Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Để nâng cao chất lượng giảng dạy Đại học tại Việt Nam hiện nay, biện pháp quan trọng nhất và cấp thiết nhất là phải tăng học phí ở bậc đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.94 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ
BÀI THẢO LUẬN
MÔN KINH TẾ HỌC LAO ĐỘNG
Đề tài: Để nâng cao chất lượng giảng dạy Đại học tại
Việt Nam hiện nay, biện pháp quan trọng nhất và cấp thiết nhất
là phải tăng học phí ở bậc đại học.
Hà nội, tháng 11 năm 2010
1
Mục lục
Mở đầu 5
A/ Thực trạng nguồn cung lao động tại Việt Nam
1. Quy mô nguồn cung lao động Việt Nam 6
2. Tình trạng nguồn cung lao động Việt Nam 6
B/ Thực trạng nền giáo dục bậc đại học tại Việt Nam, khu vực và
thế giới
1. Giáo dục bậc đại học tại Việt Nam 9
2. Nền giáo dục bậc đại học trong khu vực và trên thế giới 12
C/ Vấn đề học phí
1. Đồng ý với nhận định tăng học phí để tăng chất lượng
giáo dục đại học
1.1 Tăng học phí là một xu thế tất yếu của quá trình
phát triển kinh tế 18
1.2 Nguyên nhân của việc tăng học phí
1.2.1 Do trượt giá và các chi phí đầu vào đều tăng 19
1.2.2 Do cơ sở vật chất và thiết bị giảng dạy chưa
đáp ứng được nhu cầu 21
1.2.3 Chế độ đãi ngộ giảng viên còn nhiều hạn chế 23
1.2.4 Tăng học phí sẽ thúc đẩy việc học tập của
sinh viên 25
2. Không đồng ý với nhận định tăng học phí để tăng


chất lượng giáo dục
2.1 Tăng học phí làm giảm khả năng đến trường của
sinh viên nghèo 25
2.2 Học phí cao không đồng nghĩa với chất lượng
đào tạo
2.2.1 Tiền chỉ là điều kiện cần chứ không phải là
điều kiện đủ để làm giáo dục thành công 27
2
2.2.2 Không tăng học phí mà cần tăng năng lực
quản lý 28
2.2.3 Các khoản thu - chi trong giáo dục chưa
minh bạch 29
3
MỞ ĐẦU
Giáo dục tại bậc đại học là một trong những hoạt động quan trọng
góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập,
nâng cao trình độ tay nghề và tăng nguồn thu cho đất nước đặc biệt là
trong bối cảnh nguồn nhân lực nước ta hiện nay đang rất dồi dào nhưng
lại thiếu trầm trọng về chất lượng. Cùng với các giải pháp trong ngắn hạn
nhằm làm tăng cầu lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp của Chính phủ thì tăng
chất lượng giáo dục tại bậc đại học cũng là một chiến lược dài hơi, đóng
vai trò quyết định cho chất lượng nguồn cung lao động tại Việt Nam
trong tương lai.
4
A/ Thực trạng nguồn cung lao động tại Việt Nam
Nhận thức về nguồn nhân lực của Việt Nam đang còn có những ý kiến
khác nhau. Trên phương tiện thông tin đại chúng, người ta thường nói đến
thế mạnh của Việt Nam là nguồn nhân công rẻ mạt và kêu gọi các nhà đầu
tư hãy đầu tư vào Việt Nam. Tại sao lại nói như vậy? Hiện nay ở nước ta,
quan điểm chỉ đạo về vấn đề này chưa rõ ràng, khả năng tổ chức để khai

thác cũng còn nhiều bất cập. Vì vậy, để nghiên cứu nó, ta phải tìm hiểu xem
nguồn nhân lực ở Việt Nam xuất phát từ đâu và đang ở tình trạng nào.
1. Quy mô nguồn cung lao động Việt Nam
Trong hàng chục năm trở lại đây, nguồn cung lao động luôn chiếm tỉ
trọng cao trong dân số và có xu hướng tăng mạnh trong tương lai. Đây là
một điều vô cùng thuận lợi bởi nước ta có một nguồn lực lượng lao động dồi
dào, là tiềm lực cho nền kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Năm 1979 1989 1999 2009
Dân số (triệu người) 52.742 64.375 76.325 857.895
Dân số trong độ tuổi lao động
(triệu người)
26.63 34.76 44.58 56.62
Tỉ trọng (%) 50.49 53.99 58 66
2. Tình trạng nguồn cung lao động Việt Nam
Tính đến nay, số dân trong độ tuổi lao động là khoảng 56,62 triệu
người, trong đó nông dân chiếm khoảng 73% lao động cả nước và lực lượng
công nhân chiếm khoảng 6%. Số liệu trên đây phản ánh một thực tế là nông
dân nước ta chiếm tỷ lệ rất cao về lực lượng lao động trong khi lực lượng
công nhân và trí thức chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ.
Theo báo cáo của ngành lao động, mỗi năm nước ta có hơn 1 triệu lao
động qua đào tạo, cộng với những người tốt nghiệp trung cấp chuyên
5
nghiệp, cao đẳng và đại học (khoảng 500 ngàn người). Nếu kể cả các doanh
nghiệp cũng tham gia đào tạo người lao động nữa thì tổng số lao động qua
đào tạo đạt trên 1,5 triệu người.
Tính từ năm 2000 đến năm 2006 có khoảng 9 triệu người được đào tạo
trong tổng số 45 triệu người trong độ tuổi lao động - tức là khoảng 20% lao
động đã qua đào tạo. Nếu cộng thêm số lao động đã qua đào tạo trước năm
2000 và hiện tại vẫn đang tham gia lao động thì tỉ lệ lao động đã qua đào tạo
chiếm khoảng 37%.

Bên cạnh đó, thống kê nguồn nhân lực cho thấy, hiện vẫn còn khoảng
80% số công chức, viên chức đã qua đào tạo chưa hội đủ những tiêu chuẩn
của một công chức, viên chức như trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại
ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số
sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm; không ít đơn vị nhận người
vào làm phải mất 1 - 2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên có việc làm
thì cũng có một số không đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt
Nam thì chưa được thì trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số
sinh viên tốt nghiệp đại học là 161,411. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại
học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn Nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu.
Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc làm cho thấy
kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161,411 sinh viên x 63% x 70
triệu), ít nhất thất thoát 7,117 tỷ đồng (trong đó có 4,067 tỷ đồng của dân và
3,050 tỷ đồng của Nhà nước)
Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực
Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát,
song mất cân đối nghiêm trọng:
• Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tôt
nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật; trong khi đó tỉ lệ
này của thế giới là 4 và 10.
• Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó
của thế giới là 100 và của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu
6
nhập quốc dân tính theo đầu người của Trung Quốc khoảng gấp
đôi nước ta
Kết quả chung là: Nhìn nhận theo góc độ đánh giá nguồn nhân lực,
chất lượng con người Việt Nam thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN
và Trung Quốc, có nhiều ưu thế không được nuôi dưỡng và phát huy đúng
hướng.
Ở Việt Nam, do ngành giáo dục không đào tạo được một lực lượng lao

động thỏa mãn yêu cầu của thị trường hiện nay, nhiều công ty, đặc biệt là
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài buộc phải tự đào tạo lấy người lao
động của mình. Lý do đơn giản là chất lượng đội ngũ lao động Việt Nam,
bao gồm cả đội ngũ kỹ sư và công nhân kỹ thuật, chưa đáp ứng được những
đòi hỏi về tiêu chuẩn văn hóa, chuyên môn - nghiệp vụ của thị trường.
Chúng ta trang bị cho người lao động những kiến thức mà hệ thống chính trị
cần nhưng tiếc thay, những kiến thức này không phù hợp, hay nói đúng hơn
là lạc hậu so với thời đại. Chính điều này đã giải thích tại sao người lao
động Việt Nam thường bị đánh giá thấp hơn và do đó, bị trả lương thấp hơn
trên thị trường lao động so với lao động nước ngoài có cùng trình độ chuyên
môn và cùng thời gian đào tạo.
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ trí thức ở Việt Nam, nhìn chung, còn
nhiều bất cập. Sự bất cập này ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế.
Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 - 8% nhưng
so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới
(WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC) công bố ngày 26/9/2007, kinh tế
Việt Nam xếp thứ 91/178 thế giới.
7
B/ Thực trạng nền giáo dục bậc đại học tại
Việt Nam, khu vực và thế giới
1. Giáo dục bậc đại học tại Việt Nam
Giáo dục đang là niềm hy vọng lớn lao cho đất nước ta hiện nay. Với
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta đi lên từ nghèo
nàn lạc hậu, có được thành quả như ngày nay có thể nói là bước phát triển
thần kỳ. Tuy nhiên, ở bất cứ xã hội nào, thời đại nào cũng luôn tồn tại 2 mặt:
mặt tích cực và mặt hạn chế chưa làm được. Ở nước ta cũng vậy, việc phát
triển giáo dục ngày càng hoàn thiện đòi hỏi phát huy thế mạnh và khắc phục
khó khăn mới đạt kết quả cao.
Phải khẳng định rằng, những gì Việt Nam đã làm được trong giáo dục
là rất to lớn. Vì lợi ích "mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" theo tư

tưởng bác Hồ vĩ đại mà sự nghiệp giáo dục ở nước ta đã nhận được sự quan
tâm của toàn Đảng, toàn dân, của đông đảo sinh viên, giảng viên và các tầng
lớp tri thức.
So với các thời kỳ trước, Giáo dục Đại học Việt Nam cho đến giữa
thập niên 80 vẫn cơ bản là giáo dục tinh hoa. Vì vậy, trong giai đoạn này,
vấn đề chất lượng giáo dục đại học hầu như không được đặt ra. Trong một
thời gian dài, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã quan niệm quản lý
chất lượng giáo dục đồng nghĩa với việc kiểm soát đầu vào thông qua các kỳ
thi tuyển mang tính cạnh tranh cao. Năm 1986 đánh dấu sự bắt đầu của công
cuộc đổi mới giáo dục đại học tại Việt Nam là tăng cường "khả năng cung
ứng" của các cơ sở giáo dục, mở rộng tối đa cơ hội tiếp cận cho người học.
Để đạt mục tiêu này, trong vòng hai thập niên kể từ khi giáo dục Việt Nam
bắt đầu đổi mới, rất nhiều biện pháp đã được thực hiện và kết quả là số
lượng người học cũng như các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam đã tăng
lên một cách đột biến.
8
Nhìn chung, hệ thống giáo dục nước ta khá hoàn thiện với đủ các loại
hình: trường công lập, bán công, nội trú, các học viện, trung tâm giáo dục
kết hợp vừa học vừa làm. Các hình thức đào tạo cũng phong phú, từ chính
quy, tại chức, liên thông, đào tạo từ xa, du học,
Theo kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện
chính sách pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào
tạo đối với giáo dục đại học, tính đến nay, cả nước đã có 409 trường đại học,
cao đẳng, trong đó có 307 trường được thành lập mới hoặc nâng cấp trong
10 năm qua thu hút hàng trăm ngàn sinh viên theo học mỗi năm.
Giáo dục Đại học Việt Nam đã được Nhà nước quan tâm đặc biệt trong
những năm gần đây, ngân hàng thế giới đã đầu tư cho giáo dục Việt Nam
qua nhiều dự án lên đến hàng trăm triệu USD nhưng tình hình Giáo dục Đại
học Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, 3 trong số những bất cập đó
liên quan đến mục tiêu, chương trình và phương pháp.

a) Mục tiêu
Cho tới thời điểm hiện nay, các trường Đại học Việt Nam vẫn chưa
xác định được mục tiêu cụ thể để đào tạo sinh viên. GS Vũ Minh Giang -
ĐHQG Hà Nội lập luận rằng các trường Đại học trên thế giới thường hướng
đến 3 mục tiêu chính sau để đào tạo sinh viên: Trang bị kiến thức nghề
nghiệp chuyên môn, Hướng dẫn sinh viên ứng dụng chuyên môn đã học vào
công việc thực tế, Nâng cao trình độ nhận thức văn hóa cho sinh viên. Trong
khi đó các trường Đại học Việt Nam lại hướng đến những mục tiêu to lớn,
không cụ thể như: Trung thành với tổ quốc, Xây dựng xã hội chủ nghĩa
nên nhiều lúc chính cả thầy và trò còn lơ mơ về mục tiêu dạy và học của
mình.
b) Chương trình
Hiện nay, chương trình giáo dục bậc đại học tại Việt Nam vẫn còn kém
hiệu quả. Nguyên nhân do Bộ khống chế quá chặt về chương trình khung và
yêu cầu các trường phải tuân thủ một cách cứng nhắc.
9
Theo chuyên gia, kiến thức chuyên ngành sinh viên được học quá ít.
Ví dụ, một chương trình cử nhân, bao gồm 125 - 130 tín chỉ tất cả các môn,
trong đó có khoảng 80 - 90 tín chỉ là môn chung. Các môn chung của ngành
cũng khoảng 20 tín chỉ nữa. Cho nên những kiến thức sẽ học để sinh viên đi
làm thực tế chỉ còn khoảng 20 tín chỉ. Cho nên những kiến thức sẽ học để
sau này sinh viên đi làm thực tế chỉ còn khoảng 20 tín chỉ nữa, tương đương
với 4 - 5 môn.
c) Phương pháp
Hiện nay, giảng viên tại một số trường Đại học Việt Nam chủ yếu vẫn
sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống "thầy đọc, trò chép". Giảng
viên lý giải rằng biết rằng phương pháp này khiến sinh viên không hứng thú
nhưng họ phải truyền đạt hết nội dung giáo trình cho sinh viên theo số tiết
mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định. Phương pháp dạy và học hiện nay
chủ yếu chạy theo chương trình, đối phó với các kỳ thi, thi xong thì chẳng

còn gì.
Một bất cập nữa là phương pháp đánh giá, kiểm tra ở các trường đại
học. Hiện tại các trường đại học đánh giá sinh viên qua 2 kỳ thi: kiểm tra
giữa kỳ chiếm 30 - 40% điểm số và điểm số thi cuối kỳ chiếm 60 - 70% là
không hợp lý vì không phát huy được tinh thần tự học, tự nghiên cứu của
sinh viên.
Theo một nghiên cứu mới đây về phong cách học của sinh viên của
PGS.TS Nguyễn Công Khanh năm 2008 thì:
• Hơn 50% sinh viên được khảo sát không thật tự tin vào các năng
lực/ khả năng học của mình.
• Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học.
• Gần 70% sinh viên cho rằng mình không có năng lực tự nghiên
cứu.
• Gần 55% sinh viên được hỏi cho rằng minh không thực sự có hứng
thú học tập.
10
Cũng theo nghiên cứu này:
• Có 88,88% sinh viên muốn các bài giảng của giảng viên gồm cả
những tri thức mới không có trong giáo trình.
• 73,3% sinh viên thích đựoc giảng viên giao làm những bài tiểu
luận để giúp họ phát triển khả năng suy nghĩ độc lập, tư duy phê phán.
• 82,4 sinh viên thích giảng viên hỏi, khuyến khích sinh viên đặt
câu hỏi, hướng dẫn sinh viên đào sâu suy nghĩ để hiểu bản chất hơn là
thuyết trình suốt cả tiết học.
• 85,6% sinh viên muốn khi bắt đầu mỗi tiết học, giáo viên nêu
yêu cầu, hướng dẫn phương pháp học, tài liệu tham khảo và cách khai thác
thông tin từ những tài liệu tham khảo này.
• 79,2 sinh viên mong muốn các môn học có nhiều giờ tự học (có
hướng dẫn và giải đáp thắc mắc) hơn so với hiện nay.
Tuy nhiên, khi đưa ra con số chỉ có 34,7% sinh viên thích hỏi và đưa

ra những quan điểm cá nhân, ông Khanh có dự báo rằng những đổi mới về
phương pháp dạy và học theo hướng tích cực hóa người học có thể sẽ gặp
khó khăn đáng kể do nếp nghĩ và các thói quen học thụ động đã định hình ở
phần lớn sinh viên hiện nay.
Như vậy, giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, tuy đã tiến được
những bước rất dài nhưng vẫn còn nhiều bất cập về cả dạy và học cần được
khắc phục trong tương lai.
2. Toàn cảnh nền giáo dục trong khu vực và trên thế
giới
Từ hơn 100 năm nay, vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định chính
sách, các nhà kinh tế là làm thế nào để một nước nghèo đuổi kịp nước giàu
về trình độ phát triển mà trước hết là về thu nhập bình quân đầu người. Báo
cáo phát triển công nghiệp năm 2005 của Tổ chức Phát triển Công nghiệp
Liên hợp quốc UNIDO chỉ ra rằng, cách thức mà các nước dùng để thu hẹp
khoảng cách phát triển kinh tế với các nước đi trước là rất đa dạng. Tuy
11
nhiên, vấn đề không chỉ là bắt chước các quy định, định chế, công nghệ của
các nước phát triển; cũng không thể chỉ trông cậy vào động lực của kinh tế
thị trường mà muốn phát triển lâu dài và bền vững, những nước chậm và
đang phát triển chỉ có một lựa chọn duy nhất là phát triển giáo dục.
Một thực tế là tất cả hệ thống giáo dục của các nước chậm và đang
phát triển trên thế giới đều rất lạc hậu, và hiện đang tụt hậu so với các nước
phát triển hàng thập kỷ. Hệ thống giáo dục không tương thích và tách khỏi
cuộc sống mặc dù đã tiến hành không ít các cuộc cải cách. Đầu ra các
trường đại học thường không thể đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống, yêu
cầu của nền kinh tế chuyển đổi. Ở một số nước, do ảnh hưởng của chính trị,
người lao động được giáo dục quá nhiều về nhận thức chính trị thay vì được
giáo dục về năng lực chuyên môn và khả năng thích ứng.
So sánh nền giáo dục bậc đại học tại Việt Nam với người láng giềng
Trung Quốc, có thể thấy, sau 25 năm tiến hành đổi mới về giáo dục, Trung

Quốc đã đạt được những thành quả to lớn. Trong quá trình cải cách, bên
cạnh hệ thống trường công lập, Trung Quốc còn chú trọng phát triển hệ
thống trường dân lập, hình thành cục diện mới song song với việc phát triển
trường công lập và dân lập. Đây là một con đường tất yếu để một nước còn
nhiều khó khăn có thể đại chúng hóa giáo dục Đại học, biến gánh nặng về
dân số thành nguồn nhân lực dồi dào có trình độ cao như Trung Quốc.
Trong khi đó, Việt Nam cũng tiến hành cải cách hệ thống trường công lập
và dân lập nhưng kết quả lại chưa được như mong đợi. Ngoài ra, Trung
Quốc còn chủ trương phát triển nhiều hình thức trường đại học đào tạo
không chính quy như đại học qua truyền hình, đại học nông dân, đại học
viên chức, học viện giáo dục và bồi dưỡng giáo viên, học viện quản lý cán
bộ, Phương thức đào tạo này, nếu được áp dụng vào Việt Nam sẽ mở ra
nhiều cơ hội học đại học cho nhiều người, góp phần vàp thực hiện mục tiêu
giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
So sánh Việt Nam với Mỹ - một đất nước có nền giáo dục bậc đại học
hàng đầu trên thế giới với các chương trình đào tạo xuất sắc hầu như trong
12
mọi lĩnh vực, có bằng cấp được công nhận trên toàn thế giới. Theo thống kê,
thời gian học tập trên lớp của một sinh viên Việt Nam trong vòng 4 năm là
khoảng 2.183 giờ trong khi ở Mỹ là khoảng 1.380 giờ. Như vậy chương
trình học ở Việt Nam dài hơn gần 60%. Với thời gian ngồi trên lớp như vậy,
sinh viên sẽ còn ít thời gian để tự học và nghiên cứu hơn. Ngoài ra, các
chương trình về Chủ nghĩa Marx - Lenin, chính trị chủ nghĩa xã hội, lịch sử
Đảng, chiếm 203 giờ, tương đương với 9% tổng thời gian học trên lớp.
Đây cũng là một trong những lý do làm tăng số giờ giảng dạy trên lớp tới
2.183 giờ. Hơn nữa, trong khi ở đại học Việt Nam, hầu như tất cả các môn
học đều có tính bắt buộc, sinh viên không có quyền lựa chọn thì ngược lại, ở
Mỹ, sinh viên có quyền lựa chọn đến 1/3 thời gian học dù học bất cứ ngành
chính nào. Việc hiểu biết liên ngành như vậy cho phép sinh viên hợp tác
nghiên cứu liên ngành, phân tích và nhìn nhận vấn đề không bị bó hẹp trong

chuyên môn của mình. Do đó, sau khi ra trường, họ có thể làm việc ở nhiều
chuyên môn khác nhau chứ không bị bó vào ngành chuyên môn duy nhất.
13
C/ Vấn đề học phí
Trong những năm gần đây, học phí đang là một vấn đề nhức nhối,
được cả xã hội quan tâm. Học phí liên tục tăng theo từng năm học. So với
mức trần tối đa trong khung học phí đại học trước đây là 240,000 đồng/
tháng, từ năm học 2010 - 2011 học phí tại các trường đại học sẽ tăng lên 2 -
3 lần tùy ngành học. Cũng trong năm học 2010 này, Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định mức trần học phí theo từng ngành như sau:
S
TT
Nhóm ngành đào
tạo
Khung học phí
(đơn vị:
đồng/tháng)
(đơn vị:
USD/năm)
1. Khoa học, xã hội,
kinh tế, luật
Từ 290.000 đến
550.000
Từ 138 đến
262
2. Kỹ thuật, công nghệ Từ 310.000 đến
650.000
Từ 147 đến
310
3. Khoa học tự nhiên Từ 310.000 đến

650.000
Từ 147 đến
310
4. Nông - lâm - thủy
sản
Từ 290.000 đến
550.000
Từ 138 đến
262
5. Y dược Từ 340.000 đến
800.000
Từ 162 đến
381
6. Thể dục thể thao,
nghệ thuật
Từ 310.000 đến
650.000
Từ 147 đến
310
7. Sư phạm Từ 280.000 đến
500.000
Từ 133 đến
238
Có thể so sánh với học phí của một số nước trong khu vực và trên thế
giới như sau:
14
 Singapore
S
TT
Nhóm ngành đào tạo

Học phí
(đơn vị: USD/năm)
1. Các ngành không liên quan đến phòng
thí nghiệm
7.000
2. Các ngành liên quan đến phòng thí
nghiệm
7.000
3. Y dược
18.500
4. Âm nhạc
8.100
Trong đó:
• Các ngành không liên quan tới phòng thí nghiệm gồm: kinh tế,
khoa học và xã hội, luật,
• Các ngành liên quan tới phòng thí nghiệm gồm: kiến trúc, xây
dựng, công nghệ thông tin,
 Anh
S
TT
Nhóm ngành đào tạo
Học phí
(đơn vị: USD/năm)
1.
Khoa học, kinh tế, luật
Từ 9.300 đến
13.900
2.
Y dược
Từ 10.000 đến

26.000
3.
Nghệ thuật
Từ 9.000 đến
11.000
1. Đồng ý với nhận định tăng học phí để tăng chất lượng
giáo dục đại học
1.1 Tăng học phí là một xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh
tế
15
Trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay, nguồn lao động đóng một
vai trò hết sức quan trọng, quyết định sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Để cho nền kinh tế phát triển phải không ngừng nâng cao năng suất lao
động, hiệu quả công tác, ý thức trách nhiệm của người lao động với công
việc. Vì vậy, phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ dân trí và
chuyên môn kĩ thuật cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển
dụng có vai trò rất lớn, đặc biệt là giáo dục đại học và sau đại học.
Kinh tế càng phát triển càng đòi hỏi một lực lượng lao động lớn, có
trình độ chuyên môn, kĩ thuật cao. Để đáp ứng được yêu cầu trên, giáo dục
đào tạo phải không ngừng thay đổi về cả quy mô và chất lượng.Muốn vậy,
phải đầu tư cho giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục có nghĩa là phải đầu tư cơ sở vật chất,trang thiết
bị phục vụ cho quá trình học tập và nghiên cứu khoa học của giảng viên và
sinh viên.Ngoài ra còn phải có những chế độ đãi ngộ phù hợp cho giảng
viên.
Chi phí cho giáo dục chủ yếu là ngân sách của nhà nước,đóng góp của
người học và nguồn thu từ nghiên cứu khoa học,ứng dụng công nghệ. Chi
phí cho giáo dục ngày càng cao do việc xây dựng cơ sở vật chất,thiết bị giáo
dục rất tốn kém, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn chế và phải chi cho
nhiều lĩnh vực khác. Việc nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ còn

hạn chế. Vì vậy tăng học phí là một xu thế tất yếu.
Sau đây là một số số liệu thực tế về việc tăng học phí:
 Tại Singapore
Các trường đại học hàng đầu của Singapore là Trường đại học Quốc
gia Singapore (NUS), Trường đại học Kỹ thuật Nanyang (NTU) và Trường
đại học Quản lý Singapore (SMU) tăng học phí từ 3% đến 18% trong năm
2010. Cụ thể:
o Tại Trường NUS, sinh viên học các khóa Kiến trúc và Kinh
doanh sẽ chịu mức học phí tăng hơn 7%, còn học phí của ngành Luật và
Dược sẽ tăng hơn 10%. Học phí của tất cả các khóa học khác của Trường
16
NUS dành cho sinh viên chưa tốt nghiệp sẽ tăng 4% (áp dụng đối với sinh
viên người Singapore).
o Tại Trường NTU, học phí của các khóa học kinh doanh tăng gần
18%, còn học phí của các khóa học khác tăng khoảng 8%.
o Tại Trường SMU, những tân sinh viên người Singapore sẽ phải
chịu mức học phí tăng 3%, theo đó học phí hàng năm của các khóa học Luật
sẽ lên tới 10.920 USD, còn mức học phí năm của các khóa học khác là 9.890
USD.
(Theo StraitsTimes)
 Tại Hàn Quốc
So với năm 2009, học phí các trường đại học trên khắp cả nước Hàn
Quốc đã tăng 1,29%, đạt mức trug bình 6,85 triệu won/năm. Cao nhất là
trường đại học Yonsei, đại học Nghệ thuật Chugye với mức học phí trung
bình 8,95 triệu won. Năm 2009, các trường đại học công lập tăng học phí
trung bình 1,39% lên 4,48 triệu won, các trường đại học tư thục tăng trung
bình 1,6% so với năm trước.
(Theo Korea Time)
 Tại Việt Nam
Vào tháng 9-2009, sau khi Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định điều

chỉnh khung học phí đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại
học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân năm học 2009 – 2010, một
loạt các trường đã tăng học phí.
o Các trường đại học công lập đồng loạt tăng học phí
• Đại học Thái Nguyên, Học viện công nghệ Bưu chính
viễn thông, đại học Kinh tế Quốc dân, đại học Luật Hà Nội, đại học Hà Nội,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện
Ngân hàng, đại học Ngoại thương đều tăng học phí ở mức cao nhất là
240.000đ/tháng.
17
• Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010, trường tăng kịch
trần tất cả các ngành học theo quy định của nhà nước với mức
240.000đ/tháng. Riêng ngành Kinh tế Chính trị mức học phí là 210.000đ.
o Các trường đại học ngoài công lập cũng tăng học phí từ 10 -
20%
• Đại học Thăng Long tăng 10-15% học phí, đại học Đại
Nam 20% học phí, đại học Lương Thế Vinh tăng 10% học phí, từ 5 triệu
đồng/năm lên 5,5 triệu đồng/năm, đại học Dân lập Phú Xuân (Thừa Thiên -
Huế) tăng 15% từ 4,2 triệu lên 5,2 triệu đồng/năm.
• Đại học Lạc Hồng, mức học phí nhà trường áp dụng cho
năm học 2010-2011 là 700.000 đồng/tháng, tăng 50.000 đồng/tháng so với
năm học trước. Đại học Phương Đông, thu học phí theo từng ngành từ 5,5 -
5,7 triệu/năm. Theo lãnh đạo của trường, dự kiến có thể tăng 10% học phí.
1.2 Nguyên nhân của việc tăng học phí
1.2.1 Do trượt giá và các chi phí đầu vào đều tăng
Kinh tế phát triển kéo theo nó là sự mất giá của đồng tiền.Ở Việt Nam
giá tiêu dùng bình quân tăng 1,62 lần.
Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của
Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,63% so với tháng 12/2006, 3 tháng
đầu năm 2008 tiếp tục lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng

gần ba phần tư mức cả năm 2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép
9% và lạm phát năm 2008 tính đến tháng 6 là 22,3%.
18
Tỉ lệ lạm phát giai đoạn 1995 - 2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 hàng năm.
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Chỉ số giá tiêu dùng
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
19
Do sự mất giá của đồng tiền nên 180.000 đồng/tháng học phí đại học
là mức quy định từ hơn 10 năm trước(1998) thì nay chỉ còn tương đương giá
trị 90.000 đồng.
Chẳng hạn, trước đây một ngàn đồng mua được một ký sắt cho sinh
viên cơ khí thực tập, bây giờ với số tiền ấy chỉ mua được 1/3 ký sắt. Cách
đây 10 năm, trong một tuần thực tập của sinh viên mất 14 ngàn đồng tiền vật
tư/sinh viên nhưng hiện nay một tuần thực tập như vậy cũng phải mất 14-17
ngàn đồng và số tiền này chỉ mua được 1/3 vật liệu thực tập so với 10 năm
trước!
Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng đưa ra sự so sánh, chi phí để trở thành
kỹ sư, cử nhân mà người học phải trả hiện nay là 7,2 -9 triệu đồng. Trong
khi, ra trường năm đầu tiên đi làm thu nhập của những người này là 1,2-3
triệu đồng/tháng, khoảng 14,4-36 triệu đồng/năm. Như vậy, chỉ cần 3-8
tháng lương đã bằng toàn bộ kinh phí của quá trình đào tạo.
1.2.2 Do cơ sở vật chất và thiết bị giảng dạy chưa đáp ứng được
nhu cầu
Điều kiện học tập và nghiên cứu khoa học cho sinh viên các trường
đại học và các trường dạy nghề ở nước ta còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu
cầu để nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục đại học.
Theo ông Trần Duy Tạo - cục trưởng Cục Cơ sở vật chất và thiết bị
trường học, đồ chơi trẻ em (Bộ Giáo dục & Đào tạo), chỉ xét riêng ở khía
cạnh đất đai, bình quân diện tích đất cho một sinh viên đại học, cao đẳng rất

thấp (35,7m
2
/sinh viên). So với tiêu chuẩn thiết kế trường đại học (55-
85m
2
/sinh viên), có đến trên 50% số trường đại học, cao đẳng ở mức dưới
chuẩn. Bình quân diện tích đất/sinh viên của các trường khu vực Hà Nội là
13m
2
/sinh viên, TP Hồ Chí Minh là 10m
2
/sinh viên. Tại Hà Nội và TP Hồ
Chí Minh có 30-40%số trường có diện tích dưới 5m
2
/sinh viên. Điển hình
như trường đại học Xây Dựng 0.84m
2
/sinh viên, đại học Luật Hà Nội
0,67m
2
/sinh viên, đại học Ngoại Thương 1.08m
2
/sinh viên, đại học Kinh Tế
20
Quốc Dân 2.97m
2
/sinh viên, đại học Kinh Tế TP Hồ Chí Minh 0.54m
2
/sinh
viên

Theo một cuộc khảo sát thực trạng cơ sở vật chất và thiết bị đào tạo
tại các trường đại học, cao đẳng công lập được Bộ Giáo dục & Đào tạo tiến
hành trên toàn quốc cho thấy:
Tỉ lệ bình quân diện tích sử dụng học tập của sinh viên chỉ đạt
3,6m2/sinh viên, trong khi quy định chung ở Việt Nam là 6m2/sinh viên và
ở các nước phát triển là 9-15m
2
/sinh viên. Nhiều trường vẫn còn trong tình
trạng đi thuê mướn cơ sở bên ngoài làm nơi học tập.
Số lượng thư viện và phòng thí nghiệm tại các trường đại học ở nước
ta quá ít, không thể đáp ứng được nhu cầu giảng dạy của giảng viên và nhu
cầu nghiên cứu của sinh viên.
Trong tổng số 196 trường đại học, cao đẳng, chỉ có 172 trường có thư
viện truyền thống, chiếm 87%. Như vậy, có tới khoảng 13% số trường
không có thư viện. Không chỉ vậy, mức độ đáp ứng nhu cầu đọc của sinh
viên còn rất thấp. Tính trung bình 21,2 sinh viên mới có 1 chỗ ngồi. Bên
cạnh đó, diện tích sử dụng trung bình của thư viện cho 1 sinh viên rất thấp
(0,18m
2
), so với tiêu chuẩn thiết kế hiện hành là 0,5m
2
. Trong tổng số 196
trường đại học, cao đẳng chỉ có 77 trường, chiếm 39,3 % số trường có thư
viện điện tử, 16.9% thư viện điện tử có kết nối với các thư viện khác.Trung
bình 175 sinh viên mới có một máy tính truy cập, và số bản sách,tài liệu cho
sinh viên rất thấp(khoảng 9 bản/sinh viên).
Số lượng phòng thí nghiệm thiếu rất nhiều so với yêu cầu, diện tích
sử dụng trung bình của phòng thí nghiệm cho 1 sinh viên là rất thấp, khoảng
0,53m
2

so với tiêu chuẩn hiện hành là 1,4m
2
.
Không chỉ vậy, chất lượng phòng thí nghiệm ở nước ta còn hạn chế:
chỉ có 15,5% được trường đánh giá đạt về mức độ đáp ứng nhu cầu nghiên
cứu khoa học, các phòng thí nghiệm này tập trung chủ yếu ở một số trường
đại học đầu ngành; 22,5% được đánh giá có chất lượng các thiết bị tốt, chỉ
có 1,4% phòng thí nghiệm được đánh giá là tương đương so với chất lượng
21
và công nghệ thiết bị các phòng thí nghiệm của các trường đại học trên thế
giới, còn gần 50% phòng thí nghiệm ở mức trình độ lạc hậu. Để đáp ứng
được nhu cầu thực hành, thí nghiệm của sinh viên theo chương trình đào tạo
và với các định mức tiêu chuẩn thì các phòng thí nghiệm hiện nay mới chỉ
đáp ứng được 40% nhu cầu.
Theo đại diện một số trường đại học, tình trạng chung ở nhiều trường
là phòng thí nghiệm phải sử dụng nhiều ca/ngày, luôn ở mức quá tải. Có
nhiều phòng thí nghiệm đại cương phải bố trí 5-10 sinh viên/bộ thiết bị/ca.
Các xưởng thực hành của các trường chỉ có 26,2% được đánh giá tốt.
Cụ thể tại Trường Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp (KT-KTCN) cơ sở
vật chất phục vụ cho việc học còn nhiều hạn chế như: Dãy nhà D vốn là khu
ký túc xá cũ của trường, nay được cải tạo lại làm giảng đường. Các lớp học
chỉ được ngăn với nhau bằng những phiến gỗ đã xỉn màu, từ lớp học này có
thể nhìn xuyên qua lớp học khác bằng những lỗ thủng lỗ chỗ do sinh viên
nghịch ngợm tự khoét ra. Nhiều sinh viên của trường phản ánh, cơ sở vật
chất phục vụ cho việc học tập quá "khiêm tốn". Nhiều sinh viên ngành công
nghệ thông tin phải học "chay" vì số lượng máy tính ít, cài đặt không hợp
lí Trong khi đó, trường chỉ có một nhà xe để giữa nhà D và nhà K. Theo
nhiều sinh viên học ở nhà D, có khi giáo viên giảng bài thì ở bên ngoài,
tiếng xe máy nổ ầm ầm. Nằm cạnh khu D là nhà vệ sinh chật hẹp, ẩm thấp,
thiếu điện nước Không những, sinh viên không muốn bước vào, mà còn

trở thành "cực hình" đối với các lớp học gần đó.
1.2.3 Chế độ đãi ngộ giảng viên còn nhiều hạn chế
Theo thông tin được cung cấp từ Vụ Kế hoạch- Tài chính (Bộ Giáo
dục & Đào tạo), từ năm 2006 đến 2012, Chính phủ đã có lộ trình tăng mức
lương tối thiểu. Từ năm 2006 đến tháng 5/2010, mức lương tối thiểu tăng từ
350.000 đồng/tháng lên 730.000 đồng/tháng. Lương tối thiểu tăng, thu nhập
giảng viên hàng tháng đã tăng gấp 2,08 lần.Mức lạm phát từ sau năm 2006
đến năm 2009 là 44,6%. Như vậy, thu nhập thực tế của giảng viên đã tăng
1,44 lần (2,085/1,446). Tuy nhiên hiện nay là lương cán bộ công chức nói
22
chung, cán bộ giảng dạy nói riêng, mặc dù đã được tăng cơ bản nhưng vẫn
chưa thể đảm bảo cuộc sống. Theo tính toán, một phó giáo sư có hệ số lương
cao nhất trong ngạch giảng viên chính, lương căn bản khoảng 2 triệu
đồng/tháng.
Hiện các trường vẫn áp dụng quy định về giờ giảng nghĩa vụ do Bộ
Giáo dục - Đào tạo ban hành từ năm 1978. Theo đó, số giờ giảng nghĩa vụ
của giáo sư: 290 tiết, phó giáo sư: 270, giảng viên: 260, trợ giảng: 200
Hơn số giờ quy định này, các giảng viên sẽ được lĩnh thêm tiền tùy theo giờ
dạy, và tùy theo định mức từng trường( thường ở mức 30-50 ngàn
đồng/giờ/giảng viên).
Trung bình một giảng viên đại học ở Việt Nam hiện tại có giá trị sức
lao động tương đương 30.000 USD mỗi năm, và phải được hưởng thu nhập
trung bình 10.000 USD mỗi năm mới xứng đáng, thay vì không đến 3.000
USD mỗi năm tính cả phụ cấp như hiện nay. Hay một giảng viên học vị tiến
sĩ học từ nước ngoài về, có ngoại ngữ giỏi mức lương khoảng 500 USD
trong khi với học vị này, giảng viên bỏ ra ngoài làm cho các công ty nước
ngoài thì mức lương đến 3.000-4.000 USD.
Trong nhiều năm qua, rất nhiều giảng viên giỏi bỏ ra ngoài làm
việc.Vấn đề đặt ra là nếu không nâng cao chế độ lương cho giảng viên thì
chất lượng đào tạo sẽ hạn chế.Không những không giữ được những giảng

viên giỏi,mà những giảng viên chấp nhận ở lại trường cũng không thể cống
hiến hết tài năng của mình cho công việc. Do quy định và cách tính lương
không hợp lý mà hiện nay phần lớn giảng viên đều giữ một chân biên chế ở
một trường đại học công lập nào đó, sau khi dạy hết định mức, số giờ dư ra
thay vì dành cho nghiên cứu, viết các bài báo khoa học, họ buộc phải dành
để “chạy sô” ở các nơi khác, không chỉ một mà có khi hai, ba trường đại
học, cao đẳng cùng buổi.Ví dụ: Là giảng viên đại học với học vị tiến sĩ,
thâm niên 14 năm, nhưng mức lương chính của TS Trần Nam (đang dạy ở
trường đại học Khoa học tự nhiên, đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh)… chỉ
2,2 triệu đồng, cộng thêm các khoản thu nhập khác được khoảng 6 – 7
23
triệu/tháng. “Hiện một tuần tôi phải giảng khoảng ba, bốn lớp, hướng dẫn
ba, năm học viên cao học và nghiên cứu sinh, thỉnh thoảng ngồi hội đồng
(chấm luận văn tốt nghiệp), thu nhập khoảng 90 triệu đồng/năm, tức khoảng
7 triệu đồng/tháng. Với cường độ làm việc như vậy thì thật khó để có được
chất lượng bài giảng tốt. Nếu lương cho giảng viên đại học tăng đủ để họ có
được một cuộc sống đảm bảo,có sức cạnh tranh sẽ thúc đẩy các giảng viên
đầu tư học nâng cao trình độ chuyên môn. Và khi đó chất lượng sinh viên
được đào tạo sẽ được nâng cao hơn.
1.2.4 Tăng học phí sẽ thúc đẩy việc học tập của sinh viên
Khi học phí tăng, mọi người sẽ suy nghĩ kĩ hơn trước khi lựa chọn đi
học hay đi làm.Tiền lương họ thu được sau khi đi học có phù hợp với số tiền
họ bỏ ra để đi học hay không? Và một khi đã quyết định đi học, họ sẽ có
trách nhiêm hơn với số tiền mình bỏ ra và có những kế hoạch cụ thể để sau
khi ra trường có thể có được một công viêc phù hợp.
2. Không đồng ý với nhận định tăng học phí để tăng
chất lượng giáo dục
2.1 Tăng học phí làm giảm khả năng đến trường của sinh viên
nghèo
Việc tăng học phí sẽ tác động một cách tiêu cực đến sinh viên trong

những ngày sắp tới. Điều đó ai cũng có thể nghĩ đến khi hầu hết các sinh
viên đều xuất thân từ những gia đình nghèo, công chức với đồng lương eo
hẹp. Một năm học, một sinh viên phải cần 8,1 triệu đóng học phí. Đó là một
số tiền lớn đối với sinh viên ở tỉnh. Nhiều gia đình ở các tỉnh đang phải lao
đao với học phí hiện nay, nhiều sinh viên đang phải nỗ lực hết mình để vừa
học, vừa làm mong cho sau khi ra trường tìm được một công việc phù hợp.
Nhà nước có thể điều chỉnh linh hoạt mức tăng học phí sao cho phù
hợp với hoàn cảnh đời sống của người dân, khoảng cách giữa người có thu
nhập cao và người có thu nhập thấp. Ví dụ, với những gia đình nghèo khó,
ta cho họ vay vốn học tập từ những ngày đầu bước chân vào cổng trường đại
24
học hay tạo cho họ việc làm bán thời gian Đối với gia đình khá giả, chúng
ta thu học phí theo quy định của Chính phủ - khung giá học phí nên để chính
phủ phê chuẩn là hơn, tránh trường hợp trường A thu học phí cao hơn
trường B.
Hơn nữa, để tránh lãng phí công sức và tiền học của sinh viên, chúng
ta nên đưa vào học phần và thu học phí những bộ môn thiết thực, có những
môn học nên để sinh viên tự nghiên cứu chứ không bắt buộc. Nếu sinh viên
nào không đủ tiền học môn đó, họ có thể tự học và nhà trường tổ chức cho
họ thi chứ không đòi hỏi họ phải học từ A - Z.
Nếu so sánh với mức học phí của các trường dân lập thì mức học phí
chiếm 6% thu nhập của gia đình là hợp lý. Tuy nhiên, điều gây nhiều tranh
cãi là không phải đối tượng học sinh, sinh viên nào cũng dễ dàng đóng
khoản học phí đó, nhất là với học sinh, sinh viên nghèo. Mức học phí mới
phải phù hợp với đa số người dân.Phải phù hợp với những sinh viên nghèo
yên tâm học hành và có một cuộc sống ổn định không gây tâm lý, ảnh
hưởng từ việc tăng học phí. Học đại học, sinh viên còn phải lo hàng trăm
khoản khác ngoài học phí như tiền ăn, tiền ở, tiền đi lại, sinh hoạt phí, mua
sách vở Dù Nhà nước cho vay vốn ưu đãi nhưng với mức chi phí hiện tại
cộng với mức học phí trong đề án thì trung bình 1 sinh viên phải chi từ 1,2–

1,8 triệu đồng/tháng, vượt quá xa tổng thu nhập của một hộ gia đình nông
thôn.
2.2 Học phí cao không đồng nghĩa với chất lượng đào tạo
Ở các nước phát triển, các trường có chất lượng đào tạo tốt, có tiếng,
có thứ hạng trên thế giới đều là các trường có mức học phí cao so với các
trường khác. Vì vậy ở các nước này thì mức học phí cao là đồng nghĩa với
chất lượng đào tạo tốt, tiện nghi học tập, phục vụ cho sinh viên tốt và tỷ lệ
được tuyển dụng cao.
Còn ở Việt Nam, chất lượng đào tạo tùy thuộc uy tín, truyền miệng,
tỷ lệ sinh viên được tuyển dụng sau khi tốt nghiệp không cao. Điều này đôi
khi còn không đúng giữa trường công lập và trường dân lập.
25

×