Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.94 MB, 154 trang )


TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON
TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM
LỨA TUỔI MẦM NON
Tác giả: NGUYỄN THỊ NHƯ MAI

1


MỤC LỤC
Chuơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM
1. Khái niệm về tâm bệnh học trẻ em
1.1. Tâm bệnh học trẻ em là gì?
1.2. Đối tuợngcủa tâm bệnh học trẻ em
1.3. Nhiệm vụ của tâm bệnh học trẻ em
2. Lịch sử hình thành và phát triển tâm bệnh học trẻ em.
2.1. Thời kì trƣớc thế kỉ XX
2.2. Thế kỉ XX
3. Thế nào là trẻ bình thƣờng và bệnh lí?
4. Phân loại bệnh trong tâm bệnh học trẻ em
5. Những lí thuyết cơ bản của tâm bệnh học trẻ em
5.1. Sinh lí học thần kinh
5.2. Vai trò của yếu tố di truyền
5.3. Những lí thuyết tâm lí học
6. Phƣơng pháp đánh giá tình trạng tâm bệnh lí của trẻ em
6.1. Trò chuyện lâm sàng
6.2. Chẩn đoán hình ảnh
6.3. Đo thính giác
6.4. Trắc nghiệm tâm lí
5.5. Thực nghiệm đánh giá về nhận thức
Câu hỏi ôn tập


Bài tập thực hành
Chƣơng 2. CÁC RỐI LOẠN TÂM LÍ CỦA TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON

2


1. Rối loạn triệu chứng và chức năng
1.1. Rối loạn tâm vận động
1.2. Rối loạn ngôn ngữ
1.3. Rối loạn nhận thức
1.4. Rối loạn biểu hiện hành vi.
1.5. Rối loạn cơ thắt
1.6. Rối loạn giấc ngủ
1.7. Rối loạn chức năng tiêu hóa - ăn uống
1.8. Rối loạn chức năng thở: bệnh hen suyễn
1.9. Rối loạn biểu hiện ở da.
1.10. Chậm lớn do đau khổ tâm lí: chứng lùn tâm sinh
1.11. Trẻ bị ngƣợc đãi
2. Các hội chứng
2.1. Chậm phát triển trí tuệ
2.2. Những biểu hiện nhiễu tâm
2.3. Trầm cảm ở trẻ em
2.4. Tự kỉ
2.5. Loạn tâm cộng sinh (loạn tâm sớm)
2.6. Bệnh ranh giới (pathologies limites / borderline)
Câu hỏi ôn tập
Bài tập thực hành
Chƣơng 3. PHÒNG NGỪA VÀ CHỮA TRỊ RỐI LOẠN TÂM LÍ CHO TRẺ EM
TUỔI MẦM NON
1. Phòng ngừa rối loạn tâm tí ở trẻ em tuổi mầm non

1.1. Các yếu tố nguy cơ dẫn đến rối loạn tâm lí ở trẻ em
3


1.2. Cách phòng ngừa rối loạn tâm lí ở trẻ em tuổi mầm non
2. Chữa trị rối loạn tâm lí ở trẻ em
2.1. Chữa trị rối loạn tâm lí trẻ em cần kết hợp với lĩnh vực nhi khoa, thai nhi
và ngƣời mẹ
2.2. Quy trình chữa trị tâm bệnh trẻ em
2.3. Các cách chữa trị rối loạn tâm lí trẻ em
3. Một số cách xử lí rối nhiễu tâm lí ở trẻ em tuổi mầm non dùng cho giáo
viên mầm non.
Câu hỏi ôn tập
Bài tập thực hành
Tài liệu tham khảo
Phụ Lục: Hệ thống các cơ sở chữa trị rối loạn tâm lí cho trẻ em ở Pháp
---//--TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM
LỨA TUỔI MẦM NON
Tác giả: NGUYỄN THỊ NHƢ MAI
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc ĐINH NGỌC BẢO
Tổng biên tập ĐINH VĂN VANG
Hội đồng thẩm định:
Chủ tịch: TS. NGUYỄN XUÂN HẢI
Nhận xét 1: GS.TS. NGUYỄN QUANG UẨN
Nhận xét 2: TS. NGUYỄN THỊ KIM QUÝ
Biên tập nội dung: NGUYỄN NGỌC HÀ
4



Kĩ thuật vi tính: ĐÀO PHƢƠNG DUYẾN
Trình bày bìa: PHẠM VIỆT QUANG
In 1.000 cuốn, khổ 17 x 24cm, Công ty cổ phần KOV. Đăng kí KHXB số: 782012/CXB/385-43/ĐHSP ngày 13/1/2012
. In xong và nộp lƣu chiểu tháng 6 năm 2012.

5


LỜI NÓI ĐẦU
Tạo mọi điều kiện cho trẻ phát triển tốt là mối quan tâm hàng đầu của ngƣời
lớn. Sự phát triển của trẻ bao gồm nhiều mặt, có thể quy về hai mặt chính: phát triển
về sinh lí và tâm lí. Bản thân hai mặt này lại có liên quan rất chặt chẽ với nhau và có
quan hệ mật thiết với môi trƣờng sống của trẻ. Trong quá trình phát triển, trẻ em có
thể có những phát triển không bình thƣờng hoặc có rối loạn, nói cách khác là có bệnh,
cả về thực thể lẫn tâm lí. Chăm sóc trẻ không thể chỉ về mặt thực thể mà còn cần phải
chăm sóc cả về mặt tâm lí. Phát hiện sớm những bệnh chứng tâm lí của trẻ để có
những can thiệp kịp thời là rất cần thiết, có lợi cho sự phát triển.
Tuổi mầm non là giai đoạn phát triển đầu tiên và rất quan trọng của trẻ em.
Những bất thƣờng, rối loạn về tâm lí có thể xuất hiện ngay từ thời kì này. Ở Việt
Nam, thực tế chữa trị tâm bệnh lí cho trẻ tại Trung tâm nghiên cứu tâm lí và tâm bệnh
lí trẻ em Nguyễn Khắc Viện (Trung tâm N-T) cho thấy số trẻ từ 6 tuổi trở xuống đƣợc
cha mẹ và gia đình đƣa đến khám chiếm phần nhiều. Do những đặc trƣng về phát triển
của lứa tuổi, những rối loạn tâm lí có thể đƣợc biểu hiện theo cách riêng, làm ngƣời
lớn dễ không nhận thấy. Nhận biết để có thể can thiệp sớm những rối loạn tâm lí cho
trẻ có thể giúp trẻ lấy lại sự phát triển bình thƣờng.
Tâm bệnh là một lĩnh vực rất phức tạp, có nhiều nghiên cứu và cũng có nhiều
quan niệm khác nhau. Cuốn sách này giới thiệu về tâm bệnh trẻ em lứa tuổi mầm non
(0 - 6 tuổi) cho sinh viên sƣ phạm, những nhà giáo dục tƣơng lai. Những nội dung
đƣợc trình bày chủ yếu nhằm mục đích giúp cho các giáo viên, các nhà giáo dục, các

bậc cha mẹ nhận biết những rối loạn phát triển tâm lí của trẻ để có thể phát hiện chúng
và có những ứng xử thích hợp để phòng ngừa và chữa trị.
Tác giả

6


Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM
1. Khái niệm về tâm bệnh học trẻ em
1.1. Tâm bệnh học tre em là gì?
Trƣớc hết, cần hiểu thế nào là tâm bệnh học. Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu
năm 1802 do bác sĩ ngƣời Đức J.C. Reil đề cập, rồi ở Pháp năm 1809 do A.A. Royer Colard và đƣợc sử dụng cho đến ngày nay.
Có nhiều cách hiểu về vấn đề này. Cuối thế kỉ XIX, Th. Ribot thực hiện những
nghiên cứu về tâm lí bệnh học dựa vào quan điểm: muốn hiểu đƣợc đời sống tâm lí
bình thƣờng phải nghiên cứu tâm lí bệnh. Ví dụ nhƣ chức năng bình thƣờng của trí
nhớ chỉ có thể đƣợc làm rõ khi so sánh với chứng quên hoặc sự tăng trí nhớ. Các học
trò của ông nhƣ P. Janet, G. Dumas rồi học trò của G. Dumas nhƣ H. Piéron, G.
Poyer, D. Lagache đã tiến hành những nghiên cứu cả về y khoa lẫn tâm bệnh học. Tƣ
tƣởng của trƣờng phái này dựa nhiều vào mặt số lƣợng và sự võ đoán về giới hạn giữa
bình thƣờng và bệnh lí của đời sống tâm lí. Nó đƣợc thay thế bởi sự ra đời của Tâm
bệnh học lâm sàng, với phạm vi rộng hơn nhiều, bao gồm tất cả những nghiên cứu lâm
sàng về các bệnh tâm trí. Cũng có quan niệm cho rằng tâm bệnh học thuộc về y - sinh
lí bệnh học (Cl. Bernard). E. Minkowski đƣa ra hai nghĩa khác nhau của thuật ngữ
này: một mặt, nó là khoa học về bệnh của đời sống tâm lí, giống nhƣ quan niệm của
Ribot; mặt khác, là tâm lí học bệnh học, đặc trƣng bởi cách tiếp cận tồn tại để tìm hiểu
mặt bên trong của kinh nghiệm tâm lí không bình thƣờng của ngƣời bệnh tâm trí.
Trong giáo trình Tâm bệnh học đại cƣơng, G. Deshaies, năm 1959, thể hiện cách hiểu
khác, cho tâm bệnh học nhƣ là một lĩnh vực thuộc tâm bệnh lí lâm sàng... Có thể thấy
có nhiều quan điểm nữa tạo nên lịch sử của khoa học này. Ngày nay ngƣời ta thấy
rằng: tâm bệnh học không chỉ là khoa học về mặt lí thuyết nhận biết các vấn đề về mặt

tâm bệnh lí mà nó là một nhánh của khoa học về con ngƣời, trong đó tổng hợp nhiều
lĩnh vực khác nhau: sinh lí học thần kinh, hiện tƣợng học, tâm lí học, thuyết thực thể,
thuyết cấu trúc...
Có thể quan niệm về tâm bệnh học nhƣ sau: Tâm bệnh học là khoa học nghiên
cứu các quá trình và các dạng thức tố chức dẫn đến những rối loạn tâm lí của con
7


ngƣời. Những rối loạn, bất thƣờng về tâm lí đƣợc gọi là tâm bệnh. Nghiên cứu những
đau khổ về mặt tinh thần, tâm bệnh học có liên hệ chặt chẽ với tâm lí học và đƣợc
phản ánh vào thực tế nghiên cứu, chữa trị chủ yếu thông qua phƣơng pháp tâm bệnh lí
lâm sàng.
Tâm bệnh học trẻ em là khoa học nghiên cứu các quá trình và các dạng thức tổ
chức dẫn đến những rối loạn tâm lí của trẻ em. Cùng nghiên cứu về những rối loạn
tâm lí, tuy nhiên, tâm bệnh học trẻ em có những đặc trƣng riêng. Ra đời muộn hơn
nhiều so với tâm bệnh học ngƣời lớn, tâm bệnh học trẻ em đƣợc xuất phát từ nhiều
nguồn khác nhau. Có thể quy vào hai nguồn chính: giáo dục học trẻ em và tâm bệnh
học ngƣời lớn. Về phƣơng diện giáo dục học, nỗ lực tìm cách giáo dục những đứa trẻ
đƣợc cho là không thể giáo dục đƣợc đã thúc đẩy những nghiên cứu sâu hơn về các trẻ
này, đƣa đến những hiểu biết mới về sự phát triển không nhƣ bình thƣờng trong đời
sống tâm lí của các em. Về phƣơng diện tâm bệnh, những nhà tâm bệnh học trẻ em
đầu tiên đã sử dụng những kiến thức và phƣơng pháp của tâm bệnh học ngƣời lớn.
Nhƣ vậy, tâm bệnh học trẻ em đƣợc xây dựng từ những kinh nghiệm thực tiễn chứ
không phải chỉ là từ những kiến thức lí thuyết về tâm bệnh.
Tâm bệnh học trẻ em phải sử dụng đến nhiều luận thuyết khác nhau. Từ những
năm 50 của thế kỉ XX ngƣời ta đã nhận thấy các lĩnh vực khoa học khác nhau đƣợc
vận dụng vào tâm bệnh học trẻ em. Ngoài các khoa học truyền thống làm chỗ dựa nhƣ
tâm lí học, phân tâm học là lí thuyết về tri thức luận, tập tính học, lí thuyết hệ thống và
giao lƣu, tiếp đó là những kiến thức mới về dịch tễ học, giải phẫu thần kinh, sinh lí
học thần kinh. Tất cả những kiến thức này đƣợc vận dụng để hiểu bản chất, cơ chế của

các rối loạn tâm lí ở trẻ và làm cơ sở cho việc chữa trị các rối loạn này.
Trẻ em lứa tuổi mầm non, từ 0 đến 6 tuổi, là giai đoạn đầu tiên trong quá trình
phát triển của trẻ. Những rối nhiễu, bất thƣờng về tâm lí nếu có đƣợc thể hiện ngay từ
thời kì này. Tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non nghiên cứu, chẩn đoán và chữa trị
các rối nhiễu tâm lí của trẻ em tuổi mầm non.
1.2. Đối tượng của tâm bệnh học trẻ em
Đối tƣợng của tâm bệnh học trẻ em, nói một cách chung nhất, là những rối loạn
về tâm lí ở trẻ. Nói cách khác là tâm bệnh học trẻ em nghiên cứu và chữa trị những trẻ
8


em không bình thƣờng. Cụ thể hơn là trẻ em không đủ khả năng hoặc có những rối
loạn về tính cách và hành vi, đôi khi bao gồm cả hai loại trên, do nguyên nhân di
truyền hoặc môi trƣờng sống, gặp khó khăn lâu dài đối với những đòi hỏi phù hợp với
lứa tuổi và môi trƣờng của trẻ.
Tâm bệnh trẻ em cần đƣợc nhìn nhận theo quan điểm phát triển. Trong suốt
thời kì thơ ấu cho đến tuổi trƣởng thành, một yếu tố quan trọng để xác định trẻ có rối
loạn hay không đó là rối loạn đó xảy ra ở thời điểm nào, xuất hiện thƣờng xuyên hay
không, kéo dài hay không. Yếu tố thời gian rất quan trọng đối với việc đánh giá tình
trạng phát triển của trẻ. Cùng những biểu hiện nhƣng nếu nó xảy ra ở thời điểm này sẽ
bị coi là mất cân bằng tâm lí, nếu xảy ra ở thời điểm khác thì lại không sao. Rối loạn
xuất hiện một vài lần trong tiến trình phát triển hay xuất hiện thƣờng xuyên trong thời
gian dài đều phải đƣợc nhà chuyên môn quan tâm để có đánh giá chính xác. Yếu tố
phát triển cần phải luôn đƣợc các nhà chuyên môn tính đến trong những chẩn đoán và
chữa trị tâm bệnh trẻ em.
Những rối loạn tâm lí của trẻ em lứa tuổi mầm non, từ 0 đến 6 tuổi, là đối
tƣợng nghiên cứu của tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non.
1.3. Nhiệm vụ của tâm bệnh học trẻ em
Nhận biết và làm rõ những rối loạn tâm lí xuất hiện, tồn tại, biến đổi và có thể
mất đi nhƣ thế nào trong quá trình phát triển của trẻ em, tìm hiểu nguyên nhân gây ra

những rối loạn đó và chữa trị cho trẻ, giúp các em phát triển bình thƣờng trở lại là
những nhiệm vụ cơ bản của tâm bệnh học trẻ em.
Khi nghiên cứu, chẩn đoán và chữa trị tâm bệnh trẻ em cần phải biết rằng: rối
loạn tâm lí ở trẻ em và ở ngƣời lớn không giống nhau. Vì vậy, không thể áp dụng cách
hiểu và chữa trị tâm bệnh cho ngƣời lớn đối với trẻ. Không nên có cách nhìn cứng
nhắc, bất biến trƣớc các rối loạn tâm lí ở trẻ em. Trong quá trình phát triển của trẻ, có
rối loạn xuất hiện ở thời điểm này sẽ mất đi một cách tự nhiên hoặc nhờ chữa trị. Có
thể có sự tiếp nối giữa trạng thái tâm lí bình thƣờng và bệnh lí ở trẻ.
Biểu hiện rối loạn tâm lí ở trẻ em cũng khác với ngƣời lớn. Những bất thƣờng
về chức năng cơ thể, những hành vi chống đối... có thể lại là biểu hiện của bất thƣờng

9


về tâm lí. Sự biểu hiện các rối loạn cũng thay đổi theo tuổi, có liên quan tới đặc trƣng
phát triển theo giai đoạn.
Nguyên nhân dẫn tới những rối loạn tâm lí của trẻ khá đa dạng, phức tạp. Một
điều kiện có tính bệnh lí xác định chƣa chắc là nguyên nhân chính dẫn đến rối loạn.
Những nguyên nhân khác nhau có thể gây ra cùng một rối loạn và một nguyên nhân
lại dẫn đến nhiều rối loạn khác nhau. Cũng có khi một rối loạn này kéo theo những rối
loạn khác.
Tất cả những điều này nói lên nhiệm vụ mà tâm bệnh học trẻ em phải giải
quyết là rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhà chuyên môn phải có hiểu biết đầy đủ có
kinh nghiệm và rất thận trọng.
Là một bộ phận của tâm bệnh học trẻ em, tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm
non cũng có những nhiệm vụ chung của tâm bệnh học trẻ em, áp dụng vào lứa tuổi
mầm non. Với đặc trƣng là lứa tuổi có sự phát triển nhanh chóng về cả sinh lí lẫn tâm
lí mà ít có thời kì nào sau đó có đƣợc, khi giải quyết các vấn đề của tâm bệnh học trẻ
em thời kì này càng cần thiết phải quán triệt quan điểm phát triển.


2. Lịch sử hình thành và phát triển tâm bệnh học trẻ em
2.1. Thời kì trước thế kỉ XX
Tâm bệnh học trẻ em có nguồn gốc từ tƣ tƣởng của một số nhà thần học thế kỉ
XIII, XIV. Saint Thomas d'Aquin (1225 - 1274) và Saint Augustin (1354 - 1430) gắn
khiếm khuyết trí tuệ với một nguyên nhân tự nhiên. Cũng vào thời kì này, tòa án tôn
giáo ở châu Âu (thế kỉ XIII) cho rằng ngƣời điên và kẻ ngu đần là biểu tƣợng của tính
ma mãnh, ngu ngốc của con ngƣời.
Thế kỉ XV, XVI có sự đối nghịch về quan niệm giữa những ngƣời cho rằng tất
cả những gì thuộc về con ngƣời, thể hiện ở con ngƣời đều là do tự nhiên với quan
niệm của những ngƣời có tƣ tƣởng về ngƣời bị ma ám. Thời kì này căn nguyên của
chứng ngu ngốc và điên loạn còn chƣa đƣợc biết đến.
Thế kỉ XVII, tƣ tƣởng kết hợp giữa y khoa và giáo dục trong nhìn nhận về
ngƣời có khiếm khuyết trí tuệ xuất hiện. Felix Platter (Thụy Sĩ) năm 1665 là ngƣời

10


đầu tiên đã chỉ ra nguyên nhân về di truyền của khiếm khuyết trí tuệ sau khi nghiên
cứu một nhóm trẻ chậm khôn vừa. Từ đây có quan niệm rằng: khiếm khuyết nặng về
trí tuệ không thể chữa trị đƣợc. Tuy vậy có thể dùng những tác động chữa trị về giáo
dục đối với những khiếm khuyết nhẹ hơn.
Năm 1672, Thomas Willis (Anh) đƣa ra giải pháp chữa trị cho trẻ chậm khôn
bằng cách kết hợp tác động chữa trị của bác sĩ và của nhà giáo dục nhằm cải thiện tình
trạng trí tuệ của trẻ em.
Từ tƣ tƣởng của hai tác giả trên, trào lƣu chữa trị kết hợp y tế - giáo dục đƣợc
hình thành và phát triển.
Thế kỉ XVIII là thời kì khởi đầu của khoa học về tâm bệnh lí trẻ em. Nghiên
cứu về căn nguyên của khiếm khuyết trí tuệ đã cho ra đời các thuật ngữ chậm khôn
nặng (idiot) và chậm khôn vừa (imbécile) trong Bách khoa toàn thƣ của Diderot
(1765) và các cách phân loại khiếm khuyết trí tuệ do Cullen và Pinel đề xuất. Đặc

biệt, nghiên cứu của J.M. Itard (1775 - 1838) về Victor, một đứa trẻ hoang dã ở
Aveyron (Pháp) là một sự kiện quan trọng mở đầu cho sự ra đời của khoa học về tâm
bệnh trẻ em. Chăm chữa cho Victor hàng ngày trong 4 năm liền, tìm mọi cách để em
giao tiếp trở lại nhƣng không thể làm Victor nói đƣợc, Itard đã dừng các chữa trị.
Bệnh của Victor sau đó còn nặng hơn. Năm 1828 Itard lại tiếp tục chăm chữa cho một
nhóm trẻ câm điếc và mất hài hòa trong phát triển.
Thế kỉ XIX, dƣới ảnh hƣởng của tƣ tƣởng của các nhà triết học và giáo dục học
thế kỉ trƣớc nhƣ Locke (1632 – 1704) và Rousseau (1712 - 1778), ảnh hƣởng của cuộc
cách mạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ ở phƣơng Tây, của những tiến bộ về y học
và việc bắt buộc trẻ em phải đi học, trẻ em và đời sống tâm lí của trẻ đƣợc quan tâm
nhiều hơn. Những cơ sở chữa trị đầu tiên cho trẻ chậm khôn nặng xuất hiện ở Pháp
mặc dù vào những năm đầu thế kỉ còn chƣa có một cơ sở chữa trị chuyên biệt nào cho
trẻ. Trƣớc tiên phải nói đến những đóng góp của Jean - Pierre Falret (1794 - 1870) và
Félix Voisin. Falret từ 1821 đến 1840 chăm chữa cho trẻ chậm khôn nặng. Sau 20
năm nghiên cứu ông đƣa ra 2 loại nguyên nhân gây ra bệnh tâm trí: thứ nhất, những
nguyên nhân về cơ thể; thứ hai, những nguyên nhân về tâm lí. Ông cũng quan tâm đến
tiền sử của trẻ và những tác động có thể do hoàn cảnh sống gây ra. F. Voisin, dựa trên
11


tƣ tƣởng của Falret, năm 1834 đã thành lập trƣờng chăm chữa cho trẻ có bất thƣờng
về tâm trí. Những trẻ đƣợc nhận vào trƣờng này là những trẻ chậm tiến về trí tuệ bẩm
sinh, trẻ phạm tội, trẻ có vấn đề về giáo dục và trẻ có cha mẹ loạn trí. Voisin cũng cho
rằng căn nguyên về tâm lí là nguyên nhân của nhiều chứng bệnh ở trẻ em. Cùng thời
gian này Ferrus đã thành lập một cơ sở chữa trị cho trẻ chậm khôn nặng ở Bicêtre
(Pháp) và xây dựng bệnh viện tâm thần Saint Anne. Theo ông, chứng ngu đần không
ảnh hƣởng tới tính ngƣời của ngƣời bệnh. Ông nói đến việc đánh thức các cơ quan
đang ngủ của cơ thể bằng chữa trị về tinh thần và giáo dục.
Căn nguyên của những rối loạn tâm lí ở trẻ em lúc này đƣợc cho là do hai
nguyên nhân: những hỏng hóc lớn của các cơ quan sinh lí kéo theo những bất thƣờng,

bệnh tật của cơ thể và do điều kiện giáo dục.
Khoảng giữa thế kỉ XIX, một trào lƣu mới trong lĩnh vực tâm bệnh lí trẻ em
hình thành. Mở đầu cho trào lƣu này là L. Delasiauve và D. Bourneville. Sau thời gian
nghiên cứu và chữa trị cho trẻ chậm tiến về trí tuệ, nghiên cứu về chứng động kinh và
chậm khôn nặng ở ngƣời lớn, từ 1854 Delasiauve công bố những nguyên tắc chỉ đạo
trong giáo dục ngƣời thiểu năng trí tuệ. Quan tâm nhiều đến yếu tố không thể tác động
đƣợc của ngƣời bệnh, ông mô tả các chứng chậm khôn một phần. Ông phân thành hai
loại bệnh chính: những tổn hại nặng của cơ quan sinh lí do nguyên nhân cơ thể và
những khiếm khuyết một phần do nguyên nhân chƣa xác định. Bourneville năm 1875
trong một báo cáo đã chỉ ra hiện trạng có quá ít những cơ sở chữa trị bệnh tâm lí cho
trẻ em thời đó. Ông thành lập những lớp học chuyên biệt còn gọi là trƣờng học - bệnh
viện tâm trí. Sử dụng những cách chữa trị về y - giáo dục học, ông đƣa ra những bài
tập giáo dục nhằm phát triển những khả năng còn lại ở trẻ, ví dụ nhƣ những bài tập về
biểu tƣợng, vẽ, âm nhạc, trí nhớ, ý chí...
Éduard Seguin (1812 - 1880) là ngƣời có ảnh hƣởng không nhỏ đối với chữa trị
cho trẻ em chậm khôn. Mở một trƣờng học dành cho trẻ chậm khôn từ năm 1839,
dùng phƣơng pháp giáo dục dựa vào cảm giác và trí nhớ, trên cơ sở sáng kiến, hoạt
động thể chất và quan hệ với ngƣời khác của trẻ, tác dụng của những cách chữa trị này
là rõ ràng. Năm 1859 ông sang Mỹ và từ ông nhiều cơ sở giáo dục và chữa trị dành
cho trẻ em cũng nhƣ ngƣời bệnh tâm trí ở Mỹ đƣợc ra đời.
12


Chuyên môn chữa trị cho trẻ chậm khôn, H.T. Vallée (1816 - 1885) năm 1847
đã xây dựng một trung tâm chữa trị của riêng mình ở Gentlli. Từ đây, một trung tâm
nghiên cứu và chữa trị cho trẻ em không bình thƣờng về tâm lí ra đời dƣới tên gọi
Trung tâm Vallée.
Có thể nói rằng, thế kỉ XIX là thời kì phát triển của trào lƣu nghiên cứu, chữa
trị về y tế - giáo dục cho các bất thƣờng về tâm lí ở trẻ em. Dƣới ảnh hƣởng của
Bourneville, Seguin, Vallée và những tên tuổi khác, các nhà nghiên cứu và chữa trị

quan tâm nhiều hơn đến những đứa trẻ chịu đau khổ do các rối loạn tâm lí khác nhau.
Những tƣ tƣởng này đƣợc tiếp tục phát triển, mở rộng và đi sâu trong thế kỉ XX.
2.2. Thế kỉ XX
Thế kỉ XX là thời kì nở rộ nhiều nghiên cứu về tâm bệnh lí trẻ em. Kế thừa
những tƣ tƣởng và nghiên cứu về tâm bệnh lí trẻ em ở thời gian trƣớc, nhiều lĩnh vực
của tâm bệnh lí trẻ em đã đƣợc làm rõ hơn. Có thể kể đến những nghiên cứu về các
lĩnh vực chính sau nảy sinh từ đầu thế kỉ:
Nghiên cứu về chậm phát triển trí tuệ, mất trí và loạn tâm trẻ em
- Mất trí sớm ở trẻ em
Trong các tài liệu về chữa trị tâm bệnh lí, Emil Kraepelin (1855 – 1926), nhà
tâm bệnh học ngƣời Đức, đã mô tả một loại bệnh đƣợc gọi là mất trí sớm do nhận thấy
những dấu hiệu của bệnh mất trí có từ rất sớm. Những biểu hiện lâm sàng của ngƣời
bệnh không thống nhất, thậm chí trái ngƣợc nhau, có biểu hiện tự tỏa, tiến triển lạ lùng
dẫn tới tình trạng ngây độn và thiếu liên kết.
S. De Sanctis (1862-1935) cũng quan tâm tới những dạng thức của mất trí sớm
và chỉ ra những đặc trƣng của chứng bệnh này. Đó là:
+ Trí nhớ tốt.
+ Khả năng tri giác tốt.
+ Không ổn định về chú ý.
+ Thiếu/hoặc không có tƣ duy cấp cao.
+ Rối loạn nghiêm trọng hoạt động tự do.
13


+ Rối loạn tính cách và thái độ.
Nhiều tác giả mô tả những mất trí sớm, xuất hiện giữa 5 và 10 tuổi mà không
có rối loạn rõ ràng trƣớc đó. Những quan sát trên trẻ chậm khôn trung bình bổ sung
thêm cho những nhận định này.
Năm 1913, Kraepelin nghiên cứu mối liên hệ giữa mất trí sớm và chậm khôn
trung bình. Theo ông, chậm khôn trung bình là dấu hiệu thúc đẩy và là dấu hiệu rất

sớm của bệnh mất trí. Năm 1933, Targowla đề cập đến lĩnh vực những chậm phát
triển tinh thần tiến triển.
- Tâm thần phân liệt
Những nghiên cứu về mất trí sớm cũng đƣợc Eugen Bleuler (Thụy Sĩ) thực
hiện năm 1911. Theo ông, hơn cả một tan rã về nhân cách, mất trí là sự sụp đổ toàn bộ
đời sống tâm trí và không thể phục hồi đƣợc. Ông nói đến bệnh tâm thần phân liệt,
bệnh mà triệu chứng phụ của nó là mất trí. Từ ông, mất trí sớm và mất trí ở trẻ em
đƣợc thay tên gọi là tâm thần phân liệt trẻ em.
G. Heuyer (1884 - 1977), một bác sĩ Pháp, quan tâm đến nguyên nhân của
những loạn tâm trẻ em mà Kraepelin cho là căn nguyên thuộc về các cơ quan sinh học.
Ông đƣa ra ý kiến về căn nguyên tâm lí - tình cảm của sự phát triển bệnh lí ở trẻ em.
M. Klein (1882 – 1960), trong những bài viết đầu tiên của mình về phân tích
tâm lí, đƣa ra cách hiểu theo tâm lí học phát triển về bệnh tâm trí, gắn bệnh tâm trí với
các nguyên nhân tâm lí.
H. Ey (1900 - 1977), với cách tiếp cận tích hợp đã kết hợp hai trƣờng phái
chính đã có về nguyên nhân của bệnh tâm trí ở trẻ. Ông cho rằng bệnh tâm trí không
chỉ có căn nguyên cơ thể hay căn nguyên tâm lí mà là do cả hai.
- Tự kỉ ở trẻ em
Năm 1943, L. Kanner đã làm rõ một chứng bệnh đặc biệt: tự kỉ trẻ em, hay còn
gọi là bệnh Kanner. Ông phân biệt tự kỉ ở trẻ nhỏ với tâm thần phân liệt trẻ em. Khác
với tâm thần phân liệt ở trẻ em, tự kỉ không phải là quá trình thoái lui khỏi một kiểu
quan hệ trƣớc đó mà hơn thế là sự cô đơn tự tỏa cực độ.

14


Ở tự kỉ sớm của trẻ em, đứa trẻ làm ngơ, loại trừ và từ khƣớc mọi cái đến từ
bên ngoài nhƣ ngƣời, tiếng động, đồ vật... Những đối tƣợng này đƣợc trẻ coi nhƣ mối
đe dọa.
Những trẻ mắc bệnh tự kỉ cho cảm tƣởng rằng trẻ không nhìn thấy, không nghe

thấy gì ở xung quanh. Trẻ thƣờng không có ngôn ngữ và không bao giờ sử dụng đại từ
nhân xƣng ngôi thứ nhất (con, cháu, em, tôi...).
- Loạn tâm trẻ em
Thuật ngữ tâm thần phân liệt ở trẻ em (schizophrénie infantile) thể hiện thái
quá trạng thái tiêu cực của sự phân rã thế giới nội tâm ở trẻ. Nó đƣợc thay bằng loạn
tâm (psychose), với nghĩa ít bi quan hơn. Từ đây, ngƣời ta sử dụng thuật ngữ loạn tâm
trẻ em. Các loại loạn tâm trẻ em đƣợc đề cập đến cách đây không lâu, trong một bài
viết của Diatkine năm 1959 ở Từ điển bách khoa về giải phẫu y học. Cũng có những
tác giả khác nghiên cứu về loạn tâm trẻ em nhƣ Bettelheim, Lang, Misès...
Nghiên cứu về những rối loạn tâm lí khác nhẹ hơn
Đây là một cách nhìn nhận mới, một hƣớng nghiên cứu mới trong tâm bệnh
học trẻ em. Những nghiên cứu theo hƣớng này nhằm làm rõ ảnh hƣởng của các rối
loạn lành tính hơn, không làm ảnh hƣởng nhiều đến quá trình phát triển của trẻ.
Những trẻ có nguy cơ sẽ đƣợc phát hiện, tƣ vấn hƣớng dẫn, khuyên bảo và định
hƣớng về mặt y tế giáo dục.
Cùng với những nghiên cứu, nhiều cơ sở nội trú, ngoại trú đƣợc mở cho trẻ có
tính tình đặc biệt. Những trung tâm y - tâm lí - giáo dục (CMPP) ra đời.
Năm 1948, ở Pháp, việc đào tạo các nhà tâm bệnh trẻ em đƣợc bắt đầu. Heuyer
là giáo sƣ đầu tiên giảng dạy về tâm thần kinh trẻ em.
Có thể thấy, nếu nhƣ ở đầu thế kỉ XX chƣa có nhiều những công trình nghiên
cứu, chữa trị rối loạn tâm lí trẻ em và xu hƣớng áp dụng vào trẻ những kết quả nghiên
cứu ở ngƣời lớn còn khá phổ biến thì càng về sau sự khác biệt giữa rối loạn tâm lí ở
trẻ em và ở ngƣời lớn càng đƣợc nhận rõ. Nhận biết đƣợc những đặc trƣng trong tâm
bệnh trẻ em, các nhà chuyên môn tìm cách chữa trị hiệu quả nhất đối với các rối loạn
của trẻ.
15


Ngày nay, rối loạn tâm lí ở trẻ em ngày càng đƣợc quan tâm nhiều hơn. Các
công trình nghiên cứu và ứng dụng về tâm bệnh lí trẻ em rất phong phú, có ở nhiều

quốc gia trên thế giới. Các nghiên cứu hiện nay hƣớng vào một số chứng bệnh tâm lí
đặc trƣng và ngày càng xuất hiện nhiều ở trẻ em nhƣ bệnh tự kỉ. Một số rối loạn tâm lí
mới cũng đƣợc phát hiện, bổ sung nhƣ bệnh ranh giới... Càng ngày ngƣời ta càng nhận
ra rằng rối loạn tâm lí trẻ em không chỉ ảnh hƣởng lớn tới cuộc sống của trẻ, của gia
đình mà còn ảnh hƣởng đến xã hội. Nghiên cứu và chữa trị tâm bệnh trẻ em giúp cho
trẻ lấy lại đƣợc sự phát triển bình thƣờng có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt.
Nhƣ vậy, trải qua một thời gian dài, lịch sử tâm bệnh học trẻ em trên thế giới
đã ghi dấu nhiều tƣ tƣởng, nhiều công trình nghiên cứu với tên tuổi các nhà khoa học
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Sự phát triển của khoa học về tâm bệnh trẻ em mang
lại lợi ích to lớn cho sự phát triển bình thƣờng của trẻ, giúp các em có cơ hội trở thành
những ngƣời có ích cho xã hội.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu và chữa trị bệnh tâm lí cho trẻ em đƣợc phát
triển cùng với sự ra đời của Trung tâm Nghiên cứu Tâm lí trẻ em N-T do bác sĩ
Nguyễn Khắc Viện sáng lập năm 1989, xuất phát từ thực tế những năm 1980 có một
số trẻ em và vị thành niên bị rối loạn tâm trí, khó khăn trong giao tiếp ứng xử và trong
học tập. Từ khi thành lập đến nay, Trung tâm N-T đã tiến hành nhiều nghiên cứu
hƣớng đến nhận dạng, phân loại, chẩn đoán, phát hiện sớm và chăm chữa các rối
nhiễu tâm lí ở trẻ. Nhiều trẻ em và vị thành niên đã đƣợc chăm chữa tại các cơ sở thực
hành của N-T. Năm 1997 Nguyễn Khắc Viện công bố lần đầu tiên cuốn sách Tâm lí
lâm sàng trẻ em Việt Nam (Nxb Y học), đúc kết những kết quả nghiên cứu và ứng
dụng trong nhiều năm cách trị liệu rối loạn tâm lí cho trẻ em Việt Nam.
Ngoài ra tại một số bệnh viện Nhi cũng có các khoa Tâm bệnh để chẩn đoán và
chữa trị rối nhiễu tâm lí cho trẻ em. Điển hình là Bệnh viện Nhi Trung ƣơng Hà Nội,
Bệnh viện Nhi đồng, Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với việc chẩn đoán và chữa trị,
các chuyên gia về tâm bệnh trẻ em tại đây còn tiến hành các nghiên cứu và ứng dụng
vào quá trình chăm chữa cho trẻ.

16



3. Thế nào là trẻ bình thường và bệnh lí?
Phân biệt giữa trẻ có tâm lí bình thƣờng và bệnh lí là không dễ dàng. Có nhiều
quan điểm khác nhau về vấn đề này, mỗi quan điểm lại có cách tiếp cận riêng, có tiêu
chí riêng. Tuy nhiên, có thể phân biệt giữa trẻ bình thƣờng và trẻ bệnh lí theo các tiêu
chí sau: theo sự phát triển trung bình, theo khả năng thích ứng và theo đánh giá chủ
quan của trẻ về chất lƣợng sống.
- Sự phát triển trung bình
Giá trị trung bình của trình độ phát triển của trẻ ở một độ tuổi nhất định, còn
gọi là sự phát triển trung bình. Giá trị trung bình này đƣợc xác định theo một nhóm
mẫu và sẽ thay đổi theo đặc trƣng của những đứa trẻ đƣợc lựa chọn trong mẫu. Vì
vậy, xác định sự phát triển trung bình phải tính đến những khác biệt về xã hội của
nhóm đƣợc chọn làm mẫu. Nếu không làm đƣợc nhƣ vậy thì sẽ không chính xác, có
khác biệt lớn với những tiềm năng phát triển của trẻ. Nhƣ vậy, với điều kiện là có tính
đến yếu tố khác biệt này, khái niệm sự phát triển trung bình là một cách tiếp cận có
ích để đánh giá một bệnh. Để có thể xác định đƣợc giá trị trung bình của trình độ phát
triển, nói cách khác là xác định đƣợc chuẩn đánh giá trẻ bình thƣờng hay bệnh lí theo
tiêu chí này, phải dựa vào những phƣơng pháp đo lƣờng của tâm lí học về các mặt số
lƣợng, thống kê hoặc chất lƣợng của sự phát triển các chức năng tâm lí. Do đặc trƣng
của hoạt động tâm lí, những đo lƣờng này nhìn chung đều có tính phóng chiếu.
Trƣớc những trẻ chậm phát triển hơn so với những trẻ có mức độ phát triển
trung bình, vấn đề quan trọng nhất và cũng khó khăn nhất đó là đánh giá tiềm năng
phát triển của trẻ. Trẻ có chậm thực hay không? Nó có thể đạt đƣợc những trình độ
phát triển tâm lí mà những bạn cùng tuổi với nó đạt đƣợc hay không, dù là phải mất
nhiều thời gian hơn. Hay là nó sẽ trở thành một ngƣời lớn vô dụng, ít thích ứng hơn so
với những ngƣời khác. Những câu hỏi này luôn đƣợc đặt ra để có cái nhìn thận trọng
đối với những đứa trẻ đƣa coi là trẻ chậm phát triển.
- Sự thích ứng
Khả năng thích ứng là một tiêu chuẩn về bình thƣờng hay đƣợc dùng. Thích
ứng là khả năng phản ứng để lấy lại sự cân bằng đã mất. Cùng với sự phát mến, trẻ


17


luôn phải thích ứng với những điều kiện sống mới. Bằng tính năng động của hoạt
động tâm lí, đứa trẻ bình thƣờng phải tự tìm lại đƣợc sự cân bằng của đời sống tinh
thần cho mình.
Với trẻ em, phải đánh giá khả năng thích ứng của chúng trong mối liên quan
với độ tuổi, với môi trƣờng sống và kinh nghiệm của trẻ. Khả năng mà trẻ thể hiện khi
đối mặt với những yếu tố mới của đời sống nhƣ vắng cha mẹ, có thêm em bé, đi nhà
trẻ hoặc mẫu giáo... là yếu tố đánh giá quan trọng về mặt lâm sàng.
- Trạng thái chủ quan
Mặt chủ quan là mặt chủ yếu của sức khỏe tâm thần trẻ em. Khả năng trẻ cảm
nhận niềm vui, sự thoải mái, tò mò... trong cuộc sống là những thứ đƣợc nhận biết
không trực tiếp nhƣng lại giúp hiểu rõ về sự phát triển tâm lí của trẻ. Một đứa trẻ háu
động, lo hãi, trầm cảm, hoang tƣởng... không thể là một đứa trẻ bình thƣờng.
Từ những tiêu chí trên, có thể nói rằng trẻ có tâm lí bệnh lí là những trẻ không
đạt đƣợc trình độ phát triển trung bình, khả năng thích ứng kém và có những đau khổ,
bất thƣờng trong cảm nhận chủ quan về cuộc sống, đƣợc thể hiện thông qua các hành
vi.
Trong tâm bệnh học trẻ em, để xác định tình trạng của trẻ nhất thiết cần đánh
giá về mặt lâm sàng. Để đánh giá, phải xác định mức độ phát triển, nghiên cứu những
hoàn cảnh riêng, những tiềm năng thích ứng, những đánh giá chủ quan của đứa trẻ về
cuộc sống, tính chất tác động của môi trƣờng chung quanh. Tất cả những yếu tố: di
truyền, sinh học, môi trƣờng, các quan hệ, gia đình, xã hội, tâm lí... tác động qua lại
một cách phức tạp và có ý nghĩa khác nhau đối với sự phát triển bình thƣờng hay bệnh
lí của trẻ. Việc lựa chọn các công cụ nghiên cứu phù hợp đối với các kiểu rối loạn là
rất quan trọng và không thể không dùng những công cụ đo lƣờng và phóng chiếu của
tâm lí học. Đánh giá về những vấn đề này đòi hỏi hết sức thận trọng và chuẩn mực.
Mọi đánh giá đều phải tính đến yếu tố phát triển về mặt thời gian.


4. Phân loại bệnh trong tâm bệnh học trẻ em
Quan điểm về tiếp cận nhiều mặt đƣợc sử dụng trong phân loại tâm bệnh trẻ
em. Cần sử dụng cách tiếp cận này do tính phức tạp của những yếu tố chi phối sự phát
18


triển tâm lí không bình thƣờng của trẻ. Có thể kể đến các mặt: tiềm năng nhận thức,
bệnh thực thể, các sự kiện của đời sống, các yếu tố tâm lí xã hội, hoạt động... Tùy theo
các nghiên cứu khác nhau, mặt này hoặc mặt kia sẽ đƣợc cụ thể hóa và phân tích
chính xác. Tiếp cận nhiều mặt có lợi ở chỗ nó giúp tìm hiểu trẻ dƣới nhiều góc độ,
tính đến sự khác biệt của trẻ và những tiềm năng phát triển của các em.
Có những cách phân loại chính sau đây theo quan điểm tiếp cận nhiều mặt:
- Phân loại quốc tế, CIM-10 (Classification lnternationale des Maladies, 10ème
révision) (tiếng Anh là ICD-10). Đây là cách phân loại của Tổ chức thế giới về sức
khỏe (OMS). Cách phân loại này gồm ba mặt: chẩn đoán về tâm bệnh, chẩn đoán về
cơ thể và các vấn đề về tâm lí xã hội. Trong ba mặt này thì mặt tâm lí xã hội là chi tiết
nhất.
- Phân loại theo Giáo trình chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm trí, DSM-IV
của Mỹ (Manuel Dianostique et Statistique des troubles mentaux de 1Association
Améncaine de Psychiatrie). Cách phân loại này đƣợc sử dụng nhiều nhất, phân loại
theo năm trục: lâm sàng, nhân cách, chẩn đoán về cơ thể, tâm lí xã hội và hoạt động
hiện tại.
- Phân loại những rối loạn tâm trí ở trẻ em và thiếu niên ở Pháp, CFTMEA
(Classification Franaise des Troubles Mentaux de 1Enfant et de 1Adolescent). Cách
phân loại này đƣợc nhiều nhà lâm sàng ở Pháp sử dụng. Hơn cả một chẩn đoán
chuyên ngành, cách phân loại này còn dựa vào kinh nghiệm và phán đoán của nhà lâm
sàng. Nó đƣợc tổ chức theo hai trục: lâm sàng và các yếu tố kết hợp, giúp hiểu đƣợc
cả những yếu tố thực thể lẫn những điều kiện về mặt môi trƣờng.
- Phân loại theo chẩn đoán tâm thần động học (PDM, psychodynamic
diagnostic manual) là một cách phân loại mới ở Mỹ. Cách phân loại này dựa trên ba

trục: trắc đồ chức năng tâm trí, mô tả khả năng điều hòa, học tập, thiết lập quan hệ,
kiểu tự vệ của trẻ...; trắc đồ nhân cách, phân biệt những kiểu mới xuất hiện và mức độ
nghiêm trọng có thể có; cuối cùng là kinh nghiệm chủ quan của trẻ. Theo cách phân
loại này, các loại bệnh tâm trí ở trẻ rất phong phú.

19


Với mỗi cách phân loại lại có các loại bệnh khác nhau. Ví dụ, theo cách phân
loại CFTMEA, với trục lâm sàng, có các loại bệnh chính sau:
1. Tự kỉ và loạn tâm.
2. Loạn - nhiễu tâm.
3. Bệnh ranh giới.
4. Rối loạn phản ứng.
5. Thiểu năng trí tuệ.
6. Rối loạn phát triển và các chức năng công cụ.
7. Rối loạn nhận thức và khả năng học tập.
8. Rối loạn tâm vận động.
9. Rối loạn hành vi.
10. Rối loạn biểu hiện cơ thể.
11. Những biến đổi của tình trạng bình thƣờng.
Theo các nghiên cứu quốc tế, tỉ lệ mắc các rối loạn tâm bệnh chính ở trẻ em,
phân bố theo giới tính và tuổi trung bình bắt đầu bị bệnh đƣợc biểu thị ở bảng sau:
Tỉ lệ mắc bệnh, phân bổ theo giới tính và độ tuổi trung bình mắc các rối nhiễu
tâm bệnh ở trẻ em và thiếu niên theo CIM-10
Loại rối loạn

Thiểu năng trí tuệ
Tự kỉ
Rối loạn tăng động

Vụng đọc
Rối nhiễu ám ảnh cƣỡng bức
Lo âu chia li

Tỉ lệ mắc

Tỉ lệ

Tuổi TB

nam/nữ

mắc phải

2 - 3%

2/1

<3

4/10.000

4/1

<3

1 - 2%

4/1


<6

2%

2/1

6

0,5%

2/1

10

3%

1/1

6

20


Tự sát

0,5/10.000/năm

1/2

15


Trầm cảm

2 - 5%

1/2

15

(Kết quả trên là tỉ lệ mắc bệnh hàng năm đƣợc nghiên cứu thống kê ở trẻ từ 5 14 tuổi trên 100.000 dân. DREES, 2006).
Ở Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu tâm lí và tâm bệnh lí trẻ em Nguyễn Khắc
Viện (Trung tâm N-T) đƣa ra danh mục 8 nhóm rối nhiễu tâm lí của trẻ em Việt Nam
nhƣ sau:
- Nhóm l: Những khó khăn trong học tập (vụng đọc, vụng viết, khả năng chú ý
giảm hoặc kém, chán học, học sút, học kém...).
- Nhóm 2: Rối nhiễu tâm thể (rối nhiễu giấc ngủ, rối nhiễu bài tiết, rối nhiễu
tiêu hóa, tic, những biểu hiện tự hủy hoại bản thân...).
- Nhóm 3: Rối nhiễu nhân cách (một số nét tự kỉ, tự kỉ...).
- Nhóm 4: Rối nhiễu ngôn ngũ (nói ngọng, nói lắp, chậm nói, nói ngƣợc...).
- Nhóm 5: Rối nhiễu vận động (chậm đi, vận động khó khăn, vận động vụng
về...).
- Nhóm 6: Lo hãi, trầm cảm (sợ trƣờng học, sợ nƣớc, sợ độ cao, sợ đám đông,
nhút nhát, ức chế, mút tay, nhổ tóc, nghịch phân, ức chế, kiêu căng, tự đại, mƣu toan
tự sát...).
- Nhóm 7. Rối nhiễu hành vi (hiếu động quá mức, hung tính, ăn cắp, bỏ nhà
trốn nhọc...).
- Nhóm 8: Rối nhiễu về giới tính (thủ dâm, ứng xử nhƣ ngƣời khác giới...).
Trong giáo trình này, phân loại các rối loạn tâm lí chủ yếu dựa theo cách phân
loại của Pháp có tham khảo cách phân loại theo DSM-IV. Các rối loạn tâm lí của trẻ
em đƣợc trình bày thành hai phần chính: rối loạn triệu chứng và chức năng và các hội

chứng.

5. Những lí thuyết cơ bản của tâm bệnh học trẻ em
5.1. Sinh lí học thần kinh
21


Từ lâu, các nghiên cứu đã chỉ ra vai trò quan trọng của hoạt động của não và hệ
thống thần kinh đối với đời sống tâm lí con ngƣời. Ảnh hƣởng của hoạt động thần
kinh đến tâm lí ngƣời rất lớn, rất phức tạp. Cấu tạo, chức năng của nơ-ron, vai trò của
các chất dẫn truyền thần kinh nhƣ noradrénaline, dopamine, sérotonine và
acétylcholine đối với tính chất của các quá trình và chức năng tâm lí đã đƣợc nghiên
cứu và phần nào làm rõ. Ở đây đề cập đến vấn đề thành thục về sinh lí thần kinh và
định khu chức năng não.
- Sự thành thục về sinh lí thần kinh
Những ngày đầu tiên sau khi chào đời, cấu trúc và chức năng của não bộ của
trẻ phát triển nhanh chóng. Sự thành thục về mặt thần kinh gắn với sự thành thục dần
dần của hành vi, nhƣng đây là một quá trình rất phức tạp chứ không phải là sự đi kèm
đơn giản. Nghiên cứu sự phát triển của các chức năng và các ứng xử ngƣời cần phải
xem xét: cái tồn tại trong một thời gian và sẽ thay đổi theo thời gian; cái tồn tại rồi
mất đi, rồi lại xuất hiện, rồi lại mất đi một cách tuần tự; cái tiến triển về mặt chức
năng dần dần cho đến khi có đƣợc một số hình thức xác định, từ đó mà quá trình đƣợc
biến đổi.
Trong quá trình thành thục, cần phân biệt mặt giải phẫu sinh lí thần kinh, mặt
chức năng và mặt hoạt động. Giải phẫu học là hình thái học thuần túy, chức năng là hệ
thống có tính tiềm năng và hoạt động là sự hoạt động của hệ thống này. Ba mặt này
tạo ra những mức độ tổ chức khác nhau, duy trì những quan hệ khác nhau đối với
những yếu tố bẩm sinh và với môi trƣờng. Về mặt giải phẫu, sự thành thục có quy luật
của nó, là điều kiện cần thiết đối với sự phát triển nhƣng không đủ để giải thích hành
vi và sự phát triển của hành vi trong suốt thời kì phát triển của trẻ em. Thêm vào đó,

tình trạng chƣa thành thục không thể hiểu một cách đơn giản là sự thiếu hụt, sự giảm
bớt so với thành thục. Những nghiên cứu mới nhất chỉ ra rằng: chƣa thành thục không
phải chỉ là thiếu hụt, nó có những quy luật riêng về hoạt động phải đƣợc xem xét theo
quan điểm phát triển về mặt thời gian. J. Scherrer phân biệt bốn mặt tạo nên đặc trƣng
của sự chƣa thành thục về chức năng của một hệ thống thần kinh:
- Yếu về số lƣợng của những nơ-ron hoạt động và có thể hoạt động, số lƣợng
này bao giờ cũng ít hơn ở ngƣời lớn.
22


- Chậm dẫn dắt các tín hiệu.
- Chậm lƣu thông những xung động thần kinh, có quan hệ với khó khăn trong
chuyển giao xi-nap.
- Nhạy cảm đặc biệt của nơ-ron với môi trƣờng ở một số thời kì phát triển.
Sự chƣa thành thục về sinh lí thần kinh còn có thể ảnh hƣởng đến tính ổn định
có chọn lọc của xi-nap. Lí thuyết SSS của J.P. Changeux và A. Danchin cho rằng chỉ
có những xi-nap hoạt động nhất, bị kích thích nhất, tồn tại thƣờng xuyên nhất mới có
tính ổn định. Những cái khác sẽ bị thoái hóa đi. Thiếu kích thích thích đáng, hệ thống
xi-nap, chƣa thành thục khi mới sinh, bình thƣờng sẽ chuyển sang giai đoạn nhạy cảm
tốt hơn sau đó, sẽ không đƣợc nhƣ thế nữa.
Điểm chính để đánh giá hành động thành thục là đánh giá tác động qua lại giữa
hành động, chức năng của nó và cấu trúc giải phẫu - thần kinh tƣơng ứng. Nếu nhƣ
cấu trúc về giải phẫu phụ thuộc phần lớn vào cái bẩm sinh thì hành vi lại phụ thuộc
vào môi trƣờng ở đó đứa trẻ lớn lên. Những hành vi bẩm sinh có thể đƣợc thay thế
dƣới tác động của môi trƣờng sống. Nhƣ vậy, khi xem xét hành vi của trẻ không thể
phân chia một cách đơn giản cái vốn có, bẩm sinh chi phối và cái chịu ảnh hƣởng của
tác động môi trƣờng. Sự tác động qua lại giữa gen và môi trƣờng là không thể phủ
nhận.
- Định khu chức năng não
Xác định cơ sở sinh lí thần kinh của hành vi con ngƣời là rất khó do sự phát

triển của hệ thống thần kinh trung ƣơng và của rất nhiều hệ thống tác động qua lại ảnh
hƣởng đến hành vi. Sau những kết quả nghiên cứu bằng mắt thƣờng chỉ ra mối liên hệ
giữa những tổn thƣơng não với những rối loạn hành vi, ví dụ rối loạn mất ngôn ngữ ở
ngƣời mắc bệnh ở bán cầu não trái. Ngày nay việc sử dụng kĩ thuật hình ảnh (scanner,
cộng hƣởng từ - MRI) giúp cho việc nghiên cứu chức năng của những trung khu não
ngày càng tinh vi hơn. Những lí thuyết về cấu trúc hệ thống chức năng nhƣ hệ lim-bic
đối với chức năng cảm xúc đƣợc xác định. Ngoài ra, hệ thống những cấu trúc trung
tâm nhƣ đồi não, vùng dƣới đồi, thùy hải mã, phức hợp hạnh nhân và vùng đáy thùy
trán... rồi những đƣờng dẫn đến và đi ra nhƣ đƣờng đến của cảm giác từ thân não,

23


đƣờng đến từ vùng tân não, đƣờng đi xuống trung tâm não trƣớc... với những chức
năng của nó đều can thiệp vào tính chất của hành vi, ứng xử của con ngƣời.
Bảng sau đây thống kê những chức năng chính và những ứng xử có thể có ứng
với những thùy não khác nhau:
Vỏ não ngƣời và những chúc năng cấp cao chính
Chức năng

Thùy vỏ não
Thùy trán

Hành động chủ ý, ứng xử, động cơ, chức năng thực hành
ngôn ngữ (thùy trái)
Nhịp điệu vận động (thùy phải)

Thùy thái dƣơng

Nghe, nhớ, xúc cảm

Thông hiểu ngôn ngữ (thùy trái)
Nhịp nhận cảm (thùy phải).

Thùy đỉnh

Nhạy cảm về xúc giác.
Chức năng tri giác thị giác về không gian (thùy phải)
Đọc (thùy trái), tính toán (thùy trái)

Thùy chẩm

Nhìn.
Tri giác thị giác.

Tuy vậy, không thể chỉ xem xét hoạt động của não theo quan điểm định khu
chức năng về mặt giải phẫu. Một mặt, sự tồn tại những hệ thống điều chỉnh, nhận
những thông tin có nguồn gốc đa dạng bên trong, ở trung tâm hoặc ngoại biên, và cả ở
bên ngoài, điều biến hoạt động sinh lí thần kinh. Sự hoạt động hoặc ức chế của hệ
thống điều chỉnh này giúp tạo lập mối liên kết giữa tính chất của tác động của môi
trƣờng với khả năng đáp lại của hệ thống thần kinh. Hệ thống điều chỉnh này thƣờng
có cơ sở sinh lí là những chất chuyển giao thần kinh nhƣ dopamine, noradrénaline,
sérotonine. Chúng làm rõ nhiều hành vi bình thƣờng và sai lệch của con ngƣời hơn so
với quan điểm về tổn thƣơng não. Mặt khác, một số chức năng tâm lí ngƣời không thể
gắn đơn thuần với một cấu trúc não nào đó, ví dụ nhƣ ý thức hoặc khả năng phân biệt
24


×