Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương trong vùng đệm đến tài nguyên rừng khu bảo tồn thiên nhiên đakrông tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.18 KB, 79 trang )

B GIO DC V O TO

B NễNG NGHIP V PTNT

TRNG I HC LM NGHIP

HONG VN TUN

Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương
trong vùng đệm đến tài nguyên rừng Khu bảo tồn
thiên nhiên Đakrông- Quảng Trị

LUN VN THC S KHOA HC LM NGHIP

H Ni, nm 2008


B GIO DC V O TO

B NễNG NGHIP V PTNT

TRNG I HC LM NGHIP

HONG VN TUN

Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương
trong vùng đệm đến tài nguyên rừng Khu bảo tồn
thiên nhiên Đakrông- Quảng Trị

Chuyờn ngnh: Lõm hc
Mó s: 60-62-60



LUN VN THC S KHOA HC LM NGHIP

Cỏn b hng dn khoa hc:
PGS.TS V NHM

H Ni, nm 2008


1

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Các chuyên gia sinh thái học đã khẳng định rừng là một HST hoàn
chỉnh nhất, tái sinh là một trong những quy luật quan trọng trong quá trình
hình thành và phát triển của thảm thực vật rừng. Nghiên cứu các đặc điểm tái
sinh rừng tự nhiên đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập đến.
1.1. Ngoài nước
Lịch sử nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên trên thế giới đã trải qua hàng
trăm năm nhưng đối với rừng nhiệt đới mới chỉ đề cập đến từ những năm 1930
trở lại đây.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu lâm học,hiệu quả của tái sinh
rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng
cây con, đặc điểm phân bố. Vai trò của cây con là thay thế cây già cỗi, vì vậy
hiểu theo nghĩa hẹp, tái sinh rừng là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của
rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Kết quả nghiên cứu được tóm tắt như sau:
Đa số các nhà lâm nghiệp cho rằng, trong nghiên cứu tái sinh rừng cần
phải xem xét quá trình tái sinh kể từ khi hình thành cơ quan sinh sản, sự hình

thành hoa, quả, các tác nhân phân tán hạt, sự phù hợp của mùa vụ hạt giống
với điều kiện khí hậu … v.v… Phần lớn các nhà lâm học Liên Xô cũ lại đề
nghị chỉ nên nghiên cứu quá trình tái sinh rừng bắt đầu từ cây có hoa quả,
thậm chí từ thời gian cây mạ trở đi 6.
Các nhà nghiên cứu đều có chung một quan điểm là: Hiệu quả tái sinh
rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng
cây con, đặc điểm phân bố và độ dài của của thời kỳ tái sinh rừng. Sự tương
đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã được


2

nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbread, 1930; Richards, 1933; 1939;
Aubresville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert, 1954; Jones, 1955 – 1956;
Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969) 45. Do tính chất phức tạp về tổ
thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài cây có giá trị nên trong thực tiễn
lâm sinh người ta chỉ tập trung khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Về phương pháp điều tra tái sinh, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy ô mẫu
hình vuông theo hệ thống do Lowdermilk (1972) đề nghị, với diện tích ô dạng
bản thông thường từ 1 : 4m2. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tác giả đề nghị sử dụng
phương pháp điều tra dải hẹp với các ô đo đếm có diện tích biến động từ 10 
100m2. Phổ biến nhất là bố trí theo hệ thống trong các diện tích nghiên cứu từ
0,25  1,0 ha (Povarnixbun, 1934; Yurkevich, 1938). Phương pháp này trong
điều kiện tái sinh sẽ khó xác định được quy luật phân bố hình thái của lớp cây tái
sinh trên mặt đất rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê, Barnard (1950) đã đề
nghị phương pháp “Điều tra chẩn đoán”, theo đó kích thước ô đo đếm có thể
thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác
nhau 24. Phương pháp này được áp dụng nhiều hơn vì nó thích hợp cho từng
đối tượng rừng cụ thể.
Khi nghiên cứu ở Châu Phi A.Obrevin (1938) nhận thấy, cây con của

những loài cây ưu thế trong rừng có thể cực hiếm hoặc vắng hẳn. Đây là hiện
tượng không sinh con đẻ cái của cây mẹ trong rừng mưa. Mặt khác trong rừng
mưa tổ thành rừng thường thay đổi theo không gian và thời gian, ngay cả
trong cùng một địa điểm, cùng một thời gian nhất định, tổ hợp các cây sẽ
được thay thế bằng tổ hợp loài cây khác hẳn. Nếu xét trên diện tích nhỏ, tổ
hợp loài cây tái sinh không mang tính chất kế thừa. Nhưng nếu xét trên một
phạm vi rộng, thì tổ hợp các loài cây sẽ thừa kế nhau theo phương thức tuần
hoàn. Thành công của A. Obrevin đã khái quát được hiện tượng bức khảm tái
sinh. Ông coi đó là “Hiện tượng thuần tuý ngẫu nhiên”.


3

Vansteenis (1956) 45 khi nghiên cứu về rừng mưa đã nhận xét, đặc
điểm hỗn loài của rừng mưa nhiệt đới là nguyên nhân dẫn đến đặc điểm tái
sinh phân tán liên tục. Ngược lại, tái sinh phân tán liên tục ở rừng mưa lại là
tiền đề để tạo thành một rừng mưa hỗn loài khác tuổi. Tổ thành những loài
cây tái sinh mọc ở lỗ trống là n hững loài cây ưa sáng mọc nhanh, đời sống
ngắn, không có mặt trong tổ thành rừng, mà nguồn gốc có thể là do chim,
những động vật từ xa mang tới … Tỷ lệ cây ưa sáng tỷ lệ thuận với kích
thước lỗ trống, tức là kích thước lỗ trông càng lớn, thì tỷ lệ cây ưa sáng càng
nhiều. Đây là loài cây tiên phong làm nhiệm vụ hàn gắn các lỗ trống ở trong
rừng. Sau khi các loài cây ưa sáng tạo ra bóng, cây tái sinh của những loài cây
chịu bóng có trong thành phần của rừng nguyên sinh xuất hiện, vươn lên thay
thế các loài cây ưa sáng. Khi nghiên cứu rừng nhiệt đới ở Châu Á, tác giả cho
thấy có hai đặc điểm tái sinh phổ biến, đó là tái sinh vật và tái sinh phân tán
liên tục.
Bernard Rollet (1974) tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố tái sinh
đã nhận xét. Trong các ÔTC có kích thước nhỏ (1 x 1m); (1 x 1,5m) cây tái sinh
có dạng phân bố cụm, một ít có dạng phân bố Poisson. Ở Châu Phi, trên cơ sở

các số liệu thu thập, Taylor (1954), và Bernad (1955) cho thấy số lượng cây tái
sinh trong rừng nhiệt đới bị thiếu hụt, cần phải bổ sung thêm bằng trồng nhân
tạo.
Về điều tra, đánh giá tái sinh tự nhiên trong rừng nhiệt đới M.
Loeschau (1977) 23 đã đưa ra một số để nghị để đánh giá một khu rừng có
tái sinh đạt yêu cầu hay không phải áp dụng phương pháp điều tra ngẫu nhiên,
trừ trường hợp đặc biệt có thể dựa vào những nhận xét tổng quát về mật độ tái
sinh như nơi có lượng cây tái sinh rất lớn. Từ những tính toán về sai số cũng
như về mặt tổ chức thực hiện thì các ô được chọn là những ô vuông có diện
tích là 25m2 dễ dàng xác lập bằng gậy tre. Các ô đo đếm được xác lập theo


4

từng nhóm, mỗi nhóm gồm 4 ô bố trí liên tiếp theo kiểu phân bố hệ thống
không đồng đều. Như vậy, các ô vừa đại diện được đầy đủ toàn bộ khu vực
điều tra, và những nhân tố điều tra vừa có dạng gần với phân bố chuẩn.
Đặc điểm tái sinh rừng cũng được nhiều nhà khoa học quan tâm, đặc
biệt là thế hệ cây tái sinh có tổ thành giống khác biệt với tổ thành tầng cây
cao. (Mibbread – 1940; Richard – 1944, 1949, 1965; Baur – 1964; Rollet …)
Trong số các công trình nghiên cứu của các tác giả về phân bố tái sinh
tự nhiên ở rừng nhiệt đới đáng chú ý nhất là công trình nghiên cứu của P.
Richard (1952). Ở Châu Phi, trên cơ sở số liệu thu thập, Taylor (1954),
Bennard (1955) xác định các cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt, cần
phải bổ sung bằng cách trồng rừng. Các tác giả nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt
đới Châu Á , như Budowski (1956), Bara (1954), Catinott (1965) l ại có nhận
định rằng: Dưới tán rừng nhiệt đới, nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có
giá trị kinh tế. Do vậy, các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ cây tái
sinh sẵn có dưới tán rừng.
Các nhà nghiên cứu đều có quan điểm thống nhất là nghiên cứu tái sinh

rừng là nhằm xác định được mật độ, tổ thành loài, cấu trúc tuổi, chất lượng
cây con v.v… Để xác định mật độ cây con ta dùng các phương pháp: Ô dạng
bản (diện tích 1 4m2), dải hẹp và ô có kích thước lớn (10 100m2). Phổ biến
nhất là cách dùng phương pháp thống kê từng phần bằng cách đặt các ô dạng
bản trong ô thí nghiệm 0,5 1 ha (Povarnixhun, 1934; Yurkevich, 1938…);
V.G.Jexterov (1954 - 1968) đề nghị dùng 15 26 ô kích thước 1  2m2 thống
kê cây con tuổi nhỏ hơn 5 năm 10  15 ô kích thước 4 5m2 thống kê cây con
tuổi 5 – 10 năm. XV.Belov (1983) nhấn mạnh phải áp dụng thống kê toán học
để điều tra và đánh giá tái sinh 35. Việc phân tích chi tiết lý luận các
phương pháp thống kê toán học trong điều tra và đánh giá tái sinh rừng đã
được trình bày rõ trong các công trình của Greig Smith, 1967 và


5

V.I.Vasilevich, 1969 (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm 1992 ) 35. Để xác định
nhanh mật đọ và phân bố cây theo diện tích có thể dùng chỉ tiêu độ thường
gặp (Martunov, 1984).
Các công trình nghiên cứu trên đây phần nào đã làm sáng tỏ đặc điểm
và cách tiếp cận tái sinh tự nhiên. Tuy nhiên vì rừng mưa nhiệt đới luôn tồn
tại những quy luật hết sức phức tạp, do vậy việc nghiên cứu về tái sinh rừng
nhiệt đới nói chung vẫn chưa thật đầy đủ và hệ thống cho từng loại rừng cụ
thể.
1.2. Trong nước
Nghiên cứu về tái sinh rừng ở Việt Nam cũng chỉ mới bắt đầu từ những
năm 1960. Các kết quả nghiên cứu vè tái sinh mới chỉ đề cập trong các công
trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các báo cáo khoa học hoặc công bố
trên các tạp chí lâm nghiệp. Nổi bật có công trình của Thái Văn Trừng (1963,
1978) 39 về “Thảm thực vật rừng Việt Nam”. Ông đã nhấn mạnh ánh sáng
là nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên ở cả

rừng nguyên sinh và thứ sinh.
Khi đánh giá hiện trạng tái sinh của một khu rừng thứ sinh người ta lưu
ý đến thành phần tham gia của các cây con thuộc các loài cây gỗ có giá trị.
Chỉ khi thành phần tham gia của các loài cây gỗ có giá trị đạt được một mức
độ nào đó thì tái sinh tự nhiên mới được đánh giá là đủ. Từ trước đến nay
người ta đánh giá tái sinh tự nhiên bằng cách thống kê thành phần loài của
một nhóm đường kính nhất định. Như vậy, hiện trạng tái sinh tự nhiên của các
loại gỗ có giá trị được đánh giá chỉ dựa trên số cây thuộc các loại cây gỗ có
giá trị được đánh giá chỉ dựa trên số cây thuộc các loài cây gỗ có giá trị nằm
trong một nhóm kích thước nào đó. Tuy nhiên, trên các diện tích đất rừng sản
xuất nhất là các diện tích rừng áp dụng biện pháp khai thác chọn thì sự có mặt
của các cá thể loài cây gỗ có giá trị thuộc nhiều nhóm kích thước khác nhau là


6

điều tất yếu. Chỉ số che phủ được đề xuất ở đây nhằm phục vụ cho việc đánh
giá xem tập hợp tất cả các cá thể có kích thước khác nhau của các loài cây gỗ
có giá trị có đẻ khả năng hình thành nên 1 khu rừng có giá trị kinh tế cao bằng
con đường tự nhiên hay không [28].
Năm (1962 - 1963) Viện điều tra Quy hoạch với sự giúp đỡ của
chuyên gia Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu tái sinh tại vùng Sông Hiếu,
Nghệ An bằng phương pháp đo đếm điển hình dựa vào số liệu cây tái sinh/1
ha. Kết quả điều tra đã được Vũ Đình Huề (1975) tổng kết trong báo cáo khoa
học “Khái quát về tình hình tái sinh tự nhiên Miền Bắc, Việt Nam”. Dựa vào
mật độ tái sinh, Vũ Đình Huề (1969) đã phân khả nằng tái sinh thành ba cỡ:
Cỡ rất tốt có mật độ cây tái sinh lớn hơn 12.000 cây/ha, cỡ trung bình có mật
độ cây tái sinh từ 2.000 – 4.000 cây/ha. Từ năm 1962 đến năm 1969, Viện
điều tra Quy hoạch rừng cũng đã tiến hành điều tra tái sinh rừng tự nhiên một
số tỉnh: Quảng Bình, Nghệ An, Yên Bái, Quảng Ninh. Ô tiêu chuẩn được lập

với diện tích 2.000m2 cho từng trạng thái. Đo đếm tái sinh trên ô dạng bản có
diện tích từ 100 – 125m+2, kết hợp điều tra theo tuyến. Từ dó tiến hành phân
chia trạng thái rừng và đánh giá tái sinh. Đến năm 1969 Vũ Đình Huề đã chia
tái sinh ra thành 5 cấp: Rất tốt, tốt, trung bình, xấu, rất xấu. Trong nghiên cứu
này, việc đánh giá tái sinh rừng mới chỉ dựa vào số lượng mà chưa quan tâm
đến chất lượng tái sinh.
Thái Văn Trừng (1963 - 1970) 36 khi nghiên cứu về thảm thực vật
rừng Việt Nam đã kết luận: ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và ảnh
hưởng đến quá trình tái sinh tự nhiên trong rừng. Đinh Quang Diệp (1993)
6 khi nghiên cứu về tái sinh tự nhiên ở rừng Khộp vũng Easup - Đắc Lắc đã
kết luận: Độ tàn che,thảm mục, độ dày tầng thảm mục, điều kiện lập địa … là
những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng cây con tái tính dưới tán


7

rừng. Qua nghiên cứu tác giả cho thấy, tái sinh trong khu vực có dạng phân
bố cụm.
Nguyễn Hữu Hiến (1970) [14] đã đưa ra phương pháp đánh giá tổ thành
rừng nhiệt đới. Tác giả cho rằng loài cây tham gia vào tổ thành thì nhiều, trên 1
ha có hàng trăm loài, cùng một lúc không thể kể hết được. Vì vậy, người ta chỉ
kể đến loài nào có số lượng cá thể nhiều nhất trong các tầng quan trọng (tính
theo loài ưu thế hoặc nhóm loài ưu thế). Tác giả đã đưa ra công thức tổ thành là
X  N/s , với X là trị số bình quân số cá thể của một loài. N là số cây điều tra
và s là số loài điều tra. Một loài được tham gia vào công thức tổ thành phải có
số lượng cá thể bằng hoặc lớn hơn. Đây là cách đánh giá thuận tiện trong khi
phân tích nghiên cứu phân bố các loài, diễn thế và phân bố các quần lạc thực
vật.
Vũ Đình Huề (1975) 9 kết luận: Tái sinh tự nhiên rừng Miền Bắc Việt
Nam có đặc điểm của rừng nhiệt đới. Trong rừng nguyên sinh tổ thành cây tái

sinh tương tự như tầng cây gỗ, ở rừng thứ sinh tồn tại nhiều cây gỗ mềm kém
giá trị. Hiện tượng tái sinh theo đám tạo nên sự phân bố số cây không đều trên
mặt đất rừng. Từ kết quả đó, tác giả xây dựng tiêu chuẩn đánh giá tái sinh tự
nhiên áp dụng cho các đối tượng rừng lá rộng ở Miền Bắc nước ta.
Vũ Tiến Hinh (1991) 10 đã đề cập đến đặc điểm tái sinh theo thời
gian của cây rừng và ý nghĩa của nó trong điều tra cũng như trong kinh doanh
rừng. Tác giả đã sử dụng phương pháp chặt hết cây gỗ ở 2 ÔTC (lâm phần
Sau Sau phục hồi trên đất rừng tự nhiên sau khai thác kiệt và một ô thuộc
trạng thái rừng IIIA3). Kết quả nghiên cứu cho thấy, với đối tượng rừng Sau
Sau phục hồi, phân bố số cây theo đường kính và tuổi đều là dạng phân bố
giảm. Điều này chứng tỏ Sau Sau mặc dù là loài cây ưa sáng mạnh, vẫn có
đặc điểm tái sinh liên tục qua nhiều thế hệ, càng về sau tốc độ càng mạnh. Đối
với rừng tự nhiên thứ sinh hỗn giao thì phân bố số cây theo tuổi của cây cao


8

và cây tái sinh đều có dạng phân bố giảm và nhìn chung lâm phần tự nhiên
cây rừng tái sinh liên tục và càng ở tuổi nhỏ số cây càng tăng. Tác giả còn cho
biết hệ số tổ thành tính theo phần trăm (%) số cây của tầng tái sinh và tầng
cây cao có sự liên quan hệ chặt chẽ. Đa số các loài có hệ số tổ thành tầng cây
cao lớn thì hệ số tổ thành tầng tái sinh cũng vậy. Do khó nhận biết tên cây của
tầng tái sinh, nên có thể sử dụng quan hệ giữa hệ số tổ thành tầng tái sinh và
tầng cây cao để xác định hệ số tổ thành tầng tái sinh. Từ đó, nếu biết mật độ
chung của những cây tái sinh có triển vọng của lâm phần, sẽ xác định được số
lượng tái sinh của từng loài. Trong điều chế rừng có thể sử dụng kết quả này
để sư bộ xem xét những loài cây mục đích nào chưa đủ số lượng tái sinh cần
phải tra dặm hạt và những loài nào chỉ cần thông qua biện pháp xúc tiến tái
sinh là đủ.
Nguyễn Hồng Quân (1984) 27 đã nghiên cứu kết hợp chặt chẽ khai

thác với tái sinh nuôi dưỡg rừng. Tác giả cho rằng để đáp ứng yêu cầu khai
thác bảo đảm tái sinh và nuôi dưỡng rừng, đối với rừng không đồng tuổi cần
thực hiện cả 4 nội dung chủ yếu là thu hoạch cây thành thục, chặt tái sinh,
chặt nuôi dưỡng và chuẩn hoá cấu trúc rừng về trạng thái mong muốn.
Phạm Đình Tam (1981) 31 khi nghiên cứu về khả năng tái sinh tự nhiên
sau khai thác ở lâm trường 8 – Kon Hà Nừng, đã xem xét tình hình tái sinh dưới
hai cường độ khai thác khác n hau là 30% và 50% và kết luận về số loài tái sinh
sau 2 năm cả 2 công thức số loài tái sinh đều tăng lên Hầu hết các loài đã gặp
trước đây, sau 2 năm đều thấy xuất hiện đầy đủ. Về số lượng cây tái sinh chung
và số lượng cây cây mục đích theo tiêu chuẩn sau 2 năm ở 2 công thức đều tăng
lên rõ rệt, chứng tỏ sau khi khai thác tái sinh rừng tự nhiên đã được thúc đẩy. Về
chất lượng cây tái sinh, tác giả cho thấy số cây tái sinh nằm trong các cỡ chiều
cao ở 2 công thức chặt đều tăng so với trước khi khai thác. Chiều cao cây tái sinh
càng thì sự chênh lệch về số lượng cây giữa 2 công thức càng rõ. Mặt khác,


9

trước khai thác tỷ lệ cây tái sinh tốt ở cả hai loại cường độ chặt đều chiếm 80%
so với toàn bộ. Sau khai thác 2 năm tỷ lệ này là 87% đối với cường độ 30% và
83% đối với cường độ 50% Chứng tỏ qua khai thác điều kiện hoàn cảnh của cây
tái sinh đã được cải thiện tốt.
Nguyễn Duy Chuyên (1985) 1 đã nghiên cứu quy luật phân bố cây tái
sinh tự nhiên từng lá rộng thường xanh hỗn loài vùng Quỳ Châu, Nghệ An.
Từ kết quả nghiên cứu phân bố cây tái sinh theo chiều cao, nguồn gốc và chất
lượng tác giá cho biết, trong tổng số 13.657 ô đo đếm có 8.444 ô có ít nhất
một cây tái sinh. Tập hợp số lượng ô này theo chiều cao, nguồn gốc và chất
lượng tác giả cho thấy 35% cây tái sinh có chiều cao từ 2m trở lên, 80% cây
tái sinh có nguồn gốc hạt, 20% cây chồi, 47% cây tái sinh chất lượng tốt,
37% cây tái sinh có chất lượng trung bình và 16% cây tái sin chất lượng xâu.

Về số lượng cây tái sinh tác giả cho thấy rở rừng giàu, có chất lượng tốt (loài
IV và IIIB) có số cây tái sinh lớn nhất (3.200 – 4.000 cây/ha). Rừng nghèo số
cây tái sinh có 1.500 cây/ha (IIIA2). Trong toàn lâm phần phân bố lý thuyết
của cây tái sinh tự nhiên trung bình (IIIA2) có dạng phân bố Poisson, các loại
rừng khác cây tái sinh có phân bố cụm.
Theo tài liệu của Viện điều tra quy hoạch rừng (1983) thì tại khu vực
lâm trường Sông Đà, Hoà Bình xuất hiện một số loài cây có giá trị như Dến,
Dẻ, Re, Táu … Nhưng do quá trình khai thác không hợp lý, đốt nương rẫy của
đồng bào dân tộc, những loài cây này dần dần bị mất đi mà thay vào đó là
cây ưa sáng mọc nhanh, ít có giá trị kinh tế. Theo nghiên cứu của Ngô Kim
Khôi (1996) tổ thành loài cây phục hồi sau nương rẫy ở Bình thanh – Lâm
trường Sông Đà gồm các loài: Re, Dẻ, Trảm, Kháo.
Vũ Đình Huề, Phạm Đình Tam (1989) 15 nghiên cứu hiện tượng tái
sinh lố trống ở rừng thứ sinh Hương Sơn – Hà Tĩnh đã kết luân: những loài
cây trong giai đoạn non, cây chịu bóng dưới tán rừng có số lượng tái sinh lớn


10

nhưng chỉ có cây con chiều cao thấp hơn 50cm và ít có cây lớn hơn. Mật độ
cây tái sinh và phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều ao thay đổi, rừng sau
khai thác số cây tái sinh có chiều cao trên 1,5m tăng lên.
Tình hình tái sinh rừng tự nhiên ở khu vực Kon Hà Nừng đã được
Phùng Tửu Bôi (1978) nhận xét: Dưới tán rừng lá rộng thường xanh cây
phong phú, 100m2 có từ 18 đến 20 loài, về cơ bản thành phần loài cây tái sinh
dưới tán từng trùng lặp cây mẹ tăng trên. Tuy nhiên cũng có sự khác nhau
nhất định. Kết quả điều tra cây tái sinh cho thấy các loài cây tiên phong bao
gồm: Cây tiên phong bán định cư (Hu Đay, Ba Ba, Ba Soi, Thôi Ba …) cây
tiên phong định cư (Cáng Lò, Vạng Trứng, Vối Thuốc …). Số lượng cây tái
sinh giảm theo chiều cao, chỉ có một số loài phân bố liên tục.

Nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh tự nhiên ở khu vực BTTN Tây
Yên Tử cho thấy số lượng thành phần loài thay đổi theo thời gian bổ hoá từ 4
– 6 năm là 21 loài, đến 10 – 12 năm là 25 loài. Nghiên cứu phân bố tây tái
sinh theo mặt phẳng ngang từ phân bố cụm (dưới 7m) lên phân bố ngẫu nhiên
(dưới 20m) và phân bố đều (trên 20m). Mật độ cây tái sinh giảm dần theo thời
gian bỏ hoá từ 4 – 6 năm là 6.583 1337 cây/ha đến 10 – 12 năm là 3706 
1016 cây/ha. Chất lượng cây tái sinh tỷ lệ tốt tưng dần từ 573% lên 70,6%,
trung bình từ 20,2% đến 23,4% và cây xấu giảm dần từ 16,8% xuống 11,4%.
Cây tái sinh nguồn gốc hạt từ 83,2% đến 88,^% từ chồi là 11,4% đến 16,8%.
Những loài cây gỗ tầng ưu thế tái sinh sau nương rẫy ngày càng tăng, trong số
đó có nhiều loài cây bản địa như: Lim Xanh, Sến Mật, Trám Trắng, Giẻ Vạng
Trứng 11.
Bùi Văn Chúc (1996) đã nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phòng hộ
đầu nguồn tại Lâm trường Sông Đà ở trạng thái rừng IIA, IIIA1 và rừng
trồng. Tác giả cũng đề cập đến tái sinh nhưng mới chỉ xác định tổ thành, mật
độ, chất lượng và chia cấp chiều cao cây tái sinh nhưng mới chỉ xác định tổ


11

thành, mật độ, chất lượng và chia cấp chia cấp chiều cao cây tái sinh thành 2
cấp H  1m; H >1m.
Trần Xuân Thiệp (1966) 37 tiếp tục nghiên cứu vai trò của tái sinh và
phục hồi rừng tự nhiên ở các vùng thuộc miền Bắc. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: ở cùng Tây Bắc, dù vùng thấp hay vùng cao tái sinh tự nhiên khá tốt về
số lượng cây từ 500 – 8.000 cây/ha. Rừng Tây Bắc thể hiện rõ các mặt ảnh
hưởng đến chất lượng tái sinh nghèo về trữ lượng, diễn thế ở nhiều vùng xuất
hiện nhóm cây ưa sáng chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và chủ yếu,
nhóm loài cây rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ. Vùng
trung tâm tác giả cho biết sự nghèo kiệt nhanh chóng của rừng đưa đến số

lượng và chất lượng tái sinh tự nhiên thấp. Vùng Đông Bắc, số lượng cây tái
sinh trong rừng tự nhiên biến động bình quân từ 8.000 đến 12.000 cây/ha. So
với các vùng khác, vùng này khả năng tái sinh tự nhiên tốt.
Một số phương pháp điều tra tái sinh đã được các tác giả trong nước sử
dụng trong các đề tài của mình như sau:
Phạm Ngọc Thường (2003) 36 vận dụng phương pháp lập ÔTC điển
hình 300m2/Ô (15 x 20m) để điều tra tổ thành cây gỗ tái sinh, sau đó mở rộng
dần diện tích ÔTC ở các cỡ diện tích khác nhau từ 400 – 700m2/Ô, lặp lại 3
lần ở ba khoảng thời gian bô hoá để kiểm tra tỷ lệ tổ thành loài cây tái sinh
mới xuất hiện làm cơ sở xác định diện tích ÔTC cần điều tra. Nếu diện tích
mở rộng có loài cây tái sinh mới xuất hiện chiếm tỷ lê tổ thành lớn hơn 10%
coi như có ý nghĩa, nếu nhỏ hơn 10% coi như không có ý nghĩa. Từ đó xác
định diện tích ÔTC điển hình cần đo đếm là diện tích ô mà nếu mở rộng
không còn loài cây tái sinh mới xuất hiện có tỷ lệ tổ thành trên 10%. Kết quả
cho thấy với thảm cây gỗ phục hồi sau nương rẫy nhỏ hơn 3 năm, diện tích
ÔTC là 300m2, từ sau 6 năm diện tích là 400 – 500m2/ÔTC. Để đảm bảo sai
số tính toán các chỉ tiêu mô tả đặc điểm tái sinh giữa khoản thời gian tái sinh
là như nhau, nên xác định diện tích ÔTC điển hình là 500m2 (20 x 25m) áp
dụng cho tất cả các thời gian bỏ hoá. Lựa chọn các đối tượng đồng nhất tương


12

đối các điều kiện (vị trí địa hình, cấp độ dốc, hướng phơi) để lập ÔTC điển
hình. Trong mỗi ÔTC lập 5 ô dạng bản (ÔDB), diện tích 25m2 (2 x 5m) để
điều tra lớp cây tái sinh. Các ô dạng bản được bố trí một ở trung tâm, bốn ở
khác ở gần bốn góc của ÔTC.
Hoàng Thị Phương Lan (2004) 20, Mai Xuân Hoà (2003) 12. Trên
mỗi ÔTC 1.000m2 lập 12 ô dạng bản (ÔDB), có diện tích 9m2 (3 x 3m) tiến
hành điều tra tái sinh. Phương pháp lập ô điều tra tái sinh như sau: Gao điểm

của các đường là tâm của ô dạng bản, từ tâm ô dạng bản láy sang hai bên
1,5m ta sẽ được một ô vuông có diện tích 9m2.
Vũ Tiến Hinh (2005) 13. Trên mỗi ÔTC sơ cấp có diện tích 2.500m2
(50 x 50m) thiết lập một ÔTC thứ cấp bán định vị (gọi tắt là ÔTC bán định vị)
có diện tích 1.000m2 (40 x 25m). Trên mỗi ÔTC bán định vị tiếp tục thiết lập
12 ô dạng bản, mỗi ô dạng bản có diện tích 9m2 để điều tra tái sinh.
Trần Xuân Thiệp (1996) 37. Đã sử dụng phương pháp điều tra tái sinh
sau: Trên các ÔTC 2.000m2 thiết lập các ô 4m2 (2 x 2m) để đo đếm cây tái
sinh. Các ô đo tái sinh lập theo một tuyến chính giữa theo chiều dài của ô
(50m). Bố trí 2 dãy ô đo tái sinh 4m2 liên tục song song và cách tuyến 1m và
được đánh số 1 đến 50 từ trái sang phải tuyến.
Lê Sáu (1996) 29 đã sử dụng các ô hệ thống phân bố đều khắp trên
các ô thứ cấp diện tích 500m2 (25 x 20). Mỗi ô tái sinh có diện tích 50m2.
Vũ Đức Năng (2003) 22 điều tra TS trên các ÔTC 2.000m2 (40 x
50m) điều tra tái sinh trên các ÔDB có diện tích 4m2 (2 x 2m). Các ÔDB
được lập trong ÔTC theo 3 tuyến song song cách đều, cự ly ÔDB là 3m, tổng
chiều dài 3 tuyến là 150m.
Ngô Văn Trai (1999) trên các ÔTC sơ cấp 2.500m2 (25 x 25m) điều tra tái
sinh được tiến hành trên 30 ÔDB (đảm bảo dung lượng mẫu bằng 4 – 5% diện
tích ÔTC), diện tích mỗi ÔDB là 4m2 (2 x 2m) được bố trí trên các tuyến song
song cách đều, các ÔDB được bố trí so le trên tuyến (dẫn theo Ngô Văn Trai,
1999) 38.


13

Trên các ÔTC điển hình tạm thời diện tích là 2.000m2 (40 x 50) đối với
trạng thái rừng IIA, tổ thành rừng tương đối đơn giản và diện tích 3.000m2 (50
x 60m) đối với trạng thái rừng IIIA1 tổ thành rừng phức tạp hơn tiến hành lập
12 ÔDB, các ÔDB được bố trí so le cách đều trên hai đường chéo của ÔTC,

mỗi ÔDB có diện tích từ 4m2 (2 x 2m) (dẫn theo Bùi Văn Chúc, 1996) 2.
Đỗ Thị Ngọc Lệ (2007) [21], trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tái sinh
rừng tự nhiên tại xã Đú Sáng, huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình bằng các
phương pháp thu thập số liệu khác nhau đã kết luận trong điều tra cây tái sinh,
phương pháp tốt nhất là trong mỗi ô tiêu chuẩn điều tra lâm học, lập 5 ô dạng
bản với diện tích mỗi ô 25m2 bố trí ở 4 gốc và trung tâm của ô tiêu chuẩn.
Tóm lại: Quá trình tái sinh và diễn thế của rừng tự nhiên là những vấn
đề hết sức quan trọng trong nghiên cứu sinh thái rừng nhiệt đới. Mỗi sự phá
hoại rừng nguyên sinh đều dẫn đến quá trình diễn thế theo xu hướng trở lại
trạng thái ban đầu. Sự thay đổi như vậy thường được gọi là quá trình diễn thế
thứ sinh, đây là một quá trình hết sức phức tạp vì các hình thức, mức độ và
thời kỳ phá hoại quần thể thực vật cũng như sự thoái hoá của đất rừng cũng
hết sức phức tạp.
Theo Thái Văn Trừng (1970) thì có thể phân ra hai loại trong quá trình
diễn thế thứ sinh: (i) trên đất rừng nguyên trạng và (ii) trên đất rừng thoái hoá.
Trên đất rừng nguyên trạng, nếu thảm thực vật chỉ bị phá hoại một lần thì các
kiểu thảm thực vật sẽ phục hồi gần giống như các quần thể nguyên hay thứ
sinh tự nhiên ở một số khu vực nhất định. Nếu bị tác động nhiều lần trong quá
trình diễn thế thứ sinh thì tuỳ loại hình quần thụ nhưng thường là không biến
đổi mấy về hình dạng, còn về cấu trúc sẽ đơn giản hơn và thành phần cây tái
sinh gồm chủ yếu là những loài cây tiên phong tạm cư hay tiên phong định cư
và có rất ít loài định vị nên không thể đạt độ ưu thế tương đối của rừng
nguyên sinh.
Trên loại đất rừng thoái hoá, môi trường đã biến đổi, nhiều khi thảm
thực vật rừng không phục hồi nguyên trạng được nên sẽ phát sinh những kiểu


14

thảm thực vật ở bậc thấp hơn kiểu khí hậu, hay kiểu khí hậu thổ nhưỡng. Đây

là loại diễn thế đi xuống, muốn rừng trở lại nguyên trạng thì phải chờ thời
gian dài để cải thiện chất lượng về mặt thổ nhưỡng.
Tái sinh tự nhiên là quá trình chủ yếu để phục hồi rừng qua các pha
diễn thế. Có hai cách tái sinh tự nhiên:
(i) Cách tái sinh liên tục dưới tán kín rậm của những loài chịu bóng
thường thưa thớt và yếu ớt vì thiếu ánh sáng nên chỉ có một số ít cây thoát
khỏi giai đoạn nguy hiểm, ức chế kéo dài để chờ cơ hội vươn lên tầng cao cho
thích hợp với nhu cầu sinh thái;
(ii) Cách tái sinh theo vệt để hàn gắn những lổ trống trong tán rừng do
cây già đổ rụi hay gió bão làm đổ gãy. Trên lỗ trống đó, trước hết sẽ mọc lên
các loài cây tiên phong ưa sáng, mọc nhanh. Dưới tán của các cây tiên phong,
các loài cây định vị trong thành phần quần thụ cũ thường đòi hỏi che bóng
trong 1-2 năm đầu, sẽ mọc sau và dần dần vươn lên thay thế những loài tiên
phong tạm thời có tuổi thọ ngắn.
Nghiên cứu tái sinh 9 loài cây gỗ có giá trị kinh tế (Táu mật, giẻ, re, lim
xanh, cà ổi, sến, xoay, vàng tâm, giổi) trên các trạng thái rừng khác nhau so
với rừng giàu chưa bị tác động nhận thấy số lượng cây tái sinh giảm rõ rệt: Ở
rừng nguyên sinh, tổng số cây tái sinh mục đích đạt 2594 cây/ha, trong khi đó
ở rừng IIIA2 số lượng giảm xuống còn 1481 cây/ha, ở rừng IIIA1 chỉ còn là
750 cây/ha; trong đó có một số loài hầu như rất ít gặp như lim xanh, re, vàng
tâm, xoay, sến. Tỷ lệ % so với tổng số các loài cây tái sinh cũng giảm rõ rệt.
Tuy nhiên, rừng ở Kon Hà Nừng còn có trữ lượng cao và khai thác chọn mới
được diễn ra trong vòng 10 năm thì sự thay đổi trong tái sinh chưa xảy ra
mạnh.
1.3. Thảo luận về cơ sở lý luận và sự cần thiết của đề tài:
Về bản chất, tất cả mọi thực vật đều tái sinh và chủ yếu bằng hạt. Một
khu rừng mới có thể được thiết lập bằng con đường tái sinh tự nhiên khi (i)


15


trờn din tớch cú lng ht ging bo m cht lng hoc gc m ny
chi;

(ii) iu kin t v lp a thun li cho ht ny mm hoc thun li

cho vic ny chi t gc cõy m; v (iii) iu kin mụi trng thun li cho
cõy con mi tỏi sinh tn ti (sng) v sinh trng. Cú nhng loi cõy rt d tỏi
sinh t nhiờn, nhng cng cú nhng loi rt khú. Dự i vi loi tỏi sinh
hay khú thỡ núi chung, tỏi sinh t nhiờn l mt quỏ trỡnh liờn tc, khụng giỏn
on ca cỏc yu t sinh hc c din ra theo mt trt t c th (Smith,
1986). Hỡnh 1.1 biu th s liờn kt ni ti ca cỏc nhõn t nh hng n quỏ
trỡnh tỏi sinh t nhiờn ca cõy rng. Khi cỏc cnh ca tam giỏc hp li vi
nhau theo ý ngha sinh hc-vt lý, l iu kin thun li cho tỏi sinh. Nu mt
nhõn t ca quỏ trỡnh b phỏ v do mt hin tng t nhiờn hoc do hot ng
ca con ngi thỡ quỏ trỡnh tỏi sinh s b tht bi hoc s lng cõy tỏi sinh b
hn ch; sau ú chu trỡnh c lp li vo nm khỏc v c tip tc nh th
theo trt t ca ng thỏi din th cho n khi rng t mt t thnh v mt
n nh.
nh sỏng:
Vi mụi trng:

-Cng ỏnh sỏng

- tn che

-Cht lng ỏnh sỏng

- dy lp thm mc


-Nhiờt

Vật hậu: Tình hình ra hoa, kết
quả, sản
m:
- Lng ma
lượng
hạt giống
-Cu
tng t
- Thi tit
-Chim thỳ
Chất lượng hạt giống: Tỷ lệ và thế nảy
-Sõu, bnh
mầm,
Khụ hn
-Xúi mũn
Cung cp ht ging
ảnh hưởng của độ tàn che
Ngun cõy
ảnh hưởng của nhiệt
độm
Loi
ảnh hưởng của yếuSntốxut
địa hình
lng
ảnh hưởng củaCht
thực
bìhtvàging
các biện pháp xử

Phỏtrừng
tỏn
lý thực bì, thảm mục
ảnh
của
pháp
Hỡnh 1.1: Tam
giỏchưởng
cỏc yu
t các
nh biện
hng
n kỹ
quỏthuật
trỡnh tỏi sinh t nhiờn
XTTS
i tr
Mụ




t

-Thc bỡ

ng


16


Trong một số trường hợp, các điều kiện thuận lợi có thể hội tụ trong
một năm và quá trình tái sinh có thể hoàn thiện ngay trong năm đó, như
trường hợp rừng keo tai tượng tái sinh ở Đông Nam Bộ (Kiều Thanh Tịnh,
2005).
Các điều kiện cần cho sự thành công của quá trình tái sinh tự nhiên là:
(1) Hội tụ đủ các điều kiện thích hợp cho việc ra hoa, thụ phấn và kết hạt;
(2) Sản xuất đủ lượng hạt giống có chất lượng và bảo đảm được phát tán
đồng đều trên diện tích;
(3) Điều kiện thuận lợi cho hạt giống tiếp xúc với đất và có môi trường
thuận lợi cho sự nẩy mầm của hạt;
(4) Hạn chế được sự thất thoát của hạt giống cả trước và sau khi phát tán.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tái sinh có thể phân thành hai nhóm: (i)
Nhóm bên ngoài lập địa gồm: chim thú, sâu, bệnh và lửa rừng; (ii) Nhóm bên
trong lập địa bao gồm nhiệt độ, độ ẩm, dinh dưỡng và ánh sáng. Như vậy,
trước hết nhà lâm nghiệp phải có kiến thức để bảo đảm rằng một loài cây nào
đó có thể sinh trưởng tốt trên loại đất và lập địa nhất định, nếu không đạt
được sự thích hợp giữa loài và lập địa thì mọi cố gắng xúc tiến tái sinh sẽ thất
bại. Sự phức hợp của các nhân tố ảnh hưởng thúc đẩy nhà lâm học phải thực
hiện một hệ thống các cách tiếp cận trong việc đánh giá các điều kiện tự
nhiên, hiểu biết các cơ sở khoa học của để có thể kiểm soát được các biến của
quá trình tái sinh tự nhiên đảm bảo cho sự thành công và hiệu quả của các nỗ
lực tái sinh rừng.
Tóm lại, trong mọi trường hợp, nhà lâm nghiệp phải thực hiện các bước
thích hợp để tạo ra cơ sở khoa học và kỹ thuật nhằm:
(1) Bảo đảm một sự cung cấp hạt giống tự nhiên thuận lợi và thích hợp;
hoặc có thể bổ sung bằng phương pháp nhân tạo;


17


(2) Xử lý lâm phần già (khai thác), cải thiện luống đất và giảm thiểu các
cản trở của quá trình nẩy mầm, sinh tồn và phát triển của cây con tái sinh
bằng các xử lý lâm sinh thích hợp;
(3) Bảo vệ và chăm sóc cây tái sinh để chúng phát triển thành rừng.
Đây cũng chính là cơ sở lý luận để xác định mục tiêu và nội dung nghiên cứu
của đề tài.


18

CHƯƠNG 2
MỤC TIÊU NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu
- Về lý luận: Xác định một số đặc điểm và quy luật động thái tái sinh
của rừng tự nhiên lá rộng thường xanh ở vùng trung tâm và Tây Bắc.
- Về thực tiễn: Từ kết quả nghiên cứu xây dựng các biện pháp xúc tiến
tái sinh phục hồi rừng.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài sẽ tiến hành các nội dung sau:
(i) Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc tầng cây cao của rừng ảnh hưởng
đến tái sinh (trạng thái rừng IIIA1, IIIA2, IIIA3):
- Cấu trúc tổ thành loài cây cao
- Câu trúc mật độ (N/D) tầng cây cao
- Độ tàn che tầng cây cao và độ che phủ của thảm thực bì
- Cấu trúc tầng thứ (N/H)
(ii) Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên ở các trạng thái rừng khác
nhau:
- Tổ thành cây tái sinh
- Mật độ, nguồn gốc và chất lượng cây tái sinh.

- Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao.
(iii) Nghiên cứu một số đặc điểm dộng thái của quá trình tái sinh:
- Quá trình chuyển tiếp từ cây tái sinh lên tầng cây cao.
- Sự thay đổi về tổ thành loài
(iv) Áp dụng kết quả nghiên cứu đề xuất một số biện pháp lâm sinh để xúc
tiến tái sinh tự nhiên cho các đối tượng nghiên cứu


19

2.3. Đối tượng và giới hạn đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rừng tự nhiên lá rộng thường xanh ở
khu vực Trung tâm và Tây bắc.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
-Về không gian:Do hạn chế về thời gian và nhân lực nên đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu tại VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ va Khu BTTN Hang KiaPà Cò, huyện Mai Châu tỉnh Hoà Bình.
- Về nội dung: Thông qua việc xác định các đặc điểm: tổ thành cây tái
sinh, số lượng và chất lượng cây tái sinh, nguồn gốc cây tái sinh và hình thái
phân bố cây tái sinh như là kết quả của quá trình tái sinh tự nhiên phụ thuộc
vào ba nhóm nhân tố tạo thành tam giác các điều kiện tái sinh tự nhiên (hình
1.1) và việc nghiên cứu cấu trúc tầng cây cao (như là các điều kiện tạo vi môi
trường, ánh sáng và nguồn cây mẹ gieo giống) để xác định các qui luật tái
sinh tự nhiên ở các đối tượng rừng nghiên cứu. Động thái tái sinh chỉ giới hạn
ở sự thay đổi loài giữa tầng cây cao, các thế hệ cây tái sinh (thông qua phân
bố loài tái sinh theo chiều cao); và sự chuyển tiếp cây tái sinh vào tầng cây
cao.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm và phương pháp tiếp cận:
- Quan điểm:

Dựa trên cơ sở lý luận đã được thảo luận ở mục 1.3 trên đây, quan điểm
nghiên cứu trong luận văn này xuất phát từ nhận thức tái sinh rừng là một quá
trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng biểu hiện đặc trưng của tái sinh
rừng là sự xuất hiện một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở nơi còn hoàn
cảnh rừng, lổ trống trong rừng, rừng sau khai thác và trên đất rừng sau nương
rẫy 34. Tái sinh rừng trẻ thúc đẩy quá trình hình thành cân bằng sinh học


20

trong rừng, đảm bảo cho rừng tồn tại liên tục và đảm bảo cho việc quản lý tài
nguyên rừng bền vững. Tái sinh rừng có quy luật riêng và trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau. Do thời gian nghiên cứu của đề tài không cho phép theo dõi
động thái tái sinh trên các ô định vị trong khoảng thời gian dài. Vì vậy biến
động cây và tổ thành loài cây tái sinh theo các cấp chiều cao được coi là động
thái tái sinh. Từ đó, tuỳ thuộc vào đặc trưng về tổ thành loài cây, mật độ, chất
lượng cây tái sinh để đề xuất biện pháp tái sinh phục hồi rừng.
- Cơ sở phương pháp luận:
Qui luật về các điều kiện môi trường không vượt quá khả năng thích
nghi của loài (quy luật tối thiểu) cho phép giải thích cách thức thông thường
nhất mà diễn thế thảm thực vật ảnh hưởng đến tổ thành và thời gian của quá
trình tái sinh tự nhiên trong môi trường có rừng che phủ. Khái niệm diễn thế
có nội hàm rất rộng nhưng có thể hiểu theo cách kinh điển là quá trình thay
thế của một xã hội thực vật này bằng một xã hội thực vật khác dưới tác động
của các điều kiện môi trường vật lý, đặc tính sinh trưởng của các loài thực vật
khác nhau, ảnh hưởng của các nhân tố vô sinh và hữu sinh khác có tính chất
quyết định cho các loài thực vật chiếm ưu thế tại một lập địa cụ thể. Sự thay
thế này được diễn ra như là kết quả của hai quá trình cơ bản khác nhau: (i)
Cây tái sinh mới phát triển ở các lổ trống giữa tán các cây ở tầng cao do một
hay một số cây bị chết, dẫn đến sự thay thế một cách dần dần, lâu dài (hoặc

duy trì) thảm thực vật đang tồn tại. (ii) Một sự tác động mạnh (do nhân tác
hoặc tự nhiên) làm thay đổi đột ngột thảm thực vật cũ, hoặc giảm mạnh mật
độ của nó tạo điều kiện gia tăng quá trình tái sinh thường là các loài khác so
với thảm thực vật cũ. Trong trường hợp không có sự tác động mạnh vào thảm
thực vật rừng thì quá trình tái sinh tự nhiên tuân theo lý thuyết lỗ trống được
đặc trưng bằng chu trình như sau: “Kế theo một cây to bị chết và đổ xuống,
một khoảng trống (lỗ trống) trong tán rừng được tạo thành. Diện tích dưới lỗ
trống này trở thành lập địa cho các cây con tái sinh và tồn tại. Cây tái sinh


21

phát triển, rừng được thiết lập mới tạo tán lấp đầy lỗ trống. Tiếp tục, khu rừng
đã thành thục bên cạnh lỗ trống trước đây lại có một cây lớn chết và tạo ra
một lỗ trống mới và chu trình được lặp lại” ( Herman, H. Shugart, 1984). Các
phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở của lý thuyết này, kết
hợp với các luận điểm về tam giác điều kiện của quá trình tái sinh tự nhiên
được thảo luận ở mục 1.3.
- Phương pháp tiếp cận:
* Phương pháp kế thừa:
Trong quá trình thực hiện đề tài đã kế thừa các tài liệu cơ bản của khu
vực nghiên cứu. Những tư liệu về điều kiện tự nhiên ở địa bàn nghiên cứu, khí
hậu, thuỷ văn, địa hình, thổ nhưỡng, tài nguyên rừng, tài nguyên đất, tài
nguyên đa dạng sinh học và các loại bản đồ chuyên dùng như: Bản đồ hiên
trạng, bản đồ địa hình. Những tư liệu về điều kiện kinh tế, xã hội: Cơ cấu
ngành nghề sản xuất hàng hoá, nguồn vốn, chi phí thu nhập, lưu thông, tiêu
dùng … Dân số, dân tộc, lao động, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng,
kiến thức bản địa, chính sách của Nhà nước, quy định của địa phương.
Do đề tài này là một đề mục trong các nôi dung nghiên cứu của đề tài:


“Nghiên cứu đặc điểm lâm học (diễn thế, cấu trúc, tổ thành, tái sinh, tăng
trưởng, khí hậu, thuỷ văn, đất,…) của một số HST rừng tự nhiên chủ yếu ở
Việt Nam " do TS. Trần Văn Con, Viện Khoa học lâm nghiệp chủ trì, đề tài
cũng sẽ kế thừa một số tư liệu và kết quả liên quan về tái sinh rừng tự nhiên
của rừng lá rộng thường xanh ở vùng sinh thái khác để phân tích bổ sung cho
kết quả nghiên cứu của luận văn.
* Phương pháp điều tra lâm học:
Để thực hiện các nội dung chính của đề tài, sẽ áp dụng các phương
pháp điều tra lâm học truyền thống mà chủ yếu là phương pháp điều tra ô tiêu
chuẩn định vị và tạm thời (sẽ trình bày chi tiết ở phần sau).


22

2.4.2. Các phương pháp cụ thể:
a) Phương pháp thu thập số liệu ngoại nghiệp:
Số liệu nghiên cứu của luận văn được thu thập chủ yếu từ hệ thống ô
tiêu chuẩn định vị được thiết lập theo thiết kế của đề tài nghiên cứu khoa học
của Viện nói trên. Phương pháp lập ô tiêu chuẩn cụ thể như sau:
- Các ÔTC được thiết kế là 1 hình vuông (100 x100m) có diện tích
10.000m2, chia làm 3 cấp (compartments) xem hình 2.1:
+ Ô cấp A là ô hình vuông 100m x 100m = 10.000m2 để đo tất cả các
cây gỗ có D1.3≥10cm.
+ Ô cấp B là 1 vòng tròn đặt giữa tâm ô cấp A với bán kính R=15m
(diện tích 707 m2 để đo đếm các cây gỗ và lâm sản ngoài gỗ có H>1,3m và
D1.3<10cm.
+ Ô cấp C: gồm 12 ÔTC dạng bản hình vuông 2mx2m, tổng diện tích
là 48m2 để đo đếm cây gỗ tái sinh có chiều cao từ 0,3-1,3m và thu thập lượng
vật chất cành rơi lá rụng.
- Ở giữa ÔTC đào một phẫu diện rộng 1m, dài 2m, sâu 1m để mô tả

đất, lấy mẫu phân tích các tính chất vật lý, hoá học và sinh vật đất.
- Đóng cọc xi măng ở 4 góc của ÔTC và một cọc cố định tâm ÔTC.
- Đánh dấu bằng sơn vàng tất cả các cây nằm trên hàng ngay ngoài
đường biên của ÔTC cấp A; tất cả các cây có D1.3≥10cm được đánh dấu bằng
một vòng sơn đỏ ở vị trí cao 1,3m là nơi đo đường kính cố định; và đánh số
cây theo thứ tự 1, 2, 3,… thống nhất theo hướng từ Tây Bắc đến gốc Đông
Nam của ÔTC.
- Vị trí của ô cấp B được cố định bằng cọc xi măng ở 4 góc. Dùng máy
GPS để định vị toạ độ tâm ô và ghi vào hồ sơ OTC.


23

100m
100m
A

R=15m

2x2m

100m

Phẫu diện đất

Ô tiêu chuẩn được chia thành 3 cấp:
A là hình vuông 100m x100m (=10.000 m2) đo đếm tất cả các cây có
d lớn hơn 10 cm
B hình tròn có bán kính 15m (=707 m2) điều tra các cây tái sinh với 1cm < D1.3
< 10 cm

C = là 12 hình vuông dạng bản có cạnh 2 x 2 m (=48m2), điều tra các cây tái
sinh D1.3<1cm.

Các chỉ tiêu đo đếm trong các
compartments:
Thông số Ô A
ÔB
ÔC
Loài cây x
X
X
D1.3(cm) x
X
O
Hvn (m) x
X
X
Hdc (m) x
O
O
Dtán (m) x
O
O
Sức sống x
X
X
Hình 2.1: Thiết kế ÔTC định vị
Điều tra tầng cây cao:



×