Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN PHẦN 2 PHÁP LUẬT (đáp án)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.95 KB, 14 trang )

Câu 1. Phân tích bản chất, chức năng, vai trò của pháp luật
XHCN Việt Nam.
1) Nguồn gốc của pháp luật (SGK 157):
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có pháp luật nhưng lại
tồn tại những quy tắc ứng xử sự chung thống nhất. đó là những tập
quán và các tín điều tôn giáo.
Các quy tắc tập quán có đặc điểm:
Các tập quán này hình thành một cách tự phát qua quá trình con
người sống chung, lao động chung. Dần dần các quy tắc này được xã
hội chấp nhận và trở thành quy tắc xử sự chung.
Các quy tắc tập quán thể hiện ý chí chung của các thành viên
trong xã hội, do đó được mọi người tự giác tuân theo. Nếu có ai
không tuân theo thì bị cả xã hội lên án, dư luận xã hội buộc họ phải
tuân theo.
Chính vì thế tuy chưa có pháp luật nhưng trong xã hội cộng sản
nguyên thủy, trật tự xã hội vẫn được duy trì.
Khi chế độ tư hữu xuất hiện xã hội phân chia thành giai cấp quy
tắc tập quán không còn phù hợp nữa thì tập quán thể hiện ý chí chung
của mọi người. trong điều kiện xã hội có phân chia giai cấp và mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời. để duy trì
trật tự thì nhà nước cần có pháp luật để duy trì trật tự xã hội. Pháp luật
ra đời cùng với nhà nước không tách rời nhà nước và đều là sản phẩm
của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
2) Bản chất của Pháp luật (SGK 159):
Bản chất của giai cấp của pháp luật: Pháp luật là những quy tắc
thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Giai cấp nào nắm quyền lực nhà
nước thì trước hết ý chí của giai cấp đó được phản ánh trong pháp
luật.
Ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật không phải là
sự phản ánh một cách tùy tiện. Nội dung của ý chí này phải phù hợp
với quan hệ kinh tế xã hội của nhà nước.


Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích của nó. Mục
đích của pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội tuân theo một
cách trật tự phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp nắm quyền lực
của
nhà
nước,
Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra có tính


quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính
bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực của nhà
nước và được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội.
Bảo vệ và quyền lợi ích hợp pháp của mọi người dân trong xã
hội
Pháp luật được xây dựng dựa trên hoàn cảnh lịch sử địa lý của dân
tộc.
3) Vai trò của pháp luật:
Pháp luật là phương diện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống
xã hội. Duy trì thiết lập củng cố tăng cường quyền lực nhà nước.
Pháp luật là phương tiện thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mỗi công dân. Pháp luật góp phần tạo dựng mối quan hệ
mới tăng cường mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia.
Như vậy, bằng việc quy định trong pháp luật các quyền và nghĩa
vụ của công dân mà pháp luật trở thành phương tiện để:
Công dân thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khỏi sự xâm hại của người khác, kể cả từ phía nhà nước và các
cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước.
Nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ các
quyền của công dân, ngăn ngừa những biểu hiện lộng quyền, thiếu

trách nhiệm đối với công dân. Đồng thời đảm bảo cho mỗi công dân
thực hiện đầy đủ quyền và các nghĩa vụ đối với nhà nước và các công
dân khác.
4) Bản chất của pháp luật XHCN (SGK 162)
Câu 2. Lấy ví dụ về văn bản quy phạm pháp luật và văn bản
áp dụng quy phạm pháp luật. Từ đó phân biệt hai loại văn bản
trên.
Văn bản Quy phạm pháp luật:
Văn bản có nội dung là quy phạm pháp luật, tức là những quy tắc
xử sự cụ thể có dự kiến giả định, quy định, chế tài, có tính bắt buộc
chung do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành (Quy phạm
pháp luật). Văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành
để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, văn bản do ủy
ban nhân dân ban hành còn để thi hành nghị quyết của hội đồng nhân


dân cùng cấp (cần phân biệt với các văn bản áp dụng quy phạm pháp
luật).
Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật:
Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để áp
dụng quy phạm pháp luật vào một trường hợp thực tế có chỉ đích danh
tên người, nhóm người hay tổ chức hữu quan. Vd. Quyết định tặng
huân chương cho ông A; Quyết định bổ nhiệm bà B làm giám đốc sở
giáo dục đào tạo tỉnh N.
Phân biệt hai loại văn bản trên
Giống nhau:
+ Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
+ Dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Khác nhau:

VBQPPL
VBADPL
Chứa qui tắc xử sự chung
Chứa đựng qui tắc xử sự cụ thể
Áp dụng nhiều lần
Áp dụng một lần
Áp dụng cho mọi chủ thể
Áp dụng cho một chủ thể xác định
Ban hành trên cơ sở VBQPPL
Hình thức: Luật, VB dưới luật
Bản án, quyết định…
Tham khảo:
QPPL (SGK 173)
Văn bản QPPL (SGK 179)
Các hình thức thực hiện pháp luật (SGK 361)
Áp dụng pháp luật (SGK 363, 364)
Văn bản ADQPPL (SGK 366)
Câu 3. Lấy ví dụ về một quan hệ pháp luật và xác định:
+ Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật đó.
+ Các yếu tố cấu thành của QHPL trên.
1) Khái niệm quan hệ pháp luật.
Quan hệ xã hội vốn phong phú và đa dạng, vì vậy cần phải dùng
rất nhiều loại quy tắc xử sự khác nhau (quy phạm xã hội) khác nhau


để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chúng có thể là quy phạm đạo đức,
quy phạm tôn giáo, phong tục, tập quán, quy phạm pháp luật... Trong
hệ thống các quy phạm xã hội, quy phạm pháp luật có vị trí đặc biệt
quan trọng. Chúng là loại quy phạm có hiệu quả nhất, bởi vậy, trong
xã hội XHCN, Nhà nước đã sử dụng hệ thống các quy phạm pháp luật

điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng nhằm đảm bảo cho chúng
phát triển phù hợp với ý chí và lợi ích của mình.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật
điều chỉnh trong đó các chủ thể có những quyền và nghĩa vụ pháp lý
nhất định và được Nhà Nước đảm bảo thực hiện.
2) Quan hệ pháp luật có những đặc điểm sau:
a) Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí.
b) Quan hệ pháp luật XHCN xuất hiện trên cơ sở các quy phạm
pháp luật.
c) Nội dung của quan hệ pháp luật được cấu thành bởi các quyền
và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo bằng sự cưỡng
chế của Nhà nước.
3) Cấu thành của quan hệ pháp luật.
Quan hệ pháp luật được cấu thành bởi: chủ thể, nội dung và
khách thể.
a) Chủ thể quan hệ pháp luật.
+ Khái niệm:
Chủ thể của quan hệ pháp luật là tổ chức cá nhân đáp ứng được
các điều kiện do Nhà Nước quy định cho mỗi loại quan hệ và tham
gia vào quan hệ pháp luật đó.
Năng lực pháp luật là khả năng của các cá nhân hay tổ chức có
quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định theo qui định của pháp luật.
Năng lực pháp luật xuất hiện từ khi con người mới sinh ra và tồn tại
cho đến khi người đó chết.
Năng lực hành vi là khả năng của các cá nhân hay tổ chức bằng
hành vi của chính mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý theo qui
định của pháp luật.
+ Chú ý:
Năng lực pháp luật là điều kiện cần, năng lực hành vi là điều kiện
đủ để cá nhân, tổ chức trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật.



Năng lực pháp luật và năng lực hành vi không phải là những
thuộc tính tự nhiên mà là những thuộc tính pháp lý. Nó được quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể
Đối với các quốc gia khác nhau hoặc trong những thời kỳ lịch sử
khác nhau của một quốc gia, năng lực chủ thể của cá nhân tổ chức
được quy định khác nhau.
+ Các loại chủ thể của QHPL
Các chủ thể của QHPL có thể chia làm 4 loại sau:
Cá nhân (công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch):
Công dân là chủ thể phổ biến và rộng rãi nhất của các quan hệ pháp
luật. Người nước ngoài và người không quốc tịch cư trú trên Việt
Nam có NLPL hạn chế hơn. Ví dụ : họ không có quyền bầu cử, ứng
cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nước, không thể giữ những chức
vụ nhất định trong bộ máy pháp luật, không phải thực hiện nghĩa vụ
quân sự, nghĩa vụ lao động công ích.
Tuy nhiên, trên cơ sở tôn trọng các quyền cơ bản của công dân và
của con người Nhà nước ta luôn thừa nhận và bảo vệ các quyền tự do,
dân chủ và lợi ích hợp pháp của họ.
Pháp nhân (Juridical person): là tổ chức có những dấu hiệu cơ
bản sau đây:
+ Được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho
phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận.
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản đó.
+ Nhân danh mình tham gia các QHPL một cách độc lập.
Nhà nước là pháp nhân đặc biệt, là chủ thể đặc biệt của QHPL.
Khi tham gia các quan hệ quốc tế như ký kết các Điều ước quốc tế,

Nhà nước tham gia với tư cách là một pháp nhân. Trong quan hệ sở
hữu, Nhà nước với tư cách một pháp nhân là chủ sở hữu của đất đai,
rừng núi, sông ngòi, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất. Nhưng
Nhà nước lại như một pháp nhân mẹ chứa đựng trong lòng mình
nhiều pháp nhân là các tổ chức và cơ quan của Nhà nước. Các cơ
quan tổ chức của Nhà nước trực tiếp tham gia vào các QHPL với các
quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định.
Các tổ chức không có tư cách pháp nhân cũng có thể trở thành
chủ thể của một số QHPL. Ví dụ: Hộ gia đình là chủ thể của một số


QHPLDS và đất đai, một số Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân,
cũng có thể là chủ thể của QHPLDS.
b) Khách thể của QHPL.
- Khái niệm: Khách thể của QHPL là những lợi ích vật chất hoặc
phi vật chất mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia các
quan hệ pháp luật.
Khách thể của QHPL chính là cái mà vì nó các chủ thể pháp luật
tham gia vào QHPL. Ví dụ: Trong quan hệ mua bán nhà ở, ngôi nhà
được coi là khách thể của QHPL này. Trong hợp đồng vận chuyển
hàng hóa, khách thể của QHPL hợp đồng không phải là hàng hóa mà
là sự vận chuyển hàng hóa. Trong quan hệ tranh chấp về quyền tác giả
của một sản phẩm lao động sáng tạo thì khách thể của QHPL là quyền
tác giả.
c) Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của QHPL bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
chủ thể khi tham gia QHPL.
* Quyền chủ thể là khả năng của chủ thể được xử sự theo cách
thức nhất định khi tham gia QHPL.
Quyền chủ thể bao gồm 3 yếu tố sau:

- Khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp
luật cho phép.
- Khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản
trở nó thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý hoặc yêu cầu chúng
phải thực hiện các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ
này.
- Khả năng của chủ thểyêu cầu các cơ quan pháp luật có thẩm
quyền can thiệp bảo vệ lợi ích của mình.
* Nghĩa vụ của chủ thể là cách xử sự mà chủ thể bắt buộc phải
thực hiện nhằm đáp ứngviệc thực hiện quyền của chủ thể khác.
Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể bao gồm 2 yếu tố:
- Phải thực hiện các xử sự mà pháp luật bắt buộc. Hành vi bắt
buộc này có thể mang tính chủ động, nghĩa là phải thực hiện một hành
động nhất định hoặc mang tính thụ động, tức là tự kiềm chế khôngvi
phạm các Điều cấm đoán.
- Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện đúng các qui
định của pháp luật.


Trong mối quan hệ pháp luật thông thường, quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia QHPL gắn bó với nhau.việc thực hiện quyền của
một chủ thể pháp luật này thường là điều kiện đảm bảo cho việc thực
hiện nghĩa vụ của một chủ thể khác và ngược lại.
4) Sự kiện pháp lý
QHPL phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt dưới tác động của 3
điều kiện: qui phạm pháp luật, năng lực chủ thể và sự kiện pháp lý.
Khái niệm: Sự kiện pháp lý là những sự kiện, hoàn cảnh thực tế,
cụ thể xảy ra không phụ thuộc vào ý chí của con người nhưng làm
xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt những QHPL..
Sự kiện pháp lý được coi là chất xúc tác vào QPPL tạo ra các

QHPL, nó là chiếc cầu nối giữa QPPL và QHPL. Sự kiện pháp lý chia
làm hai loại là sự kiện pháp lý và hành vi pháp lý.
a.Sự kiện pháp lý: là những sự kiện, hoàn cảnh thực tế, cụ thể xảy
ra không phị thuộc vào ý chí của con người nhưng làm xuất hiện, thay
đổi hoặc chấm dứt những QHPL.
Sự kiện pháp lý thông thường là những tai biến thiên nhiên như
động đất, núI lửa, gió bão, lũ lụt, hạn hán, sấm sét. sự sinh, sự chết
của con người cũng được coI là sự kiện pháp lý. Tuy nhiên, không
phải bất kỳ tai biến thiên nhiên nào cũng là sự kiện pháp lý. Chỉ
những tai biến thiên nhiên nào gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
con người hoặc thiệt hại về tài sản mới là sự kiện pháp lý.
b. Hành vi pháp lý: là những sự kiện, hoàn cảnh thực tế cụ thể
xảy ra phụ thuộc vàop ý chí của con người làm xuất hiện hoặc thay
đổi hoặc chấm dứt những QHPL.
Hành vi pháp lý chia làm 2 nhóm là hành vi hợp pháp và hành vi
bất hợp pháp.
Hành vi hợp pháp là những hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp
luật làm xuất hiện, thay đổi, hoặc chấm dứt những QHPL.
Hành vi không hợp pháp là những hành vivi phạm pháp luật làm
xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt những QHPL.
Nhận xét: Các yếu tố làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
pháp luật bao gồm: Quy phạm pháp luật, năng lực chủ thể và sự kiện
pháp

Tham khảo
+ Quan hệ pháp luật (ĐC 18):
Khái niệm (ĐC 18):


+ Là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh.

Đặc điểm
+ QHPL chỉ được hình thành trên cơ sở QPPT
+ QHPL là quan hệ mang tính ý chí, gồm ý chí nhà nước và ý chí
của các bên tham gia.
+ QHPL là loại quan hệ luôn được quy định bởi cơ sở kinh tế của
xã hội
Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật:
+ Chủ thể của quan hệ pháp luật (ĐC 18):
+ Nội dung của quan hệ pháp luật (ĐC 19):
+ Khách thể của quan hệ pháp luật (ĐC 19):
VD :
Câu 4. Lấy ví dụ về một vi phạm pháp luật và phân tích các
yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật đó.
1.Vi phạm pháp luật.
a. Khái niệm vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật có lỗi, do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại
tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
* Dấu hiệu của vi phạm pháp luật:
-Vi phạm pháp luật luôn là hành vi
-Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, xâm hại tới các quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
-Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi.
- Chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải có năng lực trách
nhiệm pháp lý.
2. Cấu thành vi phạm pháp luật.
a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu
bên ngoài củavi phạm pháp luật, gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội,
hậu quả thiệt hại cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy

hiẻm cho xã hội và hậu quả thiệt hại cho xã hội cùng các dấu hiệu
khác (thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ...).
VI phạm pháp luật trước hết phải là hành vi thể hiện bằng hành
động hoặc không hành động. Không thể coI ý nghĩ, tư tưởng, ý chí
của con người làvi phạm pháp luật nếu nó không được thể hiện thành


những hành vi cụ thể. Hành vi để bị coI là nguy hiểm cho xã hội phải
là hành vi trái pháp luật. Tính trái pháp luật được biểu hiện dưới hình
thức làm ngược lại Điều pháp luật quy định, thực hiện hành vi vượt
quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc làm khác đi so với yêu cầu của
pháp luật.
Hậu quả thiệt hại cho xã hội là những tổn thất về vật chất hoặc
tinh thần mà xã hội phải gánh chịu. Xác định sự thiệt hại của xã hội
chính là xác định mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả
thiệt hại cho xã hội được biểu hiện: sự thiệt hại cho xã hội phải do
chính hành vi trái pháp luật nóI trên trực tiếp gây ra. Trong trường
hợp giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả thiệt hại cho xã hội không
có mối quan hệ nhân quả thì sự thiệt hại của xã hội không phải do
hành vi trái pháp luật trên gây ra mà có thể do những nguyên nhân
khác, trường hợp này không thể bắt chủ thể của hành vi trái pháp luật
phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại mà hành vi trái pháp luật của
họ không trực tiếp gây ra. Ví dụ: hành vi trộm cắp tài sản, hành vi cố
ý gây thương tích, hậu quả chết người, làm thiệt hại nghiêm trọng đến
tài sản của người khác.
b. Khách thể của vi phạm pháp luật.
Khách thể của VPPL là những QHXH được Nhà nước bảo vệ
nhưng bị hành vi VPPL xâm hại.
Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật phụ thuộc vào tính

chất,ý nghĩa, tầm quan trọng và giá trị của khách thể.
c. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật.
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên
trong của nó, bao gồm yếu tố lỗi và các yếu tố có liên quan đến lỗi là
động cơ, mục đích của chủ thể thực hiệnvi phạm pháp luật.
Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ của chủ thể đối với hành
vi trái pháp luật của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó.
Lỗi được thể hiện dưới 2 hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý
có thể là cố ý trực tiếp có thể là cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý
vì quá tự tin cũng có thể là vô ý do cẩu thả.
- Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội;nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã
hội do hành vi của mình gây ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy
ra.


Ví dụ: Lỗi cố ý giết người,lỗi cố ý gây thương tích cho người
khác.
- Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội; nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho
xã hội do hành vi của mình gây ra, tuy không mong muốn những để
mặc
cho
hậu
quả
xảy
ra.
Ví dụ: Lỗi cố ý gián tiếp không cứu giúp người đang trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng dẫn đến người đố chết.
- Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thểvi phạm nhìn thấy trước hậu quả

thiệt hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin
tưởng Điều đó không xảy ra hoặc nếu xảy ra có thể ngăn chặn được.
- Lỗi vô ý do cẩu thả: Chủ thểvi phạm không nhận thấy trước hậu
quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể
thấy hoặc cần phải nhận thấy trước.
* Động cơ là lý do thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm
pháp
luật.
* Mục đích là kết quả mà chủ thể muốn đạt được khi thực hiện hành
vivi
phạm.
Trong mặt chủ quan, lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục
đích không phải là dấu hiệu bắt buộc, trong thực tế, nhiều trường
hợpvi phạm pháp luật chủ thể thực hiện hành vi không có mục đích và
động
cơ.
d. Chủ thể vi phạm pháp luật.
Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
3. Phân loại vi phạm pháp luật.
a) Tội phạm (vi phạm hình sự): là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật XHCN.
Chủ thể vi phạm hình sự chỉ là cá nhân.



b)Vi phạm hành chính: là hành vi do cá nhân,tổ chức thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý Nhà nước mà
không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính.
Chủ thể vi phạm hành chính có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ
chức.
c)Vi phạm dân sự: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi của các
cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm dân sự, xâm hại tới các quan
hệ tài sản, quan hệ nhân thân.
Chủ thể vi phạm dân sự có thể là cá nhân cũng có thể là tổ chức.
d)Vi phạm kỷ luật Nhà nước: là những hành vi có lỗi, trái với
những quy chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ cơ quan, xí nghiệp,
trường học..., nói khác đi, là không thực hiện đúng kỷ luật lao động,
học tập, phục vụ được đề ra trong cơ quan, xí nghiệp, trường học đó.
Chủ thểvi phạm kỷ luật có thể là cá nhân, cũng có thể là tập thể
và họ phải có quan hệ ràng buộc với cơ quan, đơn vị, trường học...
nào đó.
4. Trách nhiệm pháp lý.
a. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý.
Trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa
Nhà nước (thông qua cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) và chủ thể vi
phạm pháp luật, trong đó Nhà nước (thông qua cơ quan có thẩm
quyền) có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng
phạt được quy định ở chế tài quy phạm pháp luật đối với chủ thể vi
phạm pháp luật và chủ thể đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi về vật
chất, tinh thần do hành vi của mình gây ra.
Trách nhiệm pháp lý ở khía cạnh tiêu cực có một số các đặc điểm
sau:

- Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật.
- Trách nhiệm pháp lý chỉ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
người có thẩm quyền tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
- Trách nhiệm pháp lý liên quan mật thiết tới cưỡng chế Nhà
nước.
- Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết
định có hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
b. Các loại trách nhiệm pháp lý.


Tương ứng với các dạngvi phạm pháp luật là các dạng trách
nhiệm pháp lý. Thông thường, trách nhiệm pháp lý được phân loại
như sau:
- Phụ thuộc vào các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng
trách nhiệm pháp lý, ta có: trách nhiệm do Toà án áp dụng và trách
nhiệm do cơ quan quản lý Nhà nước áp dụng.
- Căn cứ vào mối quan hệ của trách nhiệm pháp lý với các ngành
luật, ta có: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm
dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất.
a.Trách nhiệm hình sự được Toà án áp dụng đối với những người
có hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Chế tài
trách nhiệm hình sự là nghiêm khắc nhất.
b. Trách nhiệm hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý Nhà
nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể
có hành vi vi phạm hành chính.
c. Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do Toà án áp
dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật dân sự.
d. Trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng đối
với chủ thểvi phạm kỷ luật, do thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tiến
hành.

đ. Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ
quan, đơn vị... áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân, người
lao động... của cơ quan, đơn vị mình trong trường hợp họ gây thiệt hại
về tài sản cho cơ quan, đơn vị.
VD:
Câu 5. Phân tích tính tất yếu phải tăng cường pháp chế và các
biện pháp tăng cường pháp chế XHCN ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
+ Pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung quan
trọng của học thuyết Mác – Lenin và nhà nước và pháp luật. Vì vậy,
nghiên cứu các vấn đề về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa
không thể tách rời vấn đề pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa


Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng.
Nguyên tắc xử sự của công dân
Pháp chế xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa
-> pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của cuộc
sống chính trị xã hội, tổ chức xã hội, và mọi công dân phải tôn trọng
và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác
+ những yêu cầu cơ bản pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Tôn trọng tối cao của Hiến pháp và luật: đó là yêu cầu có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp
luật xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho hệ thống phát triển ngày càng
hoàn thiện, làm cơ sở để thiết lập trật pháp luật củng cố và tăng cường

pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc:
thực hiện tốt yêu cầu này là điều kiện quan trọng để thiết lập một trật
tự kỷ cương trong đó cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp
trên.
Các cơ quan xây dựng pháp luật, cơ quan tổ chức thực hiện và
bảo vệ pháp luật phải hoạt động một các tích cực, chủ động và có hiệu
quả: một trong những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa là phải
có những biện pháp nhanh chóng và hữu hiệu để xử lý nghiêm minh
và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. nhất là tội phạm.
Không tách rời công tác pháp chế với văn hóa: trình độ văn hóa
nói chung và trình độ pháp lý nói riêng của viên chức nhà nước, nhân
viên các tổ chức xã hội và công dân có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình
củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trình độ văn hóa của công chungs
càng cao thì pháp chế càng được củng cố vưng mạnh. Vì vậy, phải
gắn công tắc pháp chế với việc nâng cao trình độ văn hóa nói chung
và văn hóa pháp lý nói riêng của các viên chức nhà nước, nhân viên
các tổ chức xã hội và công dân.
+ Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Để củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải áp
dụng nhiều biện pháp đồng bộ trong đó các biện pháp cơ bản như tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế, đẩy mạnh
công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa
tăng cường công tác tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật, tăng


cường kiểm công tác kiểm tra giám sát, xử lý nghiêm minh những
hành
vi
vi

phạm
pháp
luật.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế
Là biện pháp cơ bản bao trùm xuyên suốt trong quá trình củng cố
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện
trước hết ở việc Đảng đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã
hội chủ nghĩa.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề của pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Muốn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội
bằng pháp luật thì phải có một hệ thống kịp thời thể chế hóa các chủ
trương, chính sách đường lối của Đảng.
Thường xuyên tiến hành rà soát, hệ thống hóa pháp luật để phát
hiện và loại bỏ những quy định pháp luật trùng lặp.
Kịp thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp
luật.
Có kế hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn cụ
thể…
Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống
Đây là biện pháp gồm nhiều mặt:
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật
Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ
phẩm chất chính trị và khả năng công tác để sắp xếp vào các cơ quan
làm công tác pháp luật.
Tăng cường kiểm tra, giám sát xử lý nghiêm minh những hành vi
vi phạm pháp luật là biện pháp nhằm đảm bảo cho pháp luật được
thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.




×