Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

skkn nâng cao kĩ năng viết đoạn văn, bài văn nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.42 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU.......................................................................Error: Reference source not found

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Thứ nhất, viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ là yêu cầu
mới đối với học sinh trong kì thi Trung học phổ thông Quốc gia năm 2017.
Thứ hai, bài văn nghị luận xã hội lâu nay đã trở thành một trong những
tiêu chí đánh giá năng lực học sinh trong các bài kiểm định kì ở nhà trường
phổ thông và trong kì thi Đại học - Cao đẳng. Từ năm học 2014 - 2015, Nghị
luận xã hội được đưa vào kì thi Trung học phổ thông Quốc gia để xét tốt
nghiệp và Đại học.
Thứ ba, văn nghị luận xã hội là dạng bài văn đưa học sinh về gần hơn với
cuộc sống. Học sinh cần hiểu biết về đời sống, có tư duy độc lập, tự chủ để nhận
ra phải, trái, đúng, sai đồng thời có thái độ, quan điểm rõ ràng. Mỗi bài văn được
xem như là “tác phẩm nhỏ”của người học sinh. Tác phẩm ấy phản ánh khá rõ
nhận thức, tình cảm, thái độ, năng lực, trình độ, tính cách của học sinh trước
cuộc sống. Và trong xã hội ngày nay đó là việc làm vô cùng cần thiết.
Dù văn nghị luận xã hội không xa lạ với học sinh phổ thông, thế nhưng
bản thân tôi nhận thấy học sinh còn lúng túng trong việc nhận diện đề, tìm các
luận điểm, cách triển khai đoạn văn… Từ sự cần thiết của văn nghị luận xã hội

1


và thực tế ở trường Phạm Văn đồng, nơi tôi đang công tác, tôi đã chọn đề tài
“Nâng cao kĩ năng viết đoạn văn, bài văn nghị luận xã hội”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Giúp học sinh có kĩ năng viết đoạn nghi luận, đặc biệt đoạn văn nghị
luận xã hội 200 chữ.
- Kĩ năng nhận diện và triển khai các dạng đề bài nghị luận xã hội.


- Trao đổi, chia sẻ với đồng nghiệp về kĩ năng viết đoạn văn, bài văn
nghị luận xã hội để có phương pháp tối ưu, phù hợp nhất giúp các em có hứng
thú hơn trong học văn và đạt kết quả cao trong kì thi tới.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là kĩ năng viết đoạn văn, bài văn văn nghị luận xã
hội. Đối tượng không xa lạ mà chỉ có chút đổi mới đối với học sinh.Trong phạm
vi sáng kiến kinh nghiệm, tôi sẽ tìm hiểu đối tượng ở hai nội dung cơ bản:
- Thứ nhất: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội, đặc biệt
lưu ý đoạn văn khoảng 200 chữ.
- Thứ hai: Rèn luyện kĩ năng viết bài văn nghị luận xã hội.
Nhằm cung cấp một số kĩ năng cơ bản nhất cho học sinh Trung học phổ
thông, đặc biệt học sinh khối lớp 12 đang chuẩn bị cho kì thi Trung học phổ
thông Quốc gia năm 2017.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Đây là kinh nghiệm của bản thân khi tiến hành giảng dạy, tôi đã thực
hiện như sau:
- Dựa vào sách giáo khoa, tìm hiểu các tài liệu tham khảo về văn nghị
luận xã hội.
- Đưa ra các cách viết đoạn văn nghị luận đã học để từ đó hướng dẫn
cách viết đoạn văn nghị luận khoảng 200 chữ và đoạn văn tham khảo.
- Chia ra từng dạng đề nghị luận xã hội để tìm hiểu đặc điểm, các nội
dung cơ bản và một vài lưu ý khi triển khai nội dung.
- Cung cấp một số đề của từng dạng nghị luận và lập dàn ý
- Sử dụng phương pháp liệt kê, phân tích và so sánh.
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
2


Đối tượng về văn nghị luận xã hội đã và đang được nhiều giáo viên
nghiên cứu. Sáng kiến của tôi chỉ giới hạn trong các mặt sau đây:

- Phần một: Một vài lưu ý khi viết đoạn văn nghị luận, đặc biệt kĩ năng viết
đoạn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ theo yêu cầu đề thi minh họa năm 2017.
- Phần hai: Kĩ năng làm văn về các dạng đề nghị luận xã hội như: nghị
luận về một tư tưởng đạo lí; nghị luận về một hiện tượng đời sống; nghị luận
về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Trong đó chỉ đề cập đến
đặc điểm nhận diện từng dạng đề, nội dung và các thao tác chính, một vài lưu
ý khi triển khai luận điểm. Đồng thời áp dụng vào một số đề bài cụ thể.

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Văn nghị luận xã hội hiểu đơn giản là kiểu bài nghị luận về một hiện
tượng đời sống hoặc một tư tưởng, đạo lí; bao gồm những vấn đề thuộc mọi
quan hệ, mọi hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội như
chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường,...
Nghị luận xã hội có thể đề cập tới rất nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ
những vấn đề có tầm nhân loại như: chiến tranh và hòa bình, tình trạng ô
nhiễm môi trường, những vấn đề nhân sinh quan như quan niệm về lẽ sống và
cái chết, về hạnh phúc và tình yêu đến những vấn đề xã hội cụ thể như nạn
tham nhũng, tệ cờ bạc, ý thức về pháp luật, tai nạn giao thông … Tóm lại, mọi
vấn đề liên quan tới đời sống con người và xã hội đều có thể trở thành một đề
tài của kiểu bài nghị luận xã hội. Tuy nhiên, cần chú ý một thực tế là đề tài
của bài nghị luận xã hội thường hướng vào những vấn đề có tính chất thời sự,
có ý nghĩa thiết thực và cấp bách đối với toàn xã hội; tập trung bàn bạc, trao
đổi về một vấn đề nào đó có liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội về vật
chất hoặc đời sống tinh thần của con người.
Trong chương trình Ngữ Văn 12, vấn đề được đề cập trong kiểu bài
nghị luận xã hội có thể là: một hiện tượng đời sống; một tư tưởng, đạo lí hoặc

3



về một vấn đề hiện tượng đời sống hoặc tư tưởng đạo lí được rút ra từ một tác
phẩm văn học.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
2.2.1. Thuận lợi.
- Nghị luận xã hội trong chương trình Sách giáo khoa từ cấp Trung học
cơ sở lên Trung học phổ thông có sự chuyển tiếp, liền mạch, thống nhất trong
hệ thống kiến thức môn học.
- Bên cạnh đó các phương tiện thông tin truyền thông như báo, mạng
Internet … đã giúp ích rất nhiều cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình
dạy - học văn nghị luận xã hội.
- Hơn nữa nghị luận xã hội là một phần bắt buộc trong kì thi Trung
học phổ thông Quốc gia nên nhìn chung học sinh có ý thức và tự giác
học. Và giáo viên cũng không ngừng đầu tư chuyên môn, không ngừng
trao đổi, học hỏi để truyền đạt đến các em cách học hiệu quả nhất.
2.2.2. Khó khăn.
- Số tiết trong chương trình Trung học phổ thông về văn nghị luận xã
hội rất hạn chế. Bên cạnh kiến thức lí thuyết thì thời lượng thực hành còn ít.
- Do tuổi đời của các em chưa nhiều, khả năng nhận thức chưa cao, cơ
hội va chạm với muôn mặt của đời sống còn ít nên dẫn đến vốn sống, kinh
nghiệm sống, sự hiểu biết xã hội có những hạn chế nhất định. Ý thức tiếp cận
những vấn đề xã hội của các em chỉ mang tính quan sát mà không mang tính
nhận thức, cho nên có khi biết mà không nói được vấn đề một cách rõ ràng.
- Một thực tế khác là các em nắm lý thuyết làm văn nghị luận xã hội
còn máy móc, thiếu sự linh hoạt, sáng tạo để phù hợp với yêu cầu của đề.
Theo tôi, nguyên nhân chủ yếu là do học sinh thiếu phương pháp và các kỹ
năng cần thiết để làm tốt một đoạn văn với dung lượng cho phép và bài văn
nghị luận xã hội.
Qua khảo sát thực tế ở các lớp 12A3, 12C4 trường Trung học phổ thông
Phạm Văn Đồng năm học 2016 - 2017 khi chưa áp dụng đề tài này, kết quả

việc kiểm tra viết bài văn, đoạn văn của các em như sau:

4


Phân loại
Lớp
12C4 = 41
12A3 = 36

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu, kém

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

2
2

4,9%
5,6%

6
7

15%
19%

17
15

41%
41,6%

16
12

39%
33%

2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Phần một: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận

2.3.1.1. Khái niệm đoạn văn.
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa lùi
đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý
tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. (SGK Ngữ
văn 8, Tập 1, Trang 36, NXB GD 2010)
2.3.1.2. Các cách viết đoạn văn.
a. Đoạn diễn dịch: Đoạn diễn dịch là đoạn văn có câu chủ đề đặt ở đầu
đoạn, các câu tiếp theo là câu triển khai và làm rõ nội dung câu chủ đề (từ ý
tổng quát suy ra các ý cụ thể)
Ví dụ: “Đồng tiền cơ hồ đã thành một thế lực vạn năng. Tài hoa, nhan
sắc, nhân phẩm, tình nghĩa, công lí đều không có nghĩa lí gì trước thế lực
đồng tiền. Tài tình, hiếu hạnh như Kiều cũng chỉ là một món hàng không hơn
không kém. Ngay Kiều nữa, cái việc dại dột nhất, tội lỗi nhất trong suốt cuộc
đời nàng, cái việc nghe lời Hồ Tôn Hiến khuyên Từ Hải ra hàng, một phần
cũng bởi xiêu lòng vì ngọc vàng của Hồ Tôn Hiến”
(Hoài Thanh)
b. Đoạn quy nạp: Đoạn văn quy nạp là câu chủ đề đặt ở cuối đoạn (Từ
các ý cụ thể rút ra nhận định chung)
Ví dụ: Tại Nhật Bản, do tham nhũng Đảng tự do cầm quyền đã mất đa
số ghế tại hạ viện. Chính phủ Hàn Quốc đã bắt giam hai cựu bộ trưởng Bộ
quốc phòng và hai cựu tướng lĩnh về tội nhận hối lộ một triệu đô la.Giới lập
pháp ở Đài Loan hiện phải công khai tài sản của mình và rồi đây các viên
chức cao cấp trong chính phủ cũng sẽ làm điều đó. Tham nhũng là vấn đề
được quan tâm hàng đầu ở Châu Á.

5


(Báo Tuổi trẻ, số ngày 05/08/1993)
c. Đoạn móc xích: Triển khai ý bằng cách câu sau kế thừa và phát triển

ý câu trước, luận cứ câu trước tạo tiền đề cho sự phát triển ý của câu sau và cứ
như thế cho đến hết đoạn.
Ví dụ: Muốn xây dụng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất.
Muốn tăng gia sản xuất thì phải có kĩ thuật tiên tiến. Muốn sử dụng kĩ thuật
tiên tiến thì phải có văn hóa. Vậy việc bổ túc văn hóa là cực kì cần thiết.
(Hồ Chí Minh)
d. Đoạn Tổng - Phân - Hợp: Cách triển khai ý từ luận điểm suy ra các
luận cứ rồi từ luận cứ khẳng định lại luận điểm. Qua mỗi bước vấn đề được
nâng cao hơn.
Ví dụ: Tiếng Việt chúng ta rất đẹp. Đẹp như thế nào là điều khó nói.
Chúng ta không thể nói tiếng ta đẹp như thế nào, cũng như không thể nào
phân tích cái đẹp của ánh sáng của thiên nhiên. Nhưng đối với chúng ta là
người Việt Nam, chúng ta cảm thấy thưởng thức một cách tự nhiên cái đẹp
của tiếng ta, tiếng nói của quần chúng nhân dân trong ca dao và dân ca, lời
văn của các nhà văn lớn. Có lẽ Tiếng Việt của chúng ta đẹp, bởi vì tâm hồn
người Việt Nam ta rất đẹp.. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ trước tới nay
là cao quý, là vĩ đại, nghĩa là rất đẹp.
(Phạm Văn Đồng)
e. Đoạn so sánh: Đoạn văn so sánh đối chiếu để thấy cái giống nhau
hoặc khác nhau giữa các đối tượng, các vấn đề...để từ đó thấy được chân lí
của luận điểm hoặc làm nổi bật luận điểm trong đoạn văn. Có 2 kiểu so sánh
khi viết đoạn văn là: so sánh tương đồng và so sánh tương phản.
- So sánh tương đồng: Đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên
một ý tưởng
Ví dụ: “Ngày trước ông cha ta có câu “Có công mài sắt có ngày nên
kim”. Cụ Nguyễn Bá Học, một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết:“Đường đi
không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Sau
này vào những năm bốn mươi giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch,

6



nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua
bài thơ “Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu: “Gian nan rèn luyện mới
thành công”. Câu thơ thể hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ Chí Minh
đồng thời còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta.”
(Phân tích văn thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lê Bá Hán- Công ty sách và
thiết bị trường học Nghệ Tĩnh-1988)
- So sánh tương phản: Đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội
dung, ý tưởng.
Ví dụ: “Trong cuộc sống không thiếu những người cho rằng cần học
tập để thành tài, có tri thức hơn người khác mà không hề nghĩ tới việc rèn
luyện đạo đức, lễ nghĩa, vốn là giá trị cao quý nhất trong các giá trị của loài
người. Những người luôn tự cao tự đại, nhiều khi trở thành những kẻ có hại
cho xã hội. Đối với những người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của
người xưa:“Tiên học lễ, hậu học văn”.
(Nguyễn Quang Ninh – NXB 150 bài tập rèn luyện kĩ năng dựng đoạn
văn - Giáo dục 1998)
Ngoài ra còn có các cách viết đọan văn như: đoạn giải thích, đoạn phân
tích, đoạn bác bỏ…
2.3.1.3. Hướng dẫn cách viết đoạn văn nghị luận xã hội theo yêu cầu
đề minh họa kì thi THPTQ năm 2017.
a. Về dung lượng. Yêu cầu dung lượng đoạn văn khoảng 200 chữ.
b. Về cách thức:
- Có nhiều cách để viết đoạn văn như đã nêu trên, tuy nhiên một đoạn
văn nghị luận hoàn chỉnh, độc lập thường có đủ 3 phần: câu mở đoạn (câu chủ
đề), các câu thân đoạn (các câu triển khai vấn đề), câu kết đoạn (kết thúc vấn
đề, nêu ý nghĩa hoặc rút ra bài học).
- Một đoạn văn hoàn chỉnh không được xuống dòng. Bắt đầu bằng chữ
viết hoa lùi vào đầu dòng, cuối đoạn văn là dấu chấm câu.

c. Về nội dung: Một đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ; với số
điểm là 2,0 cần đảm bảo các nội dung sau:
7


- Đoạn văn nghị luận xã hội về một tư tưởng, đạo lí gồm các bước sau:
+ Giải thích tư tưởng đạo lí.
+ Các biểu hiện của tư tưởng đạo lí.
+ Phân tích, bàn luận, mở rộng.
+ Nêu ý nghĩa và rút ra bài học nhận thức, hành động.
- Đoạn văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống gồm các bước sau:
+ Nêu hiện tượng (hiện tượng gì, biểu hiện)
+ Phân tích tác dụng (nếu là hiện tượng tích cực) hoặc tác hại (nếu là
hiện tượng tiêu cực)
+ Tìm nguyên nhân, giải pháp
+ Bài học nhân thức và hành động.
Lưu ý: Đề minh họa năm 2017 yêu cầu viết đoạn văn nghị luận khoảng
200 chữ được lấy từ một ý trong ngữ liệu đọc - hiểu, vì thế phải căn cứ vào
nội dung ngữ liệu để triển khai đoạn văn phù hợp.
d. Vận dụng.
Đề số 1: Cho ngữ liệu sau:
“Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
(Ca dao)
Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về “chữ
hiếu” được nêu gợi ra từ ngữ liệu đọc - hiểu trên.
Có thể viết đoạn văn như sau:
(1) Dân tộc Việt Nam vốn coi trọng đạo lí làm người, nhất là chữ hiếu.

(2) Chữ hiếu có thể hiểu là lòng kính yêu của con cái đối với cha mẹ.(3) Phận
làm con ta phải có bổn phận hiếu kính đối với cha mẹ vì công cha, nghĩa mẹ
vô cùng to lớn.(4) Cha mẹ có công sinh thành, dưỡng dục để ta khôn lớn nên
người.(5) Vậy ta phải làm thế nào để tỏ lòng hiếu thảo của mình đối với cha
mẹ?.(6) Biết vâng lời cha mẹ, là con ngoan, trò giỏi.(7) Chăm sóc phụng

8


dưỡng cha mẹ với tấm lòng quý trọng của mình… (8) Phát huy truyền thống
tốt đẹp đó, nhiều địa phương trong cả nước, hằng năm đều tổ chức ngày hội
vinh danh “Những người con hiếu thảo”; tổ chức trọng thể lễ Vu lan báo hiếu
cha mẹ.(9) Tuy nhiên bên cạnh những người con hiếu thảo ta vẫn thấy đây đó
những đứa con bất hiếu, đối xử tệ bạc với cha mẹ mà chúng ta cần lên án.
(10) Tóm lại, công ơn cha me là vô cùng to lớn và vĩ đại, phận làm con chúng
ta phải biết giữ tròn chữ hiếu.(11) Riêng em, em sẽ cố gắng học tập chăm chỉ,
vâng lời để cha mẹ vui lòng.
(Bài của học sinh Nguyễn Thị Dung lớp 12c4)
Đoạn văn có tất cả 11 câu, khoảng 200 chữ. Câu (01) là câu chủ đề câu mở đoạn; Từ câu (02) đến câu (09) là các câu thân đoạn - các câu triển
khai; câu (10,11) là câu kết đoạn.
Đề số 2: Cho ngữ liệu sau:
Mong ước đầu tiên và lớn nhất của tôi là các con sẽ trở thành người tử
tế, sau đó là cháu sẽ có một cuộc sống hạnh phúc.
Sau này con có trở thành bất cứ ai trên cuộc đời này, làm bất cứ công
việc gì thì cũng làm việc một cách tử tế; ứng xử với bản thân, với gia đình,
bạn bè, những người xung quanh, với cộng đồng và thậm chí là với cả trái
đất này một cách tử tế! Việc cháu tiếp tục học ở đâu, làm việc gì là tùy vào sở
thích, niềm đam mê và năng lực của cháu. Tôi và gia đình hoàn toàn tôn
trọng vào sự lựa chọn và quyết định của con mình.
(Thạc sĩ Đinh Thị Thu Hoài – Giám đốc Trung tâm Đào tạo Kĩ năng

sống Insight, mẹ của "cậu bé vàng” Đỗ Hải Nhật Minh trả lời phỏng vấn báo
Giáo dục và Thời đại số 24 ngày 28-1-2017, trang 7)
Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về
mong ước của bà mẹ được gợi ra từ ngữ liệu đọc – hiểu trên: Mong ước đầu
tiên và lớn nhất của tôi là các con sẽ trở thành người tử tế.
Có thể viết đoạn văn như sau:
(1) Mong con nên người đó là ước mong giản dị nhưng cũng vô cùng ý
nghĩa của rất nhiều bà mẹ, vì thế có bà mẹ đã chia sẻ “Mong ước đầu tiên và
9


lớn nhất của tôi là các con sẽ trở thành người tử tế”.(2) Vậy người tử tế là
gì?.(3) Người tử tế được hiểu là những người làm việc tốt, sống đúng, sống
đẹp, sống có ý nghĩa, phù hợp với chuẩn mực, đạo đức của xã hội.(4) Người
tử tế làm bất cứ việc gì cũng sẽ đặt lợi ích của bản thân gắn với lợi ích xã
hội, làm việc có trách nhiệm, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước,
xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ.(5) Người tử tế có lối ứng xử với mọi
người và bản thân có văn hóa, được mọi người yêu quý, biết quan tâm giúp
đỡ mọi người xung quanh.(6) Tuy nhiên trong xã hội vẫn còn nhiều người
sống không tử tế, trái đạo đức cần phê phán.(7) Bản thân em là một học sinh,
em sẽ không ngừng học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức để trở thành người
tử tế có ích cho gia đình và xã hội.
(Bài của học sinh Lê Kim Chi lớp 12A3)
Đoạn văn có tất cả 07 câu, khoảng 200 chữ. Câu (01) là câu chủ đề câu mở đoạn; từ câu (02) đến câu (06) là các câu thân đoạn - các câu triển
khai; câu (07) là câu kết đoạn.
Đề số 3: Đọc ngữ liệu sau
… Những người hí hửng hôi của bên chiếc xe cháy trụi, chỉ vài chai
dầu ăn, sữa tắm. Gương mặt bất lực ứa nước mắt của một người đàn ông
phong trần. Và gương mặt bẽn lẽn khi xóm làng vận động người hôi của trả
lại cho người lái xe số vật phẩm trên.

Những tàn ác, tham lam, ti tiện... cũng giống như rều rác trên bề mặt
một con sông đang cuộn trào. Nhìn ngang, nó dày đặc lắm, tưởng chừng
hung hãn lấp kín cả mặt sông. Nhưng nhìn sâu, dưới bề mặt đó là một khối
nước khổng lồ gấp bội. Khối nước đó trong veo, cuồn cuộn và miệt mài lao
đi, tưới đẫm và cho vẫy vùng.
Cuộc đời này có chuyện xấu xa, nhưng cuộc đời này không hề và chẳng
bao giờ toàn là chuyện xấu xa. Khối nước kia mới thực là nguồn sức mạnh
nguyên thủy và vĩnh hằng nuôi dưỡng sự sống, vẽ màu xanh lên bầu trời, nở
ra những thảm hoa rực rỡ trong tâm hồn mỗi con người.
(Trích Chuyện anh phụ xe bật khóc vì bị hôi của: Nó rất ám ảnh, nhưng

10


cuộc đời này không phải toàn là thứ xấu xa... Hoàng Xuân, Tri thức trẻ,
05/11/2016).
Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về
ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu:“Cuộc đời này có chuyện xấu
xa, nhưng cuộc đời này không hề và chẳng bao giờ toàn là chuyện xấu xa.”.
Có thể viết đoạn văn như sau:
(1)“Cuộc đời này có chuyện xấu xa, nhưng cuộc đời này không hề và
chẳng bao giờ toàn là chuyện xấu xa”.(2)“Chuyện xấu xa”là những tàn ác,
tham lam, ti tiện những mặt trái trong xã hội.(3) Cái ác, cái xấu luôn tồn tại
song song cùng với những điều tốt đẹp.(4) Đó chính là hai mặt của cuộc sống và
của con người.(5) Trong mỗi con người luôn có phần con và phần người, phần
bản năng và phần ý chí.(6) Khi để phần bản năng chế ngự, con người sẽ dễ rơi
vào những tàn ác, tham lam, ti tiện và vì thế mà sẽ gây ra cho cuộc đời này
những chuyện xấu xa.(7) Nhưng lương thiện là bản chất nguyên thủy của con
người, hướng thiện luôn là khát khao tiềm ẩn và mãnh liệt của nhân loại tiến
bộ.(8) Bản thân mỗi con người khi làm điều ác, điều xấu sẽ rơi vào cảm giác

day dứt, ăn năn, hối hận, để từ đó đấu tranh với chính mình mà vươn lên những
điều tốt đẹp.(9) Cần có cách nhìn đúng đắn để thấy rằng các ác, cái xấu có
thể đang hiện hữu, nhưng đó chỉ là bề mặt bên ngoài, còn thực chất những
điều tốt đẹp luôn được nhân loại trân trọng và gìn giữ.(10) Cần có thái độ,
hành động đúng đắn: tránh xa và lên án, đấu tranh loại bỏ các ác, cái xấu,
nhân rộng những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
(Bài của học sinh Trịnh Thị Liên lớp 12C4)
Đoạn văn có tất cả 10 câu, khoảng 200 chữ. Câu (01) là câu chủ đề câu mở đoạn; Từ câu (02) đến câu (09) là các câu thân đoạn - các câu triển
khai; câu (10) là câu kết đoạn.
2.3.2. Phần hai: Các dạng đề nghị luận xã hội và kĩ năng làm bài.
Như đã trình bày ở trên, nghị luận xã hội có ba dạng chính. Mỗi kiểu
dạng đề có những đặc điểm riêng, phương pháp triển khai khác nhau. Tôi

11


không cung cấp toàn bộ kĩ năng viết văn nghị luận xã hội mà chỉ giới thiệu
một vài kinh nghiệm về kĩ năng nhận diện các kiểu dạng đề, các nội dung cơ
bản và triển khai luận điểm trong bài văn nghị luận xã hội thường gặp ở nhà
trường Trung học phổ thông, đặc biệt lớp 12.
2.3.2.1. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.
a. Đặc điểm nhận diện đề.
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lí thường đề cập đến các nội dung như:
Nhận thức (Lí tưởng, mục đích sống, ước mơ…); Đạo đức, tâm hồn, tính cách
(Lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ lượng, tính trung thực,
dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn...); Quan hệ gia đình
(anh chị em, cha mẹ với con cái, con cháu với ông bà…); Quan hệ xã hôi
(Tình đồng bào, tình làng nghĩa xóm, quan hệ bạn bè, tình thầy trò...)…
- Về hình thức, tư tưởng đạo lí có thể đặt ra một cách trực tiếp trong đề
bài hoặc được thể hiện qua một câu ca dao, tục ngữ, danh ngôn, câu nói nổi

tiếng... Hãy đọc các đề sau đây:
Đề 1: Suy nghĩ của anh/chị về câu nói: Tình thương là hạnh phúc của
con người.
Đề 2: Trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu ngạn ngữ Hi Lạp:
“Cái rễ của học hành thì cay đắng nhưng quả của nó thì ngọt ngào”.
Đề 3: Trong một buổi nói chuyện với cán bộ, học sinh, sinh viên, Bác
Hồ đã ân cần khuyên dạy:
“Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì
làm việc gì cũng khó”.
Suy nghĩ của anh/chị về lời khuyên dạy trên.
Đề 4. Suy nghĩ của anh, chị về lời khuyên: Chúng ta hãy học cách viết
những đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa trên đá.
b. Nội dung, thao tác chính.
Sơ đồ hóa dàn ý như sau:
Bố cục

Nội dung chính

Thao tác cơ
bản

12


Mở bài Nêu vấn đề
Bước 1: Giải thích

Thân
bài


- Giải thích

Bước 2: Phân tích, bàn luận

- Phân tích,

- Phân tích, chứng minh mặt đúng của tư tưởng, đạo lí.

Chứng minh

- Phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan. - Bình luận
- Mở rộng, đánh giá, ý nghĩa của vấn đề: đúng - sai;
tốt - xấu; đóng góp - hạn chế…

Bước 3: Bài học nhận thức và hành động
Kết bài Đáng giá chung
c. Một vài lưu ý khi triển khai các luận điểm.
- Phần giải thích: Tùy theo yêu cầu đề bài có thể có những cách giải
thích khác nhau. Chú ý những từ, cụm từ, khái niệm, mệnh đề, hình
ảnh…rồi lần lượt giải thích từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, hàm ý. Có những đề,
nội dung giải thích rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu tuy nhiên có những mệnh đề dài
dòng, phức tạp, gợi những suy nghĩ sâu xa. Sau khi giải thích thì rút ra ý nghĩa
đề (xác định luận đề).
Lưu ý: Tránh sa vào cắt nghĩa từ ngữ theo nghĩa từ vựng trong từ điển.
- Phần phân tích: Phân tích và chứng minh những mặt đúng của tư
tưởng, đạo lí cần bàn luận. Trên cơ sở nghĩa của phần giải thích, người viết
tìm các biểu hiện đúng của tư tưởng đạo lí. Phần này thực chất là trả lời câu
hỏi: Vấn đề được biểu hiện như thế nào? Có thể lấy những dẫn chứng nào
làm sáng tỏ?. Lưu ý dẫn chứng phải tiêu biểu, chính xác, sắp xếp phù hợp;
cùng với dẫn chứng là các lí lẽ phân tích, làm rõ vấn đề nghị luận.

- Phần bình luận:
+ Phê phán bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng
đạo lí.
+ Ý nghĩa (đánh giá, mở rộng vấn đề). Thực chất phần này là xem xét
vấn đề ở mọi góc độ, khía cạnh, lật đi lật lại vấn đề để nhìn nhận đầy đủ, toàn
diện nhất.
- Rút ra bài học nhận thức và hành động:

13


+ Nhận thức: Thực chất là trả lời câu hỏi từ vấn đề bàn luận giúp ta có thêm
những nhận thức gì?
+ Hành động. Đề xuất phương châm đúng đắn, phương hướng hành
động cụ thể để áp dụng vào thực tiễn. Thực chất trả lời câu hỏi Phải làm gì?
d. Vận dụng.
Đề số 1: Suy nghĩ của anh, chị về ý kiến: “Gốc của sự học là học làm
người”(Rabindranath Tagore).
Đây là dạng đề trực tiếp, vấn đề nghị luận đã được nêu cụ thể. Ta cần
đảm bảo các thao tác cơ bản sau:
Bước 1: Giải thích
- Gốc là yếu tố quan trọng, là cội nguồn của cây. Từ “gốc”ở đây được
Tagor dùng như một ẩn dụ đề nhấn mạnh tầm quan trọng của sự học.
- Sự học là quá trình thu nhận kiến thức của con người từ nhiều lĩnh
vực, nhiều phương diện, từ nhiều nguồn và ở nhiều đối tượng …
- Học làm người là học cách đối nhân xử thế sao cho phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức xã hội.
=> Ý nghĩa cả câu: Giữa cái bao la của sự học, quan trọng nhất là bài
học làm người.
Bước 2: Phân tích, bàn luận

- Có thể tìm các biểu hiện của bài học làm người như sau:
+ Trong gia đình: hiếu thảo, kính trọng ông bà, cha mẹ, kính trên
nhường dưới…
+ Trong nhà trường: lễ phép, kính trọng thầy cô, trung thực trong học
tập, thi cử, khiêm tốn, không ngừng học hỏi, học thầy, học bạn…
+ Ngoài xã hội: chan hòa, thân ái, giúp đỡ, quan tâm, chia sẻ với mọi
người,… hướng tới một xã hội văn minh, tốt đẹp.
- Phê phán một số trường hợp có học nhưng không có nhận thức, đối xử
với mọi người thiếu văn hóa, thiếu lịch sự, thiếu tình người, ảnh hưởng xấu
đến xã hội.
- Ý kiến của Tagor thật đúng đắn, sâu sắc: Học làm người là khởi đầu
14


cho mọi bài học, là kết quả cao nhất, cuối cùng cho mọi bài học.
- Những kẻ chỉ học kiến thức mà xem nhẹ việc rèn luyện đạo đức sẽ
khó mà “nên người” bởi “Có tài mà không có đức là người vô dụng”
- Việc học là mãi mãi, học làm người là bài học suốt đời để hoàn thiện
nhân cách. Xã hội càng phát triển, bài học “học làm người”càng có ý nghĩa
hơn để hướng tới một xã hội văn minh.
Bước 3: Rút bài học nhận thức và hành động
- Việc học là mãi mãi, học làm người là bài học suốt đời để hoàn thiện
nhân cách. “Học làm người”là cần thiết, là quan trọng nhưng chưa đủ. Không
chỉ “Học làm người”, cần học để chinh phục các đỉnh cao tri thức nhân loại.
- Học không chỉ để biết mà quan trọng hơn là để làm, để chung sống
với mọi người và góp phần dựng xây xã hội giàu đẹp, hưng thịnh.
Ví dụ 2: “Giữa một vùng đất khô cằn sỏi đá, cây hoa dại vẫn mọc lên
và nở ra những chùm hoa thật rực rỡ”.
Trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề trên.
Đề bài được thể hiện qua cách nói hình ảnh, vấn đề nghị luận chưa được

xác định rõ, người viết cần chú ý các từ ngữ, các hình ảnh để xác định đúng
vấn đề nghị luận. Yêu cầu đảm bảo các thao tác sau:
Bước 1: Giải thích
- Hình ảnh“vùng sỏi đá khô cằn”: gợi liên tưởng, suy nghĩ về môi
trường sống khắc nghiệt, đầy gian khó. Nói cách khác, đó là nơi sự sống khó
sinh sôi, phát triển.
- Hình ảnh“cây hoa dại”: Loại cây yếu ớt, nhỏ bé, cũng là loại cây bình
thường, vô danh, ít người chú ý.
- Hình ảnh“cây hoa dại vẫn mọc lên và nở hoa”: Cây hoa dại thích
nghi với hoàn cảnh, vượt lên điều kiện khắc nghiệt để sống và nở hoa. Những
bông hoa là thành quả, thể hiện sức sống mãnh liệt.
-> Ý nghĩa câu nói: mượn hiện tượng thiên nhiên mà gợi ra suy nghĩ về
thái độ sống của con người. Cho dù hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu, sự sống
vẫn hiện hữu, cái đẹp vẫn tồn tại. Con người phải có ý chí, nghị lực vươn lên
15


trong cuộc sống.
Bước 2. Phân tích, bàn luận
- Hiện tượng tự nhiên:“Giữa một vùng đất khô cằn sỏi đá, cây hoa dại
vẫn mọc lên và nở ra những chùm hoa thật rực rỡ”. Hiện tượng này ta có thể
tìm thấy ở nhiều nơi trong thế giới tự nhiên quanh mình. Cây cối, cỏ hoa xung
quanh ta luôn ẩn chứa một sức sống mạnh mẽ, bền bỉ. Chúng sẵn sàng thích
nghi với mọi điều kiện sống khắc nghiệt như nơi sa mạc nóng bỏng, cây
xương rồng vẫn sinh sống, vẫn nở hoa.
- Trong cuộc sống con người:
+ Những thử thách, những khó khăn của thực tế đời sống luôn đặt ra đối
với mỗi con người. Cuộc sống không bao giờ bằng phẳng, luôn chứa đựng
những bất ngờ, biến cố ngoài ý muốn. Vì vậy, quan trọng là cách nhìn, thái độ
sống của con người trước thực tế đó. Ta không nên đầu hàng hoàn cảnh,

không buông xuôi phó thác cho số phận.
+ Nghị lực và sức sống của con người mang đến những điều kì diệu cho
cuộc sống như Nhà văn Nga vĩ đại M. Gor - ki đã có một cuộc đời sớm chịu
nhiều cay đắng và ông đã không ngừng tự học, tự đọc để vươn lên khẳng định
tài năng và đi đến thành công.
- Câu nói miêu tả một hiện tượng thiên nhiên mà hàm chứa nhiều ý
nghĩa sâu sắc, gợi ra nhiều suy tưởng đẹp. Đó là biểu tượng của nghị lực và ý
chí vươn lên của con người trong những hoàn cảnh khó khăn, khốc liệt. Đây
là một bài học quý báu, bổ ích về thái độ sống của con người
- Phê phán những kẻ sống trong môi trường, điều kiện sống thuận lợi
nhưng chỉ biết hưởng thụ, lãng phí thời gian, tiền bạc…. Hoặc hoàn cảnh khó
khăn thì chán nản, buông xuôi và dẫn tới thất bại.
Bước 3. Bài học nhận thức và hành động
- Con người thật bất hạnh khi gặp phải hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc
sống, nhưng sẽ bất hạnh hơn nếu như chúng ta không cố gắng.
- Để có thể vượt lên khó khăn mà có những đóng góp, cống hiến trong
cuộc sống, con người cần có nghị lực, ý chí, năng lực.

16


2.3.2.2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống
a. Đặc điểm nhận diện đề.
- Về nội dung: Nghị luận về một hiện tượng đời sống thường đề cập đến
những hiện tượng nổi bật, đang được dư luận quan tâm và có tác động đến đời
sống xã hội. Đó có thể là một hiện tượng tích cực như: quỹ vì người nghèo;
hiến máu nhân đạo; phong trào mùa hè xanh; gương người tốt, việc tốt…Cũng
có thể là một hiện tượng tiêu cực như: ma túy; bạo lực học đường; ô nhiễm
môi trường; thực phẩm bẩn; biến đổi khí hậu; bệnh thành tích trong giáo dục…
Có những hiện tượng vừa tích cực vừa tiêu cực như: chảy máu chất xám; thừa

thầy thiếu thợ…
- Về hình thức của đề: Dạng đề trực tiếp là hiện tượng đời sống được
nêu cụ thể trong đề như: Bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay hoặc Phong trào
mùa hè xanh trong những năm gần đây. Dạng đề gián tiếp là thường thông
qua một tin ngắn hoặc một lời chia sẻ… và học sinh tự rút ra hiện tượng. Hãy
đọc một số đề văn sau:
Đề 1: Suy nghĩ của anh, chị về bạo lực học đường trong những năm
gần đây.
Đề 2: Hiến máu cứu người là một nghĩa cử cao đẹp. Suy nghĩ của anh,
chị về hành động đó trong giới trẻ hiện nay.
Đề 3: Suy nghĩ của anh chị về phong trào sinh viên tình nguyện trong
những năm gần đây.
Đề 4: Trình bày suy nghĩ của anh/ chị về hiện tượng thừa thầy, thiếu
thợ trong xã hội ta hiện nay.
Đề 5: Anh/ chị suy nghĩ gì về hiện tượng chảy máu chất xám trong
nước ta hiện nay.
Đề 6: “Tính đến nay, đã có 12 tỉnh công bố tình trạng thiên tai
hạn hán, xâm nhập mặn, trong đó có mười tỉnh thuộc nam Trung Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là Bình Thuận, Ninh Thuận,
Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang, Sóc Trăng, Long An, Cà Mau, Trà
Vinh và Gia Lai, Kon Tum. Dự báo thiên tai sẽ còn ảnh hưởng trực
17


tiếp, nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, hàng trăm ngàn hộ dân
bị đói do mất nguồn lương thực””
(Theo báo nhân dân điện tử ngày 25/3/2016)
Trình bày suy nghĩ của anh, chị về hiện tượng biến đổi khí hậu được đề
cập đến trong bản tin trên.
Đề 7: “Phan Anh là sao Việt hiếm hoi biết dùng trang cá nhân của

mình để kêu gọi cộng đồng chung tay vào những việc nhân văn, có ý nghĩa.
Đây được xem là “chuyện lạ”trong giới showbiz.
… Chứng kiến những hình ảnh xúc động về người dân miền Trung trong
cơn bão lũ cuối tuần qua, MC Phan Anh đã lập tức bỏ ra 500 triệu đồng ủng
hộ. Anh cũng kêu gọi cộng đồng hãy chung tay để sẻ chia bớt những khó
khăn, nhọc nhằn sau cơn lũ với người dân miền Trung.
Sức mạnh lời kêu gọi của MC Phan Anh có hiệu ứng bất ngờ. Sau gần
một ngày anh phát ra thông báo chung tay ủng hộ đồng bào miền Trung, tài
khoản của MC này đã thu về gần 8 tỉ đồng . Tính đến trưa 18/10 thì con số đã vượt

qua 10 tỉ.
(Nguồn sức hút khủng khiếp của MC Phan Anh
19/10/2016)
Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề được gợi ra từ lời chia sẻ trên.
b. Nội dung, thao tác chính.
Nghị luận về một hiện tượng đời sống có thể chia làm hai dạng và các
nội dung cơ bản của từng dạng như sơ đồ hóa sau đây:
Bố cục
Mở bài

Nội dung chính
Hiện tượng tốt

Hiện tượng xấu

Nêu vấn đề nghị luận

Nêu vấn đề nghị luận

Thao tác cơ

bản

Thân bài - Bước 1: Nêu rõ hiện tượng
- Bước 1: Nêu rõ hiện tượng- Bước 2: Phân tích, bình - Bước 2: Phân tích, bình - - Giải thích
luận:

luận:

- - Phân tích

- - Tác dụng, ý nghĩa.

- - Tác hại, hậu quả.

- - Chứng minh

- - Nguyên nhân.

- - Nguyên nhân.

- - Bình luận

18


- - Giải pháp phát huy.
- Bước 3: Bài học nhận
Kết bài

thức, hành động.

Đánh giá chung

- - Giải pháp khắc phục.
Bước 3: Bài học
- nhận thức, hành động.
Đánh giá chung

c. Một số lưu ý khi triển khai luận điểm.
- Trước tiên học sinh cần đọc kĩ đề và xác định đề thuộc hiện tượng tốt
hay xấu để triển khai các nội dung phù hợp. Có cách viết linh hoạt theo yêu
cầu từng đề bài, tránh làm bài máy móc hoặc chung chung.
- Phần nêu hiện tượng:
+ Có thể giải thích về hiện tượng bằng cách làm rõ các từ ngữ, hình
ảnh, khái niệm…đề yêu cầu.
+ Nêu hiện tượng và dẫn chứng: Phải hiểu biết về hiện tượng mới nêu
rõ được thực trạng. Cụ thể: hiện tượng đó đang diễn ra trong xã hội, trong đời
sống, ở địa phương như thế nào. Sự ảnh hưởng, tác động của hiện tượng đó
đối với xã hội, đặc biệt ở địa phương đang sống…Kết hợp dẫn chứng để làm
rõ hiện tượng. Dẫn chứng cần tiểu biểu, cụ thể, chính xác…thì mới có sức
thuyết phục. Do đó ngoài việc trang bị cho mình kĩ năng làm bài, học sinh cần
tích lũy vốn hiểu biết thực tế về đời sống xã hội.
- Phần bàn luận:
+ Hiện tượng có ý nghĩa, có tác dụng (hoặc tác hại, hậu quả) đối với
cộng đồng, xã hội, địa phương và bản thân như thế nào.
+ Lí giải nguyên nhân: đưa ra các nguyên nhân nảy sinh vấn đề gồm
nguyên nhân khách quan (xã hội, cộng đồng, nhà trường) và nguyên nhân chủ
quan (bản thân).
+ Giải pháp: Giải pháp khắc phục hoặc giải pháp nhân rộng (từ nguyên
nhân đề xuất phương hướng giải quyết trước mắt và lâu dài. Chú ý chỉ rõ những
việc cần làm, cách thức thực hiện, sự phối hợp với các lực lượng chức năng…)

Tóm lại: Bằng nhận thức của bản thân để bày tỏ ý kiến, quan điểm, thái
độ phù hợp. Biết biểu dương, ca ngợi cái thiện, cái đẹp và lên án cái xấu, cái
ác. Đặt hiện tượng vào các hoàn cảnh, thời đại khác nhau để có cái nhìn toàn
19


diện. Cần đứng trên lập trường, tư tưởng vững vàng để đánh giá hiện tượng,
tránh chạy theo dư luận xã hội mà hồ đồ trong đánh giá.
d. Vận dụng
Đề số 1: Đồng cảm và chia sẻ là nếp sống đẹp trong xã hội ta hiện nay.
Suy nghĩ của anh, chị về nếp sống ấy.
Đây là hiện tượng tích cực - hiện tượng được thể hiện trực tiếp trong đề,
cụ thể là đồng cảm, chia sẻ. Ta sẽ có các nội dung cơ bản như sau:
Bước 1: Nêu rõ hiện tượng
- Đồng cảm, chia sẻ: Biết rung cảm trước những nỗi buồn, niềm vui của
người khác; cùng chia sẻ, không tỏ thái độ thờ ơ, vô cảm.
- Thực trạng: Đồng cảm, chia sẻ là nếp sống đẹp, là lối sống được coi
trọng trong xã hội ta hiện nay…(dẫn chứng: Ủng hộ đồng bào Miền Trung lũ
lụt; chia sẻ với những trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh…)
Bước 2: Phân tích, bình luận
- Tác dụng, ý nghĩa
+ Giúp họ vượt qua hoàn cảnh khó khăn, có niềm tin vào cuộc sống.
Con người gần gũi nhau hơn.
+ Phát huy được truyền thống dân tộc bao đời nay.
+ Phê phán lối sống ích kỉ, vô cảm.
- Nguyên nhân
+ Lối sống đẹp đó bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc “Lá lành đùm
lá rách”.
+ Ý thức của mỗi người Việt với tinh thần nhường cơm sẻ áo.
- Giải pháp phát huy

+ Khích lệ, ngợi khen kịp thời những tấm gương tiêu biểu.
+ Các cơ quan, tổ chức và nhà nước tuyên truyền, vận động, kêu gọi
tinh thần nhường cơm sẻ áo.
Bước 3: Bài học nhận thức và hành động
- Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta với tinh thần: cho đi là
còn mãi.

20


- Có những hành động cụ thể, thiết thưc ngay từ hôm nay với những số
phận bất hạnh xung quanh mình.
Đề số 2:
“Ông trồng chè khoe họ được uống chè từ khu trồng sạch nhà quây
riêng dành cho gia đình, khu còn lại tất nhiên là trà bẩn để bán. Bà bán rau
cũng hân hoan nói nhà mình được ăn rau ở khu trồng sạch, khu nhiều thuốc
là để bán. Ông bán thịt lợn cũng vậy.
Nhưng họ không thể cả đời chỉ uống trà, ăn rau hay ăn thịt, họ uống trà
sạch nhưng vẫn phải ăn rau bẩn của kẻ khác, ăn rau nhà sạch nhưng vẫn
phải ăn thịt bẩn của kẻ khác…Chúng ta đang giết nhau trong khi cảm thấy an
tâm đã bảo vệ được gia đình mình ở một góc nhỏ hẹp hòi…”
(Chia sẻ của Trần Nhất Hoàng - cựu thành viên ban nhạc Bức Tường
khi nhắc đến kỉ niệm về cố nhạc sĩ Trần Lập)
Anh, chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về hiện tượng được nói đến
trong đoạn trích trên.
Đây là hiện tượng tiêu cực - hiên tượng không được nêu trực tiếp. Học
sinh đọc kĩ đề để xác định hiện tượng. Thông qua đoạn văn về lời chia sẻ trên
ta sẽ xác định được hiện tượng đặt ra ở đây là: thực phẩm bẩn. Ta sẽ có các
nội dung cơ bản như sau:
Bước 1: Nêu rõ hiện tượng:

- Thực phẩm bẩn: thực phẩm chứa chất độc hại có ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe và tính mạng con người.
- Thực trạng: Thực phẩm bẩn là hiện tượng phổ biến đang diễn ra từng
ngày trong xã hội: thịt có chất tạo nạc, rau chứa thuốc trừ sâu, nước mắm
chứa hóa chất, trứng nhân tạo, gạo giả, cá nhiễm chất độc hại…Vấn đề không
mới nhưng đang ở mức báo động.
Bước 2: Phân tích, bình luận
- Hậu quả
+ Bệnh tật nguy hiểm: Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ người
bị ung thư cao nhất thế giới.

21


+ Tâm lí hoang mang cho xã hội; khó phân biệt hàng thât hàng giả.
- Nguyên nhân
+ Do kinh doanh thực phẩm bẩn, không rõ nguồn gốc xuất xứ mang lại
lợi nhuận cao.
+ Việc phát hiện và xử phạt của các cơ quan chức năng còn nhỏ lẻ, manh mún.
- Giải pháp khắc phục
+ Tuyên truyền ý thức và nhận thức cho người sản xuất hàng hóa.
+ Cơ quan chức năng phát hiện kịp thời và xử lí nghiêm minh, thích đáng.
Bước 3: Bài học nhận thức và hành động
- Mỗi người phải nhận thức được thực phẩm bẩn ảnh hưởng đến sức
khỏe, gây bệnh tật nguy hiểm.
- Mỗi người dân là một khách hàng thông minh trong lựa chọn thực
phẩm cho gia đình.
2.3.2.3. Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
a. Đặc điểm nhận diện đề.
- Về nội dung: Đối tượng của dạng đề này là một vấn đề xã hội có ý

nghĩa sâu sắc được đặt ra trong một tác phẩm văn học. Vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học có thể là một tư tưởng đạo lí hoặc một hiện tượng
đời sống.
- Về hình thức của đề: Vấn đề xã hội đó có thể đặt ra trong đề bài (trực
tiếp) hoặc chưa đặt ra (gián tiếp) trong một tác phẩm văn học đã học hoặc
trong một câu chuyện ngắn, câu chuyện nhỏ mà chưa được học trong nhà
trường phổ thông. Tác phẩm văn học hoặc câu chuyện nhỏ chỉ là cái cớ. Mục
đích của dạng đề này là yêu cầu bàn bạc, nghị luận về một vấn đề xã hội. Hãy
tham khảo các đề sau:
Đề 1: Từ nghịch cảnh của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt”(Lưu Qung Vũ), hãy bàn về nỗi khổ của những con
người không được sống đúng là mình.
Đề 2: Từ cuộc đời của nhân vật Xô- cô- lốp trong “Số phận con
người”(Sô- Lô- Khốp), hãy suy nghĩ về những mất mát và nỗi đau do chiến

22


tranh để lại.
Đề 3: Từ tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu), suy
nghĩ của anh/ chị về bạo hành gia đình.
Đề 4: Hình tượng cây Xà nu trong tác phẩm “Rừng Xà nu”của Nguyễn
Trung Thành gợi cho anh chị suy nghĩ gì về lí tưởng và nhân cách của tuổi
trẻ trong cuộc sống?
Đề 5: Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu và bài học: Sống cần có nghĩa, có
tình thủy chung trọn vẹn.
Đề 6: Suy nghĩ của anh/ chị về bài học rút ra từ câu chuyện sau:
Trước kia và bây giờ
Một lần đi thăm một thầy giáo lớn tuổi, trong lúc tranh luận về quan
niệm sống, một sinh viên đã nói:

- Sở dĩ có sự khác biệt là vì thế hệ các thầy sống trong những điều cũ kĩ
của một thế giới lạc hậu, ngày nay chúng em được tiếp xúc với những thành
tựu khoa học tiên tiến hơn nhiều, thế hệ các thầy đâu có máy tính, không có
Internet, vệ tinh viễn thông và các thiết bị thông tin hiện đại như bây giờ...
Người thầy giáo trả lời:
- Những phương tiện hiện đại giúp chúng ta nhưng không làm thay đổi
chúng ta. Còn điều em nói là đúng. Thời trẻ, những người như chúng tôi
không có những thứ em vừa kể nhưng chúng tôi đã phát minh ra chúng và
đào tạo nên những con người kế thừa và áp dụng chúng.
Cậu sinh viên chợt cúi đầu, im lặng.
(Hạt giống tâm hồn, tập 5, NXB Tổng hợp TP.HCM)
Đề 7: Hãy bày tỏ ý kiến của anh/chị về câu chuyện sau :
Dựa vào chính mình
Ốc sên con ngày nọ hỏi mẹ:
– “Mẹ ơi! Tại sao chúng ta từ khi sinh ra phải đeo cái bình vừa nặng
vừa cứng trên lưng như thế? Thật mệt chết đi được!”
– “Vì cơ thể chúng ta không có xương để chống đỡ, chỉ có thể bò, mà
bò cũng không nhanh”– Ốc sên mẹ nói.

23


– “Chị sâu róm không có xương cũng bò chẳng nhanh, tại sao chị ấy
không đeo cái bình vừa nặng vừa cứng đó?”
– “Vì chị sâu róm sẽ biến thành bướm, bầu trời sẽ bảo vệ chị ấy”.
– “Nhưng em giun đất cũng không có xương, cũng bò chẳng nhanh,
cũng không biến hoá được, tại sao em ấy không đeo cái bình vừa nặng vừa
cứng đó?”
– “Vì em giun đất sẽ chui xuống đất, lòng đất sẽ bảo vệ em ấy”.
Ốc sên con bật khóc, nói: “Chúng ta thật đáng thương, bầu trời không

bảo vệ chúng ta, lòng đất cũng chẳng che chở chúng ta”.
– “Vì vậy mà chúng ta có cái bình!”– Ốc sên mẹ an ủi con – “Chúng ta
không dựa vào trời, cũng chẳng dựa vào đất, chúng ta dựa vào chính mình con ạ”.
(Theo Internet)
b. Nội dung, thao tác chính.
Ngoài phần mở bài và kết bài, phần thân bài thường có hai nội dung lớn:
Bước 1: Phân tích ngắn gọn văn bản hoặc nêu vắn tắt nội dung câu
chuyện để rút ra ý nghĩa vấn đề nghị luận. Lưu ý: nếu đề đã có sẵn vấn đề
xã hội thì chỉ cần phân tích ngắn gọn biểu hiện trong tác phẩm; nếu đề chưa
có sẵn vấn đề xã hội thì cần đọc - hiểu, phân tích văn bản để rút ra vấn đề xã
hội và ý nghĩa của vấn đề đó trước khi vào phần hai.
Bước 2: Thực hiện các thao tác nghị luận (tùy thuộc đề bài về tư tưởng
đạo lí hay hiện tượng đời sống để áp dụng phương pháp làm bài cụ thể):
- Giải thích (nếu cần thiết)
- Phân tích, bình luận:
+ Vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm là một tư tưởng, đạo lí cần làm rõ:
biểu hiện của tư tưởng, đạo lí trong đời sống và đưa dẫn chứng để chứng minh.
+ Vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm là một hiện tượng đời sống cần
xác định hiện tượng tích cực hay tiêu cực; làm rõ hiện tượng; ý nghĩa (nếu
hiện tượng tốt), hậu quả (nếu hiện tượng xấu); chỉ ra nguyên nhân; giải pháp
nhân rộng (nếu hiện tượng tốt), giải pháp khắc phục (nếu hiện tượng xấu).
+ Đánh giá, mở rộng về ý nghĩa của tư tưởng, đạo lí hoặc hiện tượng đời

24


sống. Xem xét vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau để có cái nhìn toàn diện nhất.
- Bài học nhận thức và hành động.
c. Vận dụng:
Đề số 1: Từ tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh

Châu, anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình.
Vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là bạo hành
gia đình. Đây là một hiện tượng đời sống có tính chất xấu, hiện tượng tiêu
cực. Với đề bài này ta có các nội dung cơ bản như sau:
Bước 1: Khái quát nội dung câu chuyện
+ Sau khi chụp được bức ảnh tuyệt đẹp, Phùng lại chứng kiến cảnh
người đàn ông hàng chài đánh vợ một cách dã man.
+ Người đàn ông hùng hổ, càu nhàu và dùng dây thắt lưng đánh tới tấp
vào người đàn bà. Người đàn bà cam chị, nhẫn nhục.
+ Nhìn thấy cảnh đó, thằng Phác- đứa con trai, đã chạy vào can ngăn và
bị người bố đánh lại…
Đó chính là hành động bạo hành trong gia đình.
Bước 2: Thực hiện các thao tác nghị luận
- Nêu rõ hiện tượng:
+ Bạo hành: bạo hành gia đình là dùng bạo lực, hành động để khống
chế người khác, xúc phạm đến tinh thần và thể xác của các thành viên trong
gia đình.
+ Thực trạng: Đây là vấn đề bức thiết ở nhiều quốc gia trong đo có Việt
Nam. Bạo hành xảy ra dưới nhiều hình thức: chồng đánh vợ; con cháu đánh,
chửi ông bà, bố mẹ…
- Hậu quả:
+ Tổn thương về thể xác, có thể dẫn tới cái chết.
+ Tổn thương về tinh thần: tình cảm gia đình rạn nứt, có thể tan vỡ.
+ Gây ra nhiều hệ lụy xấu cho xã hội.
- Nguyên nhân:
+ Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa: vì gánh nặng cơm áo, vì cuộc

25



×