Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Luận văn: Sử dụng kiến thức liên môn để giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam (1945 – 1954) THPT – chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.37 KB, 113 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
NGUYN TH TUYT TRINH
sử dụng kiến thức liên môn
để giáo dục truyền thống yêu nớc cho học sinh
trong dạy học lịch sử việt nam (1945 - 1954)
trung học phổ thông - chơng trình chuẩn
Chuyờn ngnh: LL&PPDH Lch s
Mó s: 60.14.01.11
LUN VN THC S KHOA HC GIO DC

H Ni, 2014
Luận văn được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Người hướng dẫn khoa học: TS.Nguyễn Thị Thế Bình
Phản biện 1: ………………………………………………………
Phản biện 2: ……………………………………………………
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ tại
Khoa Hóa học trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội.
Vào lúc: giờ ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện của Đại Học Sư Phạm Hà Nội
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DHLS : Dạy học lịch sử
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
KTLM : Kiến thức liên môn
LSVN : Lịch sử Việt Nam
NXB : Nhà xuất bản
SGK : Sách giáo khoa


SGV : Sách giáo viên
SL : Số lượng
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG 12
KẾT LUẬN 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
PHỤ LỤC 1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, đó không chỉ là nét văn hóa
tốt đẹp mà còn là vũ khí sắc bén giúp ta chiến thắng biết bao kẻ thù trong lịch sử. Trong
giai đoạn hiện nay, khi chủ quyền đất nước đang bị đe dọa, kinh tế còn nhiều khó khăn, thì
ngọn lửa truyền thống yêu nước được truyền từ hàng ngàn năm lịch sử lại rừng rực cháy
trong trái tim mỗi người Việt Nam, trong đó có thế hệ trẻ. Lòng yêu nước của thế hệ trẻ
ngày nay được thể hiện không chỉ bằng việc xếp bút nghiên lên đường giết giặc, mà còn
bằng việc trang bị cho mình sức mạnh tri thức để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời là người luôn dành tình cảm yêu mến và quan tâm
đến sự nghiệp “trồng người”. Trong thư gửi cán bộ, cô giáo, công nhân viên, HS, sinh viên
nhân dịp bắt đầu năm học mới (16/10/1968), Bác viết: “Trên nền tảng giáo dục chính trị
và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn
nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đặt ra và trong một thời gian
không xa đạt được những đỉnh cao của khoa học kĩ thuật”[10; 190-191]. Lời dặn dò của
Người chính là mục tiêu của ngành giáo dục nói chung và của môn Lịch sử nói riêng. Bộ

môn Lịch sử ngoài việc trang bị cho HS những kiến thức lịch sử còn có sở trường và ưu
thế trong việc giáo dục truyền thống yêu nước cho HS. Bản thân những trang sử vàng chói
lọi của dân tộc đã là những bài học sinh động đối với các em, nhiệm vụ của người GV là
làm cho những bài học ấy trở nên gần gũi, dễ hiểu, tạo được hứng thú học tập với HS.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, một bộ phận HS đang có tâm lí coi thường môn
Sử, coi nó là môn phụ, môn học thuộc. Một trong những nguyên nhân khiến HS sợ học
Lịch sử là do nhiều sự kiện, nhiều số liệu, khối lượng kiến thức lớn mà thời lượng ít dẫn
đến tình trạng HS bị quá tải, GV phải dạy một cách nhồi nhét. Vì vậy, giảm tải chương
trình trở thành giải pháp tình thế, tuy nhiên đây không phải biện pháp ưu việt vì khi cắt
giảm nội dung sẽ không đảm bảo tính hệ thống, liên tục của lịch sử.
Để khắc phục tình trạng này, một giải pháp hiệu quả chính là sử dụng KTLM trong
DHLS. Sử dụng nguyên tắc này tránh được sự trùng lặp dễ gây nhàm chán, đồng thời giúp
các em vận dụng được kiến thức của các môn học khác nhằm tiếp thu kiến thức lịch sử và
tạo hứng thú trong học tập.
1
Hơn nữa, việc thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung và việc giáo dục truyền thống
yêu nước nói riêng không chỉ là nhiệm vụ của môn Lịch sử, mà đòi hỏi sự kết hợp của tất
cả các môn học trong chương trình. Ví như môn Địa lý cung cấp những kiến thức về điều
kiện tự nhiên, về cương vực lãnh thổ… từ đó HS có ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ lãnh
thổ Tổ quốc, có động lực phát triển kinh tế làm cho nước ta ngày càng giầu đẹp. Môn Ngữ
văn làm cho các em hiểu những giá trị tinh thần, nét đẹp văn hóa dân tộc, có tác dụng lớn
trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, bồi dưỡng lòng yêu nước. Môn Giáo dục công
dân bồi dưỡng cho HS niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người, tin
tưởng vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn… Điều này được Đảng nhấn mạnh
trong văn kiện Đại hội lần thứ VIII: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng
đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng hơn nữa
các môn về khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử dân tộc, Địa lý, Văn
hóa Việt Nam”.[41;30]
Xuất phát từ sự cần thiết phải giáo dục truyền thống yêu nước cho HS, và tính tất yếu
của việc sử dụng KTLM trong DHLS chúng tôi lựa chọn vấn đề “Sử dụng KTLM để giáo

dục truyền thống yêu nước cho HS trong DHLS Việt Nam (1945 – 1954) THPT –
chương trình chuẩn” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề sử dụng KTLM và giáo dục truyền thống yêu nước cho HS thông qua DHLS
không phải là vấn đề mới. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tác phẩm, luận văn,
luận án đề cập về vấn đề này. Trong quá trình tìm tòi nghiên cứu, chúng tôi tiếp cận được
một số nguồn tài liệu như sau:
2.1. Tài liệu nước ngoài
Nhà giáo dục học T.A.ILina trong quyển “Giáo dục học” (NXB Giáo dục Hà Nội,
1973) khẳng định: “Ngày nay không có một khoa học nào được giảng dạy mà lại không sử
dụng những số liệu của các khoa học tiếp cận khác, những tài liệu, những sự kiện và
những thí dụ lấy từ trong cuộc sống hàng ngày và từ các lĩnh vực tri thức khác nhau”
[37;245]. Tác giả đã nêu lên tính phổ biến cũng như sự cần thiết của việc kết hợp kiến thức
của những ngành khoa học khác nhau phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy một ngành khoa
học cụ thể.
Trong cuốn “Phát triển tư duy học sinh”(NXB Giáo dục, 1976), các tác giả
M.Alêcxêep, Ônhisuc đã nêu lên vai trò của nguyên tắc liên môn là “bồi dưỡng cho học
2
sinh các thủ thuật và phương pháp tư duy logic sẽ góp phần thực hiện một trong nhưng
yêu cầu quan trọng nhất của lí luận dạy học là xác lập các mối liên hệ chặt chẽ giữa các
bộ môn” [1; 100]. Như vậy, mục tiêu quan trọng của mọi thủ thuật, phương pháp tư duy
logic đều nhằm làm nổi bật mối quan hệ giữa các môn học, điều này có ý nghĩa cả về kiến
thức và rèn luyện kĩ năng cho HS.
I.F. Kharlamôp trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế
nào?” (NXB Giáo dục, 1979) đã nêu rõ tác dụng, ý nghĩa của việc vận dụng kiến thức các
môn học: “Việc giáo viên có khả năng tìm được mối liên hệ giữa các vấn đề mà các nhà
bác học đã nghiên cứu với điều mà các em đã học ở nhà trường thuộc một môn học nào đó
cũng gây cho học sinh niềm hứng thú đặc biệt đối với việc học tập tài liệu mới”[25;102].
Những kiến thức mới, phong phú thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau vừa làm sáng tỏ
nội dung mà HS đang học, vừa tạo hứng thú cho các em trong học tập.

Nhà giáo dục học N.U.Savin nêu rõ: “Nền học vấn phổ thông phản ánh đầy đủ và
chính xác nhất tri thức khoa học và thực tiễn của nhân loại và nó thực sự là toàn diện. Ở
đó đã kết hợp một cách hữu cơ các tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy con người đã đạt
được sự hài hòa giữa học vấn về nhân văn và về tự nhiên ”(Giáo dục học – NXB Giáo
dục 1983) [52;87]. Bản thân chương trình học tập phổ thông đã có sự kết hợp hài hòa
những tri thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiệm vụ của người GV là khai thác và sử
dụng nguồn tri thức ấy cho hiệu quả.
N.G.Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” (NXB Giáo Dục 1973),
đã viết “để có một giờ học tốt, người giáo viên phải kết hợp được nhiều khâu khác nhau
quan trọng nhất là tham khảo các tài liệu để làm cho nội dung bài giảng phong phú, chính
xác…”[16;23]. Tác giả nêu rõ tầm quan trọng của việc tham khảo nhiều nguồn tài liệu,
nhiều nguồn tri thức làm cho bài giảng sinh động và hấp dẫn. Cũng trong tác phẩm này, tác
giả khẳng định “Giáo dục chứ không phải học thuộc lòng… cần phải hiểu cho đúng vai trò
của phần tài liệu dự định để giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ” [16; 30].
Khi trình bày về sự phát triển của khoa học lịch sử N.A. Erôphêep đã đề cập đến rất
nhiều vấn đề về lịch sử xã hội, về văn hóa, tư tưởng, triết học, về nhiều lĩnh vực chuyên
môn của khoa học lân cận, “họ hàng” với khoa học lịch sử. Trong cuốn “Lịch sử là
gì”(NXB Giáo dục 1981) ông khẳng định: “Không có một bộ môn khoa học nào có thể
phát triển một cách đơn độc”[21;147]. Tác giả nêu rõ mối quan hệ giữa lịch sử với các
khoa học nghiên cứu xã hội khác nhau, như xã hội học, dân tộc học, tâm lí xã hội…rất chặt
3
chẽ. “Sở dĩ các ngành khoa học này xích gần nhau vì chúng cùng nghiên cứu một đối
tượng như nhau” [21;147].
Nhà giáo dục học Shore B.M khi nói về công tác giảng dạy những học sinh giỏi đã đề
xuất: “Hỗ trợ học sinh tiếp cận các tài liệu cần thiết, chẳng hạn các em tiếp xúc với các lớp
và các tài liệu trình độ cao, hợp tác với những giáo viên khác và các chuyên gia trong các
lĩnh vực, làm cầu nối học sinh với các chuyên gia đó”(Journal for the education of the Gifted
– 1996)[69; 138]. Việc cho HS tiếp xúc với những nguồn kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực
chính là cách bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng cho bộ phận học sinh giỏi.
Theo Mitchell R.D tiêu chí để đánh giá một “giáo viên hiệu quả” là “khả năng để

ứng dụng và kết hợp các kiến thức hoặc các kĩ năng khác nhau đối với một nhóm học sinh
nhất định trong một bối cảnh nhất định”(The American School Broad – 1998)[66, 27].
Nuthall .G trong “Elementary School journal”(1999) đã nêu: “các câu chuyện thì hết
sức đa dạng về các thông tin bổ trợ và có mối liên hệ với trải nghiệm cá nhân, đồng thời
được tích hợp và gắn kết với nhau bằng một cấu trúc quen thuộc”[68; 337]. Theo đó, sử
dụng các thông tin bổ trợ cũng là một biện pháp truyền đạt kiến thức mới.
Bàn về những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả, Molnar. A, Smith. P cho
rằng: “Người giáo viên hiệu quả tận dụng sự liên quan lẫn nhau giữa các môn học trong
cả khung chương trình và sự sáp nhập nhiều môn học khác vào thực hành giảng dạy”[67;
165](Education Evaluation and Policy Analysis – 1999). Cũng nói về vấn đề này, James H.
Stronge trong cuốn “Những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả” (NXB Giáo dục
2011), do Lê Văn Canh dịch đã nhận định: “Giảng dạy là nơi gặp gỡ của nhiều ngành học
phức hợp và liên quan đến việc tương tác với nhiều học sinh đa dạng và phức hợp”[53;
93].
Trong cuốn “Nghệ thuật và khoa học dạy học”( NXB Giáo dục 2011) của tác giả
Robert J. Marzano do GS. TS. Nguyễn Hữu Châu dịch, đã khẳng định “Trong thực tế,
không có một chiến thuật dạy học riêng lẻ nào đáp ứng được yêu cầu của việc xử lí tích
cực kiến thức trong quá trình trải nghiệm với kiến thức trọng tâm mới” [38; 47]. Trong
một tác phẩm khác cộng tác với J. Pickering và E. Pollock, J. Marzano đã đề xuất “trong
một đơn vị bài học, giáo viên có thể đưa ra nhiều chi tiết cho học sinh học trong đó có liên
quan đến sự kiện, tiến trình, cảnh huống…”[39; 164](Các phương pháp dạy học hiệu quả -
NXB Giáo dục 2011). Theo những nhận định nêu trên, việc sử dụng nhiều nguồn kiến
thức, kết hợp nhiều phương pháp là cách thức đưa dạy học trở thành một nghệ thuật.
4
Các tác phẩm kể trên đã đề cập đến một số khía cạnh của việc sử dụng KTLM như
vai trò, ý nghĩa, tác dụng của KTLM trong một số trường hợp. Một số ý kiến cho rằng việc
vận dụng sáng tạo nhiều nguồn kiến thức khác nhau trong bài giảng chính là tiêu chí đánh
giá một người GV giỏi.
2.2. Tài liệu trong nước
- Tài liệu tâm lí học và giáo dục học

Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt trong cuốn “Giáo dục học”( NXB Giáo dục 1987)
nêu một cách khái quát nhất và tương đối đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng
kiến thức liên môn: “Tiềm năng giáo dục thế giới quan cho học sinh đặc biệt được khai
thác trong mối liên hệ giữa các môn học. Các mối liên hệ giữa các môn học, phản ánh
bản chất biện chứng của nhận thức khoa học, giúp xem xét một sự vật hay một hiện
tượng từ nhiều quan điểm khác nhau”.[42;123]. Như vậy, khi GV sử dụng KTLM trong
dạy học, phân tích để HS thấy được mối liên hệ giữa các môn học chính là đang thực
hiện nhiệm vụ giáo dục, bồi dưỡng tư duy biện chứng và rèn luyện khả năng phân tích
cho HS.
Đặng Thành Hưng trong cuốn “Dạy học hiện đại - lí luận, biện pháp, kĩ thuật” (NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội 2002), cho rằng: “Trong khoa học giáo dục còn có những bộ
môn, chuyên ngành, liên môn lấy những liên hệ qua lại làm đối tượng”.[24;15]. Tác giả đã
đề cập đến một khả năng khác của vấn đề sử dụng KTLM trong dạy học. Một chuyên
ngành nghiên cứu sâu sắc hơn, cụ thể hơn về những mối liên hệ qua lại giữa các ngành
khoa học sẽ là đóng góp lớn cho giáo dục học hiện nay.
Tác giả Đoàn Huy Oánh trong tác phẩm “Tâm lý sư phạm” ( NXB Đại học Quốc Gia
Tp Hồ Chí Minh, 2005) đã nêu “Bên cạnh chương trình Giáo dục công dân riêng biệt, các
môn học về văn học, lịch sử cũng là những bài học quý giá giảng dạy về luân lí, đạo đức,
nhân cách” [ 49; 247]. Cũng trong tác phẩm này, tác giả khẳng định “ngày này, các nhà
tâm lý giáo dục nhận định rằng, giáo viên cần có khả năng hiểu biết nhiều phương diện
kiến thức”[49; 248]. Như vậy theo đánh giá của một nhà tâm lí học, KTLM có vai trò lớn
trong giáo dục HS. Đồng thời, để thực hiện nhiệm vụ giáo dục, GV phải am hiểu nhiều lĩnh
vực để ứng dụng vào bài giảng, làm cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn HS.
Giáo trình “Giáo dục học” – Trần Thị Tuyết Oanh ( Tập 1 NXB Đại học Sư phạm,
2006), đã nêu: Một trong số những phẩm chất nhân cách con người Việt Nam cần giữ gìn
và phát huy là lòng yêu nước. Theo tác giả tình cảm này có nguồn gốc sâu xa, bắt nguồn từ
5
trong tâm thức của mỗi người Việt Nam. Lòng yêu nước trở thành một trong những tiêu
chí đánh giá phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam.
- Giáo trình lịch sử

Cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” của Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị (NXB
Giáo dục 1992), đã dành hẳn một phần để nói về chức năng giáo dục của bộ môn Lịch sử ở
trường phổ thông trong đó có giáo dục truyền thống yêu nước. Giáo trình “Phương pháp
dạy học lịch sử” tập 1 GS. Phan Ngọc Liên (chủ biên), PGS. Trịnh Đình Tùng, GS.
Nguyễn Thị Côi (NXB Đại Học Sư Phạm 2009) đã nêu: “Bộ môn Lịch sử ở trường phổ
thông có khả năng giáo dục học sinh truyền thống tốt đẹp về lòng yêu nước… phải nắm
vững kiến thức lịch sử và truyền thống đấu tranh kiên cường của ông cha để từ đó xác
nhận rõ trách nhiệm của mình với cuộc sống hiện tại …”[34;212]. Ngoài ra, các tác giả còn
phân tích những biểu hiện của lòng yêu nước qua những nét chung và những nét riêng của
từng thời kì. Các cuốn giáo trình qua mỗi thời kì đều có sự bổ sung, đổi mới nhưng luôn
khẳng định tầm quan trọng của vấn đề giáo dục truyền thống yêu nước. Đây là cơ sở để
tiếp thu mọi nguồn tri thức mới.
Giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” tập 1 do GS. TS Phan Ngọc Liên (chủ
biên), PGS.TS Trịnh Đình Tùng, GS.TS Nguyễn Thị Côi, (NXB Đại học sư phạm 2010) đã
trình bày một cách rất khái quát về nguyên tắc liên môn: “… việc nắm vững các sự kiện
lịch sử liên quan chặt chẽ với việc hiểu biết tri thức về nhiều môn khoa học xã hội và nhân
văn (văn học, giáo dục công dân, triết học, địa lý) và cả về khoa học tự nhiên…”.[35;259]
Bên cạnh đó giáo trình còn đề cập tới tư tưởng tích hợp và phân biệt giữa nguyên tắc liên
môn và nguyên tắc tích hợp.
- Các sách chuyên khảo
Trong quyển “Giáo dục truyền thống” của Lê Tám, (NXB Thanh Niên, 1978) đã nêu
lên tầm quan trọng của việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ trong đó có lòng yêu quê
hương đất nước. Theo tác giả: “vấn đề giáo dục truyền thống chiếm một vị trí trọng yếu,
thiết thực, góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm lành mạnh, trong sáng, xây dựng lòng
tự hào, tự tin, ý chí tự lực, tự cường của tuổi trẻ, thôi thúc họ vươn lên”[54; 26]. Ngoài ra,
tác giả nêu những nội dung chủ yếu về truyền thống cần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ cũng như
những hình thức, phương pháp giáo dục truyền thống cho các em.
6
GS. Trần Văn Giàu trong cuốn “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”
(NXB Khoa Học Xã Hội 1980) đã nêu lên những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của

dân tộc ta trong đó nhấn mạnh truyền thống yêu nước chống ngoại xâm qua các thời kì lịch
sử.
Trong cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông” của hội giáo
dục lịch sử trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội do GS. Phan Ngọc Liên chủ biên có các bài
viết về việc sử dụng tài liệu Hồ Chí Minh, sử dụng tài liệu văn kiện Đảng… đây cũng là
một khía cạnh của vấn đề sử dụng KTLM trong DHLS. Ngoài ra, cũng trong tác phẩm này,
các tác giả đã viết một chuyên đề về giáo dục HS qua DHLS. Trong đó, nhiều bài viết của
các tác giả như Thái Văn Long, Trần Vĩnh Tường… đã khai thác những nội dung của
truyền thống yêu nước có thể giáo dục HS. Theo đó, yêu nước là yêu CNXH, kính yêu lãnh
tụ…
Tác phẩm “Hồ Chí Minh với sử học” của GS. Phan Ngọc Liên cũng đã phân tích
hiệu quả to lớn của việc sử dụng các tác phẩm của chủ tịch Hồ Chí Minh trong DHLS.
Nói về vai trò của các loại tài liệu trong bài giảng lịch sử, tác giả Trần Viết Thụ trong
cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” (NXB Đại học Sư phạm Hà Nội,
2009) khẳng định: “Nguồn tài liệu mà giáo viên đưa vào bài giảng phong phú đa dạng
không chỉ làm sâu sắc nội dung sách giáo khoa, mà còn mở rộng hiểu biết của học sinh về
kiến thức văn hóa nói chung như khảo cổ học, triết học, văn học, nghệ thuật, địa lí…”[12;
111]. Điều này chứng tỏ, nếu GV khai thác tốt nguồn KTLM không chỉ khắc sâu nội dung
lịch sử mà còn bổ sung cho HS kiến thức về những lĩnh vực khác, các em thấy được mối
liên hệ giữa các nguồn kiến thức.
Nội dung giáo dục truyền thống cũng được đề cập đến trong tác phẩm: “Giáo dục
truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ ngày nay” (NXB Đại học sư phạm Hà Nội 2009)
của tác giả Nghiêm Đình Vỳ, trong đó tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo
dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ ngày nay.
Trong cuốn “Phương pháp luận sử học” (NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011), GS
Phan Ngọc Liên đã phân tích những điểm chung và những điểm khác nhau giữa khoa học
lịch sử và khoa học tự nhiên. Trong đó, tác giả nêu lên điểm chung đó là đối tượng nghiên
cứu đều là thực tại xã hội và những quy luật chung.
- Các tạp chí khoa học chuyên ngành
7

Bên cạnh các cuốn giáo trình và sách chuyên khảo, nhiều bài viết trên các tạp chí
cũng đề cập tới nội dung sử dụng KTLM và giáo dục truyền thống yêu nước. Nguyễn
Quang Vinh có bài “Dạy học các môn học theo quan điểm liên môn( tạp chí Nghiên cứu
Giáo dục số 10/1986). Bài “Mấy biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục qua một bài học
lịch sử” của PGS Trịnh Đình Tùng (Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 5 -1988). Bài “Giáo
dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ qua bộ môn lịch sử” của GS Phan Ngọc Liên,
PGS Trịnh Đình Tùng, GS Nguyễn Thị Côi (tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 2 – 1992).
Trần Văn Cường - “Vận dụng nguyên tắc liên môn trong DHLS ở trường THPT”(tạp chí
Nghiên cứu Giáo dục số 7/1997). Trong bài “Vận dụng nguyên tắc liên môn khi dạy học
các vấn đề văn hóa trong SGK Lịch Sử” (Tạp chí “Nghiên cứu Giáo dục” số 12 – 1997),
tác giả Trần Viết Thụ đã đi sâu nghiên cứu việc vận dụng kiến thức các môn học khác vào
dạy các nội dung văn hóa của môn lịch sử, Trần Đức Minh “Vận dụng quan điểm liên môn
- một yếu tố nâng cao tính tích cực học tập của HS” (trên tạp chí Nghiên cứu Giáo dục
số 4/1999)…
Ngoài ra, vấn đề trên cũng được một số luận văn cao học, khóa luận tốt nghiệp của
sinh viên đề cập tới như: Luận văn “Giáo dục lòng yêu quê hương cho HS phổ thông trung
học qua DHLS địa phương ( tỉnh Nghĩa Bình)” của tác giả Trần Quốc Tuấn bảo vệ năm
1986 (trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội ), trong đó tác giả nêu những đặc trưng của lòng
yêu nước, yêu quê hương là mức độ thấp của lòng yêu nước. Cùng quan điểm với tác giả
Trần Quốc Tuấn có khóa luận của Võ Thị Hồng Nhi “Giáo dục lòng yêu quê hương đất
nước cho HS qua khai thác và sử dụng tư liệu lịch sử địa phương trong DHLS bài nội khóa
ở trường THPT Hà Tĩnh” (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội – 2004). Trần Viết Thụ với
luận án “Giảng dạy những nội dung văn hóa trong khóa trình lịch sử dân tộc ở trường
PTTH”, đề cập đến những phương pháp giảng dạy nội dung văn hóa, trong đó sử dụng
KTLM là một biện pháp hiệu quả. Khóa luận “ Giáo dục truyền thống yêu nước cho HS
khi dạy học phần LSVN từ thời nguyên thủy đến thế kỷ XV ở lớp 10 THPT (chương trình
chuẩn) (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội – 2009), Luận văn của Nguyễn Thị Nhung “Sử
dụng KTLM để gây hứng thú học tập LSVN từ năm 1930 đến năm 1945 ở trường THPT
(chương trình chuẩn)”…
Những tài liệu kể trên đã khẳng định tính phổ biến của vấn đề sử dụng KTLM trong

dạy học. Các tác giả đã chỉ ra vai trò, ý nghĩa của việc kết hợp kiến thức của nhiều ngành
khoa học trong học tập một bộ môn nhất định. Việc làm đó góp phần phát huy tính tích cực,
8
chủ động của HS trong học tập. Đồng thời, các tác phẩm khẳng định, vận dụng linh hoạt
nhiều nguồn kiến thức là khả năng cần có ở một GV. Những nguồn tài liệu trên nhấn mạnh
sự cần thiết của nhiệm vụ giáo dục nói chung và giáo dục truyền thống yêu nước nói riêng,
phản ánh một số khía cạnh của truyền thống yêu nước.
Tuy nhiên, chưa có tác phẩm nào đề cập tới những biện pháp cụ thể để khai thác, sử
dụng KTLM và sử dụng KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước. Kế thừa thành quả của các
công trình trước đó, luận văn đi sâu nghiên cứu những biện pháp cụ thể để sử dụng KTLM
nhằm giáo dục truyền thống yêu nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu là: quá trình sử dụng KTLM trong DHLS để giáo dục truyền
thống yêu nước cho HS
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài đi sâu nghiên cứu các biện pháp sử dụng KTLM để
giáo dục truyền thống yêu nước cho HS. Chủ yếu nghiên cứu nội dung phần LSVN giai
đoạn 1945 – 1954 và tập trung khai thác các kiến thức: văn học, địa lý, giáo dục công dân,
âm nhạc để giáo dục truyền thống yêu nước cho HS.
- Phạm vi điều tra thực tiễn chúng tôi tiến hành ở một số tỉnh phía Bắc, và tiến hành
thực nghiệm sư phạm một bài lịch sử nội khóa.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở tìm hiểu lí luận và thực tiễn của việc sử dụng KTLM trong
DHLS, luận văn đề ra các biện pháp sử dụng KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước
cho HS.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Xác định cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng KTLM trong DHLS
+ Xác định nội dung cơ bản cần giáo dục truyền thống yêu nước cho HS.
+ Điều tra thực tiễn rút ra kết luận.
+ Đề xuất các biện pháp vận dụng KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước cho
HS.

+ Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các biện pháp mà luận văn đã đề ra, từ đó rút
ra kết luận khoa học về việc sử dụng KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước cho HS.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của đề tài là dựa trên lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
9
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phương pháp DHLS và truyền
thống yêu nước
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Nghiên cứu các tài liệu: Tâm lí học, Giáo dục học, các tài liệu giáo dục khác, tài
liệu lịch sử, phương pháp DHLS, chương trình SGK THPT và các tài liệu có liên quan
khác.
+ Điều tra cơ bản: tiến hành quan sát, điều tra bằng phiếu điều tra đối với GV và HS
+ Thực nghiệm sư phạm bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
kết thúc (1953 – 1954) (tiết 1). Địa bàn thực nghiệm: trường THPT Tân Lạc – Tân lạc –
Hòa Bình.
+ Sử dụng phương pháp toán học thống kê trên cơ sở so sánh các giá trị thu được
giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá hiệu quả của những biện pháp dạy học
mà đề tài đưa ra.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng các biện pháp sử dụng KTLM theo đúng yêu cầu đề tài nêu ra thì sẽ
tạo hứng thú cho học sinh trong học tập lịch sử, nâng cao hiệu quả DHLS nói chung,
nâng cao chất lượng giáo dục và cụ thể là giáo dục truyền thống yêu nước nói riêng.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn làm phong phú thêm lí luận về việc sử dụng
KTLM trong DHLS để giáo dục truyền thống yêu nước cho HS.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp tác giả biết cách khai thác, vận dụng
KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước cho HS trong DHLS.
8. Đóng góp của luận văn
- Khẳng định vị trí và vai trò của việc sử dụng KTLM trong DHLS và ý nghĩa của nó
khi vận dụng để giáo dục truyền thống yêu nước cho HS.

- Phản ánh được thực trạng giáo dục truyền thống yêu nước ở trường THPT hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp sư phạm để sử dụng KTLM nhằm giáo dục truyền thống
yêu nước cho HS trong DHLS LSVN giai đoạn 1945 – 1954 ở trường THPT, nhằm nâng
cao hiệu quả bài học lịch sử.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn cấu trúc thành hai
10
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng KTLM để giáo dục truyền
thống yêu nước cho HS trong DHLS ở trường THPT
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước cho
HS trong DHLS Việt Nam (1945-1954) lớp 12
11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU
NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số quan niệm
- Kiến thức và KTLM
Kiến thức
Trong đời sống cũng như trong khoa học, chúng ta thường xuyên nhắc đến thuật ngữ
kiến thức, chính vì mức độ phổ biến của thuật ngữ này nên cũng có nhiều quan niệm khác
nhau về kiến thức.
Theo các nhà sinh lí học, kiến thức là một dạng nhất định của những mối liên hệ tạm
thời, được tạo trên vỏ các bán cầu đại não do ảnh hưởng của những kích thích bên ngoài và
hoạt động tư duy tích cực của chủ thể nhận thức. Như vậy, kiến thức chỉ tồn tại “tạm thời”,
nếu không thường xuyên “nhắc lại” kiến thức sẽ bị xóa mờ và bị thay thế bởi kiến thức
khác trên các vỏ bán cầu đại não.
Các nhà giáo dục học cho rằng : “kiến thức là hệ thống những khái niệm, phạm trù,

những quy tắc, lí thuyết của từng môn học mà học sinh cần phải học tập, nắm vững. Kết
quả học tập môn học được đánh giá bằng khả năng nhận thức của học sinh với số lượng
và chất lượng của kiến thức đó”[ 64; 84-85]. Như vậy, kiến thức không chỉ là mục tiêu HS
cần phải đạt được trong quá trình học tập mà còn là tiêu chí đánh giá kết quả học tập của
HS thông qua hoạt động kiểm tra.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “kiến thức là những điều hiểu biết do tìm hiểu, học
tập mà có” [50; 635].
Như vậy, tùy vào cách tiếp cận mà mỗi ngành khoa học sẽ có quan niệm khác nhau
về thuật ngữ kiến thức, nhưng điểm chung của các quan niệm trên là đều coi kiến thức là
kết quả của quá trình nhận thức. Dù theo quan niệm nào thì mọi ngành khoa học đều không
thể phủ nhận vai trò của kiến thức với cuộc sống con người, kiến thức chính là một loại
công cụ giúp con người tác động, chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên và xã hội. Đồng
thời, trong quá trình đó con người cũng không ngừng trau dồi, bổ sung làm phong phú vốn
12
kiến thức của mình. Tóm lại, có thể hiểu kiến thức là những hiểu biết về tự nhiên, xã hội
mà con người có được do tìm hiểu hoặc do được giáo dục.
Kiến thức lịch sử
Kiến thức lịch sử là sự phản ánh quá trình phát sinh, phát triển khách quan của tự
nhiên và xã hội diễn ra theo trình tự thời gian, thông qua tìm hiểu, học tập mà con người
tích lũy được. Kiến thức lịch sử cũng như kiến thức nói chung có ý nghĩa rất lớn trong
cuộc sống của con người. Nắm vững kiến thức lịch sử là tiền đề để hiểu hiện tại một cách
đúng đắn và khoa học từ đó có sự định hướng chính xác cho sự phát triển trong tương lai.
Kiến thức lịch sử nghiên cứu những con người, sự kiện có thật, vì vậy nó có tác dụng lớn
trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và hình thành thế giới quan khoa học. Qua đó, có
thể khẳng định kiến thức lịch sử không chỉ là phương tiện để con người nhận thức tự nhiên
và xã hội mà còn là công cụ để cải tạo nó, trình độ nhận thức của con người càng cao thì
kiến thức lịch sử càng phong phú, đa dạng.
Như vậy, kiến thức lịch sử là sự phản ánh mọi mặt đời sống xã hội, là kết quả của
việc nghiên cứu khoa học lịch sử được sử dụng vào nhận thức và hoạt động xã hội, giúp
con người hiểu một cách đầy đủ về quá trình phát triển của lịch sử loài người.

Kiến thức liên môn
Kiến thức liên môn là những kiến thức giao thoa giữa các môn học, những kiến thức
ở những môn học khác nhau nhưng cùng đề cập đến một vấn đề. Do đó, trong bất kì môn
học nào cũng có thể sử dụng KTLM vì mọi mặt của đời sống đều có mối quan hệ gắn bó
mật thiết với nhau. Sử dụng KTLM trong dạy học có ba mức độ: ở mức độ thấp, GV nhắc
lại tài liệu, sự kiện, kĩ năng các môn có liên quan, cao hơn đòi hỏi HS nhớ lại và vận dụng
kiến thức đã học của các môn học khác, và cao nhất đòi hỏi HS phải độc lập giải quyết các
bài tập nhận thức bằng vốn kiến thức đã biết.
Như vậy, mức độ sử dụng KTLM càng cao thì nó càng gần với khái niệm “tích hợp”.
Để hiểu rõ hơn về nguyên tắc liên môn cũng như vấn đề sử dụng KTLM trong dạy học nói
chung và trong DHLS nói riêng chúng ta cần có sự phân biệt rõ ràng giữa “liên môn” và
“tích hợp”.
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp
( inte’gration (tiếng Pháp), integration(tiếng Anh) trong việc xây dựng chương trình dạy
học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ thống, “ nó chỉ trạng thái liên kết các phần
tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này”[17;308]. Trong
13
khoa học giáo dục, tích hợp thể hiện ở việc liên kết các môn học có mối quan hệ với nhau,
ở từng mức độ cụ thể sẽ cho kết quả là việc ra đời những môn học mới hoặc chỉ dừng lại ở
việc “liên môn”.
Kiến thức liên môn trong DHLS
Chức năng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông là cung cấp cho HS những tri
thức về sự phát sinh, phát triển của mọi mặt đời sống xã hội loài người. Vì vậy, kiến thức
lịch sử có liên quan chặt chẽ đến kiến thức của các ngành khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội. Trong quá trình giảng dạy, GV lịch sử phải tìm ra những khái niệm, những nội
dung từ những môn học khác có thể sử dụng làm nổi bật kiến thức lịch sử HS cần lĩnh hội.
Có như vậy, HS nắm kiến thức lịch sử mới vững chắc và việc giáo dục tư tưởng thông qua
môn học mới đạt hiệu quả cao.
Đối với HS, KTLM giúp các em nhận thức sự phát triển của xã hội một cách liên tục,
thống nhất, hiểu được tính toàn diện của lịch sử. Điều này khắc phục tình trạng rời rạc, tản

mạn trong kiến thức của HS. Nắm được mối liên hệ kiến thức giữa các môn học, tính hệ
thống giữa các tri thức lịch sử, giúp HS có khả năng phân tích các sự kiện, tìm ra bản chất,
quy luật chi phối sự phát triển của lịch sử.
Để sử dụng KTLM vào DHLS đạt hiệu quả cao, người GV lịch sử không chỉ nắm
vững kiến thức lịch sử mà còn phải nắm vững nội dung, chương trình các môn học được
giảng dạy trong trường phổ thông có liên quan đến môn lịch sử, trước hết chính là những
môn học “gần gũi” với lịch sử như: Văn học, Địa lí, Giáo dục công dân…Học sinh có vai
trò chủ động, tích cực trong việc học tập vì khi học lịch sử theo phương pháp này HS phải
huy động những kiến thức đã học để hiểu sâu, toàn diện một sự kiện. Đồng thời, HS được
ôn tập, củng cố, tổng hợp các kiến thức ở mức cao hơn và biết vận dụng thông minh kiến
thức.
Giáo dục truyền thống và truyền thống yêu nước trong DHLS
Giáo dục
Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục là “hoạt động nhằm tác động một cách có hệ
thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng đó
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”. [50; 395]. Theo đó,
hoạt động giáo dục cần có hai chủ thể là người giáo dục và người được giáo dục, và hoạt
động này nhằm xây dựng, hình thành nên những phẩm chất, năng lực như mục tiêu đã đề
14
ra trước đó.
Bên cạnh khái niệm về hoạt động giáo dục nói chung, các nhà giáo dục học quan
niệm giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội
kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người. Sở dĩ nói giáo dục là hiện tượng xã
hội đặc biệt vì chỉ có trong xã hội loài người giáo dục mới được nảy sinh, phát triển và tồn
tại lâu dài. Lúc đầu giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, diễn ra theo lối quan sát,
bắt chước ngay trong quá trình lao động (săn bắt, hái lượm, chăn nuôi, trồng trọt…). Về sau
giáo dục trở thành một hoạt động tự giác có tổ chức, có mục đích, nội dung và phương
pháp… của con người. Xã hội loài người ngày càng biến đổi theo hướng đi lên, giáo dục
cũng phát triển và trở thành một hoạt động được tổ chức chuyên biệt: có chương trình, kế
hoạch, có nội dung, phương pháp khoa học.

Như vậy, hoạt động giáo dục dù nhìn nhận dưới góc độ nào cũng cần có ít nhất hai
chủ thể là người dạy và người học và mục tiêu là trang bị cho người học những phẩm chất,
năng lực cần thiết trên cơ sở những kinh nghiệm của các thế hệ loài người. Hoạt động giáo
dục trong nhà trường là trung tâm của mọi hoạt động giáo dục. Nó diễn ra có quy mô, bài
bản nhất định với mục tiêu không chỉ trang bị kiến thức, rèn luyện kĩ năng mà còn bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cho HS.
Truyền thống
Theo “Bách khoa từ điển Xô Viết” truyền thống là: những yếu tố di tồn
văn hóa, xã hội truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ trong các xã
hội, giai cấp và nhóm xã hội trong một quá trình lâu dài. Truyền thống thể
hiện trong một chế định xã hội, chuẩn mực của hành vi, các giá trị tư tưởng,
phong tục, tập quán và lối sống. Truyền thống tác động đến mọi xã hội và tất
cả mọi lực lượng trong đời sống xã hội.[17; 1339]. Có thể nói, truyền thống là
những di sản của quá khứ về các mặt của đời sống được kết tinh và lưu truyền
qua các thế hệ, ăn sâu vào tiềm thức của con người và được thể hiện qua
phong cách sống, qua các mối quan hệ xã hội.
“Từ điển Tiếng Việt” giải thích truyền thống là “những thói quen hình
thành lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang
thế hệ khác”[50; 443].
15
Theo GS Phan Ngọc Liên, trong “Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông”,
“truyền thống là những yếu tố về sinh hoạt văn hóa, tư tưởng, tình cảm một
địa phương, một đơn vị nào đó, được truyền từ đời này sang đời khác, thế hệ
trước sang thế hệ sau. Truyền thống có phần tích cực, giúp vào sự tồn tại và
phát triển, như truyền thống yêu nước, lao động (truyền thống tốt đẹp), cũng
có phần tiêu cực phải xóa bỏ. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, những
truyền thống yêu quý lao động, yêu nước và cách mạng được kế tục và phát
huy cao độ”[33; 443]. Có những truyền thống tốt đẹp mà mọi thế hệ cần kế
thừa, phát huy nhằm phục vụ cho những mục đích cao quý, cho sự tiến bộ của
xã hội như: truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết, truyền thống cần

cù, yêu lao động…Bên cạnh đó những nét tiêu cực, những hủ tục do tàn dư
của xã hội cũ để lại như: mê tín dị đoan, trọng nam khinh nữ…thì phải kiên
quyết xóa bỏ.
Tóm lại, truyền thống là những thói quen, những phong tục, tập quán
được truyền từ đời này sang đời khác, bao gồm cả những giá trị tốt đẹp và
những hủ tục lạc hậu cần bài trừ. Nhiệm vụ của nhà trường nói chung và của
môn Lịch sử nói riêng là phải làm cho thế hệ trẻ hiểu được giá trị của những
truyền thống tốt đẹp, gìn giữ, phát triển nó đồng thời nhận biết và bài trừ
những truyền thống không còn phù hợp với thời đại ngày nay.
Truyền thống yêu nước
Quan niệm về truyền thống yêu nước ở mỗi thời kì tùy vào giai cấp lãnh
đạo, nhiệm vụ của thời đại sẽ mang những nội dung khác nhau. Trong thời
phong kiến, “ái quốc” phải gắn liền với “trung quân”, yêu nước là phải trung
thành với nhà vua. Trong thời đại ngày nay, yêu nước gắn liền với yêu
CNXH, dốc sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lòng yêu nước là tình cảm tự nhiên của con người, nó trước hết là tình
cảm yêu thương đùm bọc giữa những người thân trong gia đình, rộng hơn nữa
là tình làng nghĩa xóm tương trợ, đỡ đần nhau, phát triển cao hơn chính là tình
16
yêu quê hương, yêu những cảnh đẹp dù đơn sơ, mộc mạc. Khi nhà nước ra
đời, tình yêu quê hương phát triển lên thành tình yêu nước mà biểu hiện của
nó là bảo vệ đất nước trước mọi kẻ thù.
Như vậy, lòng yêu nước không phải xuất hiện ngay từ khi con người xuất
hiện mà nó được hình thành trong quá trình lao động, chiến đấu, bảo vệ đất
nước. Lòng yêu nước lớn dần theo dòng chảy của lịch sử, nó được truyền từ
đời này sang đời khác và dần trở thành truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta.
Nếu như, truyền thống yêu nước được ra đời cùng với sự ra đời của nhà
nước thì thuật ngữ truyền thống cách mạng từ khi Đảng thành lập mới được
nói tới. Trải qua hơn 80 năm lịch sử, truyền thống cách mạng của dân tộc ta
cũng cực kì vẻ vang và đáng tự hào. Truyền thống cách mạng là kết tinh cao

độ của truyền thống yêu nước. Với lòng yêu nước, nhân dân ta có thể dũng
cảm đối mặt với bất kì kẻ thù nào, khi có Đảng dẫn đường mọi con đường
dù gian nan tới đâu sẽ đi tới đích cuối cùng là thành công. Những thắng lợi
mà dân tộc ta đã gặt hái được từ khi Đảng ra đời tới nay là minh chứng sống
động nhất cho điều này. Với tầm quan trọng như vậy nên việc giáo dục truyền
thống nói chung và giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ nói riêng là
mục tiêu không thể thiếu trong dạy học ở trường phổ thông.
Sử dụng KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước cho HS
Sử dụng KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước cho HS trong DHLS là quán triệt
nguyên tắc liên môn trong dạy học, đồng thời thực hiện nhiệm vụ giáo dục ở trường phổ
thông. Sử dụng KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước là việc GV sử dụng kiến thức
của những môn học khác nhau, có nội dung liên quan để làm nổi bật kiến thức lịch sử HS
cần lĩnh hội, thông qua đó giáo dục HS những khía cạnh của truyền thống yêu nước. Điều
này không có nghĩa là vận dụng KTLM trong DHLS một cách chung chung, hay trong bài
học lịch sử chỉ tập trung giáo dục truyền thống yêu nước một cách gượng ép, thiếu tự
nhiên, cũng không phải là sa đà vào những KTLM mà quên mất mục tiêu của bài học. Sử
dụng KTLM phải có chọn lọc nhằm làm nổi bật nội dung lịch sử, thông qua đó giáo dục
truyền thống yêu nước cho HS. Đó là mục tiêu cần đạt đến khi sử dụng biện pháp này.
Sử dụng KTLM để giáo dục truyền thống yêu nước cho HS có ý nghĩa to lớn trong
17
DHLS, tạo hứng thú cho HS trong quá trình lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng thực
hành, đặc biệt bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, giáo dục truyền thống yêu nước cho HS đạt
hiệu quả cao.
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc sử dụng KTLM để giáo dục truyền
thống yêu nước cho HS trong DHLS ở trường THPT
Mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước trong giai đoạn hiện nay
Ngày nay, đất nước ta đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển. Hoàn cảnh ấy
đem lại rất nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Trên thế giới và trong khu vực
hiện nay, tuy hòa bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chính nhưng vẫn tồn tại những
tranh chấp, xung đột cục bộ về nhiều vấn đề. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ Tám của

BCH TƯ Đảng khóa XI đã xác định mục tiêu chung là “Bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt
Nam, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo định
hướng XHCN”[18;3].
Đối với ngành giáo dục, mục tiêu cần phải đổi mới căn bản, toàn diện, giáo dục và đào
tạo. Để đạt được mục tiêu này, Hội nghị đã chỉ đạo “Giáo dục con người Việt Nam phát triển
toàn diện,… yêu gia đình, yêu Tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân và đất nước”[18; 9]. Nắm
được tầm quan trọng của công tác giáo dục trong giai đoạn hiện nay, nên mục tiêu giáo dục đã
được pháp quy hóa trong văn bản Luật giáo dục năm 2005: “đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí
tưởng độc lập dân tộc và CNXH hình thành và bồi dưỡng phẩm chất, năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [11; 32]. Như vậy, tất cả các văn bản xác định
mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước trong giai đoạn hiện nay đều chú trọng vào việc giáo dục con
người Việt Nam phát triển toàn diện, một trong những phẩm chất không thể thiếu đó là lòng
yêu nước.
Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử ở trường THPT
Mục tiêu của môn Lịch sử ở trường phổ thông thể hiện ở ba mặt cơ bản: kiến thức, kĩ
năng, thái độ.
18
- Về kiến thức: Trên cơ sở củng cố những kiến thức lịch sử đã học ở THCS, từ đó phát
triển những nội dung về LSVN, lịch sử thế giới, hợp thành một hệ thống kiến thức về sự phát
triển của lịch sử từ nguyên thủy cho đến nay.
- Về kĩ năng: Cần bồi dưỡng cho HS những kĩ năng: Tư duy biện chứng trong nhận
thức và hành động. Ngoài ra cần bồi dưỡng những kĩ năng thực hành bộ môn như: sử dụng
SGK, các loại tài liệu tham khảo, làm và sử dụng đồ dùng trực quan, nâng cao năng lực
trình bày bao gồm cả nói và viết, ứng dụng công nghệ thông tin vào học tập, tham gia hoặc
tổ chức được các hoạt động ngoại khóa. Đặc biệt bộ môn Lịch sử cần rèn luyện cho HS
khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống.

- Về thái độ: Giáo dục cho HS lòng yêu nước, yêu XHCN. Phẩm chất này không chỉ
được thể hiện trong đấu tranh chống ngoại xâm mà còn thể hiện trong quyết tâm xây dựng
và bảo vệ đất nước trong thời bình. Bồi dưỡng tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc
tế vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Ngoài ra, cần củng cố cho HS niềm tin vào sự phát
triển hợp quy luật của xã hội loài người và của dân tộc, từ đó bồi dưỡng cho các em niềm
tin vào con đường mà Đảng và Bác đã chọn.
Để đạt được mục tiêu trên, cần nâng cao chất lượng đội ngũ GV, đầu tư mọi mặt cho
giáo dục và đổi mới phương pháp DHLS. Việc sử dụng KTLM để giáo dục truyền thống
yêu nước cho HS trong DHLS góp phần thực hiện tốt mục tiêu đề ra.
Đặc trưng của bộ môn Lịch sử
Tính quá khứ: Lịch sử là quá trình phát triển hợp quy luật của xã hội loài người từ lúc
con người và xã hội hình thành tới nay. Bởi vậy, người ta không thể trực tiếp quan sát được
lịch sử quá khứ và chỉ nhận thức được chúng một cách gián tiếp thông qua các tài liệu được
lưu lại. Vì vậy, DHLS có những khó khăn nhất định. HS không thể trực tiếp quan sát sự kiện
lịch sử, mà chỉ có thể tri giác các tài liệu lịch sử, thông qua các đồ dùng trực quan để hiểu biết
về các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên, đặc trưng này của bộ môn cũng tạo điều kiện để GV rèn
luyện cho HS khả năng tưởng tượng, tái tạo lịch sử trong học tập.
Tính không lặp lại: Sự kiện lịch sử mang tính không lặp lại về thời gian và cả không
gian. Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra trong thời gian và không gian nhất định.
Điều này đòi hỏi các GV khi trình bày một sự kiện, hiện tượng nào đó phải khắc sâu những
đặc điểm của sự kiện, hiện tượng để HS không bị nhầm lẫn giữa sự kiện này với sự kiện
khác.
19
Tính cụ thể: Lịch sử là khoa học nghiên cứu tiến trình phát triển cụ thể của các
nước, các dân tộc khác nhau và quy luật của nó. Lịch sử mỗi nước, mỗi dân tộc đều có diện
mạo riêng do những điều kiện riêng chi phối. Đặc điểm này quy định việc trình bày các sự
kiện, hiện tượng lịch sử càng cụ thể, sinh động bao nhiêu càng hấp dẫn bấy nhiêu.
Tính hệ thống(tính logic lịch sử): Khoa học lịch sử bao gồm các sự kiện, hiện tượng
về cơ sở kinh tế, đấu tranh xã hội, các lĩnh vực của đời sống Những nội dung này khi
biên soạn SGK mặc dù đã giản lược nhưng những mối liên hệ ngang dọc, chằng chịt giữa

các sự kiện vẫn được thể hiện. Điều này đòi hỏi GV khi giảng dạy phải chú ý cung cấp cho
HS một cách logic nhất, dễ hiểu nhất không chỉ các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà còn
những mối quan hệ giữa các sự kiện hiện tượng đó.
Tính thống nhất giữa “sử” và “luận”: Lịch sử là một ngành khoa học nghiên cứu
về quá khứ, những cái đã qua và không lặp lại. Để cho người đời sau có những hiểu biết
nhất định thì các sự kiện, hiện tượng lịch sử đã được ghi chép lại. Trước khi chủ nghĩa Mác
ra đời, các sử gia đều chép sử dựa trên lập trường của giai cấp thống trị, chỉ khi chủ nghĩa
Mác ra đời, khoa học lịch sử mới trở thành một khoa học chân chính.
Vì vậy, việc nghiên cứu, DHLS cần dựa vững chắc vào những nguyên lí của chủ
nghĩa Mác, có như vậy những nhận định, kết luận rút ra mới đảm bảo tính khoa học, vận
dụng có hiệu quả vào cuộc sống. Tính giai cấp của giai cấp vô sản và tính khoa học của
lịch sử hoàn toàn đồng nhất, giữa “sử” và “luận” có sự thống nhất cao độ.
Quan hệ biện chứng giữa các đặc điểm của tri thức lịch sử: Giữa các đặc điểm trên
của tri thức lịch sử có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau. Chỉ có dựa trên nguyên lí
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng những phương pháp nghiên cứu lịch sử đúng đắn
để nghiên cứu tài liệu lịch sử mới có thể đưa ra những kết luận khoa học, hoàn chỉnh về
một giai đoạn phát triển nào đó của xã hội loài người, hoặc một quốc gia, dân tộc, một lĩnh
vực nào đó của cuộc sống. Nắm vững mối liên hệ nội tại của các tri thức lịch sử kết hợp
với phương pháp nghiên cứu khoa học cũng khắc phục được những hạn chế do tính quá
khứ đem lại, đồng thời tạo cho HS biểu tượng chân thực về sự kiện lịch sử đã xảy ra, qua
tư duy hình thành khái niệm, nêu quy luật, rút ra bài học lịch sử.
Đặc điểm tâm lí của HS THPT
Học sinh THPT ở vào độ tuổi từ 15 – 18 tuổi, các em đã có sự phát triển cả về thể
chất và tâm lý, khác với lứa tuổi THCS. Học sinh càng trưởng thành thì kinh nghiệm sống
càng phong phú, các em ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời,
20

×