Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Đặc điểm truyện ngắn phong điệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

PHẠM THỊ HẬU

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

PHẠM THỊ HẬU

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh

THÁI NGUYÊN - 2017


i



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Đức
Hạnh, Giám đốc - Tổng biên tập Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên, người Thầy đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, định hướng cho tôi từ những bước đi đầu tiên trên con
đường nghiên cứu khoa học nghệ thuật, trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa sau Đại học, Khoa Văn - xã
hội, các thầy giáo, cô giáo bộ môn, các phòng chức năng Trường Đại học Khoa học
- Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa học.
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn nhà văn Phong Điệp đã tận tình giúp
đỡ và cung cấp các tài liệu quý báu để giúp tác giả có luận cứ thực hiện và hoàn
thiện đề tài.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Trung học
phổ thông Vũ Văn Hiếu, các đồng chí, đồng nghiệp, người thân trong gia đình, bạn
bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tác giả trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 5 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Hậu


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả được nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào.

Thái Nguyên tháng 5 - 2017

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Hậu


iii

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ ii
MỤC LỤC.......................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................ vi
MỞ ĐẦU....... ................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 6
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 7
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 7
7. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 8
Chương 1. TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP TRONG DIỆN MẠO
CHUNG CỦA TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI .............. 9
1.1. Khái lược về truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại .................................... 9
1.1.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam đương đại ........................................... 9
1.1.2. Truyện ngắn của các cây bút nữ Việt Nam đương đại .......................... 11
1.1.3. Các tác giả, tác phẩm tiêu biểu ............................................................. 14
1.2. Phong Điệp - cây bút nữ trẻ xông xáo trong đề tài đô thị Việt Nam đương
đại .................................................................................................................... 16
1.2.1. Tiểu sử và hành trình sáng tác của Phong Điệp .................................... 16
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người của nhà văn ......... 19

1.3. Đề tài đô thị Việt Nam đương đại trong truyện ngắn Phong Điệp .......... 26
1.3.1. Đề tài đô thị và cảm hứng đô thị .......................................................... 26
1.3.2. Cảm hứng đô thị trong truyện ngắn Phong Điệp .................................. 28
Chương 2. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN CỦA ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ VIỆT
NAM ĐƯƠNG ĐẠI TRONG TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP .............. 32


iv

2.1. Xã hội đô thị Việt Nam đương đại trong truyện ngắn Phong Điệp ......... 32
2.1.1. Môi trường sống hiện đại - mảnh đất hứa cho những khát vọng đổi đời
......................................................................................................................... 32
2.1.2. Không gian sống ngột ngạt, hỗn tạp, đầy hiểm hoạ .............................. 38
2.2. Xung đột nổi bật của đời sống đô thị đương đại trong truyện ngắn Phong Điệp
......................................................................................................................... 43
2.2.1. Xung đột giữa giá trị vật chất với giá trị đạo đức trong đời sống đô thị
......................................................................................................................... 43
2.2.2. Xung đột giữa khát vọng, lý tưởng với hiện thực còn nhiều "mảng tối"
của đời sống đô thị hôm nay ........................................................................... 48
2.3. Con người đô thị Việt Nam đương đại trong truyện ngắn Phong Điệp ... 52
2.3.1. Con người giàu nghị lực, khao khát vươn lên để khẳng định và hoàn
thiện mình ....................................................................................................... 52
2.3.2. Con người vỡ mộng, mất niềm tin ........................................................ 54
2.3.3. Con người tha hoá trước mặt trái của đời sống đô thị .......................... 57
2.3.4. Con người nhỏ bé, bất hạnh .................................................................. 61
2.3.5. Con người giàu tình yêu thương, đức hi sinh ....................................... 63
Chương 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP ................................................................. 68
3.1. Cốt truyện, kết cấu nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp ................ 68
3.1.1. Cốt truyện trong truyện ngắn Phong Điệp ............................................ 68

3.1.2. Kết cấu nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp ............................... 74
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Phong Điệp ................ 81
3.2.1. Nghệ thuật khắc họa nhân vật trong những tình huống kịch tính trong
truyện ngắn Phong Điệp .................................................................................. 81
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại, độc thoại trong
truyện ngắn Phong Điệp .................................................................................. 82
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp .............................. 85


v

3.3.1. Ngôn ngữ hiện thực thường giàu tính khẩu ngữ trong truyện ngắn Phong
Điệp.................................................................................................................. 85
3.2.2. Ngôn ngữ mạng được vận dụng khéo léo trong truyện ngắn Phong Điệp
......................................................................................................................... 87
3.4. Sự giao thoa thể loại trong truyện ngắn Phong Điệp ............................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98


vi
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nxb: Nhà xuất bản
Cách chú thích tài liệu trích dẫn: số thứ tự tài liệu đứng trước, số trang
đứng sau: Ví dụ [ 10, tr. 15] nghĩa là số thứ tự của tài liệu trong mục Tài liệu tham
khảo là 10, nhận định trích dẫn nằm ở trang 15 của tài liệu này.


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Trong bộ phận văn học Việt Nam đương đại, chúng ta thấy xuất hiện
hàng loạt những cây bút trẻ xuất sắc có nhiều cách tân nghệ thuật và những đóng
góp không thể không ghi nhận vào thành tựu chung của nền văn học nước nhà. Bên
cạnh những cây bút trẻ đã gây được nhiều tiếng vang trên văn đàn như: Nguyễn
Ngọc Tư, Nguyễn Đình Tú, Uông Triều, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Bích Thúy,
Tống Ngọc Hân... thì không thể không nhắc tới Phong Điệp. Đây là cây bút nữ xông
xáo vừa viết báo, vừa viết văn với hàng chục tập truyện ngắn, ba tiểu thuyết và đã
nhận được nhiều giải thưởng văn học. Nhưng đến hôm nay, chúng tôi vẫn chưa thấy
có bất cứ một công trình nghiên cứu đầy đủ nào về sáng tác của nhà văn nữ này mà
mới chỉ có một vài công trình nghiên cứu về một số phương diện nội dung và nghệ
thuật, một số bài báo đăng rải rác trên các tạp chí, các báo và đặc biệt trên báo mạng
về sáng tác của Phong Điệp. Bởi vậy, chúng tôi chọn đề tài ''Đặc điểm truyện
ngắn Phong Điệp'' để thực hiện luận văn với hi vọng đóng góp một phần nhỏ bé
của mình vào việc khám phá, khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật, cũng như
đóng góp của Phong Điệp vào thành tựu văn xuôi Việt Nam đương đại nói riêng,
của nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung.
1.2. Vấn đề truyền thống và hiện đại trong sáng tác văn học hiện nay đã,
đang và sẽ là vấn đề gây nhiều bình luận sôi nổi, thậm chí với những luồng ý
kiến trái chiều. Phong Điệp cũng như một số nhà văn trẻ khác đã có những cách
tân nghệ thuật đáng ghi nhận, nhưng cần phải đánh giá những cách tân nghệ
thuật ấy như thế nào? Nó có vai trò gì trong việc trả lời câu hỏi: - Thế nào là
truyền thống và thế nào là hiện đại trong sáng tác văn học hôm nay? Giữa sáng
tác văn học và báo chí có những điểm giao thoa nào? Tính thời sự trong truyện
ngắn của Phong Điệp phải chăng là minh chứng cho sự tác động đáng kể của báo
chí tới sáng tác văn học? Thực hiện luận văn này, chúng tôi hi vọng góp một câu
trả lời cho những câu hỏi kể trên.


2
1.3. Mặc dù sáng tác của Phong Điệp chưa được đưa vào giảng dạy trong

trường trung học phổ thông, nhưng là một giáo viên dạy văn, khi thực hiện luận văn
này, chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp một tư liệu tham khảo bổ ích trong công tác dạy
và học phần văn học hiện đại Việt Nam trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Trong dòng chảy của văn học Việt Nam đương đại, chúng ta thấy sự xuất
hiện và tỏa sáng của các cây bút nữ, trong đó không thể không nhắc đến tên tuổi
Phong Điệp và sáng tác của chị, đã đem đến một luồng sinh khí mới cho văn học
Việt Nam đương đại. Sự đam mê, nghiêm túc với nghề cùng với sự trải nghiệm và
thấu hiểu cuộc sống đã giúp Phong Điệp thành công. Sáng tác của chị nhận được sự
quan tâm của dư luận và giới phê bình, khen có, chê có, điều đó khiến cho việc tìm
hiểu và nghiên cứu văn chương Phong Điệp càng hấp dẫn đối với độc giả. Tuy
nhiên, những bài viết đánh giá, nhận xét mới chỉ điểm qua hoặc nhắc tới để khẳng
định giá trị của tác phẩm, đóng góp của nhà văn chứ chưa thật đi sâu và giải quyết
triệt để những vấn đề cụ thể. Sau đây, người viết sẽ lần lượt tóm lược và đánh giá
những ý kiến đáng chú ý về sáng tác của Phong Điệp:
2.1. Các ý kiến nhận xét, đánh giá mang tính tổng hợp, khái quát chung về văn
xuôi Phong Điệp
Mới đây, đã có những công trình nghiên cứu có quy mô, chất lượng dưới
dạng khóa luận tốt nghiệp và luận văn thạc sĩ về các đề tài trong văn xuôi Phong
Điệp như: Khóa luận tốt nghiệp Những đặc sắc trong tiểu thuyết Blogger của
Phong Điệp của Tô Thị Thùy Linh, ĐHSPHN, 2012. Tác giả đã đề cập đến vấn đề
tìm hiểu đặc trưng thế mạnh và phong cách Phong Điệp thông qua cuốn tiểu thuyết
Blogger. Luận văn Tổ chức trần thuật trong văn xuôi Phong Điệp của Nguyễn Thị
Hương, ĐHSPHN, 2013 đã làm sáng tỏ những sáng tạo về mặt tổ chức trần thuật
trong sáng tác Phong Điệp, qua đó thể hiện những đổi mới về nghệ thuật tự sự của
thế hệ nhà văn xuất hiện và trưởng thành trong thời kì Đổi mới. Luận văn Cảm
hứng đô thị trong sáng tác Phong Điệp của Nguyễn Thị Linh, ĐHSPHN, 2012 lí
giải sự chi phối của cảm hứng đô thị trong việc chọn lựa và xử lí những phương
diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác Phong Điệp.



3
Đặc biệt, truyện ngắn của Phong Điệp được đánh giá cao cả về phương diện
nội dung và nghệ thuật. Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài Đôi nét về Phong Điệp
và tập truyện Phòng trọ nhận xét: “Đọc Phong Điệp, tôi luôn có cái cảm giác nhẹ
nhàng thư thái như mình đang đi dạo trong những đêm trăng suông ở làng quê.
Xung quanh là những cảnh sắc quen thuộc, những con người gần gũi, bình dị được
bao phủ bởi một thứ ánh sáng lờ mờ như trong chiêm bao. Người ta không thể biết
được cái nguồn sáng ấy tỏa ra từ đâu và kết thúc ở đâu trong mây nước, hay ở
ruộng đồng cây cỏ. Chính cái vùng sáng mơ hồ này đã tạo cho Phong Điệp có được
một thế giới riêng, chí ít cũng không lẫn lộn với ai” [22, tr. 257]. Các sáng tác của
chị được các lớp nhà văn tài danh đi trước ưu ái, đón nhận nồng nhiệt. Nguyễn
Quang Thiều đánh giá: “Phong Điệp hoàn toàn làm chủ ngòi bút của mình. Chị viết
truyện ngắn giống như một ca phẫu thuật làm tim của các bác sĩ. Và theo tôi, chị đã
thành công trong ca phẫu thuật đó” [22, tr. 256]. Trong bài viết Phong Điệp - một
sức viết đáng nể, một cách viết đã đi vào độ thành thục, tác giả Nguyên An đánh
giá: “Phong Điệp với các trang viết của mình, với sự có mặt trên diễn đàn sáng tác
đương đại đã là một hiện tượng mà khi ta nghiên cứu, phân tích, bình luận thì
không chỉ có ích cho Phong Điệp mà còn có ích cho rất nhiều người sáng tác khác,
bất kể họ mới cầm bút hay đã in ấn một số tác phẩm rồi” [1]. Hoàng Thư Ngân
trong bài Thời gian tối đa của một hiện thực tối thiểu đã đánh giá cao đời sống hiện
thực trong truyện ngắn Phong Điệp: “Trong sự ồn ào của thi ca, của vô vàn truyện
ngắn mà giới văn nghệ cứ tung hô tự sướng, các truyện ngắn của Phong Điệp đã từ
những hiện thực tưởng như nhỏ nhặt, đã mang lại cho độc giả những cảm xúc chân
thật, đầy tính nhân văn”[62].
2.2. Các ý kiến nhận xét, đánh giá bốn tập truyện ngắn Kẻ dự phần, Biên bản
bão, Ma mèo, Phòng trọ của Phong Điệp
Xoay quanh bốn tập truyện ngắn: Kẻ dự phần, Biên bản bão, Ma mèo, Phòng
trọ cũng có rất nhiều ý kiến đánh giá, bình luận. Trong bài Kẻ dự phần hay sự nhạy
cảm từ tấm lòng phụ nữ, Vương Quốc Hùng đã khẳng định về phong cách văn

chương, niềm tin yêu vào con người, cuộc sống của Phong Điệp, ông nhận định:
“Tập truyện ngắn Kẻ dự phần của nhà văn Phong Điệp được viết bằng giọng điệu


4
nhẹ nhàng, đầy nữ tính, cuốn hút bạn đọc từ những truyện đầu tiên… Những truyện
trong tập truyện này với khung cảnh thành phố trải dài về nông thôn có nét quê
mùa dân dã tưởng như rất khác biệt. Nhưng nổi bật trên nền bức tranh đó là tình
người. Tình người ấm áp thấm đẫm trong mỗi trang viết của chị” [44]. Thụy Anh
trong bài viết Phong Điệp - một phong cách sáng tác hiện đại đã nhận xét: “Trong
Kẻ dự phần thường có kiểu bắt đầu bằng một giọng văn ngắn gọn, tiết tấu nhanh,
khá lạnh và thờ ơ… Phong Điệp tỉ mẩn làm mới cách dùng những từ tượng thanh,
tượng hình trong miêu tả, không dễ dãi trong ngôn từ” [8]. Bài Tư duy tự sự của
Phong Điệp qua Kẻ dự phần của Trần Thiện Khanh đã chỉ ra nét đặc sắc về ngôn
ngữ trong sáng tác của chị: “Truyện ngắn Phong Điệp đầy âm thanh, đặc sắc trong
cách sử dụng ngôn ngữ âm thanh. Âm thanh xuất hiện dồn dập… các âm thanh nối
nhau, va đập vào nhau, dội sang nhau, đối lập với nhau. Âm thanh trở thành một sự
kiện, một kí hiệu đặc sắc” [48]. Hoàng Liên Sơn trong Từ người ngoài cuộc đến kẻ
dự phần đánh giá cao bút lực của Phong Điệp: “Đọc hơn hai trăm trang "Kẻ dự
phần" của tác giả Phong Điệp, tuổi đời thì thanh xuân đang độ mà tuổi nghề đã đến
mức "thâm niên", thấy như tác giả đang làm một hành trình dài mà không mỏi mệt,
từ góc nhìn của người ngoài cuộc dần dà tiến đến vị thế của kẻ dự phần” [68].
Biên bản bão tập hợp mười một truyện ngắn mới nhất của nhà văn Phong
Điệp. Trong đó, có hai truyện ngắn Chuyến đêm, Mẹ và con và trần thế đạt giải
truyện ngắn hay nhất về đề tài hậu chiến do Tạp chí Văn nghệ Quân đội bình chọn
năm 2014 do quỹ Nhà văn Lê Lựu trao giải. Đây cũng là tập truyện ngắn nhận được
nhiều phản hồi tích cực từ phía độc giả và các nhà phê bình. Tiến sĩ Thụy Anh nhận
xét: “Phong Điệp rất khéo léo sử dụng biến ảo của chi tiết, chỗ này dùng để đánh
lạc hướng người đọc, gây hiệu quả bất ngờ cho các chi tiết sau, ở một chỗ khác lại
là phương pháp kích thích trí tò mò và tưởng tượng của độc giả, từ đó dẫn dắt họ

vào câu chuyện mình muốn kể. Vì thế, tác phẩm có được sức lôi cuốn, khiến đã đọc
là khó dừng lại” [8]. Nhận định về lối viết của Phong Điệp trong tập truyện ngắn
này, Nguyễn Hiệp viết: “Cách viết cũng êm đềm, thậm chí lạnh lùng nhưng ẩn
chứa, sắc sảo, kiệm lời, thậm chí bỏ lửng tạo nhiều quãng lặng nhưng chi tiết cực kì
đắt giá và được đẩy tới cùng. Truyện ngắn Phong Điệp không đưa ra chuẩn mực


5
nhân tính, một cách như là ngẫu nhiên, những mô tip lãng mạn được lồng ghép,
chuyển đổi thành mô tip hiện thực và cứ như vậy, trang văn của Phong Điệp chống
lại một cách mạnh mẽ, gay gắt với hiện thực nô dịch con người, nhất là của nữ giới,
về mặt tinh thần và về cả mặt xã hội” [41].
Về phương diện nội dung, Lam Thu cho rằng, đây là những trang viết đầy
suy tư ám ảnh về thân phận người trong cuộc mưu sinh: “Mỗi tác phẩm trong tập
truyện chứa đựng những số phận khác nhau”. Đó là những con người nhẫn nhục,
cam chịu hoàn cảnh mà không dám đứng lên phản kháng, là chân dung những thanh
niên sống bế tắc, sống giữa cuộc đời nhiều lừa lọc, dối trá hay những thân phận lao
động nhỏ nhoi, tù túng, vô định trong cuộc đời. Nguyễn Hiệp lại cho rằng 11 truyện
ngắn trong tập là 11 cuộc tan vỡ êm đềm nhưng cay đắng, chứa đựng nhiều góc
khuất bi kịch của tình yêu, của gia đình và của những thân phận: “Với tập truyện
ngắn Biên bản bão, Phong Điệp một lần nữa tạo được những ám ảnh run rẩy, khát
khao trong những góc khuất giá lạnh của thân phận con người. Mỗi thân phận ở
đây đều là chính mình hoặc dự phần vào một cuộc tan vỡ êm đềm nhưng đau đớn
khôn xiết” [41]. Anh cũng lý giải thêm về thông điệp mà nhà văn gửi gắm trong tác
phẩm: “Phong Điệp chỉ viết bằng những chi tiết đậm nét, bằng những đào xoáy tận
cùng con người, không tô vẽ sặc sỡ, không đao to búa lớn, không ảo não xót thương
những cái tình sâu thẳm ấy đã được truyền đến người đọc… Hạnh phúc là điều
thiêng liêng trong mỗi con người, không chỉ là vấn đề của một cá nhân nào, nó còn
mang cả khát vọng truyền đời và tất nhiên nó còn hàm chứa thông điệp bình đẳng”
[41]. Qua đây, anh cũng đưa ra ý kiến đánh giá về vị trí của nữ tác giả này trong

dòng văn học đương đại: “Biên bản bão khẳng định về một lối viết hiện đại, một
không khí ngôn ngữ riêng biệt, rất Phong Điệp” [41].
Như vậy, qua khái quát các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên,
chúng tôi nhận thấy rằng, các tác giả đã có những nhận định, đánh giá khái quát và
phát hiện ra một số đặc điểm về nội dung, nghệ thuật nổi bật trong truyện ngắn
Phong Điệp. Nhưng nhìn chung các bài viết này mới chỉ dừng lại nghiên cứu một
khía cạnh, một phương diện nào đó trong truyện ngắn Phong Điệp. Đến nay, chúng
tôi thấy chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu, khảo sát toàn diện và có hệ thống


6
về đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn của nữ tác giả này để từ đó,
rút ra những đặc điểm khái quát về nội dung tư tưởng, nghệ thuật tự sự trong truyện
ngắn Phong Điệp. Đây là khoảng trắng để chúng tôi thực hiện đề tài này.
Dù vậy, đây là những nhận định hết sức đáng quý, gợi mở cho chúng tôi
nhiều vấn đề để tìm hiểu một cách hệ thống, toàn diện về truyện ngắn Phong Điệp.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khảo sát bốn tập truyện ngắn Ma mèo, Kẻ dự phần, Phòng
trọ và Biên bản bão của Phong Điệp và chọn ra những tác phẩm thể hiện rõ nét nhất
những đặc sắc ở cả hai phương diện hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng trong
truyện ngắn của Phong Điệp. Từ đó khám phá, lý giải và đánh giá những giá trị đặc sắc
trong truyện ngắn của Phong Điệp và khẳng định đóng góp của nhà văn này vào xu thế
cách tân trong văn xuôi Việt Nam của các nhà văn trẻ hôm nay.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Phong Điệp, chúng tôi tập trung khảo sát
một số phương diện cụ thể nằm trong phương diện nội dung và phương diện nghệ
thuật tự sự của truyện ngắn Phong Điệp, từ đó nhằm khẳng định giá trị của tác
phẩm; cá tính sáng tạo độc đáo và đóng góp của nhà văn vào thành tựu chung của
nền văn xuôi Việt Nam đương đại. Cũng từ đó, chúng tôi mong muốn góp phần lí

giải xu thế vận động, sự đổi mới nghệ thuật tự sự của văn xuôi Việt Nam với sáng
tác của các nhà văn trẻ hiện nay.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các phương diện cụ thể trong đặc điểm nội dung và đặc
điểm nghệ thuật tự sự của truyện ngắn Phong Điệp như sau:
Bức tranh đô thị, xung đột nổi bật trong đời sống đô thị Việt Nam đương đại,
con người đô thị, quan niệm nghệ thuật về cuộc sống đô thị và con người của nhà
văn Phong Điệp; cốt truyện và kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ


7
nghệ thuật, sự giao thoa thể loại trong truyện ngắn Phong Điệp. Từ đó khẳng định
dấu ấn riêng của cây bút nữ xuất sắc này, cũng như đóng góp của nhà văn vào văn
xuôi trẻ Việt Nam đương đại hôm nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo thể loại
- Phương pháp thi pháp học
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: (Kết hợp đồng bộ các phương pháp
xã hội học, văn hóa học).
Chúng tôi còn sử dụng những thao tác nghiên cứu văn học như: thống kê, so
sánh, phân tích, tổng hợp.
5. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tập trung khảo sát bốn tập truyện ngắn sau đây
của Phong Điệp: Ma mèo, Kẻ dự phần, Phòng trọ và Biên bản bão.
Trong quá trình nghiên cứu truyện ngắn của Phong Điệp, chúng tôi mở rộng,
so sánh bốn tập truyện trên với các truyện ngắn khác của chị và so sánh với một số
truyện ngắn của các nhà văn trẻ khác như: Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thúy, Đỗ
Phấn, Y Ban, Quỳnh Trang...

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tư liệu tham khảo; phần nội
dung của luận văn sẽ được cấu trúc với ba chương sau đây:
Chương 1: Truyện ngắn Phong Điệp trong diện mạo chung của truyện
ngắn nữ Việt Nam đương đại
Chương 2: Một số phương diện của đời sống đô thị Việt Nam đương đại
trong truyện ngắn Phong Điệp
Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Phong
Điệp


8
7. Đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu toàn diện đầu tiên về truyện ngắn của Phong
Điệp với mục đích nghiên cứu khảo sát phân tích đánh giá những đặc điểm về nghệ
thuật tự sự và nội dung tư tưởng trong truyện ngắn của nhà văn này. Từ đó chúng
tôi muốn góp phần khẳng định có một dòng chảy riêng của văn xuôi do các nhà văn
nữ trẻ sáng tác trong bộ phận văn xuôi Việt Nam đương đại, cùng những thành tựu
và hạn chế của nó.


9
Chương 1
TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP TRONG DIỆN MẠO CHUNG
CỦA TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Khái lược về truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại
1.1.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam đương đại
Nói đến truyện ngắn đương đại tức là nói đến giai đoạn văn học từ 1986 đến
nay. Đây là mốc đánh dấu sự phát triển, đổi mới truyện ngắn, thể hiện sức trẻ của
ngòi bút, sự cách tân táo bạo và bất ngờ về các phương diện cả về nội dung và nghệ

thuật. Công cuộc đổi mới đất nước (1986) đã ghi dấu mốc quan trọng không chỉ trong
lịch sử đất nước mà cũng là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển mình của truyện
ngắn. Truyện ngắn đã có sự thay đổi hợp với tình hình, với giai đoạn hiện đại.
Nếu trước kia, văn học phục vụ kháng chiến và phản ánh cuộc đấu tranh vĩ
đại, gian lao của dân tộc thì ngày nay, văn học đi sâu phản ánh cuộc sống của con
người, chủ đề thế sự, đời tư được các nhà văn khai thác và thể hiện trong các tác
phẩm của mình. Vì thế mà chủ đề, âm hưởng và giọng điệu có sự thay đổi.
Chiến tranh đòi hỏi con người ý chí, sức mạnh lớn lao nên văn học thời kì
này tập trung cổ vũ, động viên khích lệ tinh thần của con người. Các sáng tác văn
học thời chiến thường hướng theo tư duy sử thi với không khí hào hùng và âm
hưởng anh hùng ca. Đề tài xuyên suốt trong các sáng tác là vận mệnh dân tộc, cuộc
đấu tranh giải phóng đất nước và niềm tin thắng lợi. Tác giả không đi sâu vào từng
số phận cá nhân với những cảnh đời, tâm sự riêng mà luôn đặt hạnh phúc con người
với lợi ích dân tộc, thời đại. Nhân vật xuyên suốt trong các sáng tác văn học là
những người anh hùng đấu tranh bảo vệ độc lập tổ quốc. Cảm hứng sáng tác là cuộc
chiến đấu gian khổ mà hào hùng của dân tộc chứ không phải là những tâm tư, tình
cảm, khao khát cá nhân bình dị, đời thường. Đây chính là những nét đặc trưng của
văn học ba mươi năm chiến tranh.
Chiến tranh đi qua, hoà bình lập lại. Cả dân tộc bước sang một thời đại mới.
con người trở về với cuộc sống đời thường của mình. Văn học cũng có những bước
chuyển mình để bắt kịp với xu thế của thời đại. Văn học giai đoạn từ 1986 đến nay


10
gần gũi với cuộc sống, là tấm gương phản ánh cuộc sống muôn màu, muôn vẻ.
Cuộc sống riêng tư với những tâm tư tình cảm và nguyện vọng cá nhân được các
nhà văn đi sâu khai thác. Chủ đề thế sự, đời tư trở thành chủ đề xuyên suốt trong
các sáng tác. Cuộc sống với những trạng thái khác nhau: cao cả - thấp hèn, ánh sáng
- bóng tối, khát vọng - ham muốn được phơi bày, tạo nên một diện mạo mới cho
văn học. Bắt đầu từ đây, có những tác phẩm mới ra đời và gây ấn tượng mạnh như

Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Bước qua lời nguyền (Tạ Duy Anh),… Các tác
giả đã đi sâu vào khám phá con người thời hậu chiến với nỗi đau mất mát vả những
bi kịch cuộc sống. Văn học vì thế gắn với con người và cuộc đời hơn. Tiếp theo là
hàng loạt các tác phẩm tiêu biểu như Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu), Hai người đàn
bà xóm trại (Nguyễn Quang Thiều), Bến không chồng (Dương Hướng), Anh lính
Tony D (Lê Minh Khuê), Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Hậu thiên
đường (Nguyễn Thị Thu Huệ)…
Sự thay đổi về lực lượng sáng tác cũng góp phần quan trọng trong việc thay
đổi diện mạo văn học. Chính sự tiếp nối liên tục thế hệ các nhà văn đã tạo nên dòng
chảy không ngừng của truyện ngắn. Giai đoạn này là sự xuất hiện của hàng loạt cây
bút trẻ: Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài… đặc biệt là các cây bút
nữ: Y Ban, Võ Thị Hảo, Dương Thu Hương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc
Tư, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Hoàng Diệu…. Đây là những tên tuổi đại diện cho nền
văn học đương đại, thế hệ của những đam mê, đầy sức trẻ. Họ đã không ngần ngại
đi vào từng ngõ ngách đời sống, khám phá từng tâm trạng, thể hiện những khao
khát ẩn chứa bên trong con người. Họ say mê viết, ưu tư với những nhân vật của
mình. Và chính họ đã góp phần tạo nên diện mạo riêng của nền văn học đương đại
Việt Nam trong dòng chảy văn học dân tộc.
Bên cạnh đó, các cuộc thi viết truyện ngắn liên tiếp, đặc biệt là các cuộc thi
do Tạp chí văn nghệ quân đội tổ chức, đã trở thành niềm cổ vũ, động viên, khích lệ
to lớn với những người cầm bút. Từ đây những tài năng được phát hiện như Y Ban,
Tạ Duy Anh, Hoà Vang, Nguyễn Thị Thu Huệ… Năm 1989 - 1990, Y Ban đã giành
giải nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội với tác phẩm Bức thư
gửi mẹ Âu Cơ. Ngoài ra còn 17 tác phẩm đoạt giải trong số hàng ngàn tác phẩm dự


11
thi. Năm 1991 diễn ra hai cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ và Hội Nhà văn
thành phố Hồ Chí Minh. Giải thưởng được trao cho Lại Văn Long với Kẻ sát nhân
lương thiện, Nguyễn Quang Thân với Vũ điệu cái bô và Hoà Vang với Nhân sứ.

Tạp chí văn nghệ quân đội vẫn tiếp tục phát huy truyền thống của mình trong việc
tổ chức cuộc thi truyện ngắn 1992 - 1994. Cuộc thi này thu hút đông đảo lực lượng
trên mọi miền tổ quốc tham gia và đã khẳng định được sức sống và niềm đam mê
sáng tạo truyện ngắn của các cây bút trẻ. Đặc biệt, các cây bút nữ tham gia khá
đông với chất lượng tốt đã tạo thành một luồng sinh khí mới trong dòng văn học
đương đại như Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm…Giải nhất
thuộc về Nguyễn Thị Thu Huệ với Hậu thiên đường và Mùa đông ấm áp. Đó là một
tín hiệu đáng mừng chứng tỏ văn học vẫn không ngừng phát triển và đổi mới.
Tiếp đến là truyện ngắn trẻ 1996 - 1997. Ngày càng nhiều những cây bút trẻ
về tuổi đời lẫn tuổi nghề hăng hái, nhiệt tình tham gia. Với sức trẻ, tài năng và nỗ
lực sáng tạo không ngừng, họ đã tạo được dấu ấn khá đậm nét trong lòng người đọc
như Nguyễn Thị Châu Giang (Ở trọ), Nguyễn Thị Phước (Cau non), Dương Nữ
Khánh Thương (Chiếc bình đựng kí ức)…
Chỉ trong vòng 8 năm (1989 - 1997) đã có ba cuộc thi viết truyện ngắn với
quy mô lớn được tổ chức, thu hút được đông đảo các lực lượng sáng tác tham gia.
Điều đó thể hiện sức sống, sức hút mạnh mẽ của thể loại này. Truyện ngắn với
những ưu thế riêng của mình ngày càng khẳng định chỗ đứng vững chãi. Với dung
lượng vừa đủ, truyện ngắn chỉ tập trung vào một biến cố, một mặt nào đó của đời
sống trong một khoảng không gian và thời gian nhất định. sự nắm bắt những cái
tinh tuý nhất để điểm đúng huyệt của bạn đọc chính là nét đặc trưng và hấp dẫn
riêng của truyện ngắn.
1.1.2. Truyện ngắn của các cây bút nữ Việt Nam đương đại
Trong tiến trình văn học Việt Nam, ở những giai đoạn trước, sự có mặt của
nữ giới cũng như dòng văn học nữ không chiếm ưu thế. Những năm 60 thế kỉ XX,
một số cây bút đã khẳng định vị thế trên văn đàn nhưng chưa thành một lực lượng
chủ yếu. Đặc biệt, ở bộ phận văn học miền Nam, đội ngũ nhà văn nữ bắt đầu gây ấn
tượng về số lượng cũng như chất lượng. Sau 1975, nhất là sau 1986, trong dòng văn


12

học Việt Nam hiện đại nổi lên một mảng văn học nữ với một sức sống mới, diện
mạo mới, đặc biệt là với thể loại truyện ngắn. Để có được vị trí sáng giá trong nền
văn học Việt Nam, những cây bút nữ đã không ngừng cống hiến, sáng tạo lặng
thầm, đóng góp những trang viết của mình trong suốt một hành trình dài. Tuy nhiên,
một trong những yếu tố để góp phần hình thành nên dòng văn học nữ phải kể đến
những đặc điểm nổi bật trong bối cảnh văn hóa - xã hội Việt Nam hôm nay.
Có lẽ, đặc điểm văn hoá - xã hội đầu tiên và quan trọng nhất hình thành nên
dòng văn học nữ Việt Nam đương đại đó là sự bình đẳng giới. Trước đây, đời sống
xã hội luôn tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ của văn hoá Khổng giáo, điều đó
cũng ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống văn học. Trong văn học trung đại, người cầm
bút phần lớn là đàn ông, dù lúc đó đã bắt đầu xuất hiện một vài tài danh nữ như Bà
Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương… với tư tưởng "nổi loạn" và
phản kháng lễ giáo phong kiến. Khi bước sang xã hội hiện đại, dân trí được nâng
cao, phụ nữ bắt đầu được đi học, được tự do, bình đẳng. Dù quá trình ấy không
thuận lợi, bằng phẳng mà quanh co, sóng gió song nó là bước tiến quan trọng trong
việc khẳng định vai trò của phụ nữ trong xã hội. Vào những năm đầu thế kỉ XX, từ
ảnh hưởng của làn sóng Tân thư, người phụ nữ đã tìm được vị trí xứng đáng hơn
trong gia đình và xã hội. Đó là tiền đề cho dòng văn học nữ phát triền. Phương Lựu
cho rằng: “Dần dần đã có thể nói đến dòng văn học của những cây bút nữ” [55].
Bên cạnh các nhà thơ nữ vốn có truyền thống lâu đời, các nhà văn nữ xuất hiện
ngày càng nhiều hơn, “đây là một hiện tượng tốt đẹp, đánh dấu một phương diện
phát triển của văn học thế kỉ này trên đất nước ta” [55].
Cùng với yếu tố trên thì sự vận động nội tại của văn học cũng là điều kiện
thuận lợi để các cây bút truyện ngắn nữ phát triển. Từ năm 1986, đời sống xã hội có
những bước chuyển quan trọng, bởi vậy các nhà văn tiên phong cũng phải tự đổi
mới mình, sự đổi mới đầu tiên là ở phương diện cảm hứng chủ đạo, từ cảm hứng
lịch sử - dân tộc, văn xuôi đã chuyển sang cảm hứng thế sự - đời tư, các nhà văn đi
sâu vào phản ánh mọi mặt, mọi chiều kích đa dạng, phức tạp của đời sống hằng
ngày, của đời sống cá nhân mỗi con người. Con người trong văn học không còn là
con người sử thi, con người cộng đồng, đơn trị mà là con người đời thường, lưỡng



13
diện, những cá nhân phức tạp, bí ẩn, bên trong mỗi cá nhân là cuộc chiến với cái
xấu, cái ác đang ẩn nấp, lẩn khuất. Văn học mở ra với nhiều đề tài mới mẻ bởi vậy
nó là mảng đất màu mỡ để văn xuôi phát triển, hơn thế nữa, đây còn là lãnh địa để
các cây bút nữ dấn thân, thử sức và thể hiện cái nhìn, sự chiêm nghiệm của mình về
cuộc đời qua cái nhìn nghệ thuật của người phụ nữ.
Các nhà văn nữ đã góp một cái nhìn rất sâu sắc về hiện thực đời sống, từ
những chuyện “quốc gia đại sự” đến những chuyện “vặt vãnh” thường ngày đều đi
vào tác phẩm của những cây bút nữ tài năng mà nhạy cảm. Viết về chiến tranh,
những cây bút nữ đã phản ánh thật thấm thía, xúc động thực trạng tinh thần của con
người và xã hội những năm sau chiến tranh. Đặc biệt, ngòi bút của họ đi sâu vào nỗi
đau đớn mất mát về “nỗi đau thời hậu chiến” của những người cùng giới với mình,
những người phụ nữ chân yếu tay mềm. Đó là nỗi đau tinh thần không thuốc gì
chữa khỏi trong tình yêu đầu đời của một cô gái với chàng liệt sĩ (Người đàn bà với
những bông bần ly - Dương Thu Hương, Chuyện thời con gái - Nguyễn Thị Như
Trang). Đó là nỗi đau đầy bi kịch trong cuộc sống hôn nhân - gia đình bởi chiến
tranh đã xoá đi tuổi thanh xuân và thiên chức làm mẹ của người phụ nữ (Phận đàn
bà - Thuỳ Dương). Người sót lại của rừng cười là tiếng nấc nghẹn ngào của những
con người lạc lõng, vỡ mộng trước cuộc đời khi trở về đời thường sau chiến tranh.
Hiện thực trong truyện ngắn nữ đương đại không phải là một hiện thực vĩ mô với
những mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, nó không hiện lên ở bề rộng, bề nổi
mà là ở chiều sâu với những “tiếng vọng của thời thế, có khi là những va chạm nhỏ,
những xao động khẽ” của cuộc đời.
Trong xu hướng đi vào cảm hứng thế sự, đời tư của văn xuôi, truyện ngắn nữ
đương đại có “mảng đất màu mỡ” về đề tài tình yêu, hôn nhân và gia đình. Các cây
bút nữ được viết như một sự giải toả cảm xúc, ẩn ức. Họ đã mang đến “bức chân
dung tinh thần tự hoạ” rất ấn tượng về giới của mình. Cuộc sống hiện đại với sự đề
cao tự do, dân chủ, người phụ nữ đã biết sống cho mình, vì mình nhiều hơn. Họ

cũng nghĩ về mình nhiều hơn, về những khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc
chính đáng của con người. Tất cả những điều đó được các nhà văn nữ trải mình vào
trong trang văn: Hậu thiên đường, Mùa đông ấm áp của Nguyễn Thị Thu Huệ, Bức


14
Thư gửi mẹ Âu Cơ, Chuyện một người đàn bà, Tự của Y Ban, Có một đêm như thế
của Phan Thị Minh Thư…Đó được xem như “lát cắt” của cuộc đời, một lát cắt rất
“ngọt” rất “sâu” và nhiều trắc ẩn.
Cùng với đó, văn xuôi đương đại luôn có xu hướng tìm tòi, khám phá, cách
tân, trải nghiệm những hình thức mới để phản ánh cuộc sống hiện thực, mà nó lại
được kết tinh ở hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Bắt mạch vào sự vận động
của văn xuôi đương đại, truyện ngắn nữ đã nhập cuộc với một bản sắc riêng với tâm
niệm: “Luôn ước muốn sáng tạo một nền văn học cho chính mình. Cho chính mình?
Tức là cho thời đại mình” [11]. Họ vẫn quan tâm đến những chuyện lớn của đất
nước, của xã hội nhưng lại xuất phát từ những góc khuất cuộc sống, những thân
phận bé nhỏ. Ngôi kể thứ nhất được vận dụng và sáng tạo một cách triệt để. Nó như
là tiếng lòng, là tâm tư, xúc cảm, khát khao của chính nhà văn cũng như của giới
mình. Chính bới vậy mà hình thành nên đội ngũ tác giả truyện ngắn nữ với nhiều
phong cách, cá tính khác nhau. Họ gặp nhau ở dòng chảy chung của truyện ngắn nữ
đương đại Việt Nam. Ở đề tài nào, thể loại nào, bằng nỗ lực và tài năng họ đã đóng
góp những viên gạch vững chắc xây nên toà lâu đài văn xuôi đương đại Việt Nam.
1.1.3. Các tác giả, tác phẩm tiêu biểu
Từ 1986, số lượng tác tác giả truyện ngắn nữ ngày càng nhiều, họ không chỉ
phát triển về số lượng mà còn trưởng thành hơn về chất lượng tác phẩm. Ngoài các thế
hệ nhà văn trưởng thành từ giai đoạn chống Mỹ từng bước thay đổi cách viết như Lê
Minh Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Tú … thì cho đến nay, văn xuôi nữ đã kết nạp thêm
nhiều cây bút “tên tuổi” cùng thế hệ 7X với Phong Điệp. Họ cũng có chung mối quan
tâm về xã hội đương đại như Đỗ Hoàng Diệu, Di Li, Phan Hồn Nhiên, Nguyễn Thị
Châu Giang, Phan Việt, Trang Hạ,…

Đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, văn đàn Việt Nam đón chào những cây bút
nữ mới, đặc biệt ở lĩnh vực truyện ngắn. Võ Thị Hảo gây ấn tượng với bạn đọc bằng
hàng loạt các tác phẩm giá trị đạt giải thưởng uy tín. Năm 1991, với tập Biển cứu
rỗi, chị đoạt giải thưởng cuộc thi và truyện ngắn Hà Nội. Năm 1995, Tập Truyện
ngắn chọn lọc Võ Thị Hảo đoạt giải thưởng 5 năm văn học Hà Nội của Hội nhà văn
Việt Nam. Năm 2004, cuốn tiểu thuyết Giàn Thiêu của Võ Thị Hảo đoạt giải


15
thưởng của Hội nhà văn Hà Nội. Với 7 tập truyện ngắn và tiểu thuyết Giàn Thiêu,
Võ Thị Hảo thực sự chinh phục người đọc bằng ngòi bút sắc sảo mà tinh tế, mạnh
mẽ mà tài hoa của mình. Truyện ngắn Người sót lại của Rừng cười in lần đầu
tiên trong tập Biển cứu rỗi - 1991 là một tác phẩm tiêu biểu cho đặc điểm truyện
ngắn Võ Thi Hảo. Nó vừa mang những đặc điểm chung của văn xuôi Việt Nam sau
1986, vừa thể hiện cách cảm nhận riêng, tài năng riêng của một cây bút nữ mang
tấm lòng đồng cảm sâu sắc với thân phận của những người đồng giới mình khi
bước ra khỏi chiến tranh.
Nguyễn Thị Thu Huệ là tên tuổi không còn xa lạ với bạn đọc Việt Nam với
mỗi năm một tập truyện ngắn Cát đợi (1992), Hậu thiên đường (1994), Phù thủy
(1997), 21 truyện ngắn (2001), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ (2010) và gần đây nhất là Thành phố đi vắng (2012). Chị
cũng là nữ nhà văn gặt hái được nhiều thành công và đã nhận được rất nhiều giải
thưởng có uy tín: đạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Hội văn học nghệ thuật Hà
Nội (1986); giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong
(1993); giải nhất cuộc thi truyện ngắn Nxb Hà Nội (1994), cùng năm đó chị cũng
đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức và nhận
tặng thưởng Hội Nhà văn với tác phẩm Hậu thiên đường. Năm 2012, chị được nhận
giải thưởng của Hội Nhà văn dành cho tập truyện ngắn Thành phố đi vắng. Phạm
Thị Hoài gây ấn tượng không chỉ trong nước mà cả nước ngoài với tiểu thuyết
Thiên sứ và các tập truyện ngắn Mê lộ (1989) và Man Nương (1995), Marie Sến

(1996). Y Ban khẳng định tên tuổi với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ - giải thưởng cuộc thi
truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội(1989 - 1990), và tập truyện Người đàn
bà có ma lực - giải nhì cuộc thi viết về Hà Nội của Nxb Hà Nội năm 1993.
Các nhà văn nữ còn vươn tên tuổi ra văn đàn thế giới, một số tác giả nữ đạt
giải thưởng ở nước ngoài. Trong bộ sách Phái đẹp - Cuộc đời và Cây bút, tập 1, ghi
lại 43 chân dung nhà văn nữ ở nhiều thế hệ chỉ có Nguyễn Ngọc Tư được trao Giải
thưởng Văn học ASEAN (nhà văn nữ duy nhất trong số 17 nhà văn được trao giải
thưởng từ 1996 - 2013). Với những nỗ lực và thành quả gặt hái trong suốt quá trình
dài, các nhà văn nữ đã thực sự tạo nên một lâu đài văn học của riêng mình.


16
1.2. Phong Điệp - cây bút nữ trẻ xông xáo trong đề tài đô thị Việt Nam đương đại
1.2.1. Tiểu sử và hành trình sáng tác của Phong Điệp
*Tiểu sử
Nữ nhà văn Phong Điệp, tên thật là Phạm Thị Phong Điệp, sinh ngày 6 - 6 1976 tại thành phố Nam Định, cũng chính mảnh đất này đã chắp cánh cho những
tác phẩm đầu tay và những cảm hứng nghệ thuật bất tận của chị. Phong Điệp không
sinh ra trong gia đình có truyền thống văn chương, bố mẹ và chị gái đều làm bác sĩ
nhưng có lẽ trời phú cho chị sự nhạy cảm và tinh tế - những tố chất cần yếu của một
nhà văn nên Phong Điệp đã đi theo con đường văn chương từ rất sớm. Chị bắt đầu
thích viết từ khi 9 - 10 tuổi, với những bài thơ ghi lại cảm xúc của mình về cuộc
sống xung quanh được ghi lại trong một cuốn vở học trò. Năm học lớp 6, thầy dạy
văn tình cờ đọc được cuốn sổ này và giới thiệu Phong Điệp đi trại sáng tác cho thiếu
nhi của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Nam Ninh (nay là Nam Định). Vậy là tuổi
12 Phong Điệp đã đánh dấu mốc cho những dấu ấn đầu tiên trong sự nghiệp sáng
tác của mình, 12 tuổi chị đã có những vần thơ ngây ngô đầu tiên trong cuốn sổ tay
được đăng lên báo, đã từng có hẳn một chương trình về cô bé yêu văn chương
Phong Điệp trên Đài truyền hình Trung ương. Phong Điệp theo học cấp ba tại
trường Lê Hồng Phong, ngôi trường danh tiếng khắp cả nước, ngôi trường đã chắp
cánh cho cô nữ sinh tài năng ngày càng bay cao, bay xa hơn. Năm lớp 10, chị tham

dự trại sáng tác của Hội nhà văn tổ chức tại Hà Nội và các tác phẩm ấy đã được
đăng báo Hoa học trò. Cùng năm đó, Phong Điệp nhận giải thưởng của báo Hoa học
trò với truyện ngắn Con của biển. Khi bước sang tuổi 17, chị tiếp tục nhận giải nhất
cuộc thi sáng tác văn học với truyện ngắn Huyền thoại đêm do Hội Văn học nghệ
thuật tỉnh Nam Định tổ chức. Kể từ đó đến nay, Phong Điệp vẫn đều đặn viết và có
tác phẩm xuất bản. Dù gia đình không khuyến khích đi theo văn chương, nhưng
chính việc đọc sách, say mê tác phẩm văn học đã khiến chị tìm đến văn chương và
quyết tâm thử sức với nó. 18 tuổi, cũng như bạn bè cùng trang lứa, Phong Điệp rời
xa gia đình và quê hương đặt chân tới Hà Nội sinh sống, học tập và lập nghiệp, theo
học ngành luật với dự định sẽ trở thành một luật sư nhưng văn chương dường như
đã trở thành duyên nợ gắn với tên tuổi của chị. Từng là một cô sinh viên rời khỏi


17
cổng trường Đại học và bước vào đời sống, đi làm báo, vật lộn với các con chữ,
nhận mức lương ít ỏi, sống tằn tiện trong căn phòng tồi tàn rộng 9m2, trần xi măng,
mùa hè nóng như thiêu như đốt, Phong Điệp đã tự dấn thân và trải nghiệm cuộc
sống để sống và viết văn. Tất cả những điều đó được nhà văn chiêm nghiệm, tích
luỹ thành vốn sống cùng với cách cảm cách nghĩ của tâm hồn người phụ nữ nhạy
cảm đã đi vào trang văn Phong Điệp thật sâu sắc, từng trải. Cũng chính những năm
tháng để đời đó tạo nên nỗi trăn trở, day dứt của nhà văn về con người, về cuộc
sống, nhất là về giới trẻ chốn đô thị. Hiện nay, Phong Điệp đang công tác tại Báo
Văn nghệ Trẻ, bận rộn công tác, song Phong Điệp cùng với sức viết của chị luôn
hừng hực, những tác phẩm lần lượt được xuất bản là minh chứng tiêu biểu cho
những đóng góp của nữ nhà văn dòng vào chảy văn học đương đại.
* Hành trình sáng tác
Phong Điệp viết văn rất sớm và cái tên Phong Điệp cũng nhanh chóng gây ấn
tượng trên văn đàn cũng như trong lòng độc giả. Ngay từ khi còn nhỏ, chị đã tham
gia vào các cuộc thi sáng tác của tỉnh tổ chức. Năm 16 tuổi, chị đã có tác phẩm đăng
trên báo. Tròn 17 tuổi, chị đạt giải nhất cuộc thi viết truyện ngắn với Huyền thoại

đêm do Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Nam Định tổ chức. Cuộc thi truyện ngắn trên
báo Văn nghệ Trẻ 1996 - 1997, Phong Điệp nhận được giải nhì (không có giải nhất)
với truyện ngắn Ma mèo và truyện ngắn Hoạ sĩ đạt giải thưởng Văn học tuổi xanh
năm 1996 do tạp chí Tuổi xanh tổ chức. Giải thưởng này có tác động lớn nhất đối
với con đường sáng tác chuyên nghiệp của Phong Điệp.
Với những nỗ lực không ngừng cùng đam mê nghệ thuật, chị đã gặt hái được
những thành công liên tiếp. Tập truyện ngắn Khi ta hai mươi (1996) được vào
chung khảo cuộc thi sáng tác Văn học tuổi 20 lần I do Nhà xuất bản Trẻ, báo Tuổi
trẻ và Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức. Năm 2000, Nhà xuất
bản trẻ, báo Tuổi trẻ và Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức cuộc
thi sáng tác Văn học tuổi 20 lần II, tập truyện ngắn Người phía bên kia đường của
chị đạt giải tư. Năm 2001, chị cho ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Phòng trọ và năm
2002 truyện ngắn Giấc mơ bay qua cửa sổ tiếp tục ra đời (trong đó truyện ngắn
Thảo nguyên đạt giải ba cuộc thi sáng tác văn học Mùa xuân tuổi hoa do báo Hoa


×