Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tiểu luận cao học môn BAO TON DA DẠNG SINH HỌC Chuyên đề: Thực trạng suy thoái đa dạng sinh học tại Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.63 KB, 41 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ


TIỂU LUẬN CAO HỌC
HỌC PHẦN: BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC
Chuyên đề: Thực trạng suy thoái đa dạng sinh học tại Việt Nam hiện nay.

Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Lớp:

Cao học lâm học 22C

Huế, 8/2017.


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ


TIỂU LUẬN CAO HỌC
HỌC PHẦN: BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC
Chuyên đề: Thực trạng suy thoái đa dạng sinh học tại Việt Nam hiện nay.

Thành viên nhóm:

Lớp:

1.

Nguyễn Quốc



2.

Nguyễn Trung

3.

Nguyễn Thị

4.

Phan Đình

Cao học lâm học 22C

Huế, 8/2017.


Phần I. MỞ ĐẦU
Việt Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu về
đa dạng sinh học. Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần Xích đạo tới
giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về
thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Suy thoái đa
dạng sinh học hiện nay là một vấn đề vô cùng quan trọng. Và đặt ra trước mắt chúng ta
một câu hỏi lớn là phải làm gì để đảm bảo cho đa dạng sinh học được vững bền.
ĐDSH, nguồn tài nguyên quí giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống
con người. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, ĐDSH đang bị suy thoái
nghiêm trọng. Các hệ sinh thái bị tác động và khai thác quá mức; diện tích rừng, nhất
là rừng nhiệt đới bị thu hẹp một cách báo động. Tốc độ tuyệt chủng của các loài ngày
một tăng. Hậu quả tất yếu dẫn đến là sẽ làm giảm/mất các chức năng của hệ sinh thái

như điều hoà nước, chống xói mòn, đồng hóa chất thải, làm sạch môi trường, đảm bảo
vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trong tự nhiên, giảm thiểu thiên tai/các hậu quả
cực đoan về khí hậu. Và hệ quả cuối cùng là hệ thống kinh tế bị suy giảm do mất đi
các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, nhất là ở các nước đang và chậm phát
triển, trong đó có Việt Nam. Là một nước đang trong thời kỳ đi lên theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Việt nam đang từng bước vô tình gây ra suy thoái đa dạng sinh học một
cách nhanh chóng. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh như hiện nay. Nó cũng là một
vấn đề rất nan giải cho môi trường sống, cho môi trường sinh thái hiện nay. Các vấn
nạn làm đe dọa tính đa dạng sinh học của nước ta như: chiến tranh, cháy rừng, đô thị
hóa, di dân, gia tăng dân số, biến đổi khí hậu toàn cầu…rất nhiều nguyên nhân khác
đang từng ngày ăn sâu và hủy hoại hành tinh xanh của chúng ta. Khi Việt Nam đã
bước vào thời đại công nghiệp là lúc phong phú về đa dạng sinh học(tổng số gen, loài
và các hệ sinh thái trên trái đất) đạt mức cao nhất, song do chưa nhận thức được sự
giới hạn của tài nguyên sinh học nên chúng ta đang khai thác vượt quá những giới hạn
cho phép, do đó đã và đang làm giảm tính đa dạng sinh học. Vì vậy, đã đến lúc phải có
sự thay đổi triệt để trong mối quan hệ giữa con người và tài nguyên sinh học mà con
người phụ thuộc vào. Bảo tồn - phát triển bền vững đa dạng sinh học và bảo vệ môi
trường là một nghĩa vụ, đồng thời cũng là quyền lợi của mọi người sống trên lãnh thổ
Việt Nam giàu đẹp của chúng ta. Nói chung về sự suy thoái mạnh về đa dạng sinh học
diễn ra như hiện nay thì chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ chuyện này được. Nó
đang từng ngày hủy hoại môi trường của chúng ta phá hủy thiên nhiên một cách tồi tệ.
Để rõ về nguyên nhân sâu xa đang từng ngày đe dọa cuộc sống của các sinh vật trên
thế giới hay cũng như chính là hiểm họa lớn nhất của nhân loại chúng ta, chúng tôi
thực hiện chuyên đề: “Thực trạng và nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học
tại Việt Nam hiện nay”.


Phần II. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tầm quan trọng của đa dạng sinh học
ĐDSH ở Việt Nam có ý nghĩa to lớn trong đời sống tự nhiên và con người, thể

hiện qua chức năng và tầm quan trọng của các hệ sinh thái. Không chỉ là nơi cư trú,
môi trường sống của nhiều loài sinh vật, các HST còn có chức năng cung cấp các loại
hình dịch vụ như sau:
Dịch vụ cung cấp: HST mang đến những lợi ích trực tiếp cho con người, thường
có giá trị kinh tế rõ ràng, đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là trong lĩnh
vực sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản; là cơ sở đảm bảo an ninh lương thực của
đất nước; duy trì nguồn gen tạo giống vật nuôi, cây trồng; cung cấp các vật liệu xây
dựng và các nguồn nguyên liệu, dược liệu; cung cấp khoảng 80% lượng thủy sản khai
thác từ vùng biển ven bờ và đáp ứng gần 40% lượng protein cho người dân. Nghề thủy
sản đem lại nguồn thu nhập chính cho khoảng 8 triệu người và một phần thu nhập cho
khoảng 12 triệu người.
Tổng trữ lượng hải sản ở biển Việt Nam ước tính khoảng 3,075 triệu tấn (số liệu
điều tra giai đoạn 2011-2012 của Viện Nghiên cứu hải sản). Tổng sản lượng khai thác
nên ở mức 1,7 đến 1,9 triệu tấn năm. Hiện nay, tổng sản lượng khai thác đang ở mức
2,7 triệu tấn/năm.
Dịch vụ văn hóa: HST không chỉ cung cấp những lợi ích vật chất trực tiếp mà
còn đóng góp vào những nhu cầu lớn hơn của xã hội. Các HST có tính ĐDSH cao
cung cấp giá trị vô cùng to lớn cho các ngành giải trí ở Việt Nam với các loại hình du
lịch sinh thái, hứa hẹn đem lại nhiều giá trị kinh tế và góp phần quan trọng vào việc
nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của ĐDSH và công tác bảo tồn
thiên nhiên (BTTN). Khoảng 70% tăng trưởng du lịch là từ các vùng duyên hải có các
HST tự nhiên giàu ĐDSH. Theo báo cáo của 14/30 VQG và các khu BTTN, năm 2011
đã đón tiếp 728.000 lượt khách, với tổng doanh thu trên 30 tỷ đồng.
Dịch vụ điều tiết: Dịch vụ điều tiết bao gồm: sự điều hòa khí hậu thông qua lưu
trữ cacbon và kiểm soát lượng mưa, lọc không khí và nước, phân hủy các chất thải
trong môi trường, giảm nhẹ những tác hại của thiên tai như lở đất hay bão lũ. Giá trị
lưu giữ và hấp thụ cacbon của rừng Việt Nam là rất đáng kể, đặc biệt là rừng tự nhiên.
Giá trị này tỷ lệ thuận với trữ lượng và sinh khối rừng. Kết quả nghiên cứu đã xác
định: giá trị lưu giữ cacbon của rừng tự nhiên là 35-85 triệu đồng/ha/năm và giá trị hấp
thụ cacbon hàng năm khoảng 0,4-1,3 triệu đồng/ha/năm đối với Miền Bắc. Ở Miền



Trung, giá trị lưu giữ cacbon trong khoảng 37- 91 triệu đồng/ha/năm và giá trị hấp thụ
cacbon là 0,5- 1,5 triệu đồng/ha/năm. Ở Miền Nam, giá trị lưu giữ cacbon là 46-91
triệu đồng/ha/năm và giá trị hấp thụ cacbon là 0,6-1,5 triệu đồng/ha/năm.
Dịch vụ hỗ trợ: Đây là yếu tố thiết yếu trong các chức năng của HST và gián tiếp
ảnh hưởng đến tất cả các loại dịch vụ khác. Có thể ví dụ về dịch vụ hỗ trợ như sự hình
thành đất hay quá trình sinh trưởng của thực vật. Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới
gió mùa, hàng năm phải chịu từ 5 đến 8 cơn bão và áp thấp nhiệt đới kèm theo mưa
lớn. Nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu HST rừng ngập mặn (MERC) cho thấy, hệ
thống rễ dày đặc của các loài cây rừng ngập mặn có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ
đất ven biển và vùng cửa sông. Chúng vừa ngăn chặn hiệu quả sự công phá bờ biển
của sông, vừa làm vật cản cho trầm tích lắng đọng như giữ hoa lá, cành rụng trên mặt
bùn và phân hủy tại chỗ nên bảo vệ được đất. Một số loài cây tiên phong như Mắm
biển, Mắm trắng, Bần trắng sinh trưởng trên đất bồi non có khả năng giữ đất phù sa,
mở rộng đất liền ra phía biển như ở vùng Tây Nam mũi Cà Mau, dọc sông Đồng
Tranh, Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh, các bãi bồi ở cửa sông Hồng.
Các nghiên cứu cho thấy, các dải rừng ngập mặn ven biển Việt Nam góp phần
giảm ít nhất 20 – 50% thiệt hại do bão, nước biển dâng và sóng thần gây ra. Đặc biệt,
hệ thống rừng ngập mặn trồng ven đê còn đóng vai trò là tấm là chắn xanh, giảm 20 –
70% năng lượng của sóng biển, đảm bảo an toàn cho các con đê biển, giúp tiết kiệm
hàng nghìn tỷ đồng cho việc duy tu, sửa chữa đê biển.


2.2. Hiện trạng đa dạng sinh học
2.2.1. Hiện trạng các hệ sinh thái ở Việt Nam
a) Các hệ sinh thái quan trọng
HST ở Việt Nam rất đa dạng, trong đó có 3 nhóm chính: HST trên cạn, HST đất
ngập nước và HST biển.
– HST trên cạn: Trên phần lãnh thổ vùng lục địa ở Việt Nam, có thể phân biệt các

kiểu HST trên cạn đặc trưng như: rừng, đồng cỏ, savan, đất khô hạn, đô thị, nông
nghiệp, núi đá vôi. Trong các kiểu HST ở cạn, thì HST rừng có tính đa dạng về thành
phần loài cao nhất, đồng thời đây cũng là nơi cư trú của nhiều loài động vật, thực vật
hoang dã có giá trị kinh tế và khoa học. Tổng diện tích hệ sinh rừng khoảng 32 triệu ha
và tập trung nhiều ở các vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên. Mục tiêu trong thời gian tới là sẽ tăng độ che phủ rừng lên 42 – 43% vào
năm 2015 và 44 – 45% vào năm 2020, góp phần đáp ứng các yêu cầu về môi trường
cho quá trình phát triển bền vững của đất nước.
Theo báo cáo tổng kết Dự án “Trồng mới 5 triệu ha rừng” và kế hoạch bảo vệ và
phát triển rừng giai đoạn 2001 – 2010 của Chính phủ (báo cáo số 1328/CP – ngày 09
tháng 8 năm 2011), năm 2005, tổng trữ lượng gỗ cả nước là 811,6 triệu m3 (chiếm
6,5% tổng trữ lượng gỗ). Đến năm 2010, tổng trữ lượng gỗ của cả nước là 935,3 triệu
m3, trong đó, gỗ rừng tự nhiên chiếm 92,8% và 8,5 tỷ cây tre nứa, trữ lượng gỗ rừng
trồng là 74,8 triệu m3 (chiếm 7,9% tổng trữ lượng gỗ). So với năm 2006, trữ lượng gỗ
của cả nước tăng được 123,7 triệu m3 (chiếm 15,24%). Tuy nhiên, chất lượng rừng của
một số trạng thái rừng giàu, trung bình, rừng ngập mặn thuộc rừng tự nhiên tiếp tục
giảm. Theo thống kê của Cục Kiểm lâm và Viện Điều tra Quy hoạch Rừng thì độ che
phủ của rừng năm 2010 đã đạt 39,5%.
– HST đất ngập nước (ĐNN): ĐNN Việt Nam rất đa dạng về kiểu loại với hơn 10
triệu ha, phân bố ở hầu hết các vùng sinh thái của nước ta, gắn bó lâu đời với cộng
đồng dân cư và có vai trò to lớn đối với đời sống nhân dân và phát triển kinh tế – xã
hội.
ĐNN được chia thành 2 nhóm chính là ĐNN ven biển và ĐNN nội địa. ĐNN ven
biển Việt Nam đa dạng về kiểu, gồm 20 kiểu (Hệ thống phân loại ĐNN Việt Nam, Cục
Bảo vệ Môi trường, 2007) với tổng diện tích khoảng 1,9 triệu ha (Theo bản đồ ĐNN
ven biển Việt Nam tỷ lệ 1:100.000, Trung tâm Viễn thám – Bộ TN&MT, 2007) phân


bố trên phạm vi 126 huyện ven biển (29 tỉnh, thành phố có biển) có đường ranh giới
tiếp giáp với biển và phần đất ven biển chịu tác động của nước biển.

HST thuỷ vực nước ngọt rất đa dạng bao gồm các thuỷ vực nước đứng như hồ,
hồ chứa, ao, đầm, ruộng lúa nước; các thuỷ vực nước chảy như suối, sông, kênh rạch.
Trong đó, một số kiểu có tính ĐDSH cao như suối vùng núi đồi, đầm lầy than bùn với
nhiều loài động vật mới cho khoa học đã được phát hiện. Các HST sông, hồ ngầm
trong hang động cát tơ còn ít được nghiên cứu.
Việt Nam có 2 vùng ĐNN nội địa quan trọng là vùng cửa sông Đồng bằng sông
Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long: (i) ĐNN ở vùng cửa sông Đồng bằng sông Hồng
có diện tích 229.762 ha (Hội khoa học đất Việt Nam, 2009). Đây là nơi tập trung các
HST nước lợ và mặn với thành phần loài thực vật, động vật phong phú của các vùng
rừng ngập mặn, đặc biệt đây là nơi cư trú của nhiều loài chim nước; (ii) ĐNN Đồng
bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha. Đây là bãi đẻ quan
trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông Mê Kông. Những khu
rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng có tiềm năng sản xuất cao.
Có 3 HST tự nhiên chính ở Đồng bằng sông Cửu Long là HST ngập mặn ven biển,
HST rừng tràm ở vùng ngập nước nội địa và HST cửa sông.
– HST biển: Theo thống kê, Việt Nam có 20 kiểu HST biển điển hình. Dựa trên
kết quả những kết quả nghiên cứu và phân tích các kiểu HST biển với các đặc trung về
điều kiện tự nhiên và môi trường biển, đặc biệt tính ĐDSH của rạn san hô, có thể phân
chia vùng biển Việt Nam thành 6 vùng ĐDSH. Các kết quả nghiên cứu cho thấy các
kiểu HST rạn san hô, thảm cỏ biển quanh các đảo ven bờ là nơi có mức ĐDSH biển
cao nhất đồng thời cũng rất nhạy cảm với những biến đổi của môi trường. Trong các
vùng biển của Việt Nam, quần đảo Trường Sa là vùng có tính đa dạng của rạn san hô
cao nhất thế giới.
Theo dẫn liệu điều tra, nghiên cứu trong giai đoạn 2008 – 2010 của Viện Tài
nguyên và Môi trường biển, tổng diện tích thật có của rạn san hô Việt Nam chỉ còn
khoảng 14.130 ha. Hiện nay, các rạn san hô chủ yếu đang ở trong tình trạng xấu. Các
điều tra từ năm 2004 đến 2007 tại 7 vùng rạn san hô trọng điểm của Việt Nam cho thấy
chỉ có 2,9% diện tích rạn san hô được đánh giá là trong điều kiện phát triển rất tốt,
11,6% ở trong tình trạng tốt, 44,9% ở trong tình trạng xấu và rất xấu. Các rạn san hô
phân bố ở vùng ven bờ có nguy cơ suy giảm nhanh theo thời gian. Điều này thể hiện

qua độ phủ giảm đi một cách đáng kể. Theo kết quả nghiên cứu của Viện Hải dương
học Nha Trang, từ năm 1994 – 2007, độ phủ rạn san hô giảm trong khoảng 2,8 –
29,7% (trung bình là 10,6%), đặc biệt ở vùng biển Côn Đảo, vùng ven bờ Ninh Hải –
Ninh Thuận và vịnh Nha Trang. Rạn san hô Cô Tô – Quảng Ninh vốn được xem là


phát triển rất tốt, tỷ lệ phủ đạt 60 – 80%, có nơi đạt độ phủ gần 100%. Năm 2007, các
quan trắc và theo dõi hiện trạng rạn san hô được Viện Tài nguyên và Môi trường biển
thực hiện, kết quả cho thấy rạn san hô ở đây đã bị chết khá nhiều, có nơi độ phủ của
san hô chết của toàn đảo lên đến 90%. Nguyên nhân gây chết phần lớn các loài san hô
ở xung quanh quần đảo Cô Tô một phần có thể là do một số ngư dân đánh bắt cá trong
các rạn san hô này.
Cũng như rạn san hô, HST thảm cỏ biển của nước ta cũng đang bị giảm dần diện
tích một phần do tai biến thiên nhiên, phần khác là do lấn biển để làm các ao nuôi thủy
sản và xây dựng công trình ven biển. Theo thống kê chung trên cả nước thì hiện nay
diện tích các thảm cỏ biển của Việt Nam bị giảm từ 40 – 70%. Diện tích thảm cỏ biển
Cửa Đại (Quảng Nam) giảm gần 70% (2009); các thảm cỏ biển ở nam mũi Đá Chồng
(Đồng Nai) giảm từ 45 – 60% xuống dưới 19% (2009) và ở Hàm Ninh (Quảng Bình)
giảm từ 30% (2004) xuống còn 15% (2009). Như vậy, độ phủ của thảm cỏ biển ở
những khu vực này chỉ còn bằng một nửa so với 5 năm trước. Chất lượng môi trường
biển suy giảm làm môi trường sống của hầu hết các loài sinh vật biển bị phá hủy, gây
nhiều tổn thất về ĐDSH: nhiều loài sinh vật biển giảm số lượng, thậm chí có loài có
thể đã tuyệt chủng cục bộ.
Theo thống kê, tính đến năm 2012, 56% tổng diện tích rừng ngập mặn trên toàn
quốc là rừng mới trồng, thuần loại, chất lượng rừng kém cả về kích cỡ, chiều cao cây
và đa dạng thành phần loài. Những cánh rừng ngập mặn nguyên sinh hầu như không
còn. Sự suy thoái này thể hiện rõ nét nhất qua sự suy giảm nhanh chóng về diện tích và
chất lượng các khu rừng ngập mặn. Năm 1943, nước ta có hơn 408.500 ha rừng ngập
mặn, tuy nhiên đến năm 1990, diện tích rừng ngập mặn chỉ còn khoảng 255.000 ha,
năm 2006 là 209.741 ha[2], đến 2010 là 140.000 ha và tính đến cuối năm 2012 chỉ còn

lại 131.520 ha[3].


b) Quy hoạch các hệ sinh thái quan trọng ở Việt Nam
Quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH của cả nước đến năm 2020 và định hướng
đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 08/01/2014 của
Thủ tướng Chính phủ) (sau đây gọi tắt là Quy hoạch tổng thể) đã quy hoạch các HST
tự nhiên, quan trọng trên cả nước như sau:
– Vùng Đông Bắc: Bảo vệ các HST rừng tự nhiên lưu vực sông Hồng, sông Lô,
sông Gâm; HST núi đá vôi tại Tuyên Quang, Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Cao
Bằng, Quảng Ninh; HST đất ngập nước tại Đầm Hà, Yên Hưng (Quảng Ninh).
– Vùng Tây Bắc: Bảo vệ các HST rừng tự nhiên lưu vực sông Đà, sông Mã; rừng
ở các đai cao trên 1.500 m tại Lào Cai, Sơn La.
– Vùng Đồng bằng sông Hồng: – Bảo vệ HST rừng ngập mặn tự nhiên tại Hải
Phòng, Thái Bình; các HST đất ngập nước quan trọng tại Ninh Bình, Nam Định.
– Vùng Bắc Trung Bộ: Bảo vệ HST rừng nguyên sinh tại Nghệ An, Hà Tĩnh;
rừng tự nhiên lưu vực sông Mã, sông Cả, sông Gianh; rừng ngập mặn ven biển tại
Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa; HST núi đá vôi ở Thanh Hoá và Quảng Bình; HST
đầm phá Tam Giang – Cầu Hai tại Thừa Thiên Huế.
– Vùng Nam Trung Bộ: Bảo vệ các hệ sinh thái rừng tự nhiên lưu vực sông Cái
(tỉnh Phú Yên, Ninh Thuận, Khánh Hòa), sông Côn, sông Đà Rằng, sông Ba, sông Trà
Khúc, sông Thu Bồn; HST rừng khộp tại Ninh Sơn (Ninh Thuận), Hoàn Giao (Khánh


Hòa); các rạn san hô, thảm cỏ biển tại Cù Lao Chàm, Ninh Hải, vịnh Vĩnh Hy, vịnh
Cam Ranh, đầm Thủy Triền, vịnh Vân Phong; HST đất ngập nước khu vực đầm Thị
Nại, Trà Ổ, Cù Mông, Ô Loan, Nha Phu.
– Vùng Tây Nguyên: Bảo vệ HST rừng nguyên sinh gồm: rừng trên núi trung
bình (Ngọc Linh, Chư Yang Sin), rừng nửa rụng lá (rừng bằng lăng), rừng rụng lá cây
họ Dầu (rừng khộp); rừng tự nhiên lưu vực sông Sê San, sông Ba, sông Đồng Nai.

– Vùng Đông Nam Bộ: Bảo vệ HST rừng nguyên sinh; các HST rạn san hô, thảm
cỏ biển tại Cà Ná, Côn Đảo; HST đất ngập nước tại đầm Thị Nại, rừng ngập mặn Cần
Giờ.
– Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Bảo vệ và phát triển bền vững 30.000 ha
HST rừng ngập mặn tự nhiên; HST các rạn san hô, thảm cỏ biển tại Phú Quốc; các
HST rừng ngập mặn và HST rừng tràm tại Tràm Chim, U Minh, Trà Sư.
c) Đánh giá thực trạng hệ sinh thái ở Việt Nam
Báo cáo quốc gia về ĐDSH năm 2011 (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã chỉ ra
xu hướng suy thoái của hầu hết các HST tự nhiên, quan trọng do các hoạt động chặt
phá rừng, xây dựng các công trình thủy điện, khai thác quá mức tài nguyên và nuôi
trồng không đúng cách. Hệ quả của quá trình suy thoái các HST tự nhiên này cũng kéo
theo sự mất sinh cảnh của loài, đặc biệt là các loài thú lớn như voi, hổ…, dẫn đến suy
giảm cả các loài.
Hiện nay, phần lớn các HST nằm trong các khu bảo tồn được bảo vệ theo quy
định của pháp luật. Phần còn lại nằm ngoài khu bảo tồn, đã được chỉ ra trong Quy
hoạch tổng thể, chiếm diện tích không nhỏ và cũng đóng vai trò quan trọng trong bảo
tồn ĐDSH trên cả nước. Thực tế cho thấy, việc suy thoái HST xảy ra cả trong khu bảo
tồn và ngoài khu bảo tồn. Ngoài ra, các HST ngoài khu bảo tồn còn có tính nhậy cảm
cao trước những tác động của môi trường nếu không được khoanh vùng bảo vệ.
2.2.2. Hiện trạng thành lập và quản lý khu bảo tồn ở Việt Nam
a) Hiện trạng thành lập các khu bảo tồn ở Việt Nam
Năm 1962, khu bảo tồn (KBT) đầu tiên được thành lập trong hệ thống KBT của
Việt Nam có tên gọi là khu “rừng cấm” Cúc Phương. Từ đó đến nay, hệ thống các
KBT trên cạn đã được thiết lập và quản lý theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng với 180
khu bao gồm: 30 vườn quốc gia, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 16 KBT loài – sinh cảnh,
56 khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng nghiên cứu thực nghiệm. Các HST ở vùng


ĐNN và vùng biển có giá trị ĐDSH cao đã được Chính phủ quy hoạch thành 45 KBT
vùng nước nội địa tại Quyết định số 1479/QĐ-TTg ngày 13/10/2008, 16 KBT biển tại

Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 26/5/2010 và 47 KBT ĐNN tại Quyết định số
45/QĐ-TTg ngày 08/01/2014. Tuy nhiên, đến nay chỉ có sáu (06) KBT biển được
thành lập với mục tiêu bảo tồn ĐDSH biển. Một số KBT vùng nước nội địa đã được
quy hoạch chi tiết nhưng chưa được thành lập. Các KBT ĐNN đã hình thành và nhiều
khu tồn tại dưới hình thức là KBT rừng đặc dụng như VQG Xuân Thuỷ, Mũi Cà Mau,
U Minh Thượng; KBT thiên nhiên Tiền Hải, Thạnh Phú, Láng Sen. Các KBT trên
được thành lập và quản lý theo cả Luật Thuỷ sản và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng.
Năm 2008, Luật ĐDSH ra đời đã bổ sung thêm hành lang pháp lý quan trọng cho công
tác quản lý ĐDSH và KBT của Việt Nam. Đây cũng là văn bản pháp lý cao nhất quy
định trực tiếp về phân cấp, phân hạng KBT thống nhất trên toàn quốc.
Căn cứ vào tiêu chí KBT theo quy định của Luật ĐDSH, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã xây dựng báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả rà soát KBT và ban hành
danh mục KBT của Việt Nam tại Quyết định số 1107/QĐ-BTNMT ngày 12/5/2015 của
Bộ trưởng Bộ TNMT, bao gồm 166 khu được phân hạng như sau: 31 vườn quốc gia,
64 khu dự trữ thiên nhiên, 16 khu bảo tồn loài – sinh cảnh và 55 khu bảo vệ cảnh quan.
Trong đó, đề xuất nâng cấp 01 khu dự trữ thiên nhiên Núi Phia Oắc thành Vườn quốc
gia Phia Đén – Phia Oắc; nâng cấp 01 KBT loài sinh cảnh Lung Ngọc Hoàng và 02
KBT biển Bạch Long Vĩ và Cù Lao Chàm thành khu dự trữ thiên nhiên.
b) Hiện trạng thể chế, chính sách quản lý khu bảo tồn ở Việt Nam
Hệ thống thể chế chính sách về quản lý KBT ở Việt Nam đang ngày càng được
hoàn thiện và góp phần quan trọng trong công tác bảo tồn ĐDSH của Việt Nam như:
Quyết định số 1250/QĐ-TTg ngày 31/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chiến lược quốc gia về ĐDSH đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Quyết định số
218/QĐ-TTg ngày 07/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quản lý
hệ thống rừng đặc dụng, khu bảo tồn biển, khu bảo tồn vùng nước nội địa Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5/9/2012
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 và nhiều văn bản, Nghị định hướng dẫn Luật có liên
quan. Tuy nhiên, quá trình thực thi các chính sách và văn bản này còn gặp nhiều khó
khăn, bất cập. Nguyên nhân chủ yếu là sự khác biệt về quy định phân hạng, phân khu

chức năng trong khu bảo tồn và các bất cập trong quy định quản lý khu bảo tồn.
Hiện nay, một số KBT đất ngập nước tồn tại trong hệ thống rừng đặc dụng và
đang được điều chỉnh bởi cả 03 Luật (Luật Thuỷ sản năm 2003, Luật Bảo vệ và phát
triển rừng năm 2004, Luật ĐDSH năm 2008). Mặc dù, vùng nước nội địa là một hợp


phần của vùng đất ngập nước (đất ngập nước bao gồm đất ngập nước nội địa và đất
ngập nước ven biển) nhưng các quy định về quản lý vùng nước nội địa, vùng đất ngập
nước và các KBT của loại hình HST này khác biệt nhau trong Luật Thuỷ sản, Luật
ĐDSH và các Nghị định hướng dẫn các Luật này.
Như vậy, cùng một đối tượng là các KBT thuộc các HST trên cạn, đất ngập nước,
biển nhưng đều được quản lý bởi các Bộ, ngành khác nhau và văn bản khác nhau, đặc
biệt là chưa thống nhất trong loại hình KBT vùng nước nội địa và KBT đất ngập nước,
dẫn đến việc thành lập KBT đất ngập nước trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn và do
vậy, các giá trị ĐDSH tại các vùng đất ngập nước đã và đang có nguy cơ suy thoái rất
nhanh.
Qua thực tế nêu trên cho thấy, đến nay các quy định về KBT và quản lý KBT vẫn
chưa được thực hiện thống nhất trong các Luật và văn bản hướng dẫn Luật có liên
quan.
c) Một số khó khăn, vướng mắc trong quản lý khu bảo tồn
Mặc dù Việt Nam đã có nhiều thành công trong việc quy hoạch, thiết lập và quản
lý hệ thống KBT nhằm đẩy mạnh công tác bảo tồn ĐDSH trên cả nước. Tuy nhiên,
công tác quản lý KBT hiện nay đang gặp nhiều thách thức:
– Các KBT được phân hạng và quản lý theo loại hình HST khác nhau, nên dẫn
tới sự chồng chéo và mâu thuẫn về phân hạng trong hệ thống các KBT, sự không thống
nhất về phân khu chức năng và vùng đệm của các KBT. Qua đó, cho thấy việc xây
dựng và ban hành các quyết định quản lý, đặc biệt cơ chế, chính sách cho từng kiểu
loại KBT là việc không thể thực hiện được, đặc biệt trong điều kiện kinh tế-xã hội Việt
Nam.
– Về tiêu chí, tiêu chuẩn để xác lập các KBT thiên nhiên thiếu và chưa rõ ràng,

khó áp dụng.
– Hệ thống các văn bản điều chỉnh các KBT thiếu, chưa đồng bộ và có những
quy định chưa rõ ràng, khó khả thi và việc phân công, phân cấp quản lý KBT thiên
nhiên còn chia cắt, chưa rõ về quyền hạn, trách nhiệm.
– Việc thành lập các KBT còn nặng về quy mô diện tích mà chưa cân đối được
khả năng quản lý, đáp ứng các nguồn lực tương ứng.
– Tổ chức bộ máy quản lý KBT còn nhiều bất cập, đây là một trong những
nguyên nhân chính hạn chế hiệu quả quản lý các KBT hiện nay ở Việt Nam.


– Việc quản lý, vận hành các KBT chưa hoặc ít tiếp cận phương pháp, kỹ thuật
bảo tồn hiện đại.
– Nhận thức về tầm quan trọng của các KBT chưa thực sự đầy đủ do thiếu thông
tin về giá trị của ĐDSH và dịch vụ HST của KBT.
– Nguồn lực đầu tư cho KBT hạn chế.
2.2.3. Hiện trạng loài tại Việt Nam
a) Nơi cư trú của động vật hoang dã vẫn bị thu hẹp do thay đổi phương thức sử dụng
đất và số lượng cá thể các loài quý, hiếm có nguy cơ tuyệt chủng giảm
Trên cạn, các HST rừng tự nhiên, trong đó, các loại rừng giàu, trung bình thường
xanh là nơi cư trú của nhiều loài động vật hoang dã do vậy ĐDSH ở đây cao. Nếu
hoạt động chặt phá rừng tự nhiên còn tiếp tục cho các mục đích khác thì nơi cư trú của
động vật hoang dã càng bị thu hẹp hoặc mất đi. Hiện tượng quần thể voi rừng hung dữ
phá hoại nhà cửa, mùa màng và nghiêm trọng hơn là giết hại dân ở một số địa phương
miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên có thể xem là phản ứng tự nhiên của bầy voi
hoang dã khi nơi cư trú của chúng đã bị xâm hại và thu hẹp. Hầu hết các loài thú
hoang dã khác như hổ chỉ còn thấy dấu vết phân bố ở các khu bảo tồn. Theo một số
nguồn thông tin, hiện Việt Nam chỉ còn khoảng 30 cá thể hổ trong tự nhiên.
Tổng số các loại động-thực vật được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam 2007 là 882 loài
(418 loài động vật và 464 loại thực vật), tăng 161 loài so với giai đoạn 1992-1996
(Lần xuất bản thứ nhất của các tập Sách Đỏ Việt Nam). Trong giai đoạn này mức độ bị

đe dọa của các loài chỉ mới dừng lại ở hạng “nguy cấp-EN”, thì hiện nay đã có tới 10
loài động vật được xem đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên (EW) tại Việt Nam.
Số lượng các loài thuỷ sinh vật, đặc biệt các loài tôm, cá có giá trị kinh tế bị giảm
sút nhanh chóng. Số lượng cá thể các loài cá nước ngọt quý hiếm, có giá trị kinh tế,
các loài có tập tính di cư bị giảm sút.
Thống kê về hiện trạng các loài động vật nguy cấp, quý hiếm cho thấy nhiều loài
đang ở mức báo động, đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng cao do nguyên nhân chính là
việc khai thác quá mức và mất môi trường sống, đặc biệt trong đó có nhiều loài đặc
hữu như: Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus) ước tính chỉ còn khoảng 190 cá
thể. Đầu thế kỷ 20, loài này phân bố ở rừng núi của 4 tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang,
Bắc Cạn và Thái Nguyên. Hay loài voọc mông trắng (Trachypithecus delacouri) chỉ
phân bó ở VQG Cúc Phương, khu BTTN Văn Long (Ninh Bình) và hiện chỉ còn
khoảng 100 cá thể. Tê giác Java Việt Nam (Rhinoceros sondaicus annamiticus) là một


trong hai quần thể tê giác duy nhất còn sót lại trên Trái đất đã được xác nhận bị tuyệt
chủng tại Việt Nam vào năm 2010.
b) Các kết quả chính đã đạt được trong công tác bảo vệ các loài hoang dã, loài
nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ của Tổng cục Môi trường:
Bảo tồn loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ là một trong những nhiệm
vụ quan trọng đã được quy định trong Luật ĐDSH năm 2008.Để thực hiện quy định
của Luật, Tổng cục Môi trường đã triển khai nhiều giải pháp cụ thể như: kiện toàn
khung pháp lý, tăng cường giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, tăng cường hợp
tác quốc tế và thu hút sự quan tâm của các Bộ, ngành hữu quan đối với hoạt động bảo
tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Tổng cục Môi trường đã xây
dựng và trình phê duyệt nhiều văn bản quan trọng nhằm tăng cường bảo tồn và quản
lý, bảo vệ hiệu quả các loài hoang dã, loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ
như Nghị định số 160/2013/NĐ-CP[4], Chiến lược quốc gia về ĐDSH[5], Quy hoạch
tổng thể bảo tồn ĐDSH trên cả nước, Thông tư liên tịch số 160/2014/TTLT-BTCBTNMT[6]; Góp ý kiến sửa đổi các văn bản luật quan trọng như Nghị định số
179/2013/NĐ-CP[7], Nghị định số 157/2013/NĐ-CP[8], Điều 190 của Bộ Luật hình

sự sửa đổi năm 2009; Thực hiện rà soát hệ thống pháp luật hiện hành về quản lý, bảo
tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm nhằm xác định lộ trình chỉnh sửa và kiện toàn khung
pháp lý và chính sách về bảo tồn các loài hoang dã, đặc biệt là loài nguy cấp, quý,
hiếm.
Tổng cục Môi trường đã tích cực huy động sự hợp tác, hỗ trợ về tài chính và kỹ
thuật từ các tổ chức quốc tế và các tổ chức bảo tồn trong công tác bảo tồn các loài
nguy cấp, quý, hiếm, cụ thể: từ năm 2012-2015, Tổng cục Môi trường đã xây dựng,
trình phê duyệt và triển khai thành công dự án “Tăng cường công tác bảo tồn ĐDSH
thông qua cải cách chính sách và thay đổi thực trạng tiêu thụ các loài động vật hoang
dã ở Việt Nam”. Dự án đã huy động được sự tham gia của nhiều Bộ, ngành, cơ quan
đoàn thể và các tổ chức chính trị xã hội, phi chính phủ thông qua việc thành lập diễn
đàn hợp tác vì động vật hoang dã (Vietnam- BCA- Wildlife Partnership). Trong khuôn
khổ dự án, Tổng cục Môi trường đã phối hợp, hỗ trợ các Bộ, ngành liên quan ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo nhằm tăng cường bảo tồn các loài hoang dã như Công văn số
79/YDCT-QLHN ngày 31 tháng 3 năm 2015 của Cục Quản lý Y dược, cổ truyền, Bộ Y
tế về tăng cường bảo vệ động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm trong y học
cổ truyền và Hướng dẫn số 98-HD/BTGTW của Ban tuyên giáo Trung ương về tăng
cường công tác tuyên truyền không buôn bán, tiêu thụ bất hợp pháp các loài động vật
hoang dã; đồng thời tổ chức nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý các loài
nguy cấp đã nêu trên.


Tổng cục Môi trường cũng triển khai nhiều chương trình hội thảo tập huấn, nâng
cao kiến thức cho các cán bộ quản lý địa phương, vườn quốc gia, khu BTTN trong
công tác quản lý các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ tại 03 miền và các
chiến dịch truyền thông giảm tiêu thụ trái phép các loài hoang dã nguy cấp với quy mô
lớn nhân các dịp đặc biệt như ngày quốc tế ĐDSH, ngày hội tình nguyện viên quốc tế
và các đợt trọng điểm như nghỉ lễ, tết v.v.
Những vướng mắc, tồn tại: Việc khai thác, buôn bán, tiêu thụ động, thực vật
hoang dã nguy cấp vẫn diễn ra chưa kiểm soát được.Các loài hoang dã tiếp tục bị suy

giảm.Nhiều loài đang đứng trước bờ của sự tuyệt chủng như hổ, voi…Các chương
trình bảo tồn loài chưa được quan tâm đúng mức. Một số chương trình đã được phê
duyệt nhưng không bảo đảm kinh phí thực hiện. Tại các khu bảo tồn, tình trạng khai
thác trái phép các loài hoang dã vẫn diễn ra do mâu thuẫn giữa đói nghèo, phát triển và
bảo tồn.Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phát triển hạ tầng làm chia cắt và thu
hẹp sinh cảnh của nhiều loài.
Nguyên nhân: Các nguyên nhân chính gây nên sự suy giảm các loài nguy cấp bao
gồm:
– Về mặt quản lý: các chính sách, quy định pháp luật chưa đồng bộ, công tác bảo
tồn ĐDSH nói chung và bảo tồn loài nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề
bảo vệ các loài hoang dã, đặc biệt là các loài nguy cấp, quý, hiếm còn có sự chồng
chéo về phân quyền, trách nhiệm quản lý giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng văn bản
triển khai Luật ĐDSH còn chưa đạt được sự thống nhất dẫn đến sự chậm ban hành các
văn bản hướng dẫn, quản lý, bảo tồn các loài. Bên cạnh đó, vấn đề bảo tồn các loài
hiện cũng được quy định rải rác tại nhiều văn bản liên quan đến bảo tồn ĐDSH và
quản lý bảo vệ rừng đã gây khó khăn, thiếu hiệu quả trong quá trình quản lý, thực thi
pháp luật. Nguồn lực đầu tư cho công tác bảo tồn loài còn rất hạn chế, thiếu sự quan
tâm hỗ trợ. Lực lượng tài nguyên môi trường ở địa phương chưa được tăng cường
năng lực để triển khai các quy định của Luật ĐDSH.
– Nhận thức của toàn xã hội đối với công tác bảo tồn loài, bảo tồn ĐDSH còn
nhiều hạn chế, một số bộ phận người dân vẫn có thói quen sử dụng các loài ĐVHD
nguy cấp dẫn đến nạn săn bắt, buôn bán, tiêu thụ gia tăng và trở thành vấn đề nóng,
bức xúc trong xã hội; nhận thức của các cấp, các ngành đã được nâng lên nhưng chưa
đủ và chưa quyết liệt nhằm góp phần bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm một cách
hiệu quả và toàn diện.


c) Các kết quả chính đã đạt được trong công tác quản lý sinh vật ngoại lai xâm
hại của Tổng cục Môi trường:

Theo Luật ĐDSH (2008), nội dung kiểm soát các loài ngoại lai xâm hại được quy
định tại Mục 3 trong đó gồm các nội dung như: Điều tra và lập Danh mục loài ngoại
lai xâm hại; Kiểm soát việc nhập khẩu loài ngoại lai xâm hại, sự xâm nhập từ bên
ngoài của loài ngoại lai; Kiểm soát việc nuôi trồng loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại;
Kiểm soát sự lây lan, phát triển của loài ngoại lai xâm hại; Công khai thông tin về loài
ngoại lai xâm hại.
Thực hiện quy định của Luật ĐDSH, Tổng cục Môi trường đã tiến hành xây
dựng và trình ban hành các văn bản chính sách, pháp lý trong lĩnh vực quản lý sinh vật
ngoại lai xâm hại như Quyết định số 1896/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2012 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án ngăn ngừa và kiểm soát sinh vật ngoại lai xâm
hại ở Việt Nam đến năm 2020; Thông tư liên tịch số 27/2013/TTLT-BTNMTBNNPTNT ngày 26 tháng 9 năm 2013 của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn quy định tiêu chí xác định loài ngoại lai xâm hại và ban
hành danh mục loài ngoại lai xâm hại; Quyết định số 200/QĐ-BTNMT ngày 20 tháng
01 năm 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc phê duyệt chương trình truyền
thông nâng cao nhận thức về ngăn ngừa và kiểm soát sinh vật ngoại lai xâm hại ở Việt
Nam giai đoạn 2015-2020.
Trong giai đoạn 2012-2015, trong khuôn khổ Dự án “Ngăn ngừa và quản lý sinh
vật rừng ngoại lai xâm hại ở rừng sản xuất và rừng được bảo vệ khu vực Đông Nam
Á”, Tổng cục Môi trường đã xây dựng tài liệu tập huấn, ấn phẩm và phim tài liệu về
tuyền truyên, nâng cao nhận thức cũng như tiến hành nhiều hoạt động tập huấn, nâng
cao kiến thức cho các cán bộ quản lý địa phương, ban quản lý vườn quốc gia, khu
BTTN trong công tác quản lý các loài ngoại lai xâm hại; tiến hành điều tra và xây
dựng cơ sở dữ liệu về sinh vật ngoại lai xâm hại tại một số khu bảo tồn, vườn quốc gia
trên cả nước; thí điểm diệt trừ loài Trinh nữ móc Mimosa diplotrica tại Vườn quốc gia
Cúc Phương.
Những vướng mắc, tồn tại: Luật ĐDSH có nhiều quy định về quản lý sinh vật
ngoại lai xâm hại chưa triển khai xây dựng do chưa có sự thống nhất giữa hai Bộ Tài
nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn như quy định về
khảo nghiệm loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại. Một số quy định về đánh giá rủi ro của
đối với các loài ngoại lai nhập khẩu, hệ thống phát hiện sớm và phản ứng nhanh các

loài ngoại lai xâm hại nhằm hỗ trợ công tác ngăn ngừa và kiểm soát sinh vật ngoại lai
xâm hại cũngchưa được đề cập trong Luật ĐDSH.Các hoạt động kiểm soát và diệt trừ
một số loài ngoại lai xâm hại nghiêm trọng như cây Mai dương, ốc Bươu vàng, cây
Trinh nữ móc… mới được thực hiện rải rác chưa mangtính đồng bộ trên cả nước do


thiếu nguồn kinh phí và nhân lực cũng như chưa tìm được giải pháp khoa học công
nghệ hữu hiệu áp dụng cho công tác diệt trừ các loài này. Các chương trình ngăn ngừa
và kiểm soát sự du nhập các loài ngoại lai xâm hạichưa được xây dựng và thực hiện tại
các địa phương trên cả nước.
Nguyên nhân: Nguyên nhân chính của những vướng mắc, tồn tại nêu trên là do
hệ thống quy định pháp luật chưa được hoàn thiện, nguồn nhân lực và tài chính hỗ trợ
công tác quản lý loài ngoại lai xâm hại từ Trung ương đến địa phương chưa được quan
tâm chú trọng, các giải pháp khoa học và công nghệ phục vụ công tác kiểm soát và
diệt trừ các loài ngoại lai xâm hại nguy hiểm nhất chưa được chú trọng nghiên cứu,
đầu tư.
d) Các kết quả chính đã đạt được trong công tác quản lý an toàn sinh học đối với
sinh vật biến đổi gen của Tổng cục Môi trường:
Trong thời gian qua, công tác quản lý an toàn sinh học (ATSH) đối với sinh vật
biến đổi gen đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Quốc hội và Chính phủ Việt Nam.
Thực hiện quy định của Luật ĐDSH, Tổng cục Môi trường đã tiến hành xây dựng và
trình ban hành các văn bản chính sách, pháp lý trong lĩnh vực quản lý an toàn sinh học
đối với sinh vật biến đổi gen như: Nghị định số 69/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 6 năm
2010 của Chính phủ về ATSH đối với sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền và sản
phẩm của sinh vật biến đổi gen; Nghị định số 108/2011/NĐ-CP ngày 30 tháng 11 năm
2011 của Chính phủ về sửa đổi một số điều của Nghị định số 69/2010/NĐ-CP ngày 21
tháng 6 năm 2010 của Chính phủ về ATSH đối với sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di
truyền và sản phẩm của sinh vật biến đổi gen; Thông tư số 09/2012/TT-BTNMT ngày
22 tháng 8 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định việc cung
cấp, trao đổi thông tin và dữ liệu về sinh vật biến đổi gen; Thông tư số 08/2013/TTBTNMT ngày 16 tháng 5 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy

định trình tự, thủ tục cấp và thu hồi Giấy chứng nhận ATSH đối với cây trồng biến đổi
gen; Thông tư số 13/2013/TT-BTNMT ngày 21 tháng 6 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường quy định quy trình kỹ thuật và định mức kinh tế-kỹ thuật
trong phát hiện sinh vật biến đổi gen bằng phương pháp phân tích định tính, định
lượng axit deoxyribonucleic.
Với vai trò là Đầu mối quốc gia về thực hiện Nghị định thư Cartagena về an toàn
sinh học, Tổng cục Môi trường đã tham mưu cho Bộ Tài nguyên và Môi trường báo
cáo Chính phủ về việc gia nhập Nghị định thư bổ sung Nagoya-Kuala Lumpur về
Nghĩa vụ pháp lý và bồi thường trong khuôn khổ Nghị định thư Cartagena về an toàn
sinh học. Ngày 12 tháng 2 năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 10/NQ-CP
về việc gia nhập Nghị định thư bổ sung. Việc gia nhập Nghị định thư bổ sung sẽ tạo
cho Việt Nam một cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc hơn trong việc yêu cầu các tổ
chức, cá nhân khi vận chuyển xuyên biên giới sinh vật biến đổi gen qua lãnh thổ Việt


Nam nếu để xảy ra thiệt hại phải có trách nhiệm và bồi thường thiệt hại, thông qua đó
sẽ hạn chế các rủi ro đến môi trường, ĐDSH và sức khỏe con người.
Thực hiện chức năng được giao, trong thời gian qua, Tổng cục Môi trường cũng
đã tiến hành tiếp nhận, thẩm định và cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học đối với cây
trồng biến đổi gen: đến nay, Tổng cục Môi trường đã tiếp nhận 05 hồ sơ đăng ký cấp
Giấy chứng nhận an toàn sinh học đối với các sự kiện ngô biến đổi gen mang đặc tính
kháng sâu hại bộ cánh vảy và chống chịu thuốc trừ cỏ gốc glyphosate. Sau khi tiếp
nhận các hồ sơ nêu trên, Tổng cục Môi trường đã triển khai các hoạt động thẩm định
theo đúng trình tự quy định tại Thông tư số 08/2013/TT-BTNMT: (i) Thành lập Tổ
chuyên gia bao gồm các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực liên quan; (ii)
Thành lập Hội đồng ATSH với các thành viên là đại diện cho các Bộ, ngành liên quan;
(iii) Đăng tải báo cáo đánh giá rủi ro của giống ngô biến đổi gen đăng ký trên trang
thông tin điện tử về ATSH để lấy ý kiến công chúng; (iv) Tổ chức các phiên họp thẩm
định hồ sơ của Tổ chuyên gia và Hội đồng ATSH. Việc đánh giá các hồ sơ đăng ký cấp
Giấy chứng nhận ATSH kỹ lưỡng, khoa học của Hội đồng ATSH và Tổ chuyên gia,

những người có chuyên môn, kinh nghiệm trong các lĩnh vực có liên quan. Đến nay,
Tổng cục Môi trường đã thẩm định xong 04 hồ sơ và trình Bộ Tài nguyên và Môi
trường cấp Giấy chứng nhận ATSH cho 04 sự kiện ngô biến đổi gen: MON89034
(Quyết định số 1836/QĐ-BTNMT ngày 27 tháng 8 năm 2014), NK603 (Quyết định số
2486/QĐ-BTNMT ngày 03 tháng 11 năm 2014); GA21 (Quyết định số 2485/QĐBTNMT ngày 03 tháng 11 năm 2014); Bt11 (Quyết định số 70/QĐ-BTNMT ngày 14
tháng 01 năm 2015). Có thể nói, việc thẩm định các hồ sơ nêu trên đã được Bộ Tài
nguyên và Môi trường thực hiện bài bản, khoa học, theo đúng trình tự, thủ tục quy
định tại các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ATSH đối với sinh vật biến đổi
gen và quy trình thẩm định này cũng dựa theo kinh nghiệm và các chuẩn mực về đánh
giá hồ sơ và chứng nhận ATSH đã được tiến hành trên thế giới.
Tiến hành các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về sinh vật
biến đổi gen và công khai thông tin về sinh vật biến đổi gen đối với môi trường,
ĐDSH, sức khỏe con người và vật nuôi: Từ năm 2006, Bộ Tài nguyên và Môi trường
đã xây dựng và vận hành Cổng thông tin điện tử về ATSH tại địa
chỉ: www.antoansinhhoc.vn. Cổng thông tin là địa chỉ tra cứu hữu ích cho doanh
nghiệp, công chúng quan tâm về các thông tin liên quan đến ATSH đối với sinh vật
biến đổi gen trong nước và quốc tế cũng như là công cụ để nâng cao nhận thức của
cộng đồng về công nghệ chuyển gen. Phối hợp với các cơ quan truyền thông xây dựng
các phóng sự, phim tài liệu về việc quản lý ATSH đối với sinh vật biến đổi gen; in ấn
và phát hành các ấn phẩm có nội dung liên quan đến vấn đề ATSH đối với sinh vật
biến đổi gen; Phối hợp với các tổ chức trong nước và quốc tế tổ chức các hội thảo, tập
huấn, đào tạo nhằm tăng cường năng lực cho các cán bộ quản lý, nhà nghiên cứu và
nâng cao nhận thức của cộng đồng về sinh vật biến đổi gen.
2.2.3. Hiện trạng nguồn gen


Việt Nam được xếp hạng thứ 16 trên thế giới về đa dạng tài nguyên sinh vật và là
một trong 10 trung tâm ĐDSH phong phú nhất thế giới[9] với nhiều kiểu HST, các loài
sinh vật, nguồn gen phong phú và đặc hữu.
Tuy nhiên, sự đa dạng trên đang bị đe dọa nghiêm trọng do việc khai thác bừa bãi

thiếu ý thức, thiên tai, thói quen canh tác lạc hậu, gia tăng dân số và đô thị hóa. Đặc
biệt, hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã đe dọa tới tài nguyên di truyền.
Thực tế cho thấy, hiện nay có một số giống đang còn rất ít như lợn Ỉ, lợn Ba Xuyên, gà
Hồ… Một trong những nguyên nhân gây suy giảm nguồn gen tại Việt Nam là do giá trị
về nguồn gen chưa được nhận thức đầy đủ. Đặc biệt tại khu vực miền núi và ven biển,
nơi sở hữu nguồn gen phong phú và quý hiếm nhưng do trình độ dân trí còn hạn chế
nên người dân chưa nhận thức đầy đủ giá trị nguồn tài nguyên đang nắm giữ. Trong
khi đó, các tổ chức, cá nhân khai thác nguồn gen không ý thức được trách nhiệm phải
chia sẻ lợi ích với bên cung cấp tài nguyên, khiến cho quyền lợi của cộng đồng không
được đảm bảo. Hơn nữa, một nguyên nhân khác dẫn tới sự suy giảm nguồn gen là do
hiện nay Việt Nam chưa kiểm soát được hoạt động khai thác nguồn gen của các tổ
chức, cá nhân nước ngoài tiến hành thông qua hợp tác nghiên cứu khoa học, liên
doanh, sưu tầm, du lịch…
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen,
từ năm 2011 đến 2013, Tổng cục Môi trường đã phối hợp với các cơ quan có liên quan
nghiên cứu các nội dung và điều khoản quy định của Nghị định thư Nagoya về tiếp cận
nguồn gen, chia sẻ công bằng và hợp lý lợi ích từ việc sử dụng nguồn gen theo Công
ước ĐDSH (gọi tắt là Nghị định thư Nagoya về ABS) và tham mưu cho Bộ Tài nguyên
và Môi trường trình Chính phủ xem xét, gia nhập Nghị định thư. Ngày 17 tháng 3 năm
2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 17/NQ-CP về việc gia nhập Nghị định thư
Nagoya về ABS. Ngày 23 tháng 4 năm 2014, Việt Nam chính thức gia nhập và trở
thành thành viên thứ 31 của Nghị định thư Nagoya về ABS. Việc gia nhập Nghị định
thư Nagoya về ABS sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong một số hoạt động,
như (i) tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc trong bảo vệ quyền và lợi ích công bằng của
bên cung cấp nguồn gen và tri thức truyền thống về nguồn gen ở Việt Nam; (ii) góp
phần thực hiện nghĩa vụ đối với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc
biệt là Công ước ĐDSH và Tuyên bố Rio về Phát triển bền vững; (iii) tạo cơ hội để
Việt Nam tiếp cận các nguồn lực quốc tế trong hỗ trợ xây dựng năng lực về vấn đề
này; (iv) nâng cao nhận thức về quản lý nguồn gen, thúc đẩy các hoạt động ứng dụng
nguồn gen, tri thức truyền thống về nguồn gen, góp phần nâng cao đời sống của cộng

đồng dân cư và bảo tồn ĐDSH.
Sau khi gia nhập Nghị định thư, thực hiện các nội dung được Chính phủ giao tại
Nghị quyết số 17/NQ-CP, Tổng cục Môi trường đã tiến hành các hoạt động như sau:
– Rà soát, đánh giá về hợp tác với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc
tiếp cận nguồn gen giai đoạn 2000 – 2013;


– Xây dựng dự thảo Đề án ”Tăng cường năng lực về quản lý tiếp cận nguồn gen
và chia sẻ công bằng, hợp lý lợi ích phát sinh từ việc sử dụng nguồn gen” và trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt;
– Xây dựng Nghị định về quản lý tiếp cận nguồn gen và chia sẻ công bằng, hợp
lý lợi ích phát sinh từ việc sử dụng nguồn gen trình Chính phủ xem xét, ban hành.


Phần III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam
3.1.1. Diện tích rừng có chất lượng suy giảm
Rừng là HST có độ ĐDSH cao nhất, là nơi nuôi dưỡng và sinh cư của hầu hết các
loài động thực vật hoang dại. Năm 1943, diện tích rừng của Việt Nam là 14,3 triệu ha
với tỷ lệ che phủ là 43%. Điều đáng chú ý là rừng trong thời kỳ này là rừng tự nhiên,
chất lượng tốt. Đến những năm 1990-1995, diện tích rừng suy giảm rất mạnh, chỉ còn
trên 9 triệu ha, tỷ lệ che phủ chỉ còn 27-28%. Điều đặc biệt quan trọng là tính trạng
mất rừng phòng hộ đầu nguồn, ven biển đã gây những tác động nguy hiểm như xói lở,
trượt đất, lũ quét, hoang mạc hóa (ven biển). Độ che phủ của rừng trên các vùng lưu
vực sông chính giảm
Lưu vực sông Đà chỉ còn dưới 11%, lưu vực sông Hồng 23%, lưu vực sông
Chảy-sông Lô-sông Gâm 27%, lưu vực sông Se San 31%, lưu vực sông Sê Rê Pôc
29%, lưu vực sông Đồng Nai 25%. Vùng lưu vực sông Cả, diện tích rừng che phủ còn
tương đối khả quan, chiếm 39%. Trong khi đó, độ che phủ rừng ở vùng lưu vực sông
Ba cách đây 5 năm là 37% thì nay chỉ còn không quá 23%. Các vùng rừng ngập mặn

ven biển các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ vẫn tiếp tục bị xâm hại, diện tích rừng ngập
mặn trồng không bù lại diện tích rừng đã bị mất.
Trong những năm gần đây, do có kế hoạch trồng mới rừng nên độ che phủ của
rừng tăng nên đáng kể. Tuy nhiên, diện tích rừng có chất lượng (rừng gỗ nhiệt đới tự
nhiên nhiều tầng) vẫn có xu hướng suy giảm. Điều đó gây suy giảm ĐDSH. Theo các
dẫn liệu thống kê (Báo cáo hiện trạng môi trường năm 2001), đến năm 1999, vùng Tây
Nguyên chiếm 33,1%, vùng Bắc Trung Bộ chiếm 19,4% và vùng duyên hải Nam
Trung Bộ chiếm 17,3% tổng diện tích rừng của cả nước. Đây là những vùng còn nhiều
rừng nhất đồng thời cũng là những vùng có độ ĐDSH cao nhất ở Việt Nam.
Bảng 3.1. Diễn biến diện tích rừng qua các thời kỳ (ĐV: triệu ha)
Năm 1943

1976

1980

1985

1990

1995

1999

2003

14,3

11,168


10,60
8

9,89
2

9,176

9,30
2

10,94
5

11,784

0

0,092

0,422

0,58
4

0,745

1,05
0


1,524

1,919

tự

14,3

11,076

10,18
6

9,30
8

8,431

8,25
2

9,421

9,865

Độ che phủ

43,0

33,8


32,0

30,0

27,8

28,2

32,2

35,8

Loại rừng
Tổng
tích

diện

Rừng trồng
Rừng
nhiên


(%)
Nguồn: Bộ NN&PTNT tính đến tháng 12/2003.

Hình 3.1. Diễn biến diện tích rừng qua các thời kỳ (ĐV: triệu ha)



Hình 3.2.. Độ che phủ rừng toàn quốc tại các thời điểm
3.1.2. Số lượng cá thể giảm
Các nghiên cứu, thống kê cho thấy số lượng một số loài quý hiếm đang bị giảm
rõ rệt (bảng 3.2)
Bảng 3.2. Tình trạng diễn biến số lượng một số loài động vật, thực vật quý hiếm, có
giá trị kinh tế ở Việt Nam.
T
T

Loài

Thời gian
Trước 1970 (cá thể)

Số liệu 1999 (cá thể)

1

Tê giác một sừng

15 - 17

5-7

2

Voi

1500 - 2000


100 -150

3

Hổ

Khoảng 1000

80-100

4

Bò xám

20 - 30

Không rõ
(cần nghiên cứu thêm)

5

Bò tót

3000 - 4000

300 - 350

6

Bò rừng


2000 - 3000

150 - 200

7

Hươu xạ

2500 - 3000

150 - 170

8

Hươu cà toong

700 - 1000

60-80

9

Hươu vàng

300 - 800

rất hiếm gặp

10


Sao la

loài mới phát hiện

số lượng không nhiều

11

Mang lớn

loài mới phát hiện

300-500

12

Mang Trường Sơn

loài mới phát hiện

số lượng không nhiều

13

Cheo cheo Napu

200 - 300

Rất hiếm gặp


14

Vượn đen tuyền

-

350 - 400

15

Vượn Hải nam

100

Không rõ (hiếm gặp)

16

Vượn Bạc má

Hàng nghìn

350 - 400

17

Vượn má hung

Hàng nghìn


150-200

18

Voọc đầu trắng

600 - 800

60-80

19

Voọc mũi hếch

800 - 1000

111 - 191

20

Voọc gáy trắng

-

300 - 350

21

Voọc mông trắng


-

80-100

22

Công

Hàng nghìn

rất hiếm


23

Gà lôi lam mào đen

-

Rất hiếm

24

Gà lôi lam mào trắng

Rất hiếm

25


Cá cóc tam đảo

Hàng nghìn

200 - 300

26

Cá sấu

Hàng nghìn

100 - 150

27

Sâm ngọc linh

Khai thác 6-8 tấn / năm

Khoảng
năm

28

Vỏ cây bời lời

Chỉ riêng vùng núi Ngọc linh có Khoảng 7 -8 tấn/ năm
thể khai thác 20 tấn/ năm


100-150kg/

Nguồn: Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, 2002.
Tây Nguyên là nơi có truyền thống thuần dưỡng voi rừng. Các số liệu thống kê ở
tỉnh Đắc Lắc cho thấy : năm 1980 có 500 con voi được thuần dưỡng, năm 1996 - 299
con, năm 1997 chỉ còn 169 con. Từ năm 1991 đến 1997 số lượng voi thuần dưỡng
giảm 56,8%.
Loài Sao la P. nghetinhensis từ khi phát hiện năm 1994 đến nay đã có 16 con bị
bắt để nuôi thử nghiệm nhưng đã chết hết, chưa kể số lượng cá thể loài này đã bị mắc
bẫy và bị dân địa phương bắt làm thịt. Loài này phân bố dọc dãy Trường Sơn nhưng
chưa rõ số lượng cá thể hiện nay là bao nhiêu. Gần đây (27/7/2004), WWF đã tổ chức
hội thảo về Sao la ở vườn quốc gia Pù Mát để cảnh báo nguy cơ giảm số lượng của
loài mới phát hiện này.
Nguồn thuỷ sản nước ngọt tự nhiên nhiều nơi bị giảm sút nghiêm trọng. Vùng
đồng bằng sông Cửu Long, năm 1970 có sản lượng 85.000 tấn/năm, chỉ còn 66.000 tấn
trong năm 1990. Sản lượng cá đánh bắt ở sông Hồng năm 1960 là 4.685 tấn, năm 1970
: 2.645 tấn, và năm 1990 ước tính khoảng 500 tấn (Nguyễn Văn Hảo, 1970,1995). Như
vậy, sản lượng khai thác các tự nhiên đã giảm 9,5 lần. Số lượng các loài cá có tập tính
di cư đẻ trứng ở thượng nguồn các sông Hồng như các mòi, cá cháy hoặc cá tra ở sông
Mê Kông đã giảm hẳn.
Tại vùng ven biển, tình trạng khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên sinh vật vùng
nước ven bờ cũng đang gia tăng mạnh mẽ, làm cạn kiệt sinh vật trong các HST ven bờ
và nguồn thuỷ sinh vật giai đoạn con non cư trú ở đây. Các kết quả thống kê trong 10
năm trở lại đây, năng xuất mẻ lưới khai thác tôm chỉ bằng 45% -78% so với năng xuất
thời kỳ 1975-1985.
3.1.3. Số lượng các loài trong Sách Đỏ tăng
Sau một quá trình điều tra nghiên cứu lâu dài, các nhà sinh học đã công bố 2 tập
“Sách đỏ Việt Nam” : Phần Động vật (1992, 2000) và phần Thực vật (1995). Những



tài liệu này đã nêu 365 loài động vật và 356 loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tiêu
diệt ở các mức độ khác nhau, đồng thời mô tả chi tiết về vùng phân bố, tập tính sinh
thái, hiện trạng cùng với các biện pháp bảo vệ được công bố (bảng 6.8). Năm 20022003, theo tiêu chuẩn mới của IUCN, Sách Đỏ Việt Nam đã được các nhà khoa học
soạn thảo lại. Trong đó, số lượng các loài động, thực vật được đưa vào Sách đỏ lần này
cao hơn số lượng đã công bố ở trên (417 loài động vật, 450 loài thực vật). Điều đó cho
thấy tình trạng suy giảm số lượng cá thể các loài quý hiếm, có giá trị khai thác ngày
càng tăng.
Bảng 3.3. Phân hạng các loài bị đe doạ được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam
Phân hạng Nguy cơ Dễ tổn Bị đe Hiếm
tuyệt
thương
doạ
Lớp
chủng

Chưa
xác định

Thú

30

23

1

24

Chim


14

6

32

31

Bó sát - Lưỡng cư 8

19

16

11



24

13

29

3

24

9


29

3

54

81

150

24

7

2

7

3

Không
sống

6
xương 10

Thực vật bậc cao
Thực vật bậc thấp

24


Nguồn: Bộ KHCN&MT, 1992, 1996, 2000. (biodivn.blogspot.com).
3.2. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam
Những nghiên cứu gần đây đã xác định những mối đe doạ chính đồng thời cũng
là những nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH Việt Nam bao gồm:
1. Khai thác quá mức tài nguyên sinh vật
Nhiều cộng đồng dân cư ở Việt Nam có truyền thống lâu đời về sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và đời sống vẫn phụ thuộc nhiều vào rừng như thu hái, khai thác
thực phẩm, chất đốt và vật liệu xây dựng. Do có sự thay đổi nhanh về kinh tế, xã hội
và tăng trưởng dân số ở Việt Nam, nên mô hình tiêu thụ của người dân thành thị cũng
đã thay đổi và mạng lưới giao thông đã xâm nhập tới các vùng xa xôi hẻo lánh nhất,
làm cho các vùng này trở nên dễ tiếp cận hơn đối với các thị trường bên ngoài. Những
thay đổi to lớn đó đã dẫn tới việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên tới mức độ
nguy hiểm tại nhiều vùng trên cả nước như khai thác trầm, săn bắt động vật quý hiếm,
khai thác sâm Ngọc Linh.


×