VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN LÊ MINH TRANG
SỰ TIẾN TRIỂN TRONG QUAN HỆ MỸ-ASEAN
TỪ NĂM 1977 ĐẾN NĂM 2015
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 62 22 03 11
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI- 2017
Công trình được hoàn thành tại:
Khoa Lịch sử, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TSKH. Trần Khánh
Phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Thanh Hiền
Khoa Sử học, Học viện KHXH
Phản biện 2: PGS. TS. Nguyễn Thị Quế
Học viện CTQG Hồ Chí Minh
Phản biện 3: PGS. TS. Văn Ngọc Thành
Trường ĐH Sư phạm Hà Nội
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại: Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam
Vào hồi…….giờ……phút, ngày……tháng…….năm 20....
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là khu vực địa chiến lược, Đông Nam Á đã từ lâu trở thành
đối tượng tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn, trong đó có Mỹ.
Nếu như dưới thời Chiến tranh Lạnh, Đông Nam Á là một trong
những điểm nóng gay gắt của cuộc đối đầu ý thức hệ tư tưởng chính
trị, quân sự giữa hai siêu cường Liên Xô và Mỹ, cũng như sự tranh đua
của Tam giác chiến lược Mỹ- Xô- Trung, thì từ thập niên 90 của thế
kỷ XX, nhất là những năm đầu của thế kỷ XXI, nơi đây lại tái diễn
cuộc tranh giành quyền lực giữa một siêu cường đã được xác lập là
Mỹ và một đại cường đang tìm kiếm địa vị siêu cường là Trung Quốc.
Sự tranh giành ảnh hưởng và quyền lực trên cùng với sự gia tăng của
toàn cầu hóa, khu vực hóa làm cho ASEAN ra đời và ngày càng có vai
trò lớn hơn trong các vấn đề quốc tế. Điều nay thúc đẩy Mỹ và
ASEAN đi đến phải thiết lập quan hệ và mở rộng hợp tác với nhau.
Quan hệ Mỹ- ASEAN tiến triển qua các giai đoạn, phụ thuộc
nhiều vào mục tiêu, vị thế của từng đối tác và bối cảnh quốc tế chi
phối. Nhu cầu hợp tác chống lại ảnh hưởng của Liên Xô và Việt
Nam ở Đông Nam Á từ cuối thập niên 70, những năm 80 của thế kỷ
XX đã thắt chặt quan hệ Mỹ-ASEAN, nhất là trong lĩnh vực chính
trị-an ninh. Tuy nhiên, trong thập niên 90 của thế kỷ XX, do ASEAN
không còn được ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ, cặp quan
hệ này có phần trầm lắng. Bước sang thế kỷ XXI khi Tổng thống
Obama lên cầm quyền, quan hệ giữa hai thực thể này có những bước
phát triển mới cả về cơ chế và nội dung hợp tác, trong đó có việc
nâng cấp quan hệ lên tầm đối tác chiến lược vào cuối năm 2015. Tuy
nhiên, mối quan hệ này vẫn đang đối mặt không ít thách thức về sự
điều chỉnh, thay đổi ưu tiên đối ngoại của Mỹ và tính lỏng lẻo, thiếu
đoàn kết của ASEAN cũng như sự gia tăng cạnh tranh chiến lược
giữa nước lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc.
2
Việt Nam là thành viên của ASEAN, nơi đan xen lợi ích,
chiến lược của các nước lớn, trong đó có Mỹ. Việt Nam đang ẩn
chứa trong mình cả những cơ hội và thách thức của thời đại. Mâu
thuẫn về ý thức hệ giai cấp trong quan hệ với Mỹ, sự khác nhau về
lợi ích quốc gia- dân tộc trong quan hệ với các nước thành viên
ASEAN và sự lỏng lẻo về thể chế liên kết của ASEAN còn là những
vấn đề khá nhạy cảm trong các mối bang giao quốc tế của Việt Nam.
Mọi tác động của quan hệ Mỹ- ASEAN đã, đang và sẽ tác động lớn
đến Việt Nam.
Như vậy, nhiều câu hỏi lớn đang đặt ra như tại sao Mỹ lại
chần chừ trong việc thiết lập quan hệ đối thoại với ASEAN trong
thập niên đầu khi tổ chức này ra đời? Yếu tố nào thúc đẩy Mỹ và
ASEAN hợp tác với nhau? Tại sao quan hệ giữa hai thực thể này
kém phần sôi động trong thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh và
được đẩy mạnh hơn từ những năm đầu của thế kỷ XXI? Tác động
của quá trình trên đến các thực thể liên quan, trong đó có Việt Nam
như thế nào? Những thách thức nào đang cản trở quan hệ MỹASEAN tiến về phía trước? Đây là những vấn đề cần làm rõ.
Chính những lý do trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Sự
tiến triển trong quan hệ Mỹ- ASEAN từ năm 1977 đến năm 2015”
làm Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Lịch sử Thế giới nhằm đánh giá,
so sánh quá trình vận động, thực chất và tác động của mối quan hệ
này qua các giai đoạn khác nhau, từ đó rút ra những đặc điểm, bản
chất nổi bật của quá trình này trong bối cảnh luôn biến động của môi
trường địa chính trị, kinh tế thế giới ở khu vực châu Á- Thái Bình
Dương trong gần nửa thế kỷ qua.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2 1 M c đ ch nghi n c u
Mục đích chính của nghiên cứu này là phân tích, làm rõ quá
trình vận động của mối quan hệ Mỹ- ASEAN từ 1977 đến 2015 qua
3 giai đoạn (1977-1991; 1991-2001 và 2001-2015 trên các phương
3
diện khác nhau, nhất là sự tiến triển về thể chế, nội dung hợp tác, từ
đó đánh giá thực chất, rút ra đặc điểm, bản chất cũng như tác động
của mối quan hệ này.
2 2 Nhiệm v nghi n c u
Thứ nhất, phân tích những nhân tố tác động đến sự thiết lập
quan hệ và quá trình vận động của mối quan hệ Mỹ- ASEAN từ năm
1977 đến 2015 như bối cảnh quốc tế, tình hình Mỹ, Đông Nam
Á/ASEAN theo 3 giai đoạn khác nhau: từ 1977 đến 1991, từ 1991
đến 2001 và từ 2001 đến 2015;
Thứ hai, làm rõ sự tiến triển của mối quan hệ này trên các
mặt khác nhau, nhất là về thể chế và nội dung hợp tác theo tiến trình
lịch sử của 3 giai đoạn 1977 – 1991 và 1991 – 2001, 2001-2015;
Thứ ba, đưa ra nhận xét về thực chất, đặc điểm, bản chất của
quá trình vận động và đánh giá tác động của mối quan hệ này kể từ
khi Mỹ- ASEAN thiết lập quan hệ đối thoại vào năm 1977 cho đến
thời điểm hai thực thể này nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược
vào năm 2015.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghi n c u
Luận án tập trung nghiên cứu sự vận động, tiến triển của
quan hệ Mỹ- ASEAN từ năm 1977 đến năm 2015. Nói một cách
khác là đề tài chủ yếu nghiên cứu quan hệ đa phương của Mỹ với
ASEAN. Tuy nhiên, trong công trình này cũng ó đề cập một ít đến
quan hệ song phương của Mỹ với một số nước ASEAN nhằm làm rõ
hơn quan hệ giữa Mỹ với tổ chức ASEAN. Cách tiếp cận trong mối
quan hệ này được nhìn từ phía Mỹ nhiều hơn.
3 2 Phạm vi nghi n c u
Về mặt không gian, đề tài nghiên cứu sự tiến triển của quan
hệ giữa hai chủ thể ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là Mỹ và
4
ASEAN. Do vậy, ngoài hai chủ thể này, không gian khu vực châu ÁThái Bình Dương và Thế giới cũng được đề cập nhiều.
Về mặt thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu xu hướng tiến
triển của quan hệ Mỹ- ASEAN từ 1977 đến 2015 theo ba giai đoạn:
1977 – 1991, 1991 – 2001 và 2001-2015, bắt đầu từ khi hai thực thể
này thiết lập quan hệ đối thoại (1977 cho đến khi Mỹ- ASEAN nâng
cấp quan hệ thành đối tác chiến lược vào cuối năm 2015. Năm 2015
cũng là thời điểm ASEAN tuyên bố hình thành Cộng đồng ASEAN.
Tuy nhiên, thời gian trước 1977 và sau 2015 cũng được đề cập, nhằm
làm rõ hơn sự vận động của tiến trình trên.
Về nội dung, luận án tập trung làm rõ sự vận động, xu hướng
tiến triển của quan hệ đa phương Mỹ- ASEAN qua các giai đoạn và
trên các lĩnh vực khác nhau, sự tiến triển về thể chế và nội dung hợp
tác. Tuy nhiên, mối quan hệ song phương của Mỹ với một số nước
thành viên của ASEAN và của Mỹ với các đối tác khác như Trung
Quốc cũng được đề cập một phần, nhằm làm rõ hơn sự tiến triển của
cặp quan hệ Mỹ- ASEAN.
4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn
tài liệu tham khảo của luận án
- Chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm lịch sử của các
thuyết về quan hệ quốc tế đương đại, trong đó có Thuyết Hiện thực
(Realism , Thuyết tự do (Liberalism hay thường gọi là Thuyết Thể
chế (Institutionalism , Thuyết Kiến tạo (Constructivism là nền tảng
lý luận để phân tích sự vận động, biến đổi trong quan hệ MỹASEAN.
- Phương pháp nghiên cứu chính của đề tài này là phương
pháp lịch sử, trong đó xem xét sự vận động, tiến triển của quan hệ
Mỹ-ASEAN dựa trên bối cảnh, điều kiện, sự kiện lịch sử cụ thể theo
trình tự không gian, thời gian. Bên cạnh đó, phương pháp phân tích,
so sánh, phân loại lịch sử kết hợp logic cũng như các phương pháp
nghiên cứu liên ngành khác của khoa học xã hội và nhân văn như
5
quan hệ quốc tế, khu vực học, đất nước học cũng được áp dụng nhằm
làm rõ hơn quá trình vận động, bản chất của mối quan hệ này giai
đoạn từ 1977 đến 2015.
- Các nguồn tài liệu sử dụng gồm các văn bản chính thức
như thông cáo, tuyên bố, hiệp định, thỏa thuận đã ký kết giữa Mỹ và
ASEAN, các tuyên bố, phát biểu của các lãnh đạo cấp cao Mỹ và
ASEAN, các bản tin lấy từ các phương tiện thông tin đại chúng, các
trang thông tin của Chính phủ, Quốc hội, các bộ, ngành của Mỹ,
ASEAN và các nước thành viên (tài liệu sơ cấp , và các công trình
nghiên cứu đã công bố, bảo vệ và tham luận của các nhà khoa học
(tài liệu thứ cấp .
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án này là một công trình khoa học đầu tiên ở Việt
Nam nghiên cứu toàn diện và hệ thống về sự vận động, biến đổi của
quan hệ Mỹ- ASEAN, nhất là sự tiến triển về thể chế, nội dung và thực
tiễn hợp tác từ năm 1977 đến năm 2015. -Từ nghiên cứu quá trình tiến
triển của mối quan hệ này, rút ra những đặc điểm, đánh giá tác động và
bản chất của quan hệ Mỹ- ASEAN trong gần nửa thế kỷ qua. -Bổ sung
thêm vào hệ thống tư liệu và lập luận khoa học cho nghiên cứu và giảng
dạy về lịch sử quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương nói
chung và quan hệ Mỹ- Đông Nam Á nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Các kết quả nghiên cứu có thể góp phần cung cấp những
luận điểm khoa học cho việc nghiên cứu, hoạch định chính sách đối
ngoại của Việt Nam với Mỹ trong bối cảnh chính sách đối ngoại của
Mỹ và tình hình khu vực châu Á- Thái Bình Dương cũng như trên
thế giới có nhiều thay đổi, diễn biến khó đoán định. Luận án còn góp
phần làm rõ hơn tính logic và bản chất của ASEAN trong quan hệ
đối ngoại, nhất là với các nước lớn, từ đó cung cấp thêm những luận
cứ khoa học cho việc hoàn thiện và đổi mới Cộng đồng ASEAN.
6
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, luận án được cấu tạo theo 5 chương như sau:
- Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Chương 2. Sự thiết lập và tiến triển của quan hệ đối thoại
Mỹ - ASEAN dưới thời Chiến tranh Lạnh (giai đoạn 1977-1991)
- Chương 3. Sự vận động của quan hệ Mỹ- ASEAN trong
thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh (từ 1991 đến năm 2001)
- Chương 4. Bước phát triển mới của quan hệ Mỹ- ASEAN từ
2001 đến 2015
- Chương 5. Nhận xét về sự tiến triển của mối quan hệ MỹASEAN từ 1977 đến 2015.
***
Chương I
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.1. Các công trình nghi n c u li n quan trực tiếp đến
quan hệ Mỹ-ASEAN
Trong số các công trình đã công bố liên quan mật thiết với
đề tài luận án có cuốn sách “Quan hệ Mỹ- ASEAN (1967-1997), Lịch
sử và Triển vọng” của Lê Văn Anh (Nxb. Từ điển Bách Khoa,
2009). Tác giả phân chia các giai đoạn khác nhau: từ 1967 đến 1977,
từ 1977 đến 1991 và từ 1991 đến 1997 là hợp lý. Tuy nhiên, mối
quan hệ trên chỉ dừng lại vào năm 1997, và phản ứng của ASEAN
trong quan hệ với Mỹ chưa được nghiên cứu sâu.
Tiếp đến là cuốn "Quan hệ Hoa Kỳ- ASEAN 2001-2020” của
Nguyễn Thiết Sơn (Nxb. Từ điển Bách Khoa, 2012). Công trình này
tập trung phân tích thực trạng quan hệ Mỹ-ASEAN từ sau sự kiện 11
tháng 9 năm 2001 đến năm 2011. Tuy nhiên, đối tác ASEAN trong
công trình này chưa được đề cập đúng mức, nhất là về nỗ lực mới
7
của ASEAN trong xây dựng Cộng đồng ASEAN và vai trò kiến tạo
một cấu trúc an ninh mới với ASEAN làm trung tâm.
Cùng với chủ đề trên còn có cuốn sách "Chính sách của Hoa
Kỳ đối với ASEAN trong và sau Chiến tranh Lạnh" của Lê Khương
Thùy (Nxb. Khoa học Xã hội, 2003). Tuy nhiên, sự phân chia lịch sử
quan hệ Mỹ-ASEAN từ 1967 đến 1995 thành 3 giai đoạn nhỏ là
1967-1975, 1975-1991 và 1991-1995 là chưa hợp lý. Hơn nữa, công
trình này nghiêng về phân tích chính sách đối ngoại của Mỹ mà chưa
phân tích nhiều đến quan hệ giữa hai thực thể này, nhất là về sự hình
thành các cơ chế hợp tác Mỹ-ASEAN.
Đáng chú ý nữa là công trình "Những điều chỉnh của ASEAN
trong quan hệ với Mỹ từ sau Chiến tranh Lạnh" của Nguyễn Phú Tân
Hương (Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Quan hệ quốc tế, bảo vệ năm
2016 tại Học viện Ngoại giao). Tác giả đứng từ góc độ ASEAN, phân
chia sự điều chỉnh của ASEAN trong quan hệ với Mỹ từ sau Chiến tranh
Lạnh thành 3 giai đoạn nhỏ như: 1991-1999; 1999-2008 và từ 2008 đến
nay là khá hợp lý. Tuy nhiên, từ góc độ Mỹ, sự phân chia các giai đoạn
trong tiến trình quan hệ Mỹ-ASEAN là có khác. Hơn nữa giai đoạn
trước 1991 chưa được đề cập nhiều trong luận án này.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu có đề cập đến quan hệ Mỹ ASEAN
Có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến quan hệ MỹASEAN. Trong số đó có Luận án "Chính sách đối với Đông Nam Á
của chính quyền Tổng thống Barack Obama (2009-2016)" của Phạm
Hoàng Tú Linh (bảo vệ năm 2016 và luận án "Quá trình xây dựng
quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc từ 1991 đến 2010"
của Đàm Huy Hoàng (bảo vệ năm 2015 ; Cuốn sách "Hợp tác và
cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung ở Đông Nam Á ba thập niên đầu
sau Chiến tranh Lạnh" do Trần Khánh làm chủ biên, Nxb. Thế Giới,
2014. Cả ba công trình này đề cập khá nhiều đến quan hệ MỹASEAN, ASEAN-Mỹ từ sau Chiến tranh Lạnh. Ngoài ra, có rất
8
nhiều bài báo khoa học khác có liên quan đến quan hệ Mỹ-ASEAN
qua các giai đoạn khác nhau. Trong số đó phải kể đến: “Chính sách
đối ngoại của Mỹ đối với Đông Nam Á từ sau sự kiện 11/9” của
Phạm Cao Cường, (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 6/2005 ; "Đông
Nam Á trong chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ (từ sau
Chiến tranh Thế giới lần thứ II đến năm 2011)" của Trần Thị Vinh
(Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số (01 142 năm 2012 v.v. Những
bài báo này phản ánh một cách đa diện sự điều chỉnh chiến
lược/chính sách toàn cầu và khu vực của Mỹ cũng như sự dịch
chuyển vị thế, vai trò của Mỹ và ASEAN trong các vấn đề quốc tế.
Ngoài các bài viết trên, còn có nhiều cuốn sách, bài báo dành
cho chủ đề ASEAN, trong đó có đề cập đến quan hệ ASEAN-Mỹ
như cuốn "Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hoá" do Trần
Khánh chủ biên, xuất bản năm 2002; “Liên kết ASEAN trong thập
niên đầu thế kỷ XXI” do Phạm Đức Thành chủ biên, xuất bản năm
2006; "ASEAN từ Hiệp hội đến Cộng đồng" do Nguyễn Duy Dũng
chủ biên, xuất bản năm 2012; “Hiện thực hoá Cộng đồng ASEANBối cảnh tác động và những vấn đề đặt ra” do Trương Duy Hoà chủ
biên, xuất bản năm 2013 v.v.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2 1 Các công trình nghi n c u li n quan trực tiếp đến
quan hệ Mỹ-ASEAN
Nghiên cứu về cặp quan hệ Mỹ-ASEAN đã thu hút nhiều
học giả trên thế giới. Trong số đó, có bài viết "US- ASEAN relations
under the Obama Administration 2009-2011" (Quan hệ Mỹ- ASEAN
dưới thời của Tổng thống Obama 2009-2011) của học giả Carmia
Colette Carrol (Đại học Georgetown, Washington, D.C, 2012 . Với
nghiên cứu này, tác giả Carmia đã đưa ra được góc nhìn so sánh
những thay đổi trong quan hệ với ASEAN dưới hai đời Tổng thống
Mỹ là G. Bush (con và B. Obama. Tiếp đến là các công trình
"ASEAN into the 1990s" (ASEAN bước vào thập niên 90) do Alison
9
Broinowski chủ biên, (New York, 1990 và cuốn "The ASEAN
Reader" (Tuyển tập về ASEAN do Sandhu K.S. và Saharon
Siddique chủ biên, (Singapore, 1992 . Các học giả tập trung nhiều
vào mối quan hệ của ASEAN với Mỹ từ cuối những năm 70. Tuy
nhiên hai công trình này chỉ đề cập các vấn đề của ASEAN và Mỹ
đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX.
Ngoài ra còn có cuốn sách "ASEAN Centrality and ASEANUS Economic Relationship" (Vai trò Trung tâm của ASEAN và
Quan hệ Kinh tế ASEAN- Mỹ của hai tác giả là Peter A. Petri và
Michael G. Plummer, được xuất bản năm 2014; bài viết."US Strategy
for ASEAN" (Chiến lược của Mỹ với ASEAN đăng trên tờ Globalist
ngày 26 tháng 5 năm 2010 của Ernest Bower. Trong các công trình này,
các tác giả phân tích vai trò của ASEAN trong việc kiến tạo một cấu
trúc an ninh mới với ASEAN làm trung tâm, và trong đàm phán, thông
qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP , cũng như phân
tích vị thế, lợi ích chiến lược của Mỹ, ASEAN ở Biển Đông.
Có khá nhiều tài liệu bằng tiếng Nga, trong đó có các công
trình tiêu biểu như: "ASEAN: Ba thập niên (1967-1997)", Tập 1, xuất
bản tại Matxcơva năm 1997; và "ASEAN: Ba thập kỷ của chính sách
đối ngoại", Tập 2, xuất bản năm 1999 của Maletin N.P. Nếu như
trong tập 1, tác giả tập trung phân tích sự tiến triển của ASEAN, nhất
là về cơ cấu tổ chức, nội dung hợp tác nội khối qua 3 giai đoạn 19671976, 1977-1991 và từ 1991 đến cuối thập niên 90, thì ở chương I
của tập 2, tác giả làm rõ vấn đề đối ngoại của ASEAN, trong đó có
quan hệ với Mỹ. Một công trình khác bằng tiếng Nga là "ASEAN ở
đầu thế kỷ XXI" của Viện Viễn Đông, Viện Hàn Lâm Nga, xuất bản
tại Matxcơva năm 2010. Ở chương 2 của phần II, trong mục có tiêu
đề "Quan hệ ASEAN-Mỹ", tác giả Senhin R. A đã tập trung phân
tích sự tiến triển của quan hệ ASEAN-Mỹ sau sự kiện 11/9/2001 và
tập trung phân tích giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2008.
10
1 2 2 Các công trình nghi n c u có li n quan đến quan hệ
Mỹ-ASEAN
Có rất nhiều công trình của học giả nước ngoài liên quan đến
quan hệ Mỹ-Đông Nam Á/ASEAN như “America’s role in Asia:
Asian and American View” (Vai trò của Hoa kỳ ở châu Á dưới góc
độ của Châu Á và Hoa Kỳ của The Asia Foundation (Quỹ Châu Á,
2008 với 321 tr; "American Foreign Policy: The Dynamics of
Choice in the 21st Century" (Chính sách đối ngoại của Hoa KỳĐộng cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI của Bruce W. Jentleson
(2013 ; và cuốn "Balancing Acts: The U.S. Rebalance and AsiaPacific Stability" (Chiến lược tái cân bằng của Mỹ tại châu Á- Thái
Bình Dương do nhóm tác giả Robert G. Sutter, Michael E. Brown và
Timothy J. A. Adamson công bố năm 2013 tại Đại học George
Washington; “Challenging ASEAN: the American pivot in Southeast
Asia” (Thách thức cho ASEAN: Chính sách xoay trục của Mỹ ở
Đông Nam Á của Donald K. Emmerson (2013 ; “Aligning US
Structures, Process, and Strategy: A US – ASEAN Strategic and
Economic Partnership” (Sự điều chỉnh chiến lược, diễn tiến và cấu
trúc trong quan hệ đối tác kinh tế Mỹ- ASEAN của Ernes Z. Bower
(2012 v.v. Đây là tập hợp các quan điểm của nhiều học giả Mỹ và
châu Á phân tích về chính sách và quan hệ của Mỹ nói chung, trong
đó có ASEAN từ sau Chiến tranh Lạnh.
1.3. Một số nhận xét về tình hình nghiên cứu đề tài và
những vấn đề đặt ra cần giải quyết
1 3 1 Nhận xét về nguồn tài liệu nghi n c u
Thứ nhất, những tài liệu nghiên cứu cả trong và ngoài nước
liên quan đến quan hệ Mỹ-ASEAN là hết sức đồ sộ và tương đối cập
nhật, phản ảnh khá đa diện. Tuy nhiên, các công trình chưa thực sự
đi sâu vào phân tích một cách có hệ thống cũng như so sánh các giai
đoạn tiến triển, đặc biệt là tiến triển về thể chế và nội dung hợp tác
giữa Mỹ và ASEAN.
11
Thứ hai, tài liệu nghiên cứu đa phần phân tích chính sách,
chiến lược đối ngoại của Mỹ với Đông Nam Á, chưa quan tâm đúng
mức đến việc phân tích sự tiến triển trong quan hệ Mỹ-ASEAN,
nhất là trong hai giai đoạn đầu (1977-1991, 1991-2001).
Thứ ba, trong các nghiên cứu chưa phân tích sâu những hạn
chế, làm rõ đặc điểm, bản chất và tác động của mối quan hệ MỹASEAN.
1 3 2 Những vấn đề luận án sẽ tập trung nghi n c u
Mặc dù nghiên cứu về cặp quan hệ Mỹ-ASEAN là khá
nhiều, nhưng NCS cho rằng cần tiếp tục làm rõ quá trình vận động
của mối quan hệ Mỹ- ASEAN từ 1977 đến 2015 qua 3 giai đoạn
(1977-1991; 1991-2000 và 2001-2015 trên các phương diện khác
nhau, nhất là sự tiến triển về thể chế, nội dung hợp tác, từ đó đánh
giá thực chất, rút ra đặc điểm, bản chất cũng như tác động của mối
quan hệ này.
***
Chương II
SỰ THIẾT LẬP VÀ TIẾN TRIỂN CỦA QUAN HỆ ĐỐI
THOẠI MỸ-ASEAN DƯỚI THỜI CHIẾN TRANH LẠNH
(1977-1991)
2.1. Sự thiết lập quan hệ đối thoại Mỹ-ASEAN
2 1 1 Bối cảnh của sự thiết lập quan hệ đối thoại MỹASEAN
ASEAN ra đời (1967 trong bối cảnh Mỹ đang phát động
rầm rộ cuộc chiến tại Việt Nam. Mỹ không chống lại sự ra đời của tổ
chức này và có ý định lôi kéo ASEAN để thực hiện mục tiêu chống
cộng sản của Mỹ tại khu vực. Tuy nhiên, Mỹ không vội vàng thiết
lập quan hệ với ASEAN sớm như nhiều nước khác vì lúc đó vẫn hy
vọng tính hiệu quả của SEATO với tư cách là liên minh quân sự và
ASPAC như một liên minh kinh tế - chính trị khá phù hợp với Mỹ ở
thời điểm đó. Hơn nữa, Mỹ lúc đó vẫn có những nghi ngờ nhất định
12
về khả năng tồn tại va thái độ khá trung lập của ASEAN. Thêm vào
đó, ASEAN bao gồm các nước nghèo và đang phát triển, phụ thuộc
nhiều vào thị trường và nguồn vốn của Mỹ. Trong ASEAN có 2
đồng minh khá thân thiện của Mỹ là Thái Lan và Philippines, khi đó
Mỹ và các nước thành viên ASEAN vẫn đề cao quan hệ song phương
hơn là đa phương.
Tuy nhiên, thắng lợi của cách mạng 3 nước Đông Dương
năm 1975 buộc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược chống cộng của họ,
muốn "NATO hóa" ASEAN. Tổ chức này đã trải qua một thập niên
tồn tại (1967-1977 , bước đầu khẳng định vị thế của mình và muốn
thiết lập quan hệ với Mỹ để có thêm nguồn lực cho an ninh và phát
triển, thu hút thêm nguồn vốn đầu tư, viện trợ, củng cố an ninh và vị
thế của Hiệp hội. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến sự thiết lập quan hệ đối thoại chính thức Mỹ- ASEAN năm 1977.
2 1 2 Sự ra đời cơ chế đối thoại Mỹ-ASEAN
Cơ chế đối thoại Mỹ-ASEAN được thiết lập bởi Thông cáo
chung giữa Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ với Bộ trưởng Ngoại giao
và Kinh tế của 5 nước ASEAN và đại diện của Thư ký ASEAN,
nhóm họp tại Manila từ ngày 8 đến 10 tháng 9 năm 1977. Trong
Thông cáo chung gồm 24 điểm đưa ra, hai bên tuyên bố thiết lập
quan hệ với nhau trên nguyên tắc hợp tác thân thiện và có hiệu quả.
Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ chế đối thoại này và coi
đây là một hình thức mới để Mỹ có thêm phương tiện mở rộng sự kết
nối các nỗ lực hợp tác giữa ASEAN và thế giới các nước đang phát
triển (Điểm 5 . Đồng thời, nước Mỹ vui mừng chào đón những thành
tựu của ASEAN với tư cách là một tổ chức khu vực và cho rằng,
ASEAN có vai trò quan trọng như một lực lượng tiến bộ cho hòa bình,
phát triển và thịnh vượng trong khu vực (Điểm 6 . Các điều tiếp theo
trong Thông cáo này đề cập nhiều đến các vấn đề kinh tế, ASEAN kêu
gọi Mỹ cùng phối hợp để thúc đẩy công nghiệp hóa, thu hút đầu tư và
tham gia có hiệu quả vào thị trường hàng hóa, tài chính của Mỹ. Hai bên
13
nhất trí thiết lập cơ chế Hội nghị Bộ trưởng thường niên Mỹ-ASEAN,
lập văn phòng đại diện và vạch ra một số vấn đề hợp tác cụ thể để tiếp
tục bàn luận trong tương lai như đàm phán về thương mại đa phương,
quy chế tối huệ quốc vấn đề giảm thuế quan và xây dựng các dự án công
nghiệp. Tuy nhiên, Bản Thông cáo chung chỉ là văn bản chính trị, không
có ràng buộc nào về mặt pháp lý.
2.2. Tiến triển của quan hệ Mỹ-ASEAN từ 1977 đến 1991
2 2 1 Bối cảnh của sự tiến triển quan hệ Mỹ-ASEAN từ
1977-1991
Sau thắng lợi của cách mạng 3 nước Đông Dương năm 1975,
việc Liên Xô và Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác vào
tháng 11 năm 1978, cũng như Việt Nam đưa quân vào Campuchia
(tháng 1/1979 và Liên Xô đưa quân vào Afganistan (tháng 12/1979
đã khiến Mỹ mở cuộc phản công chiến lược mới, chống lại ảnh
hưởng của Liên Xô trên toàn thế giới và của Việt Nam ở Đông Nam
Á. ASEAN lo ngại ảnh hưởng của liên minh Xô-Việt nên muốn lợi
dụng vị thế của Mỹ nhằm đảm bảo an ninh cũng như thu hút nguồn
lực từ Mỹ để phát triển kinh tế.
Từ thập niên 80, dưới thời Tổng thống Reagan (1981-1989),
nền kinh tế nước Mỹ bắt đầu phục hồi và phát triển với tốc độ khá
cao. Về đối ngoại, Mỹ thực hiện chính sách can dự vào các vấn đề
quốc tế, dựa trên sức mạnh kinh tế và quân sự. Đối với khu vực
Đông Nam Á, chính quyền Reagan đã lợi dụng vấn đề Campuchia để
tập hợp lực lượng, chơi "con bài Trung Quốc", lôi kéo Nhật Bảnnước đang có kế hoạch, ảnh hưởng và uy tín ngày càng lớn đối với
ASEAN, khai thác mâu thuẫn về ý thức hệ giữa hai nhóm nước là
ASEAN và 3 nước Đông Dương để trục lợi.
Các nước ASEAN, mặc dù đều lên án chế độ diệt chủng
Khmer Đỏ, nhưng lo ngại liên minh Xô-Việt có thể đe dọa an ninh
của họ. Còn Việt Nam và sau đó cả Lào và chế độ mới là Cộng hòa
Nhân dân Campuchia thân Việt Nam vẫn cho rằng, ASEAN là một
14
tổ chức thân Mỹ và phương Tây, được sinh ra để kiềm chế, chống lại
cộng sản ba nước Đông Dương, trước hết là Việt Nam.
2 2 2 Sự tiến triển của quan hệ Mỹ-ASEAN
Các mối quan hệ chính trị và quân sự, các khoản viện trợ
quân sự của Mỹ dành cho các nước ASEAN, sự phối hợp giữa Mỹ và
ASEAN trên các diễn đàn ngoại giao song phương và đa phương là
điểm nổi bật nhất của quan hệ Mỹ-ASEAN ở cuối những năm 70 và
thập niên 80 của thế kỷ XX. Trong khi Mỹ muốn gắn quan hệ kinh tế
của các nước ASEAN với mục tiêu quân sự và an ninh chiến lược,
thì ASEAN và hầu hết các nước thành viên muốn thúc đẩy quan hệ
kinh tế với Mỹ hơn là gắn kết quân sự do không muốn trở thành một
"SEATO mới". Chính những lý do trên đã góp phần làm cho cơ chế
hợp tác giữa Mỹ và ASEAN chỉ dừng lại ở Hội nghị đối thoại hàng
năm của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Thương mại. Các cuộc đối
thoại chủ yếu để trao đổi quan điểm, chứ chưa đưa ra được một
chương trình nghị sự nào có tính ràng buộc về mặt pháp lý, thúc đẩy
quan hệ giữa hai thực thể này. Các cơ chế hợp tác song phương giữa
Mỹ với từng nước ASEAN vẫn còn là công cụ chính để hai thực thể
này thúc đẩy quan hệ đa phương.
***
Chương III
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA QUAN HỆ MỸ-ASEAN TRONG THẬP
NIÊN ĐẦU SAU CHIẾN TRANH LẠNH (từ 1991 đến 2001)
3.1. Bối cảnh quốc tế, nước Mỹ, Đông Nam Á và ASEAN
3 1 1 Bối cảnh thế giới và khu vực châu Á-Thái Bình
Dương
Chiến tranh Lạnh kết thúc năm 1991 đã mở ra thời kỳ hòa
dịu, đối thoại và gia tăng hợp tác trên quy mô toàn cầu. Những vấn
đề an ninh phi truyền thống bắt đầu nổi lên: khủng bố, bạo lực, ly
khai dân tộc ở miền Nam Thái Lan, miền nam Philippines và khủng
hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997-1998. Sự cạnh tranh địa chính trị
15
giữa các nước lớn tăng lên. Mỹ muốn củng cố vị trí siêu cường, chi
phối thế giới bằng trật tự đơn cực. Trong khi đó, các nước lớn, các
trung tâm kinh tế và quyền lực khác lại muốn xây dựng một thế giới
đa cực. Các nước lớn, nhỏ đều coi trọng phát triển kinh tế và gia tăng
hợp tác. Các Công ty xuyên quốc gia (TNC , các tổ chức hợp tác
quốc tế thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, phát triển
thương mại và đầu tư quốc tế, thúc đẩy các quốc gia, các nước đang
phát triển tham gia vào phân công lao động quốc tế, thu hút các
nguồn lực bên ngoài vào phát triển đất nước.
Khu vực châu Á-Thái Dương trở thành điểm sáng về phát
triển và hội nhập kinh tế. Sau sự thần kỳ của Nhật Bản và các con
rồng mới ở châu Á ở thập niên 80, bước vào thập niên 90 của thế kỷ
XX, công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc được thực hiện từ
cuối những năm 70 đã mang lại kết quả tốt. Trung Quốc bát đầu trở
thành điểm sáng tăng trưởng kinh tế. Tuy trật tự thế giới đã thay đổi
với một siêu, đa cường, nhưng trật tự ở Đông Á/Đông Nam Á vẫn
được duy trì, trong đó Mỹ giữ vai trò số một và Nhật Bản vẫn ở vị trí
thứ hai. Vị thế của ASEAN tuy được nâng lên, nhưng chưa trở thành
"một cực" quyền lực ở khu vực này.
3 1 2 Tình hình nước Mỹ và sự điều chỉnh chiến lược đối
ngoại của Mỹ
Nước Mỹ bước vào thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh, nhất
là từ thời Bill Clinton cầm quyền (1993-2001 bước vào giai đoạn có
sức mạnh vượt trội trên tất cả các mặt, từ kinh tế đến chính trị và
quân sự. Về tình hình trong nước, sự suy thoái tương đối của nền
kinh tế Mỹ từ nửa sau thập niên 80, dưới thời Tổng thống G. Bush
(cha) (1989-2003 đã kết thúc. Thời gian này, Mỹ đầu tư phát triển
nền "kinh tế tri thức", trong đó tăng trưởng và đổi mới dựa trên công
nghệ thông tin. Về đối ngoại, từ chiến lược “vượt trên ngăn chặn”
(1989 , “chiến lược phòng thủ mới” (1990 và “phòng thủ khu vực”
(1991 của chính quyền Bush (cha , Tổng thống Clinton năm 1993
16
đưa ra chiến lược “dính líu và mở rộng” cả về kinh tế, an ninh-quân
sự và thúc đẩy dân chủ, nhân quyền. Điểm cần nhấn mạnh là, Mỹ
dưới thời Bill Clinton tỏ ra khôn khéo, mềm dẻo và linh hoạt hơn đối
với các vấn đề quốc tế, kết hợp cả sức mạnh quân sự với sức mạnh
mềm để duy trì vị thế siêu cường số duy nhất. Thực tế trong những
năm 90 của thế kỷ XX, châu Âu và lục địa Âu – Á vẫn chiếm vị trí
hàng đầu đối với an ninh của Mỹ. Tại châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ
ưu tiên củng cố quan hệ đồng minh chiến lược với các nước Đông
Bắc Á như Nhật Bản hơn các đồng minh ở Đông Nam Á. Đây là một
trong những yếu tố chính góp phần làm cho Mỹ có phần xao nhãng
quan hệ với ASEAN và các nước thành viên suốt trong thập niên 90
của thế kỷ XX.
3 1 3 Tình hình Đông Nam Á và ASEAN
Do ưu tiên chiến lược của Mỹ và Nga ở Đông Nam Á giảm
xuống, sự gia tăng hợp tác và cạnh tranh kinh tế, nên ASEAN đã có
hành động chiến lược, quyết định xây dựng AFTA, mở rộng thành
viên ASEAN từ 5 lên 10, kết nạp Việt Nam vào Hiệp hội (1995).
ASEAN mở rộng hợp tác an ninh, thành lập ARF - một Diễn đàn
hợp tác an ninh đa phương với sự tham gia của tất cả các nước lớn,
trong đó có Mỹ. ASEAN mở rộng hợp tác quốc tế bằng ASEM,
ASEAN+3, ASEAN+1. Những hành động này đã làm cho Hiệp hội
từ một tổ chức nghiêng về hợp tác chính trị-an ninh trong thập niên
80 trở thành một thực thể kinh tế - chính trị khá toàn diện, trong đó
hợp tác kinh tế trở thành yếu tố quan trọng, thúc đẩy thống nhất và
liên kết khu vực trong thập niên 90.
3.2. Thực tiễn quan hệ Mỹ-ASEAN trong thập niên 90
3 2 1 Quan điểm và lợi ch của Mỹ và ASEAN trong quan
hệ với nhau
Quan điểm và lợi ích của Mỹ trong quan hệ với ASEAN ở
thập niên 90 thể hiện tính hai mặt, một là tiếp tục duy trì các quan hệ
vốn có nhằm giữ lại quan hệ đồng minh chiến lược cũng như mở
17
rộng giá trị Mỹ về dân chủ, nhân quyền. Mặt khác, Mỹ không đánh
giá hết tiềm năng và vai trò của ASEAN như một thực thể có khả
năng tập hợp lực lượng trong kiến tạo hòa bình, cân bằng lợi ích của
Mỹ ở khu vực. Mỹ áp đặt nhiều về giá trị dân chủ, nhân quyền và
gắn chúng với lợi ích kinh tế.
Quan điểm và lợi ích của ASEAN trong quan hệ với Mỹ là
khá rõ ràng. ASEAN cần sự hợp tác của Mỹ, đánh giá cao vai trò và
khả năng của cường quốc số một này trên nhiều mặt, từ duy trì an
ninh đến thúc đẩy quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, ASEAN cũng tỏ ra
quyết đoán, có bản lĩnh và độc lập khi giải quyết các công việc nội
bộ của mình cho dù có sự không hài lòng từ phía Mỹ.
3 2 2 Thực tiễn quan hệ Mỹ-ASEAN trong thập ni n 90
Về tổng thể, quan hệ Mỹ- ASEAN trong thập niên 90 của thế
kỷ XX, dưới thời cầm quyền của Tổng thống B. Clinton (1992-2000)
có sự chững lại nhất định. Về hình thức hợp tác, hai bên tiếp tục theo
đuổi, mở rộng quan hệ kinh tế, hợp tác an ninh-quốc phòng và bàn
luận về các vấn đề liên quan đến dân chủ và phát triển tại khu vực.
Tuy nhiên, mức độ về hợp tác an ninh-quốc phòng có phần suy giảm.
Mỹ chú trọng nhiều hơn đến các vấn đề dân chủ, nhân quyền của
ASEAN, vấn đề kết nạp Myanmar vào ASEAN. ASEAN và các
nước thành viên muốn Mỹ duy trì sự hiện diện nhất định ở Đông
Nam Á và mở rộng hơn nữa thị trường cho hàng hóa của các nước
ASEAN. Tâm lý hoài nghi và thiếu tin tưởng trong ASEAN đối với
Mỹ có phần tăng lên, nhất là từ sau khủng hoảng tài chính-tiền tệ
châu Á 1997-1998. Cơ chế hợp tác giữa Mỹ và ASEAN trong thập
niên 90 có thêm khuôn khổ ARF.
***
18
Chương IV
BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI TRONG QUAN HỆ MỸ-ASEAN
(TỪ 2001 ĐẾN 2015)
4.1. Bối cảnh mới của tình hình quốc tế, Mỹ và ASEAN
4.1.1. Bối cảnh quốc tế
Nếu như sự kiện 11/9/2011 và cuộc chiến chống khủng bố
do Mỹ phát động sau đó đã tạo ra bước chuyển mới về hợp tác an
ninh giữa Mỹ và ASEAN, thì sự trỗi dậy và tham vọng của các
cường quốc mới nổi, đặc biệt là của Trung Quốc trong bối cảnh suy
giảm tương đối vị thế của Mỹ và các đồng minh chủ chốt là một
trong những tác nhân chính đưa đến sự gia tăng và đổi mới trong
quan hệ Mỹ-ASEAN. Bên cạnh đó, các vấn đề an ninh khác đang nổi
lên như khủng hoảng năng lượng, biến đổi khí hậu, tranh chấp chủ
quyền biển đảo và chạy đua vũ trang cũng tạo thêm động lực, thúc
đẩy hợp tác Mỹ-ASEAN. Những nỗ lực mới của ASEAN trong xây
dựng Cộng đồng khu vực và kiến tạo một cấu trúc an ninh mới với
ASEAN làm trung tâm đã làm tăng vai trò và vị thế của Hiệp hội đối
với khu vực và trên trường quốc tế, buộc các đối tác của ASEAN
phải điều chỉnh chiến lược, tăng cường hợp tác với tổ chức này.
4 1 2 Tình hình nước Mỹ, lợi ch và nhu cầu thúc đẩy
quan hệ của Mỹ với ASEAN
Từ cuối nhiệm kỳ của G. Bush và đặc biệt từ khi Obama lên
cầm quyền (từ tháng 01/2009 , chính sách phát triển quốc gia có
những điều chỉnh lớn. Chính quyền Obama chủ trương can thiệp nhất
định vào nền kinh tế thị trường, tiến hành quản lý chặt chẽ hơn về
tiền tệ, khuyến khích tiết kiệm và giảm chi tiêu. Tổng thống Brack
Obama đưa ra học thuyết mới về sử dụng “quyền lực thông minh”,
kết hợp cả sức mạnh "cứng" và "mềm", kết hợp giữa ngoại giao, kinh
tế, quân sự, chính trị, pháp lý và văn hóa cũng như chủ trương "đa
đối tác" trong quan hệ quốc tế. Từ thời gian này, chính quyền Mỹ
dành nhiều quan tâm đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Biểu
hiện rõ nhất là chính sách "xoay trục", sau đó là "tái cân bằng" chiến
19
lược của Mỹ ở khu vực. Đông Nam Á/ASEAN là một trong những
điểm chiến lược của chính sách mới này.
4.1.3. Tình hình của ASEAN và nhu cầu thúc đẩy quan hệ
của ASEAN với Mỹ
ASEAN bước vào thế kỷ XXI đã có nỗ lực mới thúc đẩy hội
nhập khu vực bằng việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, tạo dựng một
cấu trúc an ninh mới với ASEAN làm trung tâm. ASEAN đã trở nên
độc lập và bình đẳng tương đối trong quan hệ với các nước lớn và có
uy tín chính trị ngày càng tăng. Mặc dù vị thế và tầm ảnh hưởng của
Mỹ trên thế giới có phần suy giảm so với trước đây, nhưng Mỹ vẫn
có thể “cung cấp an ninh công cộng” và là nguồn lực cho phát triển
kinh tế của Đông Nam Á.
4.2. Bước phát triển mới trong cơ chế và nội dung quan
hệ Mỹ-ASEAN
4 2 1 Thiết lập mới các cơ chế hợp tác chung
Từ nửa sau thập niên đầu thế kỷ XXI, Mỹ đã linh hoạt kết
hợp cả song phương lẫn đa phương trong quan hệ quốc tế, cùng với
ASEAN lập nên các cơ chế hợp tác mới như "Tuyên bố chung
ASEAN-Mỹ về việc tăng cường quan hệ đối tác", "Kế hoạch Hành
động năm 2006 nhằm tăng cường quan hệ đối tác ASEAN- Mỹ”
(2006). Sự kiện có tính bước ngoặt về thể chế là hai bên thông qua
"Tuyên bố chung về Quan hệ Đối tác Chiến lược ASEAN- Mỹ" tại
Kuala Lumpur, Malaysia. Để hiện thực hóa Tuyên bố trên, Mỹ và
ASEAN đã thông qua "Kế hoạch Hành động Thực hiện Quan hệ Đối
tác Chiến lược Mỹ - ASEAN giai đoạn 2016-2020".
4 2 2 Mở rộng nội dung và lĩnh vực quan hệ giữa Mỹ và
ASEAN
Nội dung hợp tác giữa Mỹ và ASEAN từ thập niên đầu thế
kỷ XXI được triển khai trên tất cả các mặt, từ an ninh truyền thống
đến phi truyền thống, từ thương mại, đầu tư đến phát triển xã hội,
cộng đồng, hợp tác chống khủng bố, an ninh hàng hải, vấn đề Biển
Đông và phát triển cộng đồng.
20
Cùng với sự lỏng lẻo về thể chế, những hạn chế trong văn
hóa thực thi các cam kết và sự thiếu đoàn kết trong ASEAN, việc Mỹ
chưa thực sự danh ưu tiên quan hệ với ASEAN trong khoảng 15 năm
đầu thế kỷ XXI (cho dù Mỹ đã quan tâm nhiều hơn đến khu vực này
so với thập niên 90 của thế kỷ XX đã và đang làm cản trở đến việc
nâng cấp quan hệ Mỹ-ASEAN lên tầm cao mới.
***
Chương V
NHẬN XÉT VỀ SỰ TIẾN TRIỂN CỦA QUAN HỆ MỸ-ASEAN
TỪ NĂM 1977 ĐẾN NĂM 2015
5.1. Đặc điểm của quan hệ Mỹ- ASEAN giai đoạn 19772015
Th nhất, Quan hệ Mỹ-ASEAN tuy có thăng trầm, những
chưa bao giờ rơi vào trạng thái trì trệ hay có những đột biến lớn cả
về nội dung cũng như cơ chế hợp tác. Giai đoạn đầu (1977-1991),
quan hệ hai bên khá sôi động trên lĩnh vực chính trị-an ninh và quân
sự là do hai bên có lợi ích chung chống lại liên minh Xô-Việt. Trong
thập niên 90, hợp tác giữa hai thực thể này có phần chững lại do Mỹ
không coi ASEAN như là một hướng ưu tiên chính trong chính sách
đối ngoại. Bước vào thập niên đầu thế kỷ XXI, quan hệ Mỹ-ASEAN
có bước phát triển mới là do hai bên cùng mục tiêu chống khủng bố
toàn cầu và hạn chế sự gia tăng sức ép cạnh tranh từ phía Trung
Quốc, nhưng Đông Nam Á/ASEAN vẫn chưa thực sự trở thành đối
tác ưu tiên của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Th hai, ASEAN ngày càng trở nên độc lập, bình đẳng hơn
trong quan hệ với Mỹ, nhưng vẫn chịu tác động lớn từ chính sách
khu vực của Mỹ và luôn bị chi phối bởi lợi ích cốt lõi của Mỹ và
ASEAN. Mỗi khi Mỹ chú trọng, ưu tiên quan hệ với ASEAN nhằm
đối phó với một cường quốc nào đó thì quan hệ Mỹ-ASEAN thêm
phần sôi động. Vì mục tiêu duy trì vị thế, lợi ích và tầm ảnh hưởng
của Mỹ ở Đông Nam Á và nhu cầu đảm bảo an ninh và phát triển
kinh tế từ phía ASEAN là động lực chính làm cho quan hệ MỹASEAN luôn được duy trì và từng bước được củng cố.
21
Th ba, Nhân tố Trung Quốc luôn tác động mạnh mẽ đến sự
tiến triển của quan hệ Mỹ-ASEAN. Sự cấu kết giữa Mỹ và Trung
Quốc trong thập niên 70, đầu những năm 80 nhằm chống lại liên
minh Xô-Việt góp phần làm tăng hợp tác an ninh giữa Mỹ, ASEAN
và Trung Quốc. Chính sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại
Đông Nam Á và những hành động quyết đoán của Trung Quốc ở
Biển Đông trong thập niên đầu thế kỷ XXI đã thúc đẩy Mỹ và
ASEAN tăng cường hợp tác với nhau.
Th tư, Trong quan hệ Mỹ-ASEAN, hợp tác an ninh chiến
lược luôn là yếu tố quan trọng, đi đầu, tạo nền tảng cho thiết lập
quan hệ Đối tác Chiến lược Mỹ-ASEAN. Dưới thời Chiến tranh
Lạnh, quan hệ Mỹ-ASEAN chủ yếu bắt đầu từ lĩnh vực chính trị, an
ninh-quân sự nhằm chống lại liên minh Xô-Việt. Hợp tác chống
khủng bố và an ninh hàng hải, vấn đề Biển Đông từ thập niên đầu
của thế kỷ XXI đã làm cho quan hệ Mỹ- ASEAN trở nên đa dạng và
sinh động hơn.
Th năm, Quan hệ Mỹ- ASEAN bước vào thế kỷ XXI có
những bước tiến mới cả về cơ chế và nội dung hợp tác, nhưng chưa
thực sự hoàn thiện và đang đối diện không ít thách thức. Hai thực thể
này đã thiết lập cơ chế Hội nghị Cấp cao thường niên, nâng cấp quan
hệ từ Đối tác đối thoại lên Đối tác Chiến lược. Về nội dung quan hệ
được triển khai trên tất cả các mặt, từ an ninh truyền thống đến phi
truyền thống, từ thương mại, đầu tư đến phát triển xã hội, cộng đồng.
Tuy nhiên Mỹ và ASEAN chưa thiết lập được một FTA chung. Có lẽ
Mỹ chưa dành ưu tiên đúng mức với ASEAN và sự thiếu đoàn kết
nội bộ của Hiệp hội này là thách thứ lớn nhất làm cho quan hệ MỹASEAN chưa thực sự đi vào chiều sâu.
5.2. Tác động của quan hệ Mỹ-ASEAN
Th nhất, tác động đến môi trường địa chính trị và tầm ảnh
hưởng của Mỹ, vị thế của ASEAN. Sự thiết lập và phát triển quan hệ
giữa Mỹ và ASEAN dưới thời Chiến tranh Lạnh đã làm tăng sự đối
đầu Xô- Mỹ và hình thành nên Tam giác chiến lược Mỹ-Trung-Xô ở
Đông Nam Á, làm cho mâu thuẫn giữa hai nhóm nước là ASEAN và
22
Đông Dương trở nên căng thẳng. Các nước ASEAN được hưởng nguồn
viện trợ phát triển từ hợp tác chính trị, an ninh-quân sự với Mỹ. Ở thập
niên đầu sau Chiến tranh Lạnh, sự khá ngưng trệ trong quan hệ MỹASEAN đã làm cho ASEAN trở nên độc lập hơn trong quan hệ quốc tế,
đồng thời cũng tạo điều kiện tốt hơn cho Trung Quốc gia tăng ảnh
hưởng tại khu vực này. Điều này làm từng bước xói mòn tầm ảnh hưởng
của Mỹ ở Đông Nam Á. Bước sang thế kỷ XXI, quan hệ giữa Mỹ và
ASEAN có những bước phát triển mới. Điều này làm tăng cạnh tranh
địa chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực này. Mỹ thông qua
ASEAN để có điều kiện tốt hơn khi triển khai chiến lược "tái cân bằng"
ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Còn ASEAN thông qua nhân tố
Mỹ để cân bằng tốt hơn trong quan hệ với các nước lớn, hạn chế mặt trái
từ sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc nhằm duy trì an ninh, thúc đẩy
hội nhập và phát triển.
Th hai, tác động đến Việt Nam, Hợp tác giữa Mỹ và
ASEAN dưới thời Chiến tranh Lạnh đã làm cho Việt Nam cô lập với
cộng đồng quốc tế, với thế giới tư bản chủ nghĩa. Làm chậm quá
trình phục hồi và phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Sau Chiến tranh Lạnh, xu hướng hòa dịu, hợp tác toàn cầu và cách
tiếp cận khác nhau về dân chủ, nhân quyền giữa Mỹ và ASEAN đã
giảm đi tác động mặt trái của mối quan hệ này đến Việt Nam, góp
phần để Việt Nam đẩy nhanh tiến độ hội nhập vào ASEAN và cải
thiện quan hệ với Mỹ. Từ thập niên đầu thế kỷ XXI, quan hệ MỹASEAN đã góp phần quan trọng làm tăng các mối quan hệ quốc tế
của Việt Nam, nhất là trong quan hệ với Mỹ và các đồng minh của
Mỹ trên thế giới, làm giảm đi áp lực từ phía Trung Quốc.
***
23
KẾT LUẬN
Trải qua 38 năm (1977-2015 kể từ khi quan hệ giữa Mỹ và
ASEAN được thiết lập, hợp tác giữa hai thực thể này diễn ra có lúc
thăng trầm qua từng giai đoạn và có những đặc điểm, tác động khác
nhau. Sau quá trình nghiên cứu đề tài "Sự tiến triển trong quan hệ
Mỹ-ASEAN từ năm 1977 đến năm 2015", nghiên cứu sinh có thể
đưa ra những kết luận sau:
Th nhất, Quan hệ Mỹ-ASEAN, được thiết lập và phát triển
từ năm 1977 cho đến 2015, đã trải qua nhiều cung bậc và giai đoạn
khác nhau. Bước vào thập niên đầu thế kỷ XXI, quan hệ Mỹ-ASEAN
có bước phát triển mới cả về khuôn khổ và nội dung hợp tác. Tuy
nhiên ASEAN chưa trở thành đối tác ưu tiên của Mỹ tại khu vực
châu Á-Thái Bình Dương.
Th hai, Quan hệ Mỹ-ASEAN tuy có bước thăng trầm,
nhưng chưa bao giờ rơi vào trạng thái trì trệ hay có những đột biến
lớn cả về nội dung cũng như cơ chế hợp tác. Mối quan hệ này phát
triển từng bước, chủ yếu bắt đầu từ lĩnh vực chính trị, an ninh-quân
sự và vai trò thúc đẩy chủ yếu bắt nguồn từ phía Mỹ. Mục tiêu an
ninh chiến lược nhằm duy trì vị thế, lợi ích và tầm ảnh hưởng của
Mỹ ở Đông Nam Á, cũng như nhu cầu đảm bảo an ninh và phát triển
kinh tế của ASEAN là động lực chính làm cho quan hệ Mỹ-ASEAN
luôn được duy trì và từng bước được củng cố.
Th ba, Trong quan hệ với Mỹ, ASEAN ngày càng trở nên
độc lập, bình đẳng hơn, nhưng luôn chịu tác động lớn từ chính chính
sách khu vực và toàn cầu Mỹ.
Th tư, Trong 15 năm đầu của thế kỷ XXI, quan hệ MỹASEAN đã có bước phát triển mới cả về khuôn khổ và nội dung hợp
tác. Hai thực thể đã thiết lập cơ chế Hội nghị Cấp cao thường niên,
nâng cấp quan hệ từ Đối tác đối thoại lên Đối tác Chiến lược. Hợp
tác thương mại, đầu tư tuy có gia tăng nhưng với tốc độ vừa phải và
không có sự đột biến lớn.