Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Phân cấp quản lý trong chi NSNN cho các đơn vị giáo dục và đào tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.49 KB, 59 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
“ Giáo dục là quốc sách” đó là lời khẳng định đã được ghi trong nhiều
Văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ, điều đó chứng tỏ vai trò của giáo dục
đã được Đảng và Nhà nước ta nhận thức và quan tầm trong nhiều năm qua.
Một đất nước phát triển không thể tồn tài một nền giáo dục yếu kém và ở
trình độ thấp, một doanh nghiệp thành công không thể không có những nhân
viên, nhà quản lý có trình độ học vấn cao, và một con người được coi là thành
đạt, có ích cho xã hội không thể là một con người không có giáo dục. Việt
Nam vốn là một dân tộc hiếu học, có truyền thống văn hiến từ ngàn đời, ở
thời kỳ nào dù là thời bình hay thời chiến , giáo dục luôn được chú trọng và
phát triển, đồng thời nhờ có giáo dục mà Việt Nam đã có được nhiều anh
hùng, danh nhân văn hoá kiệt xuất giúp nước đánh giặc và xây dựng đất nước.
Thời đại ngày nay, Việt Nam với tham vọng to lớn “ thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá trong những năm tới” đã xác định con đường để
đạt tham vọng đó là phải phát triển một cách toàn diện và mạnh mẽ nền giáo
dục và đào tạo của đất nước. Với nhận thức và tầm nhìn đó, toàn dân tộc ta
đang bắt tay vào sự nghiệp trồng người với quy mô lớn và chất lượng cao.
Tuy nhiên, với xuất phát ở trình độ thấp, lực lượng lao động ở Việt Nam hiện
nay vẫn còn thấp, chủ yếu là lao động giản đơn và chưa qua đào tạo trong khi
đó với sự phát triển của khoa học và công nghệ thì nhu cầu về lao động chất
lượng cao là rất bức thiết. Điều đó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải
được quan tâm ở mức độ cao hơn và đi vào chiều sâu.
Trong những năm qua, cùng với đất nước, ngành giáo dục và đào tạo
(GDĐT) Hà Nội nói riêng và uỷ ban nhân dân(UBND) thành phố đã quan tâm
và đề ra những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm giải quyết những vấn
đề cơ bản và lâu dài của sự nghiệp giáo dục Thủ đô. Mặc dù còn nhiều khó
khăn nhưng ngành giáo dục Thủ đô vẫn không ngừng phấn đấu, hoạt động
sáng tạo nhằm góp phần thực hiện mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra, đó là
Trần Huy Công LớpQLKT44A
1


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chăm lo hạnh phúc con người , nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài tiến lên CNXH. Với vai trò quản lý toàn diện một quốc gia, nhà nước
(NN) đã sử dụng nhiều công cụ, biện pháp để thực hiện chức năng quản lý
điều tiết vĩ mô nền kinh tế của mình. Trong đó ngân sách nhà nước (NSNN)
được coi là công cụ đặc biệt quan trọng giúp NN thực hiện các chức năng của
mình thông qua việc sử dụng các chính sách thu chi ngân sách. Hà Nội - thủ
đô của Việt Nam đồng thời là bộ mặt của đất nước , những cải cách về chính
sách kinh tế xã hội và toàn bộ hoạt động đại diện cho một quốc gia, vì vậy
việc sử dụng công cụ NSNN như thế nào , hiệu quả ra sao trong lĩnh vực giáo
dục sẽ là thước đo đánh giá thực trạng chung của đất nước.
Chi NSNN cho lĩnh vực GD-ĐT là một trong những nội dung lớn của
NSNN hàng năm, NSNN đầu tư một khoảng kinh phí rất lớn trong ngân sách
cho GD-ĐT, thực ra khoản kinh phí đó còn khiêm tốn so với yêu cầu hiện
nay. Hà Nội trong những năm qua đã đầu tư NSNN cho GD-ĐT rất lớn tuy
nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Nhiều nghiên cứu đã được đặt ra
để tìm ra nguyên nhân của việc NSNN chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của GD-
ĐT. Có rất nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân NSNN vẫn còn hạn hẹp
chưa đáp ứng được , tuy nhiên có một nguyên nhân quan trọng khác liên quan
đến tính hiệu quả của việc phân bổ NSNN cho GD-ĐT đó là cơ chế tổ chức
quản lý kinh phí GD-ĐT.
Không chỉ trong lĩnh vực quản lý tài chính chi NSNN cho GD-ĐT đang
có một số bất cập mà việc quản lý các lĩnh vực khác đang đi vào tình trạng
kém hiệu quả, chất lượng thấp. Tình trạng chồng chéo trong việc cấp phát
ngân sách, phân bổ không đồng đều giữa trách nhiệm và quyền lợi giữa các
cấp, các cơ quan cùng cấp làm cho tình trạng quản lý ngày càng kém. Thực tế
đòi hỏI cần phải hoàn thiện và đổi mới việc phân cấp quản lý trong chi NSNN
cho GD- ĐT là việc làm vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Là một sinh viên chuyên ngành quản lý kinh tế , khoa Khoa học quản
lý thuộc trường Đại học Kinh tế quốc dân, xuất phát từ nhận thức tầm quan

Trần Huy Công LớpQLKT44A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trọng của GD-ĐT và qua những năm học tập, nghiên cứu lĩnh vực quản lý
trong đó việc phân cấp quản lý trong lĩnh vực tài chính là vấn đề tôi quan tâm
nhất. Qua thờI gian tìm hiểu thực tế công tác chi NSNN cho sự nghiệp GD-
ĐT của Sở Tài chính Hà Nội, tôi chọn đề tài “ Phân cấp quản lý trong chi
NSNN cho các đơn vị giáo dục và đào tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội,
Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Đề tài bao gồm 3 chương :
Chương I : Phân cấp quản lý và sự cần thiết phải hoàn thiện phân cấp
quản lý trong chi NSNN cho các đơn vị Giáo dục – Đào tạo.
Chương II: Thực trạng phân cấp quản lý trong chi NSNN cho các đơn vị
giáo dục và đào tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình phân cấp quản
lý chi NSNN cho các đơn vị giáo dục và đào tạo trên địa bàn thành phố Hà
Nội.
Với sự tận tình giúp đỡ của các thầy, cô giáo bộ môn trong trường Đại
học Kinh tế quốc dân, sự hướng dẫn trực tiếp của PGS.TS Phan Kim Chiến và
sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ phòng Tổ chức cán bộ, phòng Tài chính
Hành chính- Sự nghiệp , Sở Tài chính Hà Nội, nhưng là một sinh viên sắp tốt
nghiệp , kinh nghiệm thực tế hạn chế, khả năng nhận thức lý luận và thực tiễn
còn chưa sắc bén xuất phát từ sự thiếu kinh nghiệm, thời gian thực tập hạn
hẹp, cho nên đề tài này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế. Vì vậy, tôi kính mong sự phê bình, góp ý của các thầy , cô giáo, các cán
bộ phòng Tài chính Hành chính sự nghiệp - Sở Tài chính Hà Nội để đề tài này
được hoàn thiện và phong phú về lý luận và thực tiễn tốt hơn.

Trần Huy Công LớpQLKT44A
3

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : PHÂN CẤP QUẢN LÝ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÂN
CẤP QUẢN LÝ CHI NSNN CHO CÁC ĐƠN VỊ GD-ĐT
I . Phân cấp quản lý trong chi NSNN cho các đơn vị giáo dục và đào tạo
1. Phân cấp quản lý
1.1.Khái niệm
Ở tầm vĩ mô , Phân cấp quản lý kinh tế quốc dân là thể chế quản lý
kinh tế mà quyền lực được phân giao, uỷ quyền từ cấp trên cao nhất của Nhà
nước cho các cấp lãnh đạo bên dưới, các cơ quan quản lý cấp dưới (hoặc
người lãnh đạo cấp dưới) có quyền quyết định độc lập vấn đề trong phạm vi
quản lý của mình. Cấp trên thì không can thiệp công việc trong phạm vi
quyền lực cấp dưới.
Ở tầm vi mô, trông phạm vi một doanh nghiệp hay một tổ chức thì
phân cấp quản lý là trao một số quyền hạn của nhà quản lý cho nhân viên
đồng thời phải đảm bảo các điều kiện để cho nhân viên có thể thực hiện tốt
với quyền hạn được giao đó
1.2.Sự cần thiết phải phân cấp quản lý
Hệ thống kinh tế quốc dân có quy mô hết sức to lớn và được bố trí
trong một khoảng không gian rộng lớn với các hoạt động và quá trình sản
xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế khác nhau. Để có thể quản lý có hiệu
quả cao việc uỷ quyền quản lý thông qua hoạt động phân cấp quản lý là điều
có tính tất yếu khách quan của mọi quốc gia.
1.3 Phân cấp quản lý kinh tế quốc dân
Phân cấp quản lý đồng nghĩa với việc uỷ quyền quản lý của Nhà nước
cho các cấp dưới ( Bộ, tỉnh, thành phố, đặc khu kinh tế v.v…); chứ không
phải là sự phân chia quyền lực cho cấp dưới. Khi cơ quan hoặc cá nhân người
lãnh đạo cấp dưới hoạt động sai trái hoặc không có hiệu quả Nhà nước có
Trần Huy Công LớpQLKT44A
4

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thể: khiển trách; thay thế nhân sự; điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan và cá nhân.
Việc uỷ quyền quản lý kinh tế quốc dân có thể diễn ra dưới hai hình
thức :
1) Uỷ quyền chính thức thông qua luật định tổ chức bộ máy nhà nước
2) Uỷ quyền không chính thức là việc uỷ quyền mang tính tạm thời, theo
từng vụ việc diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định.
1.4 Các nguyên tắc phân cấp quản lý
Việc phân cấp quản lý kinh tế quốc dân gắn liền với tiến trình phát triển
của xã hội ( của lực lượng sản xuất, của trình độ dân trí, của các quan hệ quốc
tế mang tính dân chủ và toàn cầu v.v…), nó là sự biểu hiện cụ thể của nguyên
tắc tập trung dân chủ và kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ của quản lý kinh tế. Thông thường khi điều kiện
phát triển kinh tế và khoa học công nghệ còn thấp,các bộ, các địa phương rất
muốn được Nhà nước trung ương bảo hộ, che chắn cho họ - Khuynh hướng
quản lý tập trung được xã hội ủng hộ. Nhưng khi nền kinh tế đã phát triển
cao, các địa phương, các bộ ngành, các đơn vị, các cá nhân, đã có các nguồn
dư thừa để tích luỹ và phát triển thì họ lại mong được tự chủ để tự do cho
phân hệ của mình, nói cách khác mâu thuẫn giữa mục tiêu tối ưu của 4 cấp :
Nhà nước, bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp, công dân luôn luôn phải
được đặt ra để xử lý cho thoả đáng, đây chính là căn cứ để hình thành nên các
nguyên tắc phân cấp , quản lý kinh tế quốc dân. Các nguyên tắc phân cấp
quản lý kinh tế quốc dân là các quy tắc, các tiêu chuẩn hiệu quả mang tính xã
hội bắt buộc nhà nước phải vận dụng trong việc uỷ quyền quản lý kinh tế
quốc dân. Các nguyên tắc đó là:
 Nguyên tắc hiệu quả và hiện thực : đây là nguyên tắc quan
trọng hàng đầu của việc phân cấp quản lý kinh tế quốc dân. Tập trung nguồn
lực có lợi nhất và được xã hội ủng hộ , chấp nhận nhất thì tập trung, còn uỷ
quyền có lợi hơn, được thực hiện nghiêm túc hơn thì uỷ quyền. Hiệu quả ở

Trần Huy Công LớpQLKT44A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đây là hiệu quả chung xét ở góc độ quốc gia, nếu có va chạm lợi ích thì lợi ích
cấp nhà nước > lợi ích phân hệ > lợi ích doanh nghiệp > lợi ích cá nhân. Để
làm tốt nguyên tắc này, đòi hỏi quan trọng là phải hiểu rõ logic và luồng
chuyển động của hệ thống hoạt động kinh tế quốc dân, để từ đó mớI có căn cứ
khoa học và hiện thực cho sự phân cấp bộ máy quản lý kinh tế quốc dân.
 Nguyên tắc đồng bộ và bình đẳng về trách nhiệm, quyền hạn,
nghĩa vụ, lợi ích. Nguyên tắc này đòi hỏi việc phân cấp quản lý kinh tế phải
đảm bảo khi cấp dưới uỷ quyền quản lý thì : thứ nhất , giữa trách nhiệm được
giao và quyền hạn , nghĩa vụ, lợi ích phải cân xứng; thứ hai, sự cân xứng đó
phải đảm bảo bình đẳng như nhau cho cùng một loại cấp bậc quản lý trong
phạm vi cả nước. Ví dụ, nếu tỉnh, thành phố được chia thành 3 loại I, II và III
thì ở cùng một loại trách nhiệm, nghĩa vụ, lợi ích phải như nhau, nhưng ở
cùng mỗi loại phải có sự khác nhau; tránh tình trạng chỉ cho quyền hạn, lợi
ích khác nhau ( loại I > loại II ) nhưng trách nhiệm phúc lợi như nhau.
 Nguyên tắc trách nhiệm kép, là nguyên tắc đòi hỏi việc phân
cấp quản lý là sự uỷ quyền của nhà nước cho cấp dưới, chứ không phải là sự
chia quyền cho cấp dưới. Điều này đòi hỏi: thứ nhất, cho dù đã phân cấp
nhưng nếu cấp dưới làm phương hại đến lợi ích của toàn cục thì người lãnh
đạo cấp dưới hoặc toàn bộ hệ thống cán bộ nhân viên cấp dưới vẫn bị khiển
trách, trừng phạt (theo pháp luật), thâm chị bị sa thải , loại bỏ. Thứ hai,
nguyên tắc trách nhiệm kép đòi hỏi công tác thanh tra, kiểm soát của Nhà
nước phải đạt trình độ tương đồng, bảo đảm cho bộ máy quản lý của cấp vận
hành theo đúng lịât pháp và thu lại hiệu quả cao cho mỗi phân hệ và cho đất
nước. Thứ ba, nguyên tắc trách nhiệm kép còn đòi hỏi Nhà nước không được
từ bỏ quyền lực quản lý của mình cho dù sự phân cấp có đến mức nào đi nữa.
Một thực tế đang diễn ra ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa là cùng với trào lưu
mở rộng dân chủ, hướng về làm giàu kinh tế là chủ yếu, vai trò của các doanh

nghiệp đang dần dần loại bỏ chức năng vốn có của Nhà nước, nhà nước đang
từng bước bị vô hiệu hoá.
Trần Huy Công LớpQLKT44A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
 Nguyên tắc ổn định tương đối, là nguyên tắc phân cấp đòi hỏi :
thứ nhất, việc phân cấp phải được pháp chế hoá, đảm bảo tính ổn định tương
đối cho các cấp dưới trong quá trình quản lý của mình, tạo cơ sở tốt cho công
tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ tương xứng, tránh gây phiền hà cho các doanh
nghiệp và công dân trong các hoạt động kinh tế của mình. Thứ hai, việc phân
cấp phải luôn luôn nắm vững nguyên tắc thứ nhất để chỉnh lý kịp thời cho
việc phân cấp của các cấp dưới, tuân thủ nghiêm ngặt các đòi hỏi của quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của các lực lượng sản
xuất, nhưng sự điều chỉnh phải được cân nhắc kỹ lưỡng và cũng không nên
thay đổi tuỳ tiện nhanh chóng như đã xét.
 Nguyên tắc tuân thủ của mối quan hệ quản lý, đây là nguyên
tắc thể hiện tính dân chủ và đặc trưng của mỗi chế độ xã hội. Nếu nhà nước
của các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu là kẻ đại diện cho thế lực của những
giai cấp bóc lột, hoặc như hiện nay là của các nhóm, các tập đoàn kinh tế lớn,
các thế lực chính trị thao túng xã hội, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước bảo vệ lợi ích cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động và cho cả xã hội,
mối quan hệ giữa cơ quan cấp trên và cấp dưới là mối quan hệ cũng chung lợi
ích dựa trên lợi ích tinh thần dân chủ , công bằng xã hội, thì trong việc tổ chức
vận hành cơ chế phân cấp quản lý phải đảm bảo đúng các mối quan hệ đó.
2.Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự quá trình phát triển kinh tế
2.1.Giáo dục và đào tạo đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội
Thiên niên kỷ mới đã bắt đầu với một xu thế lớn và sự toàn cầu hoá dẫn
đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia về kinh tế, chủ yếu là kinh tế tri
thức và công nghệ. Đó cũng là tiền đề cho sự hình thành nền văn minh thứ ba
của nhân loại - Nền văn minh trí tuệ.

Trong tiến trình phát triển của nền văn minh nhân loại, con người luôn
tồn tại với hai tư cách : vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của sự phát triển. Là
chủ thể, con người thực hiện sự phát triển xã hội mà trước hết là phát triển
lực lượng sản xuất. Là đối tượng, con người hưởng thụ những thành quả của
Trần Huy Công LớpQLKT44A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sự phát triển đó. Con người là nhân tố trung tâm, mọi sáng tạo cũng như của
cảI vật chất và văn hoá đều do bàn tay, khối óc con người tạo nên. Không có
con người thì không có sự hưởng thụ cũng như sự cống hiến tức là không có
sự phát triển. Trong tất cả những gì có thể nói được về sự tiến hoá của lịch sử
trên trái đất con người là trung tâm. Tuy nhiên, để cho nguồn lực của con
người có thể trở thành một vị trí trung tâm và phát huy được mọi khả năng,
sức mạnh kỳ diệu thì nguồn lực này phải được giáo dục, đào tạo , bồi dưỡng
trong môi trường văn hoá lành mạnh và tiên tiến. Trên thực tế, mọi chiến lược
phát triển kinh tế xã hội đều lấy con người làm trung tâm và chiến lược giáo
dục chính là hạt nhân của nó. Vì thế , trên tất cả giáo dục có vai trò rất lớn và
ngày càng được coi trọng.
Giáo dục với ý nghĩa đích thực là sự khơi dậy những nhu cầu chân
chính là tạo điều kiện nảy nở những khát vọng, hoài bão lớn lao, là rèn luyện
và bồi dưỡng năng lực của con người để thực hiện những nhu cầu chân chính.
Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển
nhân cách con người theo những yêu cầu xã hội trong những giai đoạn nhất
định nhằm tạo ra những con người có ích cho xã hội và có thể nói là một dạng
quan trọng nhất của sự nghiệp phát triển tiềm năng của con người theo nhiều
nghĩa khác nhau.
Giáo dục là chức năng đặc trưng của xã hội loài người, là hoạt động có
ý thức, có mục đích của con người. Nếu như không có sự truyền lại và tiếp
thu các kinh nghiệm lao động và sinh hoạt giữa các thế hệ thì xã hội loài
ngườI không thể tồn tại và phát triển được. Do vậy, giáo dục là điều kiện

không thể thiếu được của bất kỳ xã hội nào, một thời đại nào để duy trì, phát
triển và tiến hoá đời sống xã hội loài người. Thông qua hoạt động giáo dục
thúc đẩy tài nguyên phát triển từ đó đưa tới những thành quả mà nhu cầu xã
hội cần . Vậy có thể nói hoạt động giáo dục là phương thức tái sản xuất và tái
sảnt xuất mở rộng sức lao động xã hội để phù hợp với điều kiện phát triển xã
hội trong từng thời kỳ.
Trần Huy Công LớpQLKT44A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hiến pháp năm 1992 , điều 35 đã ghi rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu.Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người
lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức,
có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giầu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Như vậy vai trò của giáo dục và
đào tạo đã được thể chế hoá trong các văn bản phạm pháp quy của nước ta.
Điều đó chứng tỏ sự quan tâm rất lớn của Đảng vgiaNhà nước ta đối với nền
giáo dục. Hiện nay, Hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta bao gồm :
(1). Giáo dục mầm non: gồm cả nhà trẻ mẫu giáo
(2). Giáo dục phổ thông: gồm cả hai bậc là tiểu học và trung học ; trong
đó bậc trung học có hai cấp là trung học cơ sở và trung học phổ thông.
(3). Giáo dục nghề nghiệp : gồm trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
(4). Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ : cao đẳng và đại học ; giáo
dục sau đại học : thạc sỹ và tiến sỹ.
Hệ thống giáo dục Việt Nam là một hệ thống 5-4-3-4, tức là một người
trải qua toàn bộ hệ thống giáo dục từ lớp một đến đại học mà không bỏ ,
không lưu ban lớp nào thì sẽ bắt đầu với 5 năm tiểu học, 4 năm trung học cơ
sở và 3 năm trung học phổ thông và kết thúc với 4 năm đại học ( có thể là 5
hoặc 6 năm tuỳ theo ngành nghề đào tạo ).

2.2 Thực trạng của giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay
Giáo dục và đào tạo là một trong những quan tâm lớn của Đảng và Nhà
nước ta trong những năm đổi mới vừa qua. Qua những năm thực hiện, chúng
ta đã đạt được một số thành tựu và đồng thời còn những tồn tại khuyết điểm
sau.
 Thành Tựu
 Nhu cầu học tập của nhân dân đã được đáp ứng tốt hơn trước,
trước hết là ở giáo dục phổ thông.
Trần Huy Công LớpQLKT44A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
 Đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá
hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình
nhà trường và phương thức giáo dục. Mạng lưới cơ sở giáo dục đã được mở
ộng đến khắp các xã, phường, tạo điều kiện tăng trưởng rõ rết về số lượng học
sinh, sinh viên, khắc phục tình trạng giảm sút quy mô trong những năm từ
1986-1987 đến 1991-1992. Năm học 2004-2005, có khoảng 22,7 triệu ngườI
theo học trong hơn 3700 cơ sở giáo dục. Đặc biệt, giáo dục mầm non và dạy
nghề được khôi phục và có tiến bộ rõ rệt. Năm 2005 về cơ bản đã đạt và vượt
các chỉ tiêu mà chiến lược giáo dục đề ra cho năm 2006.
 Đã đạt được một số kết quả quan trọng trong việc thực hiện các
mục tiêu chiến lược
 Kết quả xoá mù chữ, phổ cập GD tiểu học đã được duy trì, củng
cố, và phát huy. Chủ trương phổ cập giáo dục THCS đang được triển khai tích
cực, hiện đã có 20 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Một số
tỉnh, thành phố đã bắt đầu thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung học( bao gồm
THPT, THCN và dạy nghề). Về đào tạo nhân lực , tỷ lệ lao động qua đào tạo
từ 13% năm 1998 đã tăng lên trên 23%. Chất lượng nguồn nhân lực đã có
chuyển biến tích cực. Về bồi dưỡng nhân tài, việc đào tạo bồi dưỡng học sinh,
sinh viên có năng khiếu được chú trọng và đạt được một số kết quả rõ rệt

 Chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có
hiệu quả hơn
 Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa phát triển mạnh và có tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới trường, lớp về cơ bản đã
đảm bảo cho các con em các dân tộc được học tập ngay tại xã, thôn, bản.
 Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu
Nội dung giảng dạy và kiến thức của học sinh phổ thông có tiến bộ,
toàn diện hơn và tiếp cận dần với phương pháp học tập mới. Trong giáo dục
nghề nghiệp, chất lượng đào tạo của một số ngành nghề như y dược , nông
Trần Huy Công LớpQLKT44A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của
thực tế và đời sống hiện nay
 Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được tăng cường hơn
Đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
đông đảo với tổng số trên một triệu người( khoảng 950.000 giáo viên, giảng
viên và trên 90.000 cán bộ quản lý giáo dục ) với trình độ ngày càng nâng
cao. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các cấp , bậc học, ở mọi vùng miền đã
được cải thiện đáng kể trong 5-6 năm qua, nhất là từ khi thực hiện chủ trương
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và kiên cố hoá trường học.
 Các bất cập, yếu kém và khuyết điểm trong giáo dục
 Chất lượng giáo dục đại trà, đặc biệt ở bậc đại học còn thấp;
phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới.
Kiến thức cơ bản về xã hội, kỹ năng thực hành và khả năng tự học của
số đông học sinh phổ thông còn kém. Nhà trường phổ thông vẫn chưa khắc
phục được tình trạng thiên về dạy chữ, nhẹ về dạy người. Công tác hướng
nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS và THPT còn chưa được quan tâm
đúng mức. Chất lượng đào tạo đại trà của giáo dục nghề nghiệp và đại học
còn thấp, tình trạng người học thiếu cố gắng, thiếu trung thực khá phổ biến;

tinh thần hợp tác, khả năng sáng tạo, năng lực thực hành, giải quyết độc lập
các vấn đề còn yếu.
 Các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục còn nhiều bất cập.
Đội ngũ giáo viên vừa thiếu vừa thừa, chưa đồng bộ, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ của một bộ phận còn thấp. Cơ sở vật chất rất thiếu và lạc hậu.
Nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên,
nhất là đối với các tỉnh khó khăn; cơ cấu chi ngân sách giáo dục còn chưa hợp
lý, kinh phí thường xuyên chủ yếu mới chi bảo đảm lương và các khoản phụ
cấp ( chiếm hơn 80% tổng chi thường xuyên của ngân sách giáo dục), phần
chi cho hoạt động chuyên môn không đáng kể. Các quy định hiện hành về
quản lý ngân sách, tài chính, nhân sự chưa tạo ra cho ngành giáo dục được
Trần Huy Công LớpQLKT44A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chủ động trong việc điều hành các nguồn lực. Đầu tư còn dàn trải, chưa tập
trung cao cho các mục tiêu ưu tiên.
 . Một số hiện tượng tiêu cực trong giáo dục chậm được giải quyết
Tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan tồn tại từ nhiều năm nay, có
những biểu hiện tiêu cực nhưng chưa tìm được giải pháp cơ bản để ngăn chặn
có hiệu quả.
Tệ nạn sử dụng văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp; hiện tượng “học
giả, bằng thật”, không trung thực trong học tập và thi cử, sao chép luận văn,
luận án có xu hướng lan rộng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng đào tạo, đến đạo
đức của thế hệ trẻ và lòng tin của xã hội.
3. Chi ngân sách nhà nước ( NSNN) đối với các đơn vị giáo dục và đào tạo
Chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT là quá trình đầu tư kinh phí từ quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của hệ
thống giáo dục theo những định hướng của Nhà nước.
Nếu căn cứ vào tính mục đích của KT – XH thì chi NSNN được chia
thành các loại :

 Chi đầu tư phát triển
 Chi thường xuyên
Theo luật NSNN quy định thì chi cho sự nghiệp GD-ĐT được xếp vào
khoản chi thường xuyên. Trên thực tế, nếu xét về hiện tượng bên ngoài thì chi
NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT là khoản chi mang tính chất tiêu dùng hiện tại ,
không mang tính hoàn trả trực tiếp và không trực tiếp tạo ra của cải vật chất
song xét về tác dụng lâu dài của nó là khoản chi mang tính chất tích luỹ đặc
biệt. Khoản chi này là một trong những nhân tố quyết định đến việc tăng
trưởng kinh tế trong tương lai vì nó không hoàn toàn mất đi sau quá trình tiêu
dùng mà được tạo thành “chất xám” của con người cho tiêu dùng tương lai.
Chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT là việc đảm bảo nguồn lực Tài chính
để thực hiện việc phát triển sự nghiệp GD-ĐT.
Trần Huy Công LớpQLKT44A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nếu phân chia NSNN cho sự nghiệp giáo dục theo nội dung từng nhóm
mục chi thì chi NSNN cho giáo dục bao gồm những khoản sau :
• Nhóm 1: Chi thanh toán cá nhân :
Thuộc nhóm chi bao gồm : tiền lương, tiền công, đồng thời các khoản
về phụ cấp lương, BHXH, BHYT, phúc lợi tập thể cho cán bộ giáo viên, cán
bộ của trường. Trong kế hoạch chi thường xuyên của NSNN cho GD-ĐT thì
khoản này thường chiếm tỷ trọng lớn, mục đích của nhóm chi này nhằm đảm
bảo được hoạt động giảng dạy và cơ cấu tổ chức bộ máy nhà trường. Qua các
khoản chi thuộc nhóm này Nhà nước đảm bảo duy trì đội ngũ cán bộ quản lý
hành chính; giáo viên giảng dạy từ đó đảm bảo sự tồn tại của hệ thống giáo
dục quốc dân.
• Nhóm 2 : Chi cho nghiệp vụ chuyên môn:
Thuộc nhóm chi này bao gồm các khoản chi về công tác giảng dạy, học
tập chủ yếu chi về mua sắm sách giáo khoa, giáo trình tài liệu tham khảo cho
giáo viên, đồ dùng học tập, vật liệu hoá chất thử nghiệm… Đây là khoản chi

hết sức cần thiết và có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục.
• Nhóm 3 : Chi mua sắm, sửa chữa
Hàng năm nhu cầu hoạt động, do sự xuống cấp tất yếu của tài sản cố
định dùng cho các hoạt động hành chính sự nghiệp nên thường phát sinh nhu
cầu kinh phí cần có để mua sắm thêm, trang bị thêm, hoặc phục hồi lại giá trị
sử dụng cho những TSCĐ đã bị xuống cấp đó, xây dựng thêm các công trình
phụ trong các công trình đã có sẵn.
Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau thì nội dung chi và công tác
quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT cũng có sự khác nhau. Khi xem xét
đến nội dung , cơ cấu công tác chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT người ta
không chỉ tính đến những đặc điểm riêng của công tác GD-ĐT mà còn tính
đến tất cả các yếu tố tác động đến công tác GD-ĐT như :
+ Chế độ chính trị quốc gia đang theo đuổi
Trần Huy Công LớpQLKT44A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Tốc độ phát triển dân số
+ Nguồn thu NSNN
Chiến lược phát triển sự nghiệp GD-ĐT trong từng giai đoạn.
• Nhóm 4: nhóm chi các khoản chi khác
Thuộc nhóm chi này bao gồm các khoản chi : chi công tác phí, hội nghị
phí, dịch vụ công cộng( cước phí điện thoại, tạp chí sách báo…)
Thực chất là khoản chi phục vụ công tác quản lý hành chính của nhà
trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giáo viên trong công tác quản
lý hành chính. Mức đô chi nhiều hay ít cho mỗi trường sẽ phụ thuộc vào quy
mô mỗI trường và công tác quản lý kèm theo. Trong việc xác định các khoản
chi trong quản lý hành chính chủ yếu dựa trên số cán bộ công nhân viên bình
quân dự kiến có mặt trong năm kế hoạch và mức chi quản lý bình quân.
4.Vai trò của phân cấp quản lý trong chi NSNN cho các đơn vị giáo dục và
đào tạo

Hiện nay phân cấp quản lý đang là xu hướng chung đã và đang diễn ra
mạnh mẽ trên thế giới ở các tổ chức nhà nước , các tập đoàn kinh tế và các
doanh nghiệp. Vai trò của phân cấp quản lý ngày càng rõ nét hơn khi quy mô
của tổ chức ngày càng lớn dần và phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Một
doanh nghiệp tư nhân có thể không cần phân cấp trong hoạt động kinh doanh
của nó , tuy nhiên việc phân cấp sẽ phải diễn ra khi doanh nghiệp tư nhân đó
muốn phát triển. Trong lĩnh vực tài chính mà cụ thể là lĩnh vực chi NSNN của
các cơ quan quản lý nhà nước thì việc phân cấp quản lý là rất cần thiết và có
vai trò to lớn. Như ở mục 1 đã nêu , thì hệ thống kinh tế quốc dân có quy mô
hết sức to lớn và được bố trí trong một không gian rộng lớn với các hoạt động
và quá trình sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế khác nhau, thì trong
hệ thống tài chính của quốc gia , cụ thể hơn là hệ thống tài chính của một
thành phố ( Hà Nội ) không gian , các hoạt động cũng hết sức sôi động và
phức tạp. Đặc biệt quản lý chi NSNN cho lĩnh vực giáo dục , lĩnh vực được sự
Trần Huy Công LớpQLKT44A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quan tâm của người dân và chính quyền địa phương, cần có sự phân cấp để
việc quản lý hiệu quả hơn . Vai trò đó được thể hiện ở các khía cạnh sau :
 Phân cấp quản lý chi ngân sách là để xác định phạm vi trách
nhiệm và quyền lợi của chính quyền nhà nước các cấp trong việc quản lý
NSNN, nhằm tập trung đầy đủ, kịp thời đúng chính sách các nguồn thu của
ngân sách nhà nước, phân phối, sử dụng công bằng, hợp lý, tiết kiệm, hiệu
quả cao, phục vụ các mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch phát triển giáo dục của
thành phố.
 Phân cấp quản lý trong chi NSNN cho các đơn vị GD-ĐT sẽ hạn
chế tình trạng tập trung, ôm đồm quá nhiều việc của cơ quan chủ quản quản lý
ngân sách thành phố( Sở tài chính thành phố) đồng thời tăng tính chủ động ,
trách nhiệm của các cơ quan được phân cấp ( các phòng giáo dục , phòng tài
chính cấp quận, huyện), và tăng tính thực tế, hiệu quả trong việc sử dụng ngân

sách của các đơn vị GD-ĐT. Từ lâu, phân bổ ngân sách giáo dục của các cơ
quan cấp trên cho các đơn vị sử dụng thường mang tính thực tế không cao,
chủ quan duy ý chí. Tình hình thực tế chỉ có đơn vị sử dụng ngân sách và đơn
vị cấp phát cấp thấp hơn biết rõ và biết cần phải chi ra sao và chi bao nhiêu.
 Phân cấp quản lý sẽ giảm bớt tình trạng chi NSNN nhiều lần
nhưng không hiệu quả cho một dự án giáo dục hay một mục tiêu giáo dục nào
đó của kế hoạch phát triển giáo dục. Lĩnh vực giáo dục là lĩnh vực được nhiều
người quan tâm và đầu tư nhưng thực tế nó luôn trong tình trạng quá tải do
nhu cầu về giáo dục, việc làm của người dân hiện nay rất cao. Việc xây mới ,
tu bổ, sửa chữa lớn các cơ sở giáo dục diễn ra liên tục hàng năm thậm chí
hàng tháng do hiệu suất sử dụng luôn đạt mức rất cao và thường xuyên. Nền
giáo dục của thành phố nói riêng và đất nước nói chung thực tế vẫn chưa đáp
ứng được kỳ vọng của người dân nên việc nâng cao chất lượng dạy và học
cũng phải thường xuyên và liên tục. Vì vậy, nhu cầu về NSNN cho các đơn vị
giáo dục (đặc biệt là các đơn vị giáo dục công lập) là rất lớn và không ngừng.
Thực tế đòi hỏi việc chi NSNN phảI được phân cấp đến từng phòng , ban và
Trần Huy Công LớpQLKT44A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
các trường học, cơ sở dạy nghề để việc đầu tư cho giáo dục thường xuyên và
có chiều sâu hơn .
 Các quyết định chi NSNN thường chậm trễ, việc phân bổ NSNN
đến đơn vị GD-ĐT lại qua nhiều khâu khác nhau nên khi NSNN đến được vớI
đơn vị cần ngân sách thì không giải quyết được nhu cầu đó nữa. Phân cấp
mạnh mẽ hơn trong quản lý chi NSNN sẽ giúp cho NSNN đến nhanh hơn ,
hiệu quả hơn tới các đơn vị giáo dục và đào tạo.
II . Sự cần thiết phải hoàn thiện phân cấp quản lý trong chi NSNN cho
các đơn vị giáo dục và đào tạo.
1 . Thực trạng phân cấp quản lý chi NSNN cho các đơn vị giáo dục và đào
tạo trên địa bàn Hà Nội.

Theo hệ thống NSNN, hiện nay NSNN ta bao gồm : cấp NSTW và
NSĐP trong đó NSĐP bao gồm ngân sách Tỉnh, thành phố, ngân sách Quận,
huyện và ngân sách xã, phường. Mỗi cấp ngân sách đảm đương những nhiệm
vụ khác nhau và được quy định trong luật ngân sách. Trong những giai đoạn
khác nhau, nhiệm vụ chi cũng khác nhau và chi NSNN cho sự nghiệp giáo
dục tuỳ thuộc vào sự biến động trong quá trình hoàn thiện cơ chế phân cấp
quản lý chi NSNN ở nước ta.
Từ khi luật NSNN ra đời, các khoản chi cho sự nghiệp GD-ĐT trên địa
bàn thành phố được cân đối vào Ngân sách cấp Quận, Huyện từ năm 1993 các
thành phố đã chuyển nhiệm vụ chi giáo dục cho ngân sách thành phố đảm bảo
vì ngân sách các Quận, huyện không thể đảm bảo được trách nhiệm này khi
nhu cầu phát triển ngày càng gia tăng. Từ đây ngân sách cấp Quận, huyện chỉ
đóng vai trò hỗ trợ cho sự nghiệp GD-ĐT, chi đảm bảo một số khoản chi như
mua sắm, sửa chữa.
Sửa chữa nhỏ chi cho tất cả các trung tâm dạy nghề. Kể từ đó, Sở tài
chính kết hợp với Sở giáo dục và đào tạo quản lý nguồn kinh phí cho sự
nghiệp này.
Trần Huy Công LớpQLKT44A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ khi luật NSNN ra đời và thực hiện, việc chi cho các đơn vị GD-ĐT,
trên địa bàn Thành phố đã thay đổi và quy định như sau: Chi thường xuyên
cho sự nghiệp GD-ĐT được phân cấp cho Ngân sách thành phố đảm nhiệm và
thực hiện cấp phát theo hình thức cấp phát kinh phí, theo cơ quan tài chính
cấp Quận, huyện. Thực hiện cơ chế phân cấp này có thể tránh tình trạng
không thống nhất trong công tác quản lý theo ngành và lãnh thổ, đồng thời
chính quyền cấp Quận, huyện có thể nắm được tình hình Ngân sách cho sự
nghiệp giáo dục trên địa bàn Quận, huyện quản lý.
Quá trình tổ chức quản lý các khoản chi NSNN cho các đơn vị giáo dục
và đào tạo Quận, huyện được cấp phát theo hình thức cấp phát kinh phí có thể

được khái quát như sau:
Hàng năm Sở giáo dục có trách nhiệm phối hợp với Sở Tài chính dự
toán ngân sách toàn ngành và trình UBND Thành phố, sau đó trình Hội đồng
nhân dân phê duyệt. Sau khi dự toán NS được phê duyệt, quá tình cấp phát
được thực hiện như sau:
 Kinh phí các trường học thuộc Sở GD-ĐT, Sở tài chính cấp cho
Sở GD-ĐT cấp cho các trường học.
 Các trường học thuộc quản lý của Quận, Huyện được cấp qua
Quận, huyện. Sở tài chính thực hiện cấp kinh phí cho Quận, huyện thông qua
các khoản hạn mức tại kho bạc nhà nước Quận, huyện , các phòng tài chính
Quận, huyện có trách nhiệm cấp phát cho các đơn vị theo tiến độ kế hoạch
của toàn Thành phố , kết thúc năm phải có báo cáo cho Sở tài chính.
Nội dung chi thường xuyên của sự nghiệp giáo dục được NS thành phố
cấp kinh phí gồm:
 Chi thường xuyên cho cấp mẫu giáo và nhà trẻ
 Chi thường xuyên về sự nghiệp giáo dục tiểu học
 Chi thường xuyên về sự nghiệp giáo dục trung học
 Chi thường xuyên về bổ túc văn hoá, đào tạo tay nghề, đào tạo
ngắn hạn
Trần Huy Công LớpQLKT44A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
 Chi sự nghiệp giáo dục thường xuyên khác.
Trong mô hình phân cấp quản lý chi NSNN này, có thể thấy phòng tài
chính cấp Quận , huyện đóng vai trò trung gian cho việc chuyển các khoản chi
giáo dục của Ngân sách thành phố cho các đơn vị được thụ hưởng ( các
trường học). Do đó việc quản lý của phòng tài chính Quận, huyện đối với các
khoản kinh phí chi cho sự nghiệp giáo dục cũng phải quản lý theo những
nguyên tắc dùng trong quản lý và sử dụng trong NSNN và nó có ảnh hưởng
tớI hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn NSNN, ảnh hưởng đến sự phát

triển giáo dục.
Đối với ngân sách Quận, huyện mặc dù không phải đảm đương nhiệm
vụ chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục Quận, huyện như trước đây
nhưng ngân sách Quận, huyện hàng năm phải có trách nhiệm hỗ trợ về kinh
phí đối với nhiệm vụ chi xây dựng cơ bản, chống xuống cấp và mua sắm tài
sản cố định giáo dục cho hoạt động giáo dục ở Quận, huyện theo sự phân cấp
của Uỷ ban thành phố và quản lý theo chế độ đầu tư của Nhà nước.
Có thể tóm tắt việc phân cấp quản lý chi NSNN cho các đơn vị GD-ĐT
như sau :
Mô hình phân cấp quản lý chi NSNN cho GD ở các địa phương
Trần Huy Công LớpQLKT44A
18
Sở giáo dục và đào
tạo
Sở tài chính
Phòng tài chính
Các đơn vị giáo dục
và đào tạo
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ sơ đồ trên ta có thể thấy vai trò quản lý của Sở tài chính đối với
ngân sách Thành phố là rất lớn , chưa phát huy được vai trò, chức năng của
các phòng tài chính cấp Quận, huyện. Trên thực tế , các phòng tài chính Quận
huyện chỉ là đơn vị nhận kinh phí trực tiếp từ Ngân sách thành phố sau đó
phân bổ về các đơn vị giáo dục và đào tạo . Các phòng tài chính hiện nay chỉ
đóng vai trò hỗ trợ trong việc quản lý chi NSNN , chưa thực sự phát huy được
vai trò quản lý của mình. Mọi khâu trong quá trình quản lý chi NSNN: như
lập kế hoạch chi NS, tổ chức thực hiện chi NS, và kiểm tra việc chấp hành chi
NS đều không có sự tham gia trực tiếp của các đơn vị cơ sở : đơn vị giáo dục
và các phòng tài chính. Việc phân cấp quản lý này đã tạo ra nhiều quyền lực
cho cơ quan quản lý về tài chính cao nhất của Thành phố nhưng đồng thời

chỉ phân quyền rất ít cho các cơ quan cấp dưới , điều đó sẽ tạo ra sự lãng phí,
hiệu quả kém. Thực trạng phân cấp quản lý được thể hiện cụ thể như sau :
Từ tháng 4 đến tháng 6 , khi về cơ bản các trường kết thúc năm học
mớI nghĩ tới việc lập kế hoạch cho năm học sau. Còn cấp quận, huyện được
tiến hành chậm hơn khoảng từ tháng 5 đến tháng 8. Trong khi lập kế hoạch
phát triển các trường thường gặp vấn đề dự báo chưa chính xác về quy mô
nhập học cũng như các nhu cầu liên quan đến số lượng giáo viên, các điều
kiện cơ sở vật chất. Tuy đã có một số chỉ tiêu định mức chung song mới chỉ
có tính định hướng, chưa phải là yếu tố pháp lệnh. Mặt khác, bản kế hoạch
phát triển của các trường gần như độc lập với phần dự toán ngân sách, nên dù
kế hoạch có thể đưa ra các gia tăng đột biến về số lượng học sinh nhưng
không có gì đảm bảo phần kinh phí sẽ nhận được tương ứng.
Về xây dựng dự toán ngân sách, trên thực tế, phòng, sở GD-ĐT đều
phảI lập kế hoạch trung và dài hạn (5-10 năm). Tuy nhiên do tính chất phức
tạp của công tác kế hoạch cũng như biến đổi nhanh chóng về kinh tế- xã hội,
chế độ chính sách… của Thủ đô nên các kế hoạch dài hạn của các cơ quan
quản lý giáo dục Thành phố đều thiếu tính khả thi không ăn khớp với kế
hoạch chi NSNN của Sở tài chính. Việc chi tiêu ngân sách GD nói chung
Trần Huy Công LớpQLKT44A
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chưa bao giờ đạt mức dự toán chi ngân sách hàng năm do Sở GD-ĐT xây
dựng, mặc dù các đơn vị giáo dục và đào tạo dự toán rất khiêm tốn. Năm
2004, Các trường chỉ được phân bổ khoảng trên dưới 90% so vớI dự toán.
Năm 2005, con số này chỉ là 88%.
Theo quy định của luật NSNN, thì cơ cấu chi phải đảm bảo 70% ngân
sách chi cho lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương(nhóm 1) và 30%
ngân sách chi cho các hoạt động , giảng dạy, học tập, mua sắm thiết bị, sửa
chữa, quản lý hành chính…(nhóm 2,3,4) nhưng thực tế chỉ đạt tỷ lệ ở mức
85% cho nhóm 1 , thậm chí lên đến 90% , còn lại là hơn 10% để chi cho 3

nhóm còn lại nên không thể đáp ứng yêu cầu phục vụ nâng cao chất lượng
đào tạo.
Từ thực tế trên, cần thiết phải có sự tham gia của các phòng tài chính,
phòng giáo dục cấp quận, huyện và các đơn vị giáo dục và đào tạo trong công
tác quản lý chi NSNN , đặc biệt là khâu lập dự toán chi và kiểm tra chấp hành
chi NSNN.
2 . Những thay đổi về cơ chế quản lý chi NSNN cho các đơn vị giáo dục và
đào tạo hiện nay đến quá trình phân cấp quản lý.
Hiện nay , Hà Nội đang thực hiện cơ chế khoán thu chi tài chính cho
các đơn vị sự nghiệp hành chính trên địa bàn . Vì vậy, việc quản lý chi NSNN
đòi hỏi phải thay đổi cho hợp lý.
2.1 Về công tác lập dự toán chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT
Luật NSNN được thông qua tháng 11 năm 2002 quốc hội khoá 11 bắt
đầu có hiệu lực từ năm NS 2004, công tác lập dự toán NSNN nói chung và
lập dự toán kinh phí của ngành GD-ĐT Hà Nội nói riêng sẽ có những thay đổi
cơ bản sau :
 Trách nhiệm trong xét duyệt dự toán kinh phí cho các cơ sở GD-
ĐT do thủ trưởng các cơ quan quản lý giáo dục tuỳ theo cơ chế quản lý phân
cấp quản lý NS hiện đang có hiệu lực
Trần Huy Công LớpQLKT44A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
 Cơ quan có trách nhiệm tổng hợp dự toán kinh phí, chấp nhận
tổng mức kinh phí mà đơn vị dự toán cấp dưới đề nghị sau khi đã được thẩm
tra bởi các cơ quan chức năng là hợp lý . Sau đó sẽ được ghi vào dự toán chi
ngân sách cho GD-ĐT.
Trần Huy Công LớpQLKT44A
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2.2 Công tác chấp hành chi NSNN cho các đơn vị GD-ĐT

 Trong quá trình thực hiện, các đơn vị GD-ĐT được điều chỉnh
dự toán thu, chi hoạt động sự nghiệp, kinh phí hoạt động thường xuyên được
giao cho phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị mình gửi Sở tài chính và
các phòng tài chính cấp quận ,huyện.
 Các đơn vị dự toán không phải xin lệnh cấp phát kinh phí hàng
quý từ cơ quan tài chính, thay vào đó; kinh phí theo dự toán được duyệt cả
năm cho đơn vị.
 Cuối năm ngân sách, các khoản kinh phí chưa sử dụng hết, đơn
vị được chuyển sang năm sau để hoạt động bao gồm : NSNN đảm bảo chi
hoạt động thường xuyên và các khoản chi chương trình mục tiêu , dự án , đề
tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước cấp bộ, cấp ngành.
2.3 Công tác kiểm tra việc chấp hành chi NSNN
 Công tác quyết toán hàng năm sẽ do đơn vị dự toán các cấp trên
xét duyệt, cơ quan tài chính có nhiệm vụ kiểm tra quyết toán .
 Cơ quan kiểm toán Nhà nước thực hiện nhiệm vụ kiểm toán báo
cáo quyết toán ngân sách các cấp và NSNN theo chức năng và nhiệm vụ được
Chính phủ giao.
Trần Huy Công LớpQLKT44A
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ CHI NSNN CHO
CÁC ĐƠN VỊ GD-ĐT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I. Khái quát về đặc điểm kinh tế, xã hội của Thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị-hành chính quốc gia,trung tâm lớn
về văn hoá,khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch của cả nước;là nơi đặt trụ
sở của các cơ quan trung ương của Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị-
xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi diễn ra các
hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng nhất của đất nước.
Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm Bắc bộ, giới hạn trong khoảng từ 20°53’
đến 21°23 vĩ độ Bắc, 105°44’ đến 106°02’ kinh độ Đông, tiếp giáp vớI 5

tỉnh : Thái Nguyên ở phía Bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía Đông, Hà Tây
và Vĩnh Phúc ở phía Nam và phía Tây. Hà Nội có diện tích xấp xỉ 1000km2,
khoảng cách từ cực Bắc xuống cực Nam thành phố dài trên 50 km và từ cực
Tây sang cực Đông gần 30 km. Dân số hiện nay toàn thành phố là gần 4 triệu
người với mật độ dân số trung bình cao nhất Việt Nam là 4000 người/km2
trong đó dân số nội thành chiếm 40% và dân số ngoại thành chiếm 60%.
Hà Nội có 9 quận nội thành là : Quận Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà
Trưng, Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy , Thanh Xuân, Hoàng Mai, Long Biên vơi
diện tích nội thành là gần 70 km2 chiếm 8% diện tích toàn thành phố.
Có 5 huyện ngoại thành là : Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm, Sóc Sơn,
Thanh Trì với diện tích là 930km2 chiếm 92% diện tích toàn thành phố.
Với vị trí địa lý và diện tích như vậy, từ lâu Hà Nội đã có ưu thế rất đặc
biệt so với các địa bàn khác trên cả nước . Là đầu tàu phát triển kinh tế của
đất nước, là nơi giao lưu văn hoá , là nơi hội tụ nhân tài và cũng là nơi có
những điều kiện thuận lợi bậc nhất cả nước: giao thông đường bộ, đường sắt,
đường hàng không, đường thuỷ , và khí hậu thời tiết.
Hà Nội là nơi tập trung của rất nhiều trường đại học, cao đẳng, viện
nghiên cứu... nơi tập trung đội ngũ các nhà khoa học, các chuyên gia đầu
Trần Huy Công LớpQLKT44A
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngành trên nhiều lĩnh vực. Là mảnh đất có truyền thống hiếu học , từ lâu
ngành giáo dục và đào tạo Hà Nội đã có những phát triển vượt bậc về quy mô
và chất lượng. Đồng thời là một thành phố đông dân, trình độ dân trí cao hơn
so với các địa phương trong cả nước ( mặc dù thu nhập GDP/người của Hà
NộI chưa phải cao nhất) điều đó chứng tỏ sự quan tâm của người dân đến giáo
dục là rất lớn. Do mật độ dân số đông lại phân bổ không đồng đều, chủ yếu
tập trung ở nội thành nên số học sinh, sinh viên ở nội thành chiếm tỷ trọng
lớn, mạng lưới trường lớp cũng chủ yếu tập trung ở nội thành trong khi diện
tích nhỏ ở nội thành dẫn tới kết quả là cơ sở vật chất nghèo nàn , thiếu thốn so

với nhu cầu. Tuy vậy, hiện nay ngành GD-ĐT Hà Nội đang phải đối mặt với
sự chênh lệnh về trình độ dân trí giữa ngoại thành và nội thành. Để giải quyết
vấn đề này không chỉ có ngành GD-ĐT Hà Nội phải thực hiện mà cần có sự
quan tâm thiết thực và đầu tư của các cơ quan có chức năng khác trong đó
đầu tư phát triển kinh tế cho các vùng ngoại thành đồng thời xây nhiều trường
lớp mới, thực hiện giảm tải, phân ban, phân tuyến. Bên cạnh sự chênh lệnh về
trình độ dân trí giữa các vùng, các khu vực, thì Hà Nội vẫn tạo ra được một
nền tảng giáo dục vững chắc và rất có chất lượng. Hệ thống giáo dục và đào
tạo từ mầm non cho đến trung học chuyên nghiệp, cao đẳng trực thuộc thành
phố quản lý đều rất hoàn chỉnh, tuy vậy cơ cở vật chất vẫn còn nghèo nàn, lạc
hậu và chất lượng giáo viên cần phải nâng cao hơn nữa để đáp ứng nhu cầu
giáo dục ngày càng cao.
II . Tình hình hoạt động của các đơn vị GD-ĐT thành phố Hà Nội
Trong 5 năm (từ 2001 - 2005) Hà Nội đã có nhiều chủ trương, chính
sách lớn đầu tư cho GD&ĐT. Thành phố đã có Quyết định phê duyệt 2 bản
quy hoạch cho ngành là: Quy hoạch phát triển và Quy hoạch mạng lưới
trường lớp đến 2010 và định hướng đến 2020. Thành uỷ có Đề án số 22 chỉ
đạo thực hiện Kết luận của NQTƯ 6. UBND Thành phố có Chỉ thị số 26 về
thực hiện chương trình kiên cố hoá - hiện đại hoá trường lớp của Thủ đô.
Hiện nay quy mô sự nghiệp GD-ĐT Hà Nội thể hiện rõ nét ở hệ thống mạng
Trần Huy Công LớpQLKT44A
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lướI trường lớp ngày càng được mở rộng và số lượng học sinh sinh viên
không ngừng tăng lên qua các năm học, được thể hiện cụ thể như sau :
Quy mô phát triển GD-ĐT thành phố Hà Nội
năm 2005 so với năm 2004
Ngành
cấp học
Số

trường
(05/04)
Đạt
chuẩn
QG
Số lớp
(05/04)
Số học
sinh
(05/04)
Số HS
tuyển
mới
đầu cấp
Giáo
viên
(05/04)
Phòng
học
Mầm
non
341
/331
16 4.145
/3.648
113.035
/106.918
26.009 7.045
/6.596
4.341

Tiểu
học
273
/268
31 5,804
/5.776
203,475
/205.631
37.966 8.936
/8.551
THCS 218
/212
11 4.747
/4.362
180.913
/177.303
42.781 10.223
/9.070
4.652
THPT 97
/82
3 2.433
/2.011
108.462
/92.086
41.123 5.000
/4.023
1.381
THCN 32 820 36.910 20.500 2.375 920
Tổng 619 61 17.949 642.795 168.379 33.579 17.464

(nguồn số liệu: Sở giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội)
 Từ bảng trên , chúng ta thấy được sự phát triển về quy mô giáo
dục của giáo dục Thủ Đô trong 2 năm vừa qua. Từ giáo dục mầm non cho đến
giáo dục trung học phổ thông, Trung học chuyên nghiệp đều có số lượng học
sinh nhập học tăng. Số trường đạt chuẩn quốc gia tăng lên nhanh chóng trong
đó cấp THPT - cấp học quan trọng trong hệ thống giáo dục đã có một số
trường đạt chuẩn quốc gia , điều này chứng tỏ giáo dục Hà NộI phát triển khá
toàn diện , trải đều ở tất cả các bậc học. Số lượng giáo viên năm 2005 so với
năm 2004 tăng lên nhiều- đây là tín hiệu tốt cho chất lượng của giáo dục thủ
đô.
Trần Huy Công LớpQLKT44A
25

×