Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

Đại cương văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.39 KB, 171 trang )

CHƯƠNG I
NHẬP MÔN VĂN HOÁ HỌC
VÀ ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM
I. VĂN HÓA HỌC: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Sự cần thiết của Văn hóa học
Con người là chủ thể, là sản phẩm và đồng thời là “vật mang”
văn hoá, với những hoạt động của mình tác động đến môi trường xung
quanh dựa trên những chuẩn mực văn hoá được thừa hưởng từ truyền
thống và giáo dục. Bởi vậy, để phát huy tiềm năng con người vào công
cuộc phát triển xã hội nói chung và vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế nói riêng, cần phải tính đến các yếu tố văn hoá mà mỗi con người
đang mang trong bản thân.
Văn hóa học với tư cách là một khoa học nghiên cứu về văn hóa
ra đời và phát triển được thúc đẩy bởi những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người qua
mỗi thời đại luôn xây dựng cho mình những mẫu người lý tưởng để
hướng tới. Từ cuối thế kỷ XIX mẫu người lý tưởng mà nhân loại
hướng tới chính là mẫu người văn hóa. Từ đó đến nay “văn hóa” trở
thành đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau. Đây là một
phạm trù đầy khác thường và rộng lớn. Là một khái niệm gắn liền với
đời sống của tất cả mọi người, nhưng cũng hết sức khó hiểu và đòi hỏi
phải được giải thích rõ ràng hơn. Không ai có thể định nghĩa phạm trù
văn hóa một cách chính xác, hay cho biết ý nghĩa “thực sự” của nó là
gì. Điều đó một phần giải thích vì sao khái niệm này lại hữu ích đến
thế, bởi vì khi chúng ta nói nó là gì thì bản thân chúng ta lại tiếp tục
muốn nói đến một điều gì đó mang ý nghĩa to lớn hơn. Bản thân từ
“văn hóa” chứa đựng trong nó biết bao nhiêu điều.
1


Thứ hai, trong tiến trình lịch sử của nhân loại, các mối liên kết


cộng đồng trên cơ sở văn hoá thường tỏ ra bền vững và chịu được thử
thách của thời gian hơn những mô thức liên kết khác, chẳng hạn như
nhà nước hay thị trường.
Nhưng trong điều kiện toàn cầu hoá, tính tuyệt đối, tối cao, tính
không chuyển nhượng và chia cắt của chủ quyền quốc gia đang gặp
phải nhiều vấn đề; mà cụ thể là: trước áp lực của sự phụ thuộc lẫn
nhau về kinh tế, sinh thái, an ninh, và các vấn đề chung khác nữa do
toàn cầu hoá mang lại, ranh giới giữa các quốc gia đang dần bị mờ đi.
Thứ ba là nhu cầu tự khẳng định và bảo tồn cấu trúc của quốc
gia - dân tộc trước áp lực của toàn cầu hoá.
Thứ tư là nhu cầu phản tư (tự khẳng định, tự bảo vệ, tự đánh giá)
của các cá thể trước tính đa dạng và bất định do toàn cầu hoá đem lại.
Thứ năm là trong điều kiện toàn cầu hoá, văn hoá đang ngày
càng có tiếng nói quyết định đối với tăng trưởng kinh tế. Sự gia tăng
vai trò của văn hoá đối với kinh tế có thể thấy rõ trên hai phương diện:
tăng trưởng kinh tế và kinh tế tri thức.
Đối với Việt Nam, nghiên cứu về văn hóa là nhu cầu cấp thiết
không chỉ bởi đây là xu hướng phát triển chung của thế giới mà còn
bởi - hiện nay các nghiên cứu văn hóa mặc dù đang xuất hiện ngày
một nhiều, song lại khá tản mạn, tính hệ thống chưa cao, nặng về liệt
kê mô tả, hoặc lại thiên về suy diễn...
2. Bản chất của Văn hóa học
Có nhiều bộ môn khoa học cùng nghiên cứu văn hoá dưới nhiều
khía cạnh khác nhau, như dân tộc học, nhân học, xã hội học, triết học..
v.v. Tuy nhiên, chỉ có Văn hoá học là nghiên cứu văn hoá như một
chỉnh thể tự biến đổi và phát triển.
Nghiên cứu văn hóa là một lĩnh vực rất phức tạp, đòi hỏi sự trải
nghiệm học thuật và thực tiễn. Là một trong những ngành nghiên cứu
2



đầu tiên “không mang tính ngành”. Bởi không có một cách tiếp cận
nào có thể hy vọng hiểu hết được các lĩnh vực của văn hóa trong một
nghiên cứu. Văn hóa học là một khoa học tích hợp (Integral Science),
vừa nghiên cứu văn hóa nói chung, vừa nghiên cứu các hiện tượng văn
hóa riêng biệt. Mục đích của Văn hóa học là phát hiện ra và phân tích
tính quy luật của những biến đổi văn hóa - xã hội.
Người đầu tiên đặt nền móng cho cách tiếp cận chỉnh thể trong
nghiên cứu văn hoá, và là người đầu tiên đặt nền móng cho văn hoá
học là Edward B. Tylor - nhà nhân học nổi tiếng người Anh (với cuốn
"Văn hoá nguyên thuỷ", năm 1871). Gần 40 năm sau (năm 1909) thuật
ngữ "Văn hóa học" (tiếng Đức "Kunturkunde", tiếng Anh
"Culturology") mới ra đời. Người đặt ra thuật ngữ này là Wilhelm
Ostwald nhà khoa học và triết học Đức. Thuật ngữ này dùng để chỉ
môn học mới mà ông gọi là khoa học về các hoạt động văn hóa, tức là
hoạt động đặc biệt của con người.
Leslie Alvin White (1900-1975) là người đặt nền móng cơ bản
cho Văn hoá học với những công trình lý luận về sự tiến hoá của văn
hóa và những nghiên cứu khoa học về văn hóa mà ông gọi là "Văn hoá
học".
Trong các tác phẩm "Khoa học về văn hoá" (The Science of
Culture. 1949), "Sự tiến hoá của văn hóa" (The Evolution of Culture.
1959) và "Khái niệm văn hóa" (The Concept of Culture. 1973), L. A.
White đã đặt cơ sở cho văn hóa học với tính cách là một môn khoa
học độc lập, lý giải văn hóa như một hệ thống toàn vẹn, làm rõ phạm
vi, nguyên tắc và đối tượng nghiên cứu của văn hóa học... Nhưng vào
thời điểm ấy, ý niệm về văn hoá học còn quá mới mẻ nên ít người biết
đến.
Chỉ đến những năm 1990, khi tiến trình toàn cầu hoá tác động
mạnh mẽ lên đời sống của các cá thể và cộng đồng trên thế giới, người

ta mới thực sự chú ý đến vai trò của các tác nhân văn hoá đối với các
3


quá trình phát triển; và do đó, mới quan tâm đầu tư để thúc đẩy văn
hoá học phát triển và lan rộng trên khắp thế giới.
Cho đến nay, Văn hóa học đã phát triển tới độ - bao hàm trong
bản thân nhiều khuynh hướng khác nhau, khiến cho việc xác định đối
tượng và phương pháp của nó trở nên hết sức khó khăn.
3. Đối tượng nghiên cứu của văn hóa học
a. Khái niệm Văn hóa
Hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về Văn hoá học,
song các nhà nghiên cứu đều tìm được sự thống nhất chung trong việc
xác định đối tượng của bộ môn khoa học này. Theo đó, đối tượng của
Văn hoá học chính là Văn hoá. Tuy nhiên sự phân hoá tiếp theo trong
giới học giả chính là ở chỗ: quan niệm thế nào là Văn hoá?
Ngay từ giữa thế kỷ, năm 1952, hai nhà văn hoá học Hoa Kỳ A.
Kroeber và C. Kluckholn đã thống kê được 150 định nghĩa khác nhau
về văn hoá. Ngày nay số lượng các định nghĩa đó đã tăng lên rất nhiều
(trên 300 định nghĩa). Nhìn chung, có thể phân chia các định nghĩa về
văn hóa thành những loại chính như sau1:
- Các định nghĩa miêu tả, trong đó trọng tâm được đặt vào việc
liệt kê tất cả những gì mà khái niệm văn hóa bao hàm. Người tiêu biểu
cho kiểu định nghĩa như vậy về văn hóa là E. B. Tylor.
- Các định nghĩa lịch sử, trong đó nhấn mạnh các quá trình kế
thừa xã hội, truyền thống (chẳng hạn E. Sapir). Các định nghĩa kiểu
này dựa trên việc giả định về tính ổn định và bất biến của văn hóa, bỏ
qua tính tích cực của con người trong phát triển và cải biến văn hóa.
- Các định nghĩa chuẩn mực, hướng vào quan niệm về lý tưởng
và giá trị. Chẳng hạn W. Thomas coi văn hóa là các giá trị vật chất và

Phạm Khiêm Ích, Văn hoá học với sự nhận diện văn hoá thế kỷ XX, trong cuốn “Văn hoá
học và văn hoá thế kỷ XX”, Sđd Tập I, tr. 7-17.
1

4


xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, tâm thế,
phản ứng cư xử).
- Các định nghĩa tâm lý học, trong đó nhấn mạnh vào quá trình
thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối
ứng xử của con người. Chẳng hạn W. Sumner và A. Keller định nghĩa:
"Tổng thể những sự thích nghi của con người với các điều kiện sinh
sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh... Những sự thích nghi
này được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến
đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa".
- Các định nghĩa cấu trúc chú trọng tới tổ chức cấu trúc của văn
hóa. R. Linton chú trọng đến hai khía cạnh của văn hóa: "a/ Văn hóa
suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành
viên xã hội; b/ Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà người ta học
được và các kết quả ứng xử mà các thành tố của nó được các thành
viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa".
- Các định nghĩa nguồn gốc, trong đó văn hóa được xác định từ
góc độ nguồn gốc của nó. Nhà xã hội học P. Sorokin định nghĩa: "Với
nghĩa rộng nhất của từ, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay
được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều
cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau".
- Định nghĩa của UNESCO: Gần đây, UNESCO cũng đưa ra một
định nghĩa chính thức về văn hóa: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một
cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và

các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong
hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các
giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc
tự khẳng định bản sắc riêng của mình"1.

Uỷ ban Quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hoá: Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá.
H., Bộ Văn hóa Thông tin, 1992, tr.23
1

5


Việc hệ thống hoá sơ bộ các loại định nghĩa nói trên đã cho thấy
tính chất để ngỏ của khái niệm Văn hoá. Sở dĩ có tình trạng này là vì
văn hoá là hiện tượng bao trùm lên tất thảy các mặt của đời sống con
người, khiến bất kỳ định nghĩa nào đưa ra cũng khó có khả năng bao
quát hết được nội dung của nó. Mỗi loại định nghĩa chỉ có thể thâu
tóm một phương diện nào đó của văn hóa. Bởi vậy, cần coi các định
nghĩa như những trừu tượng, và cần sử dụng những trừu tượng ấy theo
cách là bổ sung lẫn nhau để có thể tái hiện văn hoá như một chỉnh thể.
Với tư cách là một chỉnh thể, Văn hoá mang trong nó những đặc
trưng cố hữu sau:
+ Văn hóa là cái phân biệt con người với động vật; Văn hóa là
đặc trưng riêng có của xã hội loài người.
+ Văn hóa không được kế thừa về mặt sinh học (di truyền), mà
phải có sự học tập, giao tiếp.
+ Văn hóa là cách ứng xử đã được mẫu thức hoá.
b. Các khái niệm tương cận: bản sắc, văn minh, văn hiến, văn vật
- Bản sắc (identity)
Bản sắc chính là văn hoá, song không phải bất cứ yếu tố văn hoá

nào cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn
hoá nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hoá này với một cộng đồng
văn hoá khác là bản sắc.
Như vậy, khái niệm bản sắc có hai quan hệ cơ bản: thứ nhất, nó
là dấu hiệu để phân biệt các cộng đồng với nhau (quan hệ bên ngoài);
và thứ hai, nó chỉ tính đồng nhất mà mỗi cá thể trong một cộng đồng
văn hoá phải có (quan hệ bên trong).
Chẳng hạn chủ nghĩa thực dụng và tính hỗn dung văn hoá của
người Mỹ là dấu hiệu để phân biệt họ với những dân tộc khác trên thế
giới. Song đó cũng là những dấu hiệu mà mỗi người Mỹ đều ít nhiều
mang trong bản thân.
6


Tuỳ từng đối tượng nghiên cứu cụ thể mà bản sắc được gắn với
các cộng đồng ở những quy mô khác nhau; cụ thể như: người ta có thể
nói đến bản sắc phương Đông hay phương Tây (cộng đồng văn hoá
khu vực), cũng có thể nói đến bản sắc của một dân tộc, một tộc người
hay một nhóm người trong xã hội.
Nếu phân kết cấu văn hoá của một cộng đồng thành các yếu tố:
Chung - phổ quát (mang tính nhân loại), đặc thù (mang tính khu vực)
và riêng (chỉ có ở cộng đồng được xét đến), thì bản sắc sẽ là một tập
hợp các yếu tố văn hoá độc đáo và riêng có (tức là thuộc nhóm những
yếu tố văn hoá riêng).
“Bản sắc là sự giống nhau và điểm khác biệt, về những cái
mang tính cá nhân và những cái mang tính xã hội, về việc bạn có gì
chung với một số người và điều gì khiến bạn khác những người
khác” (Weeks, 1990).
- Văn minh (civilization)
Hiện nay nhiều học giả ngoài nước nghiên cứu về văn hoá vẫn

sử dụng thuật ngữ Văn hoá và Văn minh thay thế lẫn nhau. Chẳng
hạn, họ có thể gọi văn hoá Ai Cập là nền văn minh Ai Cập, hay văn
hoá lúa nước là nền văn minh lúa nước...vv. Điều đó đã chứng tỏ sự
gần gũi của hai khái niệm này. Mặc dù vậy, vẫn tồn tại những khác
biệt nhất định trong cách sử dụng hai thuật ngữ nói trên.
Một số học giả coi văn minh là các giá trị vật chất của văn hoá.
Số khác quan niệm văn minh là lát cắt đồng đại của văn hoá, tức là
văn hoá được xét đến tại một thời điểm lịch sử xác định. Nói tóm lại,
cả hai quan niệm này đều coi văn minh chỉ là một bộ phận của văn
hoá - là khái niệm được văn hoá bao chứa, xét về mặt ngoại diên.
Trong khi đó, số khác lại quan niệm văn hóa chỉ là một bộ phận của
văn minh (cụ thể như Toynbee coi văn hóa là lĩnh vực hoạt động tinh
thần của nền văn minh).

7


Trong tình huống có nhiều ý kiến khác nhau như vậy, việc phân
biệt nội hàm hai khái niệm này tuỳ theo văn cảnh là điều cần thiết.
Chúng tôi cho rằng, khi đặt trong quan hệ dẫn đến các yếu tố khác
như: kinh tế, chính trị, xã hội, người ta thường sử dụng thuật ngữ văn
hoá và văn minh với một nội dung giống nhau. Khi vấn đề được bàn
đến trong nội bộ ngành văn hoá học, thì văn hoá và văn minh có sự
phân biệt; cụ thể là:
+ Văn minh dùng để chỉ trình độ phát triển cao của một nền văn
hoá. Việc xác định “cao” hay “thấp” dựa vào hai tiêu chí cơ bản là:
tính duy lý và tính phổ biến của nền văn hoá ấy.
+ Tính duy lý thể hiện ở mức độ tách khỏi giới tự nhiên của con
người, được biểu đạt thông qua hệ thống các đồ vật xã hội (vật chất),
và hệ thống các chuẩn mực, các tri thức (tinh thần).

+ Tính phổ biến thể hiện ở tình trạng, các cá thể trong cộng đồng
văn hoá được xét đến đều hoạt động dựa trên các hệ thống nói trên
(tính đồng nhất văn hoá cao); và những hệ thống chuẩn mực ấy có
ảnh hưởng mạnh đến các nền văn hoá khác.
Chính vì mang tính duy lý và phổ quát, nên văn minh còn được
dùng để chỉ trạng thái tiến bộ chung cho các cộng đồng người ở mọi
cấp độ: từ địa phương, nhà nước, khu vực, cho đến nhân loại.
Ở cấp độ chung nhất (toàn nhân loại), văn minh (Civilization)
được hiểu là sự tổng hoà những thành quả vật chất và tinh thần của
loài người trong quá trình cải tạo thế giới; là thước đo của tiến bộ xã
hội và mức độ khai hoá của con người. Khi loài người tách mình khỏi
giới động vật thì cũng là bước khởi đầu của văn minh.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nền văn minh
nhân loại đã có quá trình phát triển từ thấp lên cao: văn minh tiền công
nghiệp, công nghiệp, hậu công nghiệp...vv.
- Văn hiến văn vật
8


Văn hiến và văn vật là những thuật ngữ đặc trưng của văn hoá
phương Đông. Văn hiến dùng để chỉ những giá trị tinh thần do những
người có tài đức chuyển tải. (Văn = văn hoá, hiến = hiền tài). Văn vật
là truyền thống văn hoá tốt đẹp được thể hiện thông qua một đội ngũ
nhân tài và hiện vật trong lịch sử.
4. Các phương pháp nghiên cứu cơ bản của văn hóa học
Tồn tại các phương pháp chung và các phương pháp chuyên
ngành trong văn hoá học.
a. Phương pháp chung
- Phương pháp hệ thống – chỉnh thể
Hệ thống là một hiện thực được cấu thành bởi những yếu tố phụ

thuộc lẫn nhau và bởi những tương tác giữa chúng, dựa trên một
phương thức tổ chức nhất định.
Trong một hệ thống, bao giờ cũng tồn tại một số yếu tố nổi trội
và có ảnh hưởng chi phối các yếu tố còn lại. Tuỳ theo vị thế của mình
trong cấu trúc của hệ thống, mỗi yếu tố sẽ phải đảm nhiệm những
chức năng nhất định.
Đến lượt mình, vị thế của mỗi yếu tố lại bị
quy định bởi sức mạnh nội tại của nó - cái năng lực gây ảnh hưởng
đến các yếu tố khác, cũng như năng lực chuyển hoá các yếu tố khác
thành bộ phận tòng thuộc. Nhờ sức mạnh của sự phụ thuộc và chi phối
lẫn nhau mà các yếu tố gắn kết với nhau tạo thành chỉnh thể. Do đó,
hệ thống không phải là tập hợp của các đơn vị riêng lẻ (units), mà là
thể thống nhất của những yếu tố phụ thuộc lẫn nhau.
Phương pháp Hệ thống – chỉnh thể trong nghiên cứu văn hóa đòi
hỏi phải ứng xử với các hiện tượng văn hóa như những thành tố nằm
trong hệ thống lớn, và truy tìm ý nghĩa của chúng chính là trong bối
cảnh lớn đó, chứ không cắt đoạn chúng theo địa giới hành chính hay
phân giới địa lý.
9


Nhà sử học người Anh Arnold Toybee – người có ảnh hưởng lớn
đối với giới nghiên cứu lịch sử và xã hội học đương thời, ngay từ thập
kỷ 70 (thế kỷ XX), đã cho rằng: chỉ có các nền văn hoá - văn minh mới
đủ tư cách giữ vai trò là những thực thể trọn vẹn của lịch sử, và do đó
mới có đủ tư cách trở thành những đối tượng nghiên cứu độc lập; còn
quốc gia – dân tộc thì không như vậy. Khó có thể hiểu nổi lịch sử cũng
như văn hoá của một quốc gia, một dân tộc - một khi đã tách ra khỏi
nền văn hoá mà chúng đang tham dự với tư cách là thành tố.
Dưới nhãn quan "chỉnh thể", mỗi yếu tố cấu thành hệ thống chỉ

có giá trị và có đầy đủ ý nghĩa khi được xét đến trong hệ thống ấy và
trong mối tương quan của nó với những yếu tố khác cũng đang cấu
nên hệ thống nói trên.
Do đó, một nền văn hóa được xác định không phải bởi vì người
ta khoanh vùng nó bằng những đường biên nhân tạo; hoặc bởi người
ta định danh cho nó; mà bởi các yếu tố cấu thành nó không phải là
một tập hợp các hiện tượng hỗn loạn; trái lại, chúng liên kết với nhau
để tạo ra một "lôgíc nội tại". Dưới sự chiếu sáng của lôgíc nội tại ấy,
mỗi thành tố khôi phục lại ý nghĩa biểu trưng chân chính của mình như sự thống nhất trong tính đa dạng.
Và cũng dựa trên quá trình nảy sinh, phát triển, tiêu vong của
"lôgíc nội tại", các nhà nghiên cứu văn hóa đề cập đến sự sinh thành,
hưng thịnh và suy vong của các nền văn hóa, chứ tuyệt nhiên không
dựa vào quá trình sinh tồn đơn lẻ của các hiện tượng văn hóa (cultural
phenomena).
- Giao lưu - tiếp biến văn hóa (acculturation)
Giao lưu - tiếp biến văn hoá là phương pháp nghiên cứu văn hoá
dựa trên lý thuyết các trung tâm và sự lan toả văn hoá hay còn gọi là
thuyết khuếch tán văn hoá với các đại biểu như F. Rasel, L. Frobenius,
F. Giabner, W. Schmidt, G. Elliot Smith, W. Riers...

10


Thuyết này cho rằng, sự phân bổ của văn hoá mang tính không
đồng đều; văn hoá tập trung ở một số khu vực sau đó lan toả ra các
khu vực kế cận. Càng xa trung tâm, ảnh hưởng của văn hoá gốc càng
giảm - cho tới khi mất hẳn (lan toả tiên phát). Cơ chế này tạo ra các
vùng giao thoa văn hoá - nơi chịu ảnh hưởng đồng thời của của nhiều
trung tâm văn hoá, và cả những “vùng tối” nơi sức lan toả không với
tới.

Đến lượt mình các vùng giao thoa văn hoá cũng có khả năng
“phát sáng” tạo nên sự lan toả thứ phát, để hình thành nên những
trung tâm văn hoá mới và tiếp tục ảnh hưởng đến các khu vực kế cận.
Thuyết lan toả văn hoá giúp lý giải vì sao trong cùng một khu
vực địa lý lại có sự tương đồng về văn hoá, và vì sao ở những khu vực
giáp ranh giữa các nền văn hoá lớn thường tồn tại các nền văn hoá hỗn
dung.
Cơ sở khoa học của thuyết này là những luận điểm như dưới
đây:
+ Văn hoá là cái đặc trưng chỉ có ở con người xã hội, mà không
phải ở cá thể người tự nhiên. Chính sự hợp quần thành xã hội của các
cá thể người mới là nền tảng đích thực của văn hoá.
+ Không có hoạt động, không có giao lưu thì cũng không có bản
chất xã hội của con người, và do đó, cũng không thể có văn hoá.
+ Chỉ trong giao lưu (diễn ra trong nội bộ cộng đồng, hoặc giữa
các cộng đồng với nhau) văn hoá mới có thể tồn tại. Như vậy, giao lưu
và tiếp xúc văn hóa là sự vận động thường xuyên của văn hoá.
+ Đề cập đến văn hoá cũng có nghĩa là đề cập đến tất cả các
khâu của giao lưu: từ chủ thể của giao lưu (cá nhân, cộng đồng) cho
đến hoạt động giao lưu và sản phẩm của hoạt động giao lưu ấy.
Do đó, khi tiến hành nghiên cứu một nền văn hoá, nhất thiết phải
xét nó trong quan hệ dẫn đến các trung tâm văn hoá kế cận hoặc các
trung tâm văn hoá đã từng có mối liên hệ với nền văn hoá ấy trong
11


lịch sử; tức là phải xét đến quá trình giao lưu – tiếp biến dẫn đến sự
hình thành và phát triển của nền văn hoá ấy.
Sự thật là: xuyên suốt tiến trình lịch sử, tất cả các nền văn hoá
còn tồn tại cho đến giờ, thì đều hiện thân như kết quả của quá trình

giao lưu – tiếp biến. Giao lưu – tiếp biến là phương thức tồn tại của
mọi nền văn hoá trên hành tinh này.
Giao lưu – tiếp biến văn hoá được hiểu là hiện tượng xảy ra khi
những nhóm người có văn hoá khác nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau
gây ra sự biến đổi mô thức văn hóa của các bên.
Trong giao lưu có thể xảy ra hiện tượng những yếu tố của nền
văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá kia (tiếp thu thụ động); hoặc
nền văn hoá này vay mượn những yếu tố của nền văn hoá kia (tiếp thu
chủ động); rồi trên cơ sở những yếu tố nội sinh và ngoại sinh ấy mà
điều chỉnh, cải biên cho phù hợp, gây ra sự giao thoa văn hoá.
Giao lưu – tiếp biến văn hoá không chỉ là một phương pháp
nghiên cứu văn hoá, mà còn là một phương pháp được văn hoá học sử
dụng khá thường xuyên khi tiến hành phân xuất kết cấu của một nền
văn hoá cụ thể. Với phương pháp này, nội dung của một nền văn hoá
cụ thể được phân thành: yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh.
Tuy nhiên việc phân biệt như vậy chỉ mang tính tương đối. Cùng
với thời gian, yếu tố ngoại sinh có thể chuyển thành yếu tố nội sinh,
hoặc bị biến đổi một cách căn bản để trở nên phù hợp với nền văn hoá
đã tiếp nhận nó. Việc hấp thụ Nho giáo, Phật giáo...của một số nước
Đông Nam Á là một thí dụ về sự chuyển hoá nói trên.
- Phương pháp lịch sử (Cách tiếp cận Lịch đại)
Khảo cứu sự tiến triển của một nền (hay một hiện tượng văn
hoá) theo trục thời gian. Nó đem lại bức tranh phong phú, sinh động,
các tiểu tiết, các tài liệu cụ thể liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Bên cạnh những mặt mạnh vốn có, phương pháp này cũng gặp phải
những hạn chế nhất định như:
12


+ Bị lệ thuộc nhiều vào các tài liệu và các di chỉ tìm được.

+ Quy luật phát triển của đối tượng thường bị chèn lấp bởi các
sự kiện mang tính mảnh đoạn.
+ Đối tượng tượng thường được hình dung như một tập hợp bao
gồm các biểu hiện đa dạng hơn là một chỉnh thể có kết cấu và có lôgíc
phát triển nội tại.
- Phương pháp lôgíc (Cách tiếp cận Đồng đại)
Khảo cứu đối tượng (văn hoá) theo lát cắt đồng đại (trong không
gian đương đại). Nó có ưu điểm là cho phép hình dung về kết cấu của
đối tượng cùng với các chức năng và các yếu tố cấu thành. Nó cũng
vạch ra được quy luật nội tại của đối tượng, nhờ đó đối tượng được tái
hiện như một chỉnh thể sống động, vận động tự thân. Nó cũng giảm sự
phụ thuộc của nghiên cứu vào các tài liệu lịch sử.
Bên cạnh đó, phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định
như: dễ rơi vào tư biện, kém sinh động và thiếu các luận cứ thực
chứng.
Để khắc phục những nhược điểm trên, người ta thường sử dụng
phương pháp lôgic trong sự kết hợp và hỗ trợ của phương pháp lịch
sử.
- Thống nhất giữa lôgíc và lịch sử (Tọa độ văn hóa)
Tọa độ văn hoá là một phương pháp nghiên cứu văn hoá theo hai
trục cơ bản: không gian văn hoá và thời gian văn hoá. Thông thường,
không gian văn hoá vẫn được quan niệm là vùng địa lý; còn thời gian
văn hoá được xác định bằng niên đại lịch sử.
Về thực chất, đây là phương pháp nghiên cứu mang tính tổng
hợp, bởi nó bao hàm trong bản thân nhiều phương pháp hỗ trợ khác;
mà cụ thể là: nó sử dụng phương pháp lôgíc, địa văn - hoá, giao lưu –
tiếp biến văn hoá..vv, để xác định không gian văn hoá. Trong khi đó,
phương pháp lịch sử được sử dụng để xác định thời gian văn hoá (tiến
trình văn hoá - là kết quả của việc áp dụng phương pháp này).
13



Cũng có thể vận dụng cả chiều thứ ba để xác định tọa độ văn hoá
- đó là chiều chủ thể văn hoá. Việc bổ sung như vậy là có lợi đối với
các nghiên cứu về văn hoá tộc người song lại gây trở ngại cho các
nghiên cứu về văn hoá dân tộc.
Sở dĩ như vậy là vì, khái niệm tộc người dùng để chỉ các cộng
đồng tương đối thuần khiết về chủng và có chung thổ ngữ. Khái niệm
này không nhấn mạnh nhiều đến đặc điểm quần cư về mặt địa lý.
Chính nhờ khái niệm này mà việc nghiên cứu văn hoá của một số
cộng đồng phát tán (thiếu vắng dấu hiệu quần cư về địa lý) như cộng
đồng Do Thái, cộng đồng người Hoa hải ngoại, hoặc các bộ tộc du
mục... trở nên dễ dàng hơn.
Trong khi đó, khái niệm Dân tộc (nation) lại không nhấn mạnh
đến yếu tố chủng, thậm chí là cả ngôn ngữ, mà nó chủ yếu tập trung
vào mô tả cái cộng đồng nằm trong địa giới hành chính của một nhà
nước và chịu sự quản lý của nhà nước ấy – tức là nhấn mạnh đến yêú
tố lãnh thổ. Chính vì thế mà tiêu chí quần cư về địa lý trong khái niệm
Dân tộc là dấu hiệu được ưu tiên hàng đầu. Một dân tộc có thể chứa
nhiều tộc người (ethnicities), và một tộc người có thể hiện diện ở
nhiều dân tộc khác nhau. Thực trạng này đã chỉ cho thấy: Văn hoá tộc
người không hoàn toàn đồng nhất với văn hoá dân tộc.
Bởi vậy, thông thường người ta chỉ sử dụng hai chiều là không
gian và thời gian để xác định tọa độ văn hoá dân tộc.
b. Phương pháp chuyên ngành
- Cách tiếp cận Địa - văn hóa
Địa – văn hoá vừa là một phương pháp dùng để nghiên cứu văn
hoá theo vùng địa lý, đồng thời cũng là phương pháp kiến giải các đặc
điểm văn hoá dựa vào điều kiện điạ lý và hoàn cảnh tự nhiên.
Phương pháp này (cùng với những phương pháp khác nữa) đã

góp phần lý giải tính đồng nhất (tương đồng) văn hoá của các cộng
14


đồng người cùng sống trên một vùng lãnh thổ – nơi có điều kiện tự
nhiên khá giống nhau.
Cơ sở khoa học của phương pháp nghiên cứu văn hoá này là các
luận điểm cho rằng:
- Bản thân con người cũng là một bộ phận của tự nhiên.
- Để tồn tại và phát triển con người phải tiến hành trao đổi chất
với môi trường tự nhiên.
- Quá trình trao đổi chất nói trên diễn ra theo hai hướng: thích
nghi với tự nhiên và cải tạo tự nhiên.
- Cả hai hướng này đều tạo ra các yếu tố văn hoá; Cụ thể là:
thích nghi – in dấu trong văn hoá nhân cách, trong lối sống cộng đồng
(văn hoá phi vật thể); còn biến đổi - được lưu giữ trong các đồ vật xã
hội (giới tự nhiên thứ hai, theo cách nói của Marx, hay trong văn hoá
vật thể).
Như vậy, có thể khẳng định rằng, môi trường tự nhiên chi phối
quá trình hình thành và phát triển của văn hoá.
-Cách tiếp cận Nhân học văn hoá
Nhân học văn hoá là một khoa học liên ngành về văn hoá. Nó
chủ yếu nghiên cứu văn hoá từ hai giác độ: nhân chủng và ngôn ngữ
(thổ ngữ). Điều đó có nghĩa là các cộng đồng có cùng cội nguồn huyết
thống và ngôn ngữ sẽ được xem là có tính đồng nhất văn hoá.
Cùng với thời gian lịch sử, dân số trên hành tinh ngày càng tăng,
điều kiện tự nhiên ở một số vùng trên trái đất cũng thay đổi (do biến
đổi khí hậu, thiên tai, động đất, núi lửa, hoặc do con người khai thác
vượt quá sức tải của môi trường), và do cả những cuộc xâm lược lẫn
nhau của chính con người - đã dẫn đến những làn sóng di cư nhân

khẩu từ vùng địa lý này sang vùng địa lý khác.
Di cư đã làm thay đổi đáng kể diện mạo của thứ văn hoá vốn
trước kia bị chi phối bởi hoàn cảnh địa lý. Các cộng đồng di cư vẫn
15


giữ lại những truyền thống văn hoá cội nguồn của họ trong một bối
cảnh tự nhiên mới. Chính điều này đã gây khó khăn không nhỏ cho
phương pháp nghiên cứu địa – văn hoá. (Chẳng hạn, người ta đã
không thể sử dụng phương pháp này đối với cộng đồng Do Thái, hay
cộng đồng người Hoa hải ngoại).
Sự phát tán các cộng đồng người đã làm cho một không gian địa
lý có thể hàm chứa vô số các không gian văn hoá khác nhau. Đây là
nguyên nhân cơ bản thúc đẩy văn hoá học tìm kiếm các biện pháp bổ
sung và khắc phục hạn chế của địa - văn hoá; và phương pháp nghiên
cứu nhân học – văn hoá ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó.
Phương pháp này xác định thực thể văn hoá chủ yếu dựa vào sự
phân bố chủng người và thổ ngữ. Bằng cách gắn các phẩm chất văn
hoá với chủ thể - người (vừa là vật mang, vừa là chủ thể, vừa là kết
quả của văn hoá), phương pháp này đã giảm thiểu việc lệ thuộc vào
hoàn cảnh địa lý, khi tiến hành lý giải các hiện tượng văn hoá. Nó
chuyển sang xem xét văn hoá như một quá trình tự thân có khả năng
tái sản xuất ra chính nó trong khuôn khổ của một cộng đồng xác định.
Phương pháp nhân học – văn hoá đã lấy hai thuộc tính cố hữu và
nổi trội mà bất kỳ cộng đồng văn hoá nào cũng có, đó là chủng và thổ
ngữ của chủng để phân vùng văn hoá. Chẳng hạn, với phương pháp đó
người ta phân Châu Âu ra thành ba nhóm văn hoá: văn hoá Slavơ, văn
hoá Latinh và văn hoá Gécmanh.
Đây cũng là phương pháp phổ biến và tiện dụng đối với các
nghiên cứu về văn hoá tộc người, hoặc các nghiên cứu về văn hoá dân

gian.
-Cách tiếp cận Tín ngưỡng - Tôn giáo
Lịch sử nhân loại tiến triển theo chiều hướng toàn thế giới. Ngay
từ thế kỷ XVIII, F. Hegel - nhà triết học vĩ đại người Đức đã phát hiện
ra khuynh hướng này và coi đây là một quy luật phổ quát của lịch sử

16


nhân loại. ông đã tiên đoán về tính toàn thế giới của lịch sử dựa trên
sự ra đời của thị trường toàn cầu (Marx. Hệ tư tưởng Đức).
Trong thiên niên kỷ thứ ba này, quá trình toàn cầu hoá đang
minh chứng cho nhận định nói trên của F. Hegel. Toàn cầu hoá đang
kiến tạo nên các hệ thống chuẩn mực chung cho toàn nhân loại. Điều
đó có nghĩa là, khía cạnh văn minh (mặt duy lý của văn hoá) đang gia
tăng một cách tỷ lệ thuận với sự tiến triển của toàn cầu hoá. Chính
điều này đã làm cho các nền văn hoá ngày càng trở nên giống nhau
hơn, xét từ góc độ văn minh. Toàn cầu hoá đang kiến tạo nên một nền
văn minh chung toàn nhân loại và làm cho lịch sử giờ đây mang tính
toàn thế giới hơn bao giờ hết.
Trong tình huống đó, tôn giáo với bản tính phi duy lý cố hữu của
nó đã không bị biến dạng bởi tính duy lý của khoa học và công nghệ.
Nhờ đó, tôn giáo đã trở thành chỗ dựa cho bản sắc văn hoá của nhiều
cộng đồng trong điều kiện toàn cầu hoá. Đó chính là lý do khiến việc
nghiên cứu văn hoá bằng tôn giáo trở thành một phương pháp thịnh
hành trong các nghiên cứu hiện nay về văn hoá.
Vả lại, phương thức nghiên cứu văn hoá bằng tôn giáo cũng đã
có một bề dày lý luận đáng nể. Có thể coi Chiristopher Dawson
(1889-1970) là ông tổ sáng lập ra phương pháp nghiên cứu này. Theo
Chiristopher Dawson, tôn giáo không phải là một hình thái ý thức trừu

tượng, mà là truyền thống văn hoá hay tập tục văn hoá. Cũng theo ông
thì một xã hội giầu sức sống tất có một tôn giáo, mà tôn giáo này ở
mức độ rất lớn lại quyết định phương thức văn hoá của xã hội ấy. Do
đó việc nghiên cứu tôn giáo trong sự thống nhất với văn hoá sẽ mở ra
một cái nhìn mới, hay nói đúng hơn là cho phép đánh giá lại các vấn
đề có liên quan sự phát triển xã hội.
Sau đó, các học giả như Paul Tillich, Arnold Toynbee, Ernst
Cassirer... đã phát triển luận điểm của Chiristopher Dawson thành lý
thuyết đồng nhất tôn giáo với văn hoá, và đồng nhất trên cơ sở của tôn
giáo. Chẳng hạn, Paul Tillich cho rằng tôn giáo là mặt tinh thần của
17


nhân loại. Nhìn từ góc độ bản thể, tôn giáo là tầng đáy của cuộc sống
tinh thần nhân loại, bởi vậy nó là cái cuối cùng, vô điều kiện, chỉnh
thể và vô hạn. Tôn giáo phú cho văn hoá bản thể của ý nghĩa, còn văn
hoá là tổng hoà các hình thức biểu đạt của tôn giáo.
Không phải ngẫu nhiên mà Samuel Huntington - một nhà phân
tích chính trị hàng đầu hiện nay của Hoa Kỳ đã đi đến nhận định là:
khi sự đối đầu lưỡng cực đã biến mất cùng với sự sụp đổ của Liên xô
thì chiến tuyến tương lai sẽ là sự đụng độ giữa các nền văn hoá (văn
minh) - mà về thực chất, là sự đối đầu của các tôn giáo lớn trên thế
giới như Kitô giáo (Catholicism), Đông chính giáo (Eastern
Orthodoxy), Do thái giáo (Judaism), Phật giáo (Buddhism), Ấn Độ
giáo (Hinduism), Hồi giáo (Islamism), Nho giáo (Confucianism).... Và
đây cũng là một ví dụ điển hình về việc nghiên cứu văn hoá bằng tôn
giáo.
Tồn tại xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân loại, tôn giáo không
ngừng tác động lên hai mặt của đời sống con người: cộng đồng và cá
thể. Ở cả hai bình diện đó, tôn giáo đều phát huy chức năng bù đắp

của mình. Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hoá, chức năng bù đắp đó
chẳng những không hề suy giảm mà còn chuyển hoá thành những hình
thức và khuynh hướng mới.
Chính vì thế, ngày nay giới nghiên cứu đã bắt đầu nhìn nhận tôn
giáo với một thái độ khác trước. Những ý nghĩa tích cực của tôn giáo
đã được chú trọng, và tôn giáo cũng bắt đầu được nhìn nhận như “vật
mang” văn hoá.
- Cách tiếp cận sử học: Sử học văn hoá
Là hệ quả của việc ứng dụng phương pháp lịch sử vào trong
nghiên cứu các hiện tượng văn hoá. Nó đem lại cái nhìn chi tiết về tiến
trình văn hoá, qua các thời kỳ, các giai đoạn trong lịch sử. Đây là một
phương pháp truyền thống thường được sử dụng khi nghiên cứu văn
hoá của cộng đồng người nằm trong lòng nhà nước dân tộc.
18


- Cách tiếp cận xã hội học ( Xã hội học văn hoá)
Sử dụng các phương pháp của Xã hội học như: định tính, định
lượng, thống kê, trắc nghiệm, điền giã và phỏng vấn... vào nghiên cứu
các hiện tượng văn hoá. Nó vạch ra vai trò và mức độ ảnh hưởng của
văn hoá đối với mỗi địa phương hay mỗi cộng đồng cụ thể trong việc
thực hiện các chính sách xã hội, trong việc lựa chọn các khuynh
hướng ứng xử, cũng như trong cách thức phản ứng trước những biến
đổi xã hội.
-Cách tiếp cận kinh tế học (Kinh tế học văn hoá)
Kinh tế học văn hoá nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố văn
hoá đến phát triển kinh tế ở các cấp độ: khu vực, địa phương. Nó tập
trung vào làm rõ ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá đối với việc lựa
chọn triết lý kinh doanh; xu hướng kinh doanh, xu hướng lựa chọn và
tiêu dùng sản phẩm...

II. ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM - MỘT NGHIÊN CỨU
ỨNG DỤNG CỦA VĂN HÓA HỌC
1. Phạm vi nghiên cứu
Văn hoá là một khái niệm rất rộng, nên trong các nghiên cứu
ứng dụng, Văn hoá học đòi hỏi phải làm rõ phạm vi nghiên cứu, trước
khi bắt tay vào triển khai các nhiệm vụ cụ thể.
Đối với Đại cương văn hoá Việt Nam, thì Văn hoá Việt Nam
được hiểu là Văn hoá của dân tộc Việt Nam – tức văn hoá của cộng
đồng người sinh sống trong phạm vi lãnh thổ của nước CHXHCN Việt
Nam hiện nay. Bởi vậy, việc nghiên cứu văn hoá của từng tộc người
riêng lẻ (ethnic cultures) hiện đang sinh sống tại Việt Nam - sẽ không
phải là nhiệm vụ chủ đạo của môn học này.
2. Xác định đối tượng nghiên cứu

19


Văn hóa là một hiện thực hết sức đa dạng và cách hiểu về nó
cũng rất khác nhau, bởi vậy, trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ khoanh
vùng đối tượng nghiên cứu dựa trên lý thuyết phân bậc chủ thể văn
hóa.
Với lý thuyết này, văn hóa không còn bị hình dung như một tập
hợp các hiện tượng hỗn loạn, mà với tính hỗn loạn ấy - chỉ có phương
pháp thích ứng nhất là "mô tả". Thay vì cách làm như vậy, dựa trên
phẩm chất chung mang tính cố hữu của văn hóa là gắn với tính người
(hiểu theo nghĩa phân biệt với giới tự nhiên), lý thuyết này gắn văn
hóa với chủ thể - người.
Đi theo hướng này, quan niệm về văn hóa không còn bị rơi vào
những cực đoan: hoặc bị hình dung như "tổng hỗn loạn"; hoặc bị quan
niệm như "chất trừu tượng"; mà trái lại văn hóa hiện hữu một cách

trực quan và cụ thể trong tính cách và đời sống của chủ thể văn hóa.
Thông thường, chủ thể văn hoá được phân thành: Cộng đồng và
cá nhân.
a. Cộng đồng
- Nhân loại: Ở cấp độ chủ thể là nhân loại, văn hoá được nhìn
nhận như “cái không phải giới tự nhiên”, tức là được quy về cái phẩm
chất mà chỉ con người mới có. Nhân loại là chủ thể của văn hoá - theo
nghĩa rộng nhất của khái niệm văn hoá (Culture).
+ Cộng đồng khu vực: là cộng đồng người được phân bổ trên
một vùng địa lý xác định và là chủ nhân của một nền văn hoá - văn
minh (Regional culture/ Civilization).
+ Tộc người: Là chủ thể mang tính cộng đồng, được xác định
theo sự phân bổ về chủng và thổ ngữ. Gắn với tộc người là văn hoá
tộc người (Ethnic culture).
+ Quốc gia – dân tộc: Chủ thể của văn hoá dân tộc (National
culture).
20


Khi đi sâu vào xem xét văn hoá dân tộc (National culture), chủ
thể văn hoá còn được phân nhỏ tiếp tục và tạo nên một hệ thống mang
tính thứ bậc. Tuy nhiên, đối với từng dân tộc trên thế giới, hệ thống
này là không giống nhau, mà sẽ biến đổi tuỳ theo kết cấu đặc thù của
mỗi dân tộc.
b. Cá nhân
Trong văn hoá học, khái niệm cá nhân dùng để chỉ các thành
viên trực thuộc một cộng đồng văn hoá xác định. Tuy nhiên, khi văn
hoá học tiến hành nghiên cứu các cá nhân thì điều đó không có nghĩa
là nó tiến hành mô tả lại mọi biểu hiện văn hoá mà mỗi cá nhân cụ thể
biểu lộ. Trái lại, văn hoá học quan niệm rằng, mỗi cá nhân (cá thể)

vừa là chủ thể, vừa là vật mang của văn hoá cộng đồng mà anh ta tuỳ
thuộc. Do đó, văn hoá của mỗi cá nhân đều in dấu các tính quy định
của văn hoá - loài, bên cạnh những phẩm chất văn hoá độc đáo mà chỉ
riêng anh ta mới có. Điều đó có nghĩa là giữa các cá thể vẫn tồn tại
một “mẫu số chung về văn hoá" - và cái “mẫu số chung về văn hoá"
ấy được xem là văn hoá nhân cách của một cộng đồng.
Như vậy, Văn hoá nhân cách không hướng đến việc mô tả đời
sống của từng cá nhân cụ thể, riêng lẻ; mà trái lại - nó luôn cố gắng
tìm ra mẫu số chung về văn hoá giữa các cá nhân đồng thuộc một nền
văn hoá.
Vận dụng lý thuyết phân bậc văn hoá vào xem xét chủ thể văn
hoá Việt Nam, hệ thống biểu đạt văn hoá Việt Nam (sắp xếp theo quy
mô từ nhỏ đến lớn) được xác định như sau:
- Cá nhân – và tương ứng với nó là: Văn hoá nhân cách của
người Việt Nam.
- Các cộng đồng cơ bản bao gồm làng xã, đô thị, nhà nước dân
tộc; và tương ứng với chúng là các kiểu hình văn hoá: Văn hoá làng
xã; Văn hoá đô thị; Văn hoá nhà nước – dân tộc.
21


Bước tiếp theo là khảo sát một "thực thể - chủ thể" văn hoá theo
hai mặt cơ bản; đó là: mặt tinh thần và mặt thực tiễn. Cách xem xét
này không giống với sự phân đôi thế giới thành vật chất và ý thức như trong triết học vẫn làm. Ở đây vẫn tồn tại sự khác biệt giữa các
khái niệm văn hoá vật chất với mặt thực tiễn của văn hoá; và giữa văn
hoá tinh thần với mặt tinh thần của văn hoá.
- Văn hoá vật chất là khái niệm dùng để chỉ các đồ vật/sản phẩm
(hiện hữu và mang tính hình thể) do con người tạo ra (hoặc được con
người sử dụng) để thoả mãn các nhu cầu của họ. Đây là cách nhìn văn
hoá như một khách thể độc lập tương đối với con người – tức là văn

hoá ở trạng thái đã được khách thể hoá.
Trong khi đó, mặt thực tiễn của văn hoá lại phản ánh sự chi phối
của các yếu tố văn hoá đối với hành vi ứng xử của chủ thể với thế giới
xung quanh (tự nhiên và xã hội), mà những hành vi ấy có thể nắm bắt
được bằng con đường trực quan hay kinh nghiệm. Bởi vậy, mặt thực
tiễn của văn hoá bao hàm cả yếu tố vật chất lẫn tinh thần.
- Văn hoá tinh thần là khái niệm dùng để chỉ hệ thống các giá trị
tồn tại dưới dạng các ý niệm văn hoá. Trong khi đó, mặt tinh thần của
văn hoá lại không chỉ bao gồm các ý niệm mà còn cả những hành vi
biểu đạt các ý niệm ấy. Chính ý niệm và sự biểu đạt ý niệm văn hoá đã
cấu thành đời sống tinh thần của chủ thể văn hoá. Và dĩ nhiên, những
hành vi biểu đạt này có thể nắm bắt được phần nào bằng trực quan hay
kinh nghiệm. Chẳng hạn, người ta có thể quan sát được một cách trực
tiếp việc hành lễ, thờ cúng, lên đồng, lễ hội..., mặc dù những hành vi
như vậy vốn được xếp vào lĩnh vực tinh thần của văn hoá.
Tóm lại, việc nhìn nhận cấu trúc văn hoá trên hai bình diện tinh
thần và thực tiễn là hệ quả của việc ứng dụng phương pháp khảo sát
văn hoá gắn với hành vi của chủ thể văn hoá.
3. Sử dụng phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp lôgíc
22


Để đạt được mục tiêu nói trên, Đại cương văn hoá Việt Nam vận
dụng chủ yếu là phương pháp lôgic (cách tiếp cận đồng đại), còn
phương pháp lịch sử (cách tiếp cận lịch đại) chỉ mang tính hỗ trợ và
minh hoạ.
Với phương pháp lôgíc, kết cấu văn hoá của dân tộc Việt Nam
không phải là một tổng cơ học của các văn hóa tộc người, và cũng
không bị cắt lớp thành các tầng văn hoá theo tiến trình lịch sử kiểu

như: văn hoá bản địa và văn hoá do giao lưu – tiếp biến (cấu trúc đó
là kết quả của việc ứng dụng phương pháp lịch sử). Theo đó, văn hoá
Việt Nam được phân xuất thành: các yếu tố phổ biến, các yếu tố đặc
thù và các yếu tố đơn nhất.
Trong khi yếu tố phổ biến mang tính toàn nhân loại; còn yếu tố
đặc thù mang tính khu vực; thì bản sắc là tổ hợp các yếu tố đơn nhất
(tính không lặp lại, tính quy định cố hữu).
Tuy nhiên cũng cần phân biệt các yếu tố đơn nhất (bản sắc) với
các yếu tố nội sinh. Không phải bất cứ yếu tố nội sinh nào cũng tham
gia cấu thành bản sắc. Bên cạnh đó, bản sắc có thể bao gồm cả những
yếu tố là hệ quả của giao lưu – tiếp biến văn hoá. Tiêu chí để xếp yếu
tố văn hoá này hay yêú tố văn hoá khác vào bản sắc – chính là ở chỗ:
những yếu tố ấy phải là vật mang các tính quy định đặc trưng cho văn
hoá dân tộc.
Chẳng hạn, cây cà phê được trồng ở nhiều nơi trên thế giới, song
khi nói về Brazil – người ta vẫn coi đây là đất nước của cà phê. Cũng
như vậy, Nho giáo, Phật giáo hay Đạo giáo... mặc dù hiện diện ở nhiều
dân tộc khác nhau, song sự khác biệt chính là ở chỗ: mỗi dân tộc ứng
xử, lựa chọn và vận dụng các yếu tố của chúng theo cách riêng của
mình – và cái đó chính là bản sắc, mặc dù những học thuyết trên tuyệt
nhiên không phải là yếu tố văn hoá nội sinh. Như vậy, Nho giáo, Phật
giáo hay Đạo giáo không còn đơn thuần là các yếu tố văn hoá du nhập
mà trái lại, đã trở thành “vật mang” bản sắc dân tộc.
23


III. í NGHA CA VN HểA HC V I CNG VN HểA
VIT NAM
a. Trang b nng lc phn t vn hoỏ
- Dự th gii quan khoa hc cú quan trng n õu, thỡ nú cng

khụng phi l cỏch thc chiờm ngng th gii duy nht ca con
ngi. Hn th, khụng phi trong mi trng hp nú u mang tớnh
hp lý. i sng tinh thn con ngi nh l mt chnh th nờn khụng
th úng kớn ch trong cỏc cu trỳc lụgớc ca khoa hc. Ngi ta tha
nhn rng, khụng th kh b c yu t phi lý trong i sng ni
tõm con ngi, v nh th thỡ phn cũn li s l vng quc ca cỏi
phi duy lý, ni ng tr ca Tụn giỏo v Ngh thut - nhng thnh t c
bn ca vn hoỏ. Di lng kớnh vn hoỏ, th gii hin ra trong con
mt ch th khụng ch ch l Chõn, m cũn l Thin v M na.
- Trong mt th gii ang b ton cu hoỏ, s khng nh tớnh cỏ
bit ca nhõn cỏch l rt quan trng, cỏ th khụng b ho tan vo
nhng chun mc chung mang tớnh ton cu ang lp y khụng gian
sng. Ch nh vy s c ỏo ca nhõn cỏch mi c bo tn, v do
ú, cỏ nhõn mi tỡm thy ý ngha ca s tn ti. Khi nn kinh t th
gii ngy cng thng nht v xó hi loi ngi ngy cng tr nờn
ging nhau, nhu cu ca mt cỏ nhõn gi li ý ngha ca mỡnh trong
mt bin ngi ng dng ngy cng gia tng1. lm c iu
ny, s hiu bit v bn sc vn hoỏ ca cng ng m mỡnh tu thuc
l mt ũi hi tt yu i vi mi cỏ nhõn.
b. Cú tỏc dng giỏo dc v bi dng nhõn cỏch
- Vic nhn thc v thm thu cỏc giỏ tr vn hoỏ ca cng ng
l iu kin tiờn quyt hỡnh thnh nhõn cỏch. Nhõn cỏch c bc
l qua ng x, qua s la chn v cỏch gii quyt vn m mi cỏ
nhõn trong cuc sng thng nht phi i mt. Cỏc chun mc dn
Jonh Naisbitt, Nghịch lý toàn cầu, Bộ Tài chính, Viện Nghiên cứu Tài
chính, Hà Nội, 1997, tr.202.
1

24



dắt hành động của cá nhân luôn là văn hoá của cộng đồng mà tại đó cá
nhân sinh ra và lớn lên.
- Chỉ khi ý thức được các chuẩn mực văn hoá ấy, cá nhân mới có
thể chủ động trong quá trình khẳng định nhân cách, biết loại bỏ đi
những yếu tố kìm hãm và tiếp thu những yếu tố có tác dụng tích cực –
phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại, đồng thời vẫn giữ được
diện mạo văn hoá dân tộc.
c. Giúp lý giải các khuynh hướng lựa chọn, cách ứng xử, cách
hành động, và triết lý sống của người Việt Nam
- Việc hiểu biết về các nền văn hoá thế giới và văn hoá dân tộc,
ngoài việc đem lại một cái nhìn đối sánh, còn giúp lý giải từ giác độ
văn hoá, vì sao lại có sự khác biệt trong cách ứng xử, cách giải quyết
vấn đề, cách lựa chọn triết lý sống của những cộng đồng khi đứng
trước những tình huống (được giả định là) giống nhau.
- Đây là những kiến thức hết sức hữu ích cho việc hình thành
nên triết lý kinh doanh, xây dựng ý thức pháp luật, định hướng tâm lý
tiêu dùng, và tạo lập phong cách làm việc sao cho có hiệu quả.
- Những kiến thức này cũng giúp người học đánh giá đúng mức
các cơ hội cũng như những thách thức mà thời đại đang đặt ra đối với
bản sắc văn hoá dân tộc.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng Việt
1. Irma Adelman. Năm mươi năm phát triển kinh tế chúng ta học được
những gì?; Tư duy mới về phát triển cho thế kỷ XXI. Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000.
2. Arnold Toybee. Nghiên cứu về lịch sử – một cách thức diễn giải.
Nxb Thế giới, Hà Nội 2002.
3. Vũ Minh Giang. Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam
hiện nay. Hà Nội, 1996.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×