hiệp định tài chính cùng với những thoả thuận
riêng. Dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 435/ TTg, ngày
16 tháng 6 năm 1997, trong đó :
- Tên dự án : Dự án trồng rừng ở các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị (
gọi tắt là Dự án KFW 2)
- Cơ quan thực thi dự án : Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh- Quảng BìnhQuảng Trị.
- Tổng chi phí dự án : 17.556.000 DM, trong đó :
+ Phía Đức : 15.000.000 DM
+ Phía Việt Nam : 2.556.000 DM

- Nhiệm vụ của dự án là : trồng mới và quản lý bền vững khoảng 21.000 ha
rừng phòng hộ và rừng sản xuất ở 10 huyện của 3 tỉnh dự án.
- Thời gian thực hiện : từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 12 năm 2001.
4.1.2. Khái quát Dự án KFW2 tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị :
4.1.2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của dự án:
a) Mục tiêu:
Góp phần trồng rừng, bảo vệ đất và sử dụng lâm sản một cách bền vững về
mặt sinh thái, có hiệu quả về kinh tế. Góp phần tạo công ăn việc làm và nâng cao
đời sống cho nhân dân địa phương trong vùng dự án [2].
Cụ thể là trồng mới 2.100 ha rừng trên 10 huyện thuộc 3 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị.
b) Nội dung đầu tư của dự án :
- Đầu tư cho công tác truyền thông, phổ cập khuyến nông- khuyến lâm, tổ
chức tập huấn, tham quan học hỏi kinh nghiệm của các địa phương trong và ngoài
vùng dự án.
- Đầu tư dịch vụ cung ứng vật tư, phương tiện, phân bón và cây con trồng
rừng cho hộ nông dân.


20
- Đầu tư trực tiếp tiền công lao động cho hộ trồng rừng và chăm sóc, bảo vệ
rừng của dự án thông qua sổ tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn với thời hạn 9 năm. Hai năm đầu, mỗi năm được rút 15 % cả gốc và
lãi, 7 năm tiếp theo mỗi năm được rút 10% cả gốc và lãi.
c) Các hoạt động của dự án:
- Tổ chức bộ máy điều hành từ Trung ương đến huyện và hệ thống cán bộ
phổ cập đến xã và cán bộ hỗ trợ thôn tham gia dự án.
- Thiết lập quy hoạch sử dụng đất vi mô cấp làng, xã có sự tham gia của cộng
đồng dân cư và xây dựng các sa bàn quy hoạch sử dụng đất theo đơn vị thôn.
- Tổ chức điều tra lập địa để xác định cơ cấu cây trồng.

- Thiết kế trồng rừng cho từng hộ gắn với việc giao đất và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho hộ theo Nghị định 02/CP .
- Cung ứng cây con cho hộ trồng rừng và mở sổ tài khoản tiền gửi cho hộ
theo khối lượng và giá trị thực hiện.
- Giám sát và đánh giá dự án.
Chu trình thực hiện dự án tóm tắt ở bảng sau:


21

(N»m ë file “ B¶ng chu tr×nh dù ¸n” trong folder nµy)


22

4.1.2. 2.Tổ chức bộ máy điều hành:
- ở Trung ương thành lập Ban điều hành dự án gồm các Bộ, Ngành chức năng
tham gia và 1 Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm Trưởng ban.
Thành lập Ban quản lý dự án đặt tại Cục phát triển lâm nghiệp ( nay là Cục
Lâm nghiệp ) thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- ở cấp tỉnh:
Thành lập Ban điều hành dự án tỉnh, gồm :
+ 1 Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban.
+ 1 Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm Phó trưởng
ban thường trực.
+ Các ngành: Địa chính ( nay là Tài nguyên và Môi trường), Tài chính, Kế
hoạch- Đầu tư, Kiểm lâm, Chi cục phát triển lâm nghiệp ( nay là Chi cục Lâm
nghiệp), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham gia thành viên Ban
điều hành dự án cấp tỉnh.
+ Thành lập BQL dự án cấp tỉnh đặt tại Chi cục phát triển lâm nghiệp do

đồng chí Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiêm Phó Trưởng
ban thường trực Ban điều hành làm Trưởng BQL dự án.
BQL dự án cấp tỉnh gồm có : Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Điều phối viên kỹ
thuật, Điều phối viên tài chính, Điều phối viên kế hoạch và các cán bộ kỹ thuật.
- ở cấp huyện :
Thành lập BQL dự án cấp huyện do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân huyện lảm Trưởng ban.
BQL dự án cấp huyện gồm có: Trưởng ban, Phó trưởng ban, cán bộ hiện
trường, kế toán.
- ở cấp xã không thành lập Ban quản lý dự án mà có 2 cán bộ phổ cập lâm
nghiệp (1 là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND xã, 1 là Uỷ viên lâm nghiệp xã); 1
thôn có 2 cán bộ hỗ trợ thôn: 1 là Trưởng thôn và 1 cán bộ có hiểu biết về lâm
nghiệp (ưu tiên nữ ).


23
Ban quản lý dự án các cấp được trang bị các thiết bị văn phòng, xe ô tô, xe
máy và xe đạp để thực hiện công tác chỉ đạo, giám sát, hướng dẫn các hộ tham gia
trồng rừng trong suốt quá trình thực thi dự án.
4.2. Khái quát Dự án tại tỉnh Hà Tĩnh
Cũng như các tỉnh trong vùng dự án, Hà Tĩnh bắt đầu triển khai thực thi Dự
án trồng rừng KFW2 từ tháng 7 năm 1997 đến hết năm 2001. Ban đầu vùng dự ấn
được xác định là 15 xã trên 3 huyện ( Kỳ Anh, Đức Thọ, Hương Sơn). Nhưng trong
quá trình thực thi đã mở rộng thêm 5 xã do nội dung quy hoạch trồng cây ăn quả
không được phía tài trợ chấp nhận và chuyển sang đầu tư trồng rừng. Năm 2000,
tỉnh Hà Tĩnh được phép thành lập thêm 1 huyện mới là huyện Vũ Quang bao gồm
một số xã thuộc huyện Hương Khê, Hương Sơn, Đức Thọ. Trong đó có một số xã
vùng dự án ở 2 huyện Hương Sơn, Đức Thọ thuộc địa phận hành chính huyện mới
Vũ Quang. Do đó về tổ chức bộ máy thành lập thêm 1 Ban quản lý dự án huyện Vũ Quang
và đưa số huyện tham gia dự án lên 4 huyện nhưng số xã vùng dự án không thay đổi.

4.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành.
Bộ máy điều hành dự án được thành lập theo mô hình tổ chức chung của dự
án như đã được trình bày ở mục 4.1.2.2. Cụ thể [1]:
- Ban chỉ đạo tỉnh :

11 người

- Ban quản lý dự án tỉnh :

12 người

- Ban quản lý dự án ở 4 huyện :

17 người

- Cán bộ hiện trường ở 4 huyện : 19 người.
- Cán bộ phổ cập lâm nghiệp xã :
- Cán bộ hỗ trợ thôn :

40 người
186 người

Sau khi dự án kết thúc giai đoạn đầu tư tài chính (giai đoạn 1), Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn có Công văn số 3877/BNN-TCKT về việc hướng dẫn
kết thúc dự án giai đoạn 1 và triển khai giai đoạn hậu dự án từ năm 2003-2009.
Trong đó giai đoạn 2003- 2005 có vốn hỗ trợ của nhà tài trợ; giai đoạn 2006- 2009
theo dõi sổ tiết kiệm, tổ chức quản lý bảo vệ rừng, kinh phí thực hiện giai đoạn này
không có hỗ trợ của phía nhà tài trợ mà sử dụng nguồn đối ứng của địa phương.
Về cơ cầu tổ chức Ban quản lý dự án tỉnh đã lập Đề án tổ chức bộ máy của
BQL hậu dự án với cơ cấu tinh giảm, gọn nhẹ.



24
- ở tỉnh : Có 4 người làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, gồm: Trưởng Ban,
Phụ trách kế toán, Phụ trách Kế hoạch - kỹ thuật, 1 cán bộ hiện trường.
- ở huyện ( 3- 5 người): Trưởng Ban, Phụ trách kế toán, Phụ trách Kế hoạch kỹ thuật, 1- 2 cán bộ hiện trường.
- ở xã: Mỗi xã để lại 1 cán bộ phổ cập và được hưởng phụ cấp theo diện tích
quản lý 30.000 đồng/100ha/tháng.
4.2.2. Kết quả đạt được trong giai đoạn đầu tư (giai đoạn 1):
Sau hơn 4 năm thực hiện, Dự án KFW2 ở tỉnh Hà Tĩnh đã trồng mới được
6.726,66 ha rừng, với sự tham gia của 4.587 hộ thuộc 93 thôn, 20 xã, 4 huyện. Cấp
3.242 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp miễn phí và mở 4.624 tài
khoản tiền gửi cá nhân cho các hộ tham gia Dự án tại Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn của 4 huyện với tổng số tiền gốc ban đầu là 13.180.850.000
đồng.
4.3. Khái quát về Dự án KFW2 tại xã Kỳ Lạc:
4.3.1. Điều kiện cơ bản của xã Kỳ Lạc
4.3.1.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý:
Kỳ Lạc là một xã miền núi nằm phía Tây Nam của huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà
Tĩnh cách trung tâm huyện lị trên 30 km. Giáp giới với 3 xã thuộc 2 huyện của tỉnh
Quảng Bình: phía Nam và phía Tây Nam tỉnh Quảng Bình. Giáp với 5 xã thuộc
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh: phía Bắc giáp với xã Kỳ Sơn, Kỳ Lâm; phía Tây giáp
với các xã Kỳ Hoa, Kỳ Hưng, Kỳ Trinh.
b. Diện tích:
Xã Kỳ Lạc có diện tích tự nhiên 12.250 ha trong đó có 550 ha đất canh tác
nông nghiệp ( trong đó có 90 ha lúa 2 vụ), 1.900 ha là rừng tự nhiên, diện tích còn
lại chủ yếu là đất trống, đồng cỏ và đồi núi trọc.
c. Địa hình :
Địa hình mang nét đặc trưng của vùng đồi núi trung du, có hơn 80% diện tích

là đồi núi, đồng cỏ bị chia cắt bởi hệ thống sông suối và các dãy núi thuộc dãy Hoành Sơn.


×