MỤC LỤC
NỘI DUNG
TT
I
TRANG
MỞ ĐẦU
1.1
Lí do chọn đề tài
01
1.2
Mục đích nghiên cứu
02
1.3
Đối tượng nghiên cứu
02
1.4
Phương pháp nghiên cứu
02
II
NỘI DUNG
02
2.1
Cơ sở lí luận
02
2.2
Thực trạng vấn đề nâng cao tính tự lập cho trẻ
04
2.3
Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
07
Biện pháp 1: Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch đặt
ra mục tiêu và rèn luyện những kỹ năng tự lập cần thiết
cho trẻ.
07
Biện pháp 2: Biện pháp chỉ đạo giáo viên biết phân
công công việc cho trẻ hợp lý, tạo môi trường cơ hội
cho trẻ được làm việc và duy trì các thói quen:
08
2.3.3
Biện pháp 3: Biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép rèn
luyện tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua các hoạt
động chơi ở các góc của trẻ:
11
2.3.4.
Biện pháp 4: Biện pháp chỉ đạo giáo viên rèn luyện tính
tự lập cho trẻ thông qua biện pháp khen ngợi tuyên
dương:
12
2.3.5.
13
2.4
Biện pháp 5: Biện pháp chỉ đạo giáo viên phối kết hợp
cùng gia đình trong việc giáo dục tính tự lập cho trẻ
Hiệu quả của SKKN
III
KẾT LUẬN
17
3.1
Kết luận
17
3.2
Kiến nghị
18
2.3.1.
2.3.2.
16
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
ở Việt Nam. Vị trí của giáo dục mầm non là đặt nền tảng cho sự phát triển nhân
cách thông qua hệ thống giáo dục quốc dân. Mục đích chung của giáo dục mầm
non là phát triển tất cả các khả năng của trẻ, hình thành cho trẻ những cơ sở ban
đầu của nhân cách con người: "Cần phát triển một số giá trị, nét tính cách và
phẩm chất cần thiết: mạnh dạn, tự tin, tự lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, ... tạo
điều kiện cho trẻ tham gia vào đời sống xã hội. Trong cuộc sống, khả năng tự
lập là một phẩm chất nhân cách vô cùng quan trọng của con người. Nhờ vào khả
năng tự lập mà con người có khả năng tự hoạt động, tự cố gắng tham gia và
hoàn thành công việc trên cơ sở năng lực của bản thân.
Khả năng tự lập phát triển từ thấp đến cao, bắt đầu từ tuổi thơ. Như vậy,
giáo dục khả năng tự lập cho trẻ là một nhiệm vụ cần thiết, trẻ em mầm non là
tương lai của đất nước, là chủ nhân tương lai của xã hội trong thế kỉ mới - thế kỉ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế kỉ của một nền văn hóa thông tin với khoa
học công nghệ - thế kỉ đòi hỏi những con người mới, hiện đại, độc lập và tự chủ.
Giáo dục khả năng tự lập có ý nghĩa trong mọi giai đoạn hình thành nhân cách,
đặc biệt là lứa tuổi trước tiểu học. Có thể khẳng định: Mẫu giáo lớn là lứa tuổi
cần thiết phải trang bị cho trẻ khả năng tự lập; giáo dục khả năng tự lập cho trẻ,
hướng khả năng tự lập của trẻ phát triển theo chiều hướng đúng đắn nhất.
Như chúng ta đã biết ngay từ tuổi ấu thơ trẻ đã có khả năng tự lập, dần
dần nhận biết được những người thân yêu của mình, sau đó trẻ phân biệt được
mối quan hệ giữa những người xung quanh và vị trí của mình trong gia đình, đó
là bản năng sinh tồn mà con người sinh ra đã có. Trong từng lứa tuổi, khả năng
tự lập được hình thành và phát triển đồng thời phát huy được những năng lực
vốn có của trí tuệ nhờ đó trẻ có thể tự mình làm một việc gì đó mà không cần sự
trợ giúp của người khác. Để tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện, mục đích
của giáo dục mầm non là định hướng tất cả khả năng tự lập của trẻ, góp phần
hình thành cho trẻ những cơ sở chuẩn mực ban đầu về tính cách, phẩm chất cần
thiết như: mạnh dạn, tự tin, tự lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác…đưa trẻ tham gia
vào các hoạt động trong đời sống hằng ngày. Từ những biểu hiện của trẻ chúng
ta nhận thấy khả năng tự lập có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến trí tuệ, cảm
xúc và trong các hoạt động. Trẻ tự tin, tự kiểm soát, điều khiển hành vi của
mình. Tính tự lập quyết định việc hình thành nhân cách, trí tuệ, cảm xúc của trẻ.
Bởi vậy giáo dục khả năng tự lập cho trẻ ở cấp học mầm non là một nhiệm vụ
hết sức cần thiết, bởi tính tự lập là một trong những tính cách cơ bản, đóng vai
trò quan trọng giúp trẻ khi trưởng thành có thể bản lĩnh hơn, tự tin hơn, vững
vàng hơn, thành công hơn trong cuộc sống và đặc biệt là trẻ có thể tự lo cho
mình thật tốt dù không có bố mẹ, người lớn bên cạnh hay gặp bất kỳ tính huống
khó khăn nào. Giáo dục khả năng tự lập cho trẻ có ý nghĩa quan trọng trong mọi
giai đoạn hình thành nhân cách, đặc biệt là trong lứa tuổi chuẩn bị bước vào bậc
tiểu học, sẽ góp phần đặt nền tảng vững chắc đầu tiên về phát triển thể lực, trí
tuệ để đào tạo những chủ nhân tương lai cho đất nước.
1
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nâng cao tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường Mầm non Đông MinhHuyện Đông Sơn- Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Kinh nghiệm chỉ đạo giáo viên về nâng cao tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi ở
trường Mầm non Đông Minh- Huyện Đông Sơn- Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, tôi vận dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp điều tra: Nắm tình hình qua các giáo viên đứng lớp, cha
mẹ trẻ và trẻ Mẫu giáo lớn A1 trường Mầm non Đông Minh
- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động của giáo viên và trẻ trong
việc xây dựng tính tự lập cho trẻ. Quan sát sự quan tâm và sử dụng thành quả để
phục vụ cho việc dạy học các hoạt động học KPKH và giáo dục tính tự lập cho
trẻ của giáo viên đứng lớp.
- Phương pháp thống kê toán học:
Thống kê kết quả thực hiện từng tiêu chí theo từng học kì trong năm năm
để so sánh.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm:
Kế hoạch của giáo viên khi xây dựng các biện pháp lồng ghép
Kết quả trên trẻ qua các kế hoạch của giáo viên
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Đọc sách, đọc các tài liệu tham khảo về giáo dục lồng ghép dạy kỹ năng
sống cho trẻ, các kỹ năng về: “giáo dục tính tự lập cho trẻ”.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của trẻ 5 - 6 tuổi về tự lập
Một số nhà tâm lý học coi khả năng tự lập là một trong những nét đặc
trưng của nhân cách, đại diện là T.I. Ganhenlin, A.A Sinirnop, E.U. Dmitriev...
họ cho rằng: Khả năng tự lập phải hình thành trên cơ sở người học đã có một số
vốn kiến thức, hiểu biết một số kỹ năng nhất định và biết vận dụng chúng vào
những tình huống khác nhau trong thực tế, đó phải là những tình huống mới mẻ
mà trẻ đối mặt trong cuộc sống. Khả năng tự lập của trẻ được bộc lộ rõ qua các
hành vi và ta sẽ có thể dễ dàng quan sát thấy được trong khi trẻ đang thực hiện
các mối quan hệ người - người, hay giữa con người - thế giới xung quanh.
K.D.Usinski cũng nghiên cứu khả năng tự lập của trẻ gắn với lao động,
nhưng ông đi sâu cụ thể vào lao động tự phục vụ trong đời sống sinh hoạt hàng
ngày của trẻ. Ông cho rằng: tự lập trước hết là phải có sự yêu thích lao động; do
đó muốn giáo dục khả năng tự lập trước hết cần phải làm sao cho trẻ có niềm
say mê với lao động; phải khơi gợi cho trẻ ý thức tích cực về lao động và con
người lao động; phải thúc đẩy trẻ tham gia vào lao động, tập lao động trong cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày, từ những việc đơn giản, tới các việc phức tạp hơn
trong khả năng có thể của chúng. Mức độ phát triển khả năng tự lập của trẻ phụ
thuộc nhiều vào mối quan hệ của trẻ với lao động. { 1}
Như vậy, đằng sau hành vi tự lập của trẻ, ở bất cứ độ tuổi nào bao giờ
cũng cần phải có một vai trò lãnh đạo hướng dẫn và những yêu cầu của người
2
lớn. Điều cần quan tâm và đặc biệt chú ý ở đâu là trẻ càng lớn lên thì sự tác
động của người lớn càng cần phải ít bộc lộ một cách lộ liễu, trực tiếp hơn. Nếu
trẻ thường xuyên phải buộc mình tuân theo những yêu cầu của người lớn thì dần
dần nó bắt đầu tự định hướng theo những yêu cầu này, coi như đó là những
chuẩn mực hành vi cần phải tuân theo. Càng hiểu rõ luật lệ, giới hạn thì trẻ sẽ
càng biết cách tự lập. Chỉ khi nào dựa trên những cơ sở, những thói quen tương
ứng, tức là những định hình đã được hình thành, đáp ứng yêu cầu của người lớn
thì chúng ta mới có thể giáo dục cho trẻ tự lập một cách đúng đắn nhất, hình
thành nên một trong những nét nhân cách quý báu cho trẻ.
Đối với trẻ 5-6 tuổi thì nhà giáo dục Maria Montessori đã khẳng định, trẻ
0-6 tuổi có trí tuệ thẩm thấu, khả năng học hỏi kỳ diệu từ môi trường, như một
miếng bọt biển có thể thấm hút mọi thứ xung quanh mình. Chỉ cần cung cấp một
môi trường an toàn, hỗ trợ, với những đồ đạc vừa kích cỡ, các dụng cụ thực
hành mời gọi trên giá, trẻ sẽ háo hức tự mình làm mọi thứ. Những quan sát và
trải nghiệm của bà đã và đang được chứng minh ở các trường học Montessori.
Khi được ở trong môi trường phù hợp, với đầy đủ vật dụng, trẻ sẽ tự lấy đồ dùng
học tập, tự cất vào giá khi sử dụng xong, tự lau dọn bàn ghế và phòng học, tự đi
vệ sinh, mặc quần áo, đi giày và các hoạt động thực hành cuộc sống khác…{2}
Theo giáo sư - tiến sĩ Vũ Gia Hiền, trẻ 5-6 tuổi đã hình thành nhân cách.
các em bắt đầu khám phá được khả năng và phẩm chất của mình, hiểu được thái
độ của những người xung quanh, có phản xạ vui buồn về thành công và thất bại,
về ưu khuyết điểm của bản thân, về những khả năng và sự bất lực. Tuy nhiên,
khả năng hiểu của các em chỉ ở mức độ đơn giản. Ở lứa tuổi này, trẻ đã biết
được giới tính của mình, là trai hay gái. Lúc này, hành vi của người lớn có tác
động rất lớn đến bé. Cũng trong giai đoạn cuối tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu biết
hành động có mục đích, biết lập ra kế hoạch theo thời gian gần và không gian
hẹp. Mặc dù các em chưa có khái niệm kiểm soát thời gian và không gian nên
chúng chỉ hành động theo bản năng mà chưa biết đánh giá kết quả. Hiểu được
đặc điểm này, giáo viên trong các trường mẫu giáo, cha mẹ trẻ, nên tập cho trẻ
biết chờ đợi, kiềm chế hành vi, lời nói bộc phát qua những hoạt động cụ thể. Cần
tổ chức trò chơi có luật chơi, nhờ đó mục đích thô sơ (chơi) có thể trở thành kỹ
năng sống. …{3}
Nhechaeva trong "Giáo dục trẻ mẫu giáo trong lao động" đã khẳng định
qua quá trình nghiên cứu lâu dài của mình: Lao động tự phục vụ đối với trẻ nhỏ
như ăn mặc, vệ sinh cá nhân, giúp người lớn làm những công việc vừa sức... là
biện pháp tốt nhất để hình thành khả năng tự lập cho trẻ. Khi trẻ đã biết lao động
tự phục vụ thì ít hay nhiều trẻ cũng giảm dần sự phụ thuộc vào người lớn. Sự
phát triển khả năng tự lập này có thể thấy rõ qua: Từ chỗ trẻ thấy rằng mình có
thể tự làm việc này, việc nọ mà trẻ trở nên tự tin, tin tưởng vào khả năng của
mình hơn, chúng sẽ cố gắng vượt mọi khó khăn trong mức cao nhất có thể hoàn
thành một nhiệm vụ hay công việc nào đó mà không cần sự can thiệp của người
lớn. Như vậy, hình thành kỹ năng kỹ xảo và thói quen tự phục vụ là vô cùng ý
nghĩa đối với sự phát triển khả năng tự lập của trẻ nhỏ. {4}
3
2.2. Thực trạng vấn đề khiến trẻ không tự lập của trẻ 5- 6 tuổi trường
Mầm Đông Minh Huyện Đông Sơn.
Chúng ta điều biết rằng trong những năm tháng đầu đời, trẻ em phải phụ
thuộc vào cha mẹ, từ miếng ăn, giấc ngủ, đến chuyện mặc quần áo, đi giày, tắm
rửa, vệ sinh. Và khi trẻ lớn dần lên, dù đã đủ khả năng và khéo léo để làm hết
những việc tự phục vụ cá nhân nhưng trẻ vẫn thích nhõng nhẽo đòi cha mẹ phải
làm cho mình. Và vì yêu con, thương con, nên cha mẹ làm cho con tất cả. Rồi
bỗng một ngày, trẻ buông tay cha mẹ ra, tự làm hết mọi việc, độc lập trong từng
suy nghĩ và hành động. Quá trình tách rời này là một việc không thể thiếu trong
hành trình lớn lên của trẻ.
Như vậy có thể khẳng định rằng mỗi người sinh ra đều có các bộ phận
đầy đủ giống như người khác (ngoại trừ những người khiếm khuyết). Tại sao
cuộc sống lại tạo ra những con người hoàn toàn khác nhau: có người dùng chính
đôi tay để nuôi sống mình, để làm mọi việc phục vụ mình và phục vụ người
khác; cũng có không ít người luôn dựa dẫm vào người khác ?.
Trong quá trình chỉ đạo xây dựng kế hoạch rèn luyện tính tự lập cho trẻ
nhằm thực hiện nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh
tích cực”, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
Giáo viên trong lớp điều học qua chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, có tính
yêu nghề mến trẻ, có năng lực sư phạm vững vàng, trình độ chuyên môn của
giáo viên trong trường đạt 100% chuẩn và trên 77,7% giáo viên đạt trình độ trên
chuẩn, 4 giáo viên trên 2 lớp mẫu giáo lớn năng lực vững vàng có 3 giáo viên
trình độ đại học và 1 cao đẳng sư phạm, được xếp loại về chuẩn nghề nghiệp
giáo viên MN suất xắc 4/4 đạt 100 %
Gia đình phụ huynh ở quê nên điều kiện chăm sóc trẻ gần gủi trẻ được
nhiều thời gian bên trẻ hơn. Các gia đình ở quên thường có các mối quan hệ xã
hội, mọi người xung quanh, làng xóm, quê hương. Trẻ ở quê có điệu kiện tiếp
cận với chuyên đề tốt vì thường gia đình có nhiều thế hệ khác nhau…
* Khó khăn:
Về phía phụ huynh: Chính tâm lý phải dành những gì tốt nhất, sự quan
tâm quá mức, nhường bộ con mong muốn con hoàn hảo, theo sát và luôn để mắt
đến trẻ, xem trẻ như 1 hòn ngọc quý mà rơi là vỡ nên bao bọc bằng cách sẵn
sàng đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi của con mà không đắn đo suy nghĩ rằng điều đó
có thực sự cần thiết mà không đòi hỏi con phải có sự nỗ lực để có được . Nhưng
một thực tế đang sảy ra là rất nhiều cha mẹ ở quê đây vẫn luôn chạy theo con
đút cho con ăn, trẻ ăn có thể lên tới 2 đến 3 tiếng, rồi rót nước cho con uống,
mặc quần áo, đi giày cho con…, thậm chí tới lúc con 5 tuổi, vẫn mẹ lại thường
không muốn con cái mình phải chịu khổ. Họ sợ con vất vả nên không giám cho
con đụng vào 1 công việc gì như cầm chổi quét nhà hay cùng kênh kê sạp, bàn
ghế sợ đụng vào chân, không giám cho con thu dọn đồ cá nhân của mình sợ bé
nhặt nhầm của bạn… không giám cho trẻ giặt khăn sợ trẻ giây nước ướt quần
áo...vậy là họ đáp ứng tất cả điều đó và cũng có ý yêu cầu giáo viên phaỉ phục
vụ trẻ những điều đó. Nhưng họ không biết rằng điều này lại khiến cho trẻ có lối
sống ý lại, dựa dẫm vào người lớn vào gia đình. Chính tâm lý phải dành những
4
gì tốt nhất, sự quan tâm quá mức, nhường bộ con mong muốn con hoàn hảo,
theo sát và luôn để mắt đến trẻ, xem trẻ như 1 hòn ngọc quý mà rơi là vỡ nên
bao bọc bằng cách sẵn sàng đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi của con mà không đắn đo
suy nghĩ rằng điều đó có thực sự cần thiết mà không đòi hỏi con phải có sự nỗ
lực để có được và rồi quan tâm tới con quá mức là một trong những cách khiến
con không tự lập.
Phía giáo viên: Giáo viên còn thờ ơ với chuyên đề hoặc chưa nhận thức
đúng về giáo dục tính tự lập cho trẻ trong trường né tránh nhưng soi mói và
tránh những tiếng dị nghị của phụ huynh rằng bắt con họ làm việc trong lớp. Và
chưa tìm ra những nội dung và hình thức lồng ghép giáo dục về tính tự lập cho
trẻ chưa thực sự mang tính chuyên đề.
Qua nhiều năm công tác và từ những thực trạng về tính tự lập của trẻ thời
bây giờ bản thân thấy rằng việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ là 1 điều cực kỳ
quan trọng, cấp bách nên đã đi sâu nghiên cứu và tiến hành bước khảo sát đầu
năm tại lớp Mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường Mầm non Đông Minh với số trẻ khảo
sát là 30 trẻ như sau:
Kết quả thể hiện
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Chưa có
Trẻ
%
Trẻ
%
Trẻ
- Kỹ năng Tự nhặt xếp gọn gàng đồ chơi, 15
chăm sóc tự cởi và mặc quần áo gấp
bản
thân quần áo gọn gàng, rửa mặt,
như:
tay, đánh răng, đi dép, chuẩn
bị mũ, áo khoác, khẩu trang
khi đi ra ngoài, tự ăn,…
50
10
33,3 5
16.6
- Kỹ năng Dọn dẹp sắp xếp thu dọn đồ 12
giữ gìn vệ dùng đồ chơi cùng cô, lao
sinh:
động cùng các bạn như sắp đồ
dùng, kê bàn ăn, sạp ngủ…,
lau nước trên sàn, lau bụi trên
bàn, gạt nước sau khi đi vệ
sinh, đi vệ sinh đúng nơi, bỏ
rác đúng nơi quy định…..
40
12
40
6
20
- Kỹ năng
Giúp đỡ em bé hơn đi lên 10
hỗ trợ
xuống cầu thang, dỗ em bé khi
người khác: khóc.. Bật tivi, bật quạt, lấy
bát ăn cơm, lấy cốc uống
nước, cất dép đúng quy định,
xách phụ đồ, tưới cây.
33.3 12
40
8
26,6
41.1
37.7
Nội dung
Yêu cầu đạt
Tổng cộng
%
21
Kết quả khảo sát: Trẻ thể hiện theo yêu cầu
5
Thường xuyên: đạt 41.1 %
Thính thoảng: đạt 37.1 %
Chưa có:
đạt 21 %
Từ thực tế trên cho thấy trẻ ở lứa tuổi này còn quá thụ động, chưa tự giác
tham gia vào các hoạt động lao động hoặc ý thức mang tính tự lập và cảm thấy
nhiệm vụ cấp bách của nhà trường đề xây dựng cho trẻ 1 con người mới, 1 con
người có 1 kỹ năng sống có thể bắt kịp với xu thế phát triển hiện đại của con
người mới, xã hội văn minh…bản thân đã đi vào xây dựng chỉ đạo xây dựng lớp
để thực nghiệm xây dựng chuyên để chỉ đạo giáo viên rèn luyện tính tự lập cho
trẻ Mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi ở trường Mầm non Đông Minh- Đông Sơn- Thanh
hóa
2.3. Các giải pháp áp dụng có hiệu quả để chỉ đạo giáo viên nâng cao
tính tự lập ở trẻ Mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường Mầm non Đông Minh.
2.3.1: Chỉ đạo giúp giáo viên nhận thức đúng tầm quan trong của Tự
lập từ đó xây dựng kế hoạch đặt ra mục tiêu và rèn luyện những kỹ năng tự
lập cần thiết cho trẻ.
Để tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện, mục đích của giáo dục mầm
non là định hướng tất cả khả năng tự lập của trẻ, góp phần hình thành cho trẻ
những cơ sở chuẩn mực ban đầu về tính cách, phẩm chất cần thiết như: mạnh
dạn, tự tin, tự lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác…đưa trẻ tham gia vào các hoạt
động trong đời sống hằng ngày. Giáo dục tính tự lập là được coi là nhiệm vụ
trung tâm trong việc giáo dục rèn luyện cho trẻ mẫu giáo nên chỉ đạo cho giáo
viên thấu hiểu được tự lập cho trẻ mẫu giáo có những kỹ năng như:
- Kỹ năng chăm sóc bản thân như: Tự nhặt xếp gọn gàng đồ chơi, tự cởi
và mặc quần áo gấp quần áo gọn gàng, rửa mặt, tay, đánh răng, đi dép, chuẩn bị
mũ, áo khoác, khẩu trang khi đi ra ngoài, tự ăn,…
- Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: Dọn dẹp sắp xếp thu dọn đồ dùng đồ chơi cùng
cô, lao động cùng các bạn như sắp đồ dùng, kê bàn ăn, sạp ngủ…, lau nước trên
sàn, lau bụi trên bàn, gạt nước sau khi đi vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi, bỏ rác
đúng nơi quy định…..
- Kỹ năng hỗ trợ người khác: Giúp đỡ em bé hơn đi lên xuống cầu thang,
dỗ em bé khi khóc.. Bật tivi, bật quạt, lấy bát ăn cơm, lấy cốc uống nước, cất
dép đúng quy định, xách phụ đồ, tưới cây.
Những biểu hiện của trẻ chúng ta nhận thấy khả năng tự lập có ảnh hưởng
mạnh mẽ, trực tiếp đến trí tuệ, cảm xúc và trong các hoạt động. Trẻ tự tin, tự
kiểm soát, điều khiển hành vi của mình. Tính tự lập quyết định việc hình thành
nhân cách, trí tuệ, cảm xúc của trẻ. Bởi vậy giáo dục khả năng tự lập cho trẻ ở
cấp học mầm non là một nhiệm vụ hết sức cần thiết, bởi tính tự lập là một trong
những tính cách cơ bản, đóng vai trò quan trọng giúp trẻ khi trưởng thành có thể
bản lĩnh hơn, tự tin hơn, vững vàng hơn, thành công hơn trong cuộc sống và đặc
biệt là trẻ có thể tự lo cho mình thật tốt dù không có bố mẹ, người lớn bên cạnh
hay gặp bất kỳ tính huống khó khăn nào.
Nhận thức được những yêu cầu của các kỹ năng đó mà giáo viên lên kế
hoạch đặt ra mức độ đạt được ở từng giai đoạn, từng tháng mà lồng ghép vào
6
các hoạt động của lớp mình cho phù hợp. Có thể giáo viên lập ra những danh
sách, những việc làm mà trẻ có khả năng làm được tùy thuộc vào độ tuổi và thời
gian mức độ đạt được của trẻ như dọn dẹp đồ chơi sau khi chơi xong, sắp sếp lại
các góc chơi trong lớp, tự làm vệ sinh cá nhân như đánh răng sau khi ăn xong,
lau miệng, uống nước, mặc quần áo khi thấy lạnh và cởi quần áo khi thấy nóng,
phụ giúp giáo viên quét dọn lớp, lau bàn ăn, sắp đồ dùng học tập gọn gàng ngăn
nắp, dọn dẹp nhà cửa, gấp quần áo bỏ vào thùng đồ cá nhân của mình vào từng
tháng để đưa ra các yêu cầu đạt cho tháng đó và đặt yêu cầu rèn luyện cho
những tháng tiếp theo. … Dựa trên những yêu cầu cần đạt ở cuối mỗi độ tuổi mà
chỉ đaọ giáo viên lên kế hoạch lồng ghép giáo dục tính tự lập vào từng thời điểm
trong ngày cho phù hợp.
Ví dụ:
- Vào thời điểm đón trẻ giáo viên yêu cầu trẻ cần chào bố mẹ ông bà, chào
cô xong đi vào lớp cất thay dép, bỏ mũ áo khẩu trang và tự mình cất túi đồ dùng
cá nhân vào tủ đồ của mình.
- Trong khi thể dục sáng giáo viên yêu cầu trẻ thực hiện nhiệm vụ cất lồng
dép để vào giáo đặt ngay ngắn biết cởi áo ấm (nếu mùa đông) gấp gọn gàng bỏ
vào ngăn tủ cá nhân để tập thể dục.
- Tổ chức hoạt động học, trẻ biết lấy và cất đồ dùng cùng cô, biết sắp đặt
ngay ngắn vào giá phụ giúp cô thu dọn đồ dùng học tập sau khi học,
- Khi chơi ở góc, trẻ cần biết lấy vào cất đồ dùng đồ chơi gọn gàng, bảo
vệ, giữ gìn đồ dùng đồ chơi.
- Trong giờ ăn, trẻ biết phụ giúp cô dọn dẹp kê bàn ghế, lấy bát ăn, lấy
khăn ăn thìa và khăn ăn., ăn xong lấy khăn lau miệng, đánh răng rửa miệng, giúp
cô lau bàn ghế, quét phòng, ….
- Trong giờ ngủ trưa, cùng cô kê sạp ngủ, lấy chăn màn gối, .. có ý thức
giữ gìn trật tự trước trong và sau giờ ngủ trưa, kê cất sạp gọn gàng, xếp gối gấp
chăn xếp vaò tủ cẩn thận…
- Sau khi chơi vào hoạt đồng chiều trẻ giúp cô kê sắp xếp lại bàn ghế, lau
dọn phòng lớp, lau kê lại các giá góc đồ chơi….
* Về công tác rèn luyện vệ sinh cá nhân trẻ giáo viên cùng cần lên kế
hoạch rèn luyện cụ thể rõ ràng và mức độ đạt được của từng giai đoạn để có thể
xay dựng kế hoạch rèn luyện cho giai đoạn tiếp theo:
- Vệ vệ sinh cá nhân: Trể biết thực hiện đúng quy trình thao tác rửa tay
trên vòi nước chảy tự mình rửa tay trước và sau khi ăn, sau mỗi lần đi vệ sinh,
rửa tay chân khi thấy mình bẩn…đánh răng lau miệng uống nước sau khi ăn.
- Biết sắp xếp đồ dùng cá nhân của mình trong tủ đồ và túi đồ cá nhân như
gấp quần áo khi thay ra, cất gọn gàng dép vào túi đồ cá nhân, bỏ các dồ dùng
của mình vào đúng ngăn cặp, đi và sắp dép và giầy đúng hoặc lồng đôi gọn gàng
cất xếp đúng nơi quy định.
* Về kỹ năng và các mối quan hệ xã hội cần chỉ đạo giáo viên lên kế
hoạch rèn luyện phù hợp vời chủ đề chủ điểm mà giáo viên đang dạy để rèn
luyện tình cảm cá nhân và giáo dục trẻ có tình cảm có thái độ tích cực với chủ
đề đang họ
7
Và từ những yêu cầu với độ tuổi đó thì cần chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch
rèn luyện tính tự lập bằng cách xây dựng các thói quen lao động tự phục vụ mỗi
tháng sau đó giáo viên nâng dần mức độ rèn luyện và mức độ đạt được của trẻ
và xây dựng thêm nội dung rèn luyện.
Ví dụ: Đầu năm học tháng 9:
Với nội dung: Rèn luyện tính tự lập thông qua giờ ăn
+ Yêu cầu: Trẻ biết cùng cô kênh bàn kê bàn trước và sau khi ăn, lấy bát thìa,
khăn ăn… bày xếp bàn ăn, tự chia thức ăn, giữ gìn vệ sinh trong khi ăn, có thói
quen nhặn cơm rơi vào đĩa, chào mời cô và các bạn, giúp đỡ các bạn yếu hơn ….
+ Biện pháp: Theo sự hướng dẫn và làm mẫu chỉ bảo của giáo viên, rồi
khuyến khích trẻ làm việc cùng cô, cùng các bạn, sau đó nhận xét tuyên dương
trẻ làm tốt công việc và nhẹ nhàng nhắc nhở trẻ chưa hoàn thành công việc được
phân công và còn chưa có thái độ tích cực với công việc của mình lần sau làm
tốt hơn..…
+ Kết quả đạt được: 60%
+ Lên kế hoạch rèn luyện cho thời gian tiếp theo với kết quả đạt cao hơn so
với trước đó và nội dung với các kỹ năng tốt hơn: Tiếp tục hướng dẫn khuyến
khích hướng dẫn những trẻ chưa thường xuyên thực hiện kế hoạch lao động
cùng cô, cùng các bạn. (Tuyên dương sự tiến bộ của trẻ so với chính trẻ của
ngày trước đó)
Giáo viên hãy yêu cầu trẻ phải hoàn thành công việc được giao để trẻ cảm
thấy là mình đã lớn và tất cả các trẻ phải cùng làm việc cùng phụ giúp lẫn nhau
để hoàn thành 1 số công việc yêu cầu tập thể và mức độ cao, và giáo viên cũng
có thể đưa ra một số công việc có mức độ khó khăn cao để thử thách trẻ.
2.3.2. Biện pháp chỉ đạo giáo viên phân công hợp lý công việc cho trẻ,
tạo môi trường cơ hội cho trẻ được làm việc và duy trì các thói quen của trẻ:
Lao động tự phục vụ là hình thức lao động đi vào toàn bộ cuộc sống hàng
ngày của trẻ ở trường mẫu giáo. Hình thức lao động này nhằm giữ gìn sự sạch sẽ
và ngăn nắp trong lớp học và ngoài sân trường, giúp đỡ người lớn tổ chức quá
trình sinh hoạt hàng ngày - lao động tự phục vụ nhằm phục vụ cho bản thân trẻ,
và đồng thời phục vụ cho tập thể, do đấy có khả năng to lớn để giáo dục khả
năng tự lập cho trẻ. Ở mẫu giáo lớn, nội dung lao động tự phục vụ phong phú,
mang tính chất thường xuyên và phần lớn đã chuyển thành nhiệm vụ của các trẻ
trực nhật. Trẻ giữ gìn sạch sẽ lớp học, ngoài sân; sửa chữa đồ chơi, dán lại sách
vở, giúp bạn hay em nhỏ hơn mình, yếu hơn mình. Trẻ mẫu giáo lớn phải biết
các tổ chức các công việc, luôn tỏ ra cố gắng, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ,
đạt kết quả tốt, được đánh giá cao. Điều này khẳng định khả năng tự lập của trẻ
được hình thành thuận lợi thông qua quá trình trẻ tham gia lao động tự phục vụ
tại trường mầm non.
Đối với mẫu giáo lớn ngay từ những ngày đầu đến lớp, khi thực hiện các
hoạt động đa số trẻ đã có thói quen lao động tự phục vụ như giúp cô sắp xếp bàn
ghế, đồ dùng, đồ chơi, tự rửa mặt, tay hoặc làm một số việc khác do cô giáo đưa
ra. Tuy nhiên trong quá trình trẻ làm thao tác còn vụng về, rơi vải, chưa gọn
gàng, chưa ngăn nắp; Một số trẻ còn chây lười, trốn đi chỗ khác hoặc đứng nhìn
8
bạn làm xong thì đến. Vậy nên giáo viên lên kế hoạch cụ thể để giao nhiệm vụ
trực nhật hàng ngày cho từng cá nhân, hay từng nhóm.
Ví dụ: Phân công mỗi tổ trực 1 ngày thực hiện các hoạt động trong ngày
như: lau chùi, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi trong lớp, kiểm tra vệ sinh cá nhân (rửa
mặt, rửa tay, lau mặt), lao động nhặt lá rụng…Các tổ còn lại có nhiệm vụ theo
dõi, nhận xét. Hàng ngày trong giờ hoạt động nêu gương tổ trực được lớp nhắc
nhở nhiệm vụ, cuối ngày cho trẻ tự nhận xét, cô đánh giá, kết luận và khen
thưởng cho các tập thể tổ và cá nhân thực hiện tốt, cháu nào thực hiện chưa tốt
thì cô nhẹ nhàng nhắc nhở
( Xem phụ lục 1: Trẻ đang quét dọn sân vườn trường)
Giáo viên nên chú ý nhắc nhở những trẻ đứng ngoài cùng đến tham gia
làm với các bạn, động viên khen ngợi khi cháu này làm hoàn thành nhiệm vụ
của mình. Đồng thời chú ý quan sát nhắc nhở cháu làm đúng yêu cầu của cô như
sắp xếp đồ dùng đúng chỗ, đúng nơi. Giờ ăn khen những cháu ăn không rơi vải,
mặc áo gài cúc áo đúng. Dần dần tạo cho trẻ thói quen ngăn nắp, gọn gàng.
Đồng thời để tạo sự hưng phấn cho trẻ, hoạt động chính, giờ chơi hoạt động góc
và hoạt động ngoài trời để rèn luyện tính tự lập của trẻ hính thành thói quen
Giáo viên có thể tạo cơ hội các điều kiện để giúp trẻ thể hiện tính tự lập của
mình thông qua cuộc dạo chơi ngoài trời như sau…
Ví dụ: Khi tổ chức tiết học ngoài trời để trẻ được hít thở không khí trong
lành như dạy bài hát “ Em yêu cây xanh”, thông qua bài hát cho trẻ chơi trò chơi
nhặt lá rơi và đếm số lá mà trẻ đã nhặt được khi bỏ vào sọt rác, rửa tay sau tiết
học, thi xem ai rửa tay đúng, rửa tay sạch… từ đó giáo viên chú ý quan sát động
viên khen ngợi những trẻ làm đúng và hướng dẫn thêm những trẻ làm chưa
thành thạo rèn kỹ năng thực hiện công việc của trẻ
* Trên đường đi đến sân chơi giao thông tôi bảo trẻ quan sát xem sân
trường có sạch, đẹp không? Cô thấy ở góc sân đằng kia có một vỏ hộp sữa làm
cho sân trường chưa sạch, chưa đẹp, chắc là các em lớp bé chưa hiểu lời cô dạy
nên vứt không đúng chỗ, các cháu lớn hơn phải làm gì để giúp các em nhỏ làm
cho sân trường sạch, đẹp nhỉ? Sau gợi ý rất nhiều cháu chạy đến nhặt vỏ hộp sữa
bỏ vào thùng rác.
Cũng có lúc chỉ đạo giáo viên rèn tính tự lập thông qua các trò chơi: chơi
có luật “Thổi bóng” “Bắt bướm” “Nhặt lá rụng” “Nhổ cỏ” “Bắt sâu”. Thông qua
các trò chơi này giáo viên giúp trẻ dần dần trẻ càng thân thiện với nhau hơn,
thân thiện với môi trường, lại vừa hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ môi trường,
yêu mến cảnh vật thiên nhiên và nâng cao ý thức, kỹ năng lao động. Hơn nữa,
khi trẻ tự mình làm hoàn thành tốt nhiệm vụ do người lớn giao và được khen tức
là tạo cho trẻ lòng tự tin vào bản thân, trẻ trở nên năng động tích cực tham gia
các hoạt động của lớp, do đó trẻ trải nghiệm được nhiều điều và chính điều này
phát triển tình cảm, trí tuệ cho trẻ.
( Xem phụ lục 2a; 2b: Trẻ đang tưới cây ngoài vườn cổ tích)
Tuy nhiên nhắc nhở giáo viên không nên ép trẻ thực hiện theo kiểu đồng
loạt mà cần xem xét hoàn cảnh của từng trẻ trong từng thời điểm và theo dõi sự
tiến bộ của trẻ trên từng ngày, ( Trong ngày)
9
Ví dụ: Nếu trẻ đang mệt mỏi, đau ốm, căng thẳng thì đây không phải là
thời điểm để giáo viên yêu cầu trẻ thực hiện công việc hoặc mong đợi sự năng
động tích cực tự giác của trẻ, giáo viên cũng không nên nản lòng nếu trẻ thường
xuyên tìm cách thoái thác, trốn tránh làm những công việc được giao. Bởi đó là
tâm lý bình thường của trẻ. Cô giáo có thể tạm thời nhờ các bạn khác chia sẻ và
làm việc cùng trẻ để chúng nhanh chóng lấy lại tinh thần. Tuyệt đối không được
phê bình hay la mắng trẻ là lười biếng.
Khi trẻ không thể kiểm soát hết mọi thứ mà mình đang thực hiện, trẻ sẽ
sáng tạo theo cách riêng của mình. Việc cô nên làm lúc này là bình tĩnh quan sát
xem trẻ làm những gì, thực hiện công việc ra sao mà không hề hối thúc hay
dùng thời gian để gây áp lực với trẻ. Thái độ vui vẻ của bạn khi dọn đồ chơi sẽ
ảnh hưởng đến bé. Vì thế, bạn cần biến việc dọn đồ chơi thành một hoạt động
vui vẻ hoặc một trò thách thức. Hoặc cô có thể tổ chức 1 cuộc thi về hoạt động
nhặt thu dọn săp xếp đồ chơi theo yêu cầu nhưng cô cần cho trẻ đủ thời gian để
hoàn thành công việc thông qua tổ chức dưới hình thức 1 trò chơi:
- Hãy mở một cuộc thi mà tất cả các bé trong lớp được thực hiện theo
nhóm ở từng góc chơi thử xem nhóm nào nhặt đồ chơi nhanh nhất và sắp sếp
đẹp nhất. Giáo viên có thể đặt thời gian, chẳng hạn thời gian được tính sau khi
hết 1 bản nhạc (Các bài nhạc được thu theo chủ đề trẻ đang học) để trò chơi
thêm phần thú vị.
Ví dụ: Trò chơi vui vẻ, có thể vừa cho trẻ thực hiện lồng ghép vào 1 bài
nhạc hoặc 1 bài toán đếm đơn giản như sau: “ Các con hãy nhặt đủ 10 đồ chơi
vào giỏ trước khi bản nhạc kết thúc. Bé rất thích thú khi được cô thách đố và kết
quả, bạn có một giỏ đồ chơi đầy, cộng với một lớp học sạch bóng.
Trong lớp học giáo viên nên phân công công việc hợp lý cho từng thành
viên trong lớp. Riêng đối với trẻ nhỏ, cần để bé hiểu rằng mỗi người đều có
trách nhiệm với công việc và hình thành thói quen làm việc.
Ví dụ: Khi tổ chức các hoạt động ở lớp có thể phân công công việc cho
các bé, trong lớp 1 cách cụ thể như sau: Những bạn nam trong lớp có nhiệm vụ
kê bàn ăn, kê ghế các bạn nữ trong lớp thì lấy bát, chia ăn, lấy đĩa, khăn ăn, khi
ăn xong mỗi bạn sẽ đi cất bát của mình, tự giác đi đánh răng lau miệng, sau đó
vào kê cất bàn ghế, các bạn nữ sẽ lau bàn, quét và phụ cô lau lớp....Hoặc đến giờ
ngủ thì các bạn nam sẽ đi khênh sạp ngủ, các bạn nữ sẽ lấy gối chia gối, mắc
màn ngủ, chải chiếu....
( Xem phụ lục 3: Trẻ đang thu dọn sắp sếp đồ chơi sau khi chơi)
Cứ như thế làm nhiều lần trẻ sẽ có thói quen hễ chuẩn bị đến giờ ăn, giờ
ngủ trẻ sẽ tự khắc kê bàn ghế, lấy đồ…Đừng vì suy nghĩ "làm thì ít mà bày bừa
thì nhiều" mà cô tước đi quyền được thực hành, được trải nghiệm của trẻ.
Trong khi rèn tính tự lập cho trẻ giáo viên cần duy trì thói quen và cách làm việc
của các trẻ, tránh nay làm mai bỏ trẻ sẽ có thói quen i lại hoặc chây lười không
có tính tự giác nữa nếu lặp lại nhiều lần, nhất là được nhìn bạn làm mẫu, bé sẽ
dễ bắt chước theo. Dần dà bé sẽ có thói quen dọn đồ sau khi chơi. Việc hình
thành một hành động tự phục vụ là điều không khó nhưng cái khó là hình thành
thói quen cho trẻ và muốn hình thành thói quen cho con thì và cô giáo cần lưu ý:
Phân công công việc cụ thể; tạo môi trường cho trẻ làm việc, cho trẻ được làm
10
nhiều lần; có những biện pháp nhận xét các việc trẻ đã đạt được và đồng thời
khen thưởng, khích lệ, động viên trẻ kịp thời.
“Gieo suy nghĩ gặt hành động. Gieo hành động gặt thói quen.Gieo thói
quen gặt tính cách.Gieo tính cách gặt số phận”.
Để thực hiện chuyên đề 1 cách chuyên sâu thường xuyên trên lớp ban
giám hiệu nhà trường cũng phải thường xuyên đôn đốc việc thực hiện rèn luyện
trẻ 1 cách thường xuyên dưới hình thức thông qua các giờ hoạt động thăm lớp,
dự giờ, kiểm tra đột xuất vệ sinh phòng lớp, kiểm tra chuyên đề rèn luyện thói
quen nề nếp dọn thu xếp đồ sau khi chơi, vệ sinh cá nhân.... nhận xét và đánh giá
giáo viên qua những lần khảo sát mức độ đạt của trẻ trong tháng mà giáo viên đã
đề ra nhằm thúc đẩy việc rèn luyện theo thói quen có hiệu quả trên chính trẻ
trong lớp tránh hình thức và chiếu lệ qua loa.
2.3.3. Biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép rèn luyện tính tự lập cho
trẻ 5- 6 tuổi thông qua các hoạt động chơi ở các góc của trẻ:
Hoạt động vui chơi đối với trẻ là hoạt động để rèn luyện các chức năng
tâm lý, sinh lý. Chơi là để phát triển các mặt thể chất và tinh thần. Chơi là để
học hỏi làm người, là để phát triển nhân cách một cách toàn diện. Với những ý
nghĩa to lớn đó, có thể khẳng định rằng: Chơi cũng là cách để trẻ rèn luyện và
phát huy khả năng tự lập. Hơn bất cứ hoạt động nào, trong trò chơi, trẻ được thể
hiện khả năng tự lập của mình. Trẻ luôn luôn mong muốn mình được tự giải
quyết lấy mọi tình huống, chúng có xu hướng tự hoạt động mà không cần sự
giúp đỡ của ai. Trẻ có thể tự tiến hành trò chơi và chơi một cách vui vẻ, hăng
say, thích thú. Đây là một giai đoạn quan trọng trong bước tiến, trên con đường
hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Bản chất trò chơi phân vai
chính là một hoạt động phản ánh thực cuộc sống xã hội thu nhỏ như vậy chúng
tôi đã chỉ đạo giáo viên lồng ghép giáo dục chỉ đạo rèn luyện tính tự lập bằng
lập các kế hoạch vui chơi hợp với các thời điểm, chủ điểm trong lớp.
Ví dụ: Trong chủ đề: “Ngành nghề” hoạt động vui chơi có nhiều góc
chơi, trong mỗi góc lại có nhiều nhóm chơi nhỏ. Khi cô giới thiệu các góc chơi,
nhiệm vụ của từng vai chơi, trẻ bắt đầu tự chọn hoạt động của mình. Có trẻ chọn
góc phân vai, có trẻ chọn góc xây dựng…Lần đầu tiên cháu được đóng làm chú
công nhân, được đóng vai bố, mẹ, vai y tá, bác sĩ,…Làm chú công nhân phải
xây nhà, xây hàng rào và xây nhiều công trình khác. Khi đó trẻ sẽ nghĩ ra cách
làm cho đẹp, cho nhanh Hoặc khi trẻ bán hàng, cô đóng giả người đi mua hàng,
đưa tiền thừa để trẻ tính thối lại tức giúp trẻ bết tính toán, tự giải quyết vấn đề.
(Xem phụ lục 4 : Hình ảnh trẻ chơi trò chơi bế em)
Khi tham gia chơi thì trẻ được đứng ở vị trí chủ thể của hành động chơi,
trẻ có thể được tự mình quyết định làm lấy những gì mà mình thích chứ không
phải là những gì người khác ép buộc. Vì vậy, trong khi chơi xuất hiện ở trẻ sự
tích cực tự nguyện. Hoạt động vui chơi đối với trẻ là hoạt động để rèn luyện các
chức năng tâm lý, sinh lý. Hơn bất cứ hoạt động nào, trong trò chơi, trẻ được thể
hiện khả năng tự lập của mình. Trẻ luôn luôn mong muốn mình được tự giải
quyết lấy mọi tình huống, chúng có xu hướng tự hoạt động mà không cần sự
giúp đỡ của ai. Trẻ có thể tự tiến hành trò chơi và chơi một cách vui vẻ, hăng
say, thích thú.
11
Ví dụ: Được đóng vai bố, mẹ trẻ sẽ tự làm công việc của bố là đi làm
hoặc là làm công nhân hoặc là một nông dân chăm sóc cây trong vườn hoặc đưa
trẻ đi học, đi chơi công viên… làm mẹ là biết bế em, cho bé ăn, quét dọn nhà
cửa, nấu cơm… Làm y tá, bác sĩ trẻ sẽ khám bệnh, kê đơn thuốc, tiêm thuốc…
Khi trẻ đóng vai làm bác sĩ, cô làm bệnh nhân, ôm bụng kêu la đau chỗ này, đau
chỗ kia để trẻ tự giải quyết. Khi trẻ hoạt động cô giáo tạo tình huống để trẻ giải
quyết. Đồng thời gợi ý, hướng dẫn thêm để mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ trong
lúc chơi.
(Xem phụ lục 5 : Hình ảnh trẻ chơi trò chơi bác sĩ )
Hoạt động chơi mang tính tích hợp cao trong giáo dục trẻ. Hoạt động
chơi được tổ chức đáp ứng nhu cầu của trẻ, đồng thời tích hợp nội dung giáo
dục, trong đó có giáo dục bảo vệ môi trường. Thông qua các trò chơi đóng vai:
Ví dụ: Khi trẻ chơi đóng vai làm cô bán hàng cần hướng trẻ đến kỹ năng
bày hàng hấp dẫn, hàng phải sạch và tươi ngon để thu hút khách, biết thu dọn
hàng của mình sau tan buổi chợ không được bày hàng lung tung phải bày hàng
đúng nơi quy định vào giá đồ chơi, lau chùi sạch sẽ giá đồ chơi khi chơi song.
Hoặc là cô cho trẻ thể hiện các công việc của những công nhân môi trường đó là
nhập vai cô chú công nhân môi trường: Biết quét dọn thu gom rác, lá cây để bỏ
vào thùng, trồng cây, chăm sóc cây như nhổ cỏ, cắt tỉa cành lá bị khô ngay trong
sân trường.
(Xem phụ lục 6 : Hình ảnh trẻ chơi trò chơi bán hàng)
Hoạt động vui chơi có tác dụng thúc đẩy phát triển tốt khả năng tự lập
cho trẻ nhưng bên cạnh đó hoạt động học cũng góp phần không nhỏ nếu giáo
viên linh hoạt chủ động lựa chọn, sắp xếp các nội dung diễn ra một cách nhẹ
nhàng và trẻ được hoạt động một cách tích cực nhất. Tuy nhiên đồ dùng đồ chơi
trong lớp cũng cần được giáo viên chú trọng, tôi luôn chỉ đạo giáo viên dùng,
giữ gìn và vệ sinh những đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ, không gây nguy hiểm cho trẻ
như: Không sắc nhọn, không dễ vỡ, không dùng vật liệu độc hại….Đồ dùng đồ
chơi phải phù hợp với từng chủ đề và mục đích giáo dục cho trẻ kích thích phát
triển ngôn ngữ, nhận thức, vận động tình cảm quan hệ xã hội.
2.3.4. Biện pháp chỉ đạo giáo viên rèn luyện tính tự lập cho trẻ thông
qua biện pháp khen ngợi tuyên dương:
Việc khen ngợi cần được xem như hành động công nhận trẻ đã hoàn thành
công việc nào đó, cho dù chúng chỉ hoàn thành ở mức sơ sài nhất. Để làm tốt
biện pháp này chúng tôi (Tôi giúp giáo viên đã nhận thức được rằng tuyên
dương là biện pháp giúp trẻ mong muốn làm được những điều hay điều tốt,
tuyên dương khuyến khích trẻ khi làm được 1 việc gì dù là nhỏ thôi (Để trẻ khác
làm gương và trẻ đó có động lực làm tốt hơn lên nữa) Cụ thể và giáo viên hãy
đưa ra những lời nhận xét tích cực sau mỗi việc mà trẻ đã làm. Cần lưu ý hạn
chế việc dùng những từ khen ngợi quá đáng cho một hành động đơn giản. Thay
vào đó là những lời động viên tích cực như:
Ví dụ: Con đánh răng sạch quá, miệng con rất thơm vì con đã đánh răng,
cảm ơn con vì đã cất dép cho cô và các bạn, cảm ơn con vì đã xách đồ cho cô,
con đi vệ sinh đúng nơi quy định rồi đó, cảm ơn con đã cất dọn đồ chơi gọn
gàng cho cô, cô rất vui khi các con giúp cô lau sạch lá cây,…Ngoài ra, có thể
12
động viên trẻ bằng các phần thưởng như: Khi ở lớp có thể khen, tuyên dương
những hành động tốt trước lớp, cho trẻ được cắm cờ,…
Trong lớp học giáo viên có thể lấy những tấm gương tốt về bạn bè của trẻ
cũng có thể được học những tấm gương nhắc nhở trẻ học tập những gương tốt,
bạn tốt, công việc tốt mà các bạn hoặc trẻ đã làm được trong ngày…
Ví dụ: Bạn Lan Anh hôm nay thấy em bé lớp bé B chơi ở ngoài sân tập
bị ngã bạn ấy đã chạy lại đỡ em bé dậy, hôm nay bạn đã làm được 1 việc rất tốt
đáng để chúng mình thưởng cho bạn ấy 1 tràng pháo tay, các con hãy giúp đỡ
em bé, giúp đỡ bạn như bạn Lan anh nhé..
Hoặc khi đi dự giờ khi trẻ chơi xong đồ chơi trẻ chưa gọn tôi có thể cùng
giáo viên nhẹ nhàng nhắc nhở trẻ:
Ví dụ: Cô không hài lòng khi lớp mình chơi xong lại bày đồ chơi bề bộn
ra lớp như vậy, khi chơi xong các con cần thi dọn đồ chơi gọn gàng, sạch sẽ, khi
vào 1 lớp nào các con thấy lớp đó sạch các con có thích không ? Vậy lớp mình
bề bộn thế đã được chưa ? Từ mai khi chơi xong các con hãy thu dọn đồ chơi
gọn gàng ngăn nắp lúc ấy cô sẽ rất vui lớp mình cũng sẽ rất sạch sẽ gọn gàng …
+ Phối hợp cùng giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở hoặc kích thích trẻ những
hành vi đúng hoặc nhận ra những hành vi đúng và chưa đúng khi đi dự giờ thăm
lớp như sau:
Ví dụ: Hôm nay cô thấy Bạn Phương đã rất ngoan biết tự mình sắp đặt ca
cốc, khăn mặt cho lớp thật gọn gàng lớp mình toàn bạn ngoan và gọn gàng cô
mong sao từ mai các con cũng xếp giầy dép của mình thật gọn giống bạn nhé…
( Xem phụ lục 7: Trẻ đang sắp xếp ca cốc)
Có thể khi trẻ sai giáo viên nên có thể tỏ thái độ chưa đồng tình với trẻ
nhẹ nhàng giáo viên hãy khen ngợi những cố gắng nỗ lực của trẻ, chứ đừng chỉ
nhìn vào điểm yếu mà chê bai.
Ví dụ: Như khi trẻ đi giày trong một khoảng thời gian rất ngắn, nhưng cô
lại phát hiện ra là vì vội quá nên trẻ đã mang giày trái. Trong trường hợp này, cô
nên khen trẻ đã biết mang giày một cách nhanh chóng, còn chuyện đi giày trái
thì nên để trẻ tự cảm nhận, bởi chẳng có ai cảm thấy thoải mái khi mang ngược
giày bao giờ. Và đến khi trẻ phát hiện ra điều bất tiện này thì hãy động viên trẻ
rằng lần sau trẻ sẽ biết cách đi đúng giày.
Giáo viên cần sử dụng các hình thức khen, chê phù hợp, đúng lúc, đúng
chỗ, tỏ thái độ đồng tình, biểu dương, khích lệ những việc làm, hành vi, lời nói
tốt của trẻ là chính, có thể chê khi cần nhưng phải nhẹ nhàng và không quá lạm
dụng. Hãy chấp nhận rằng trẻ sẽ không thể làm tốt mọi việc giống như sự mong
đợi của cô giáo. Chắc chắn sẽ có sự cố gì đó xảy ra nhưng thay vì trách phạt trẻ,
giáo viên nên hướng dẫn trẻ giải quyết hậu quả trong khả năng trẻ có thể và hãy
nói cho trẻ hiểu là ai cũng có sai lầm, quan trọng là phải biết sửa sai.
2.3.5. Biện pháp chỉ đạo giáo viên phối kết hợp cùng gia đình trong việc
giáo dục tính tự lập cho trẻ
Gia đình là môi trường văn hóa đầu tiên mà đứa trẻ được tiếp xúc, là trường
học đầu tiên để học “làm người” Gia đình là nơi hun đúc tính tự lập cho trẻ
ngay từ tuổi thơ, để làm tốt chức năng giáo dục của mình “chức năng người thầy
đầu tiên” các bậc cha mẹ cần có kiển thức về khoa học giáo dục trẻ em giúp làm
13
tốt công việc của mình. Rèn luyện tính tự lập cho con ngay từ khi còn nhỏ là
một bí quyết quan trọng trong quá trình dạy con ngoan của những ai làm cha,
làm mẹ. Bởi tự lập là nền tảng của nhiều phẩm chất tốt sau này, kích thích lòng
ham học hỏi, ưa khám phá, tính kỷ luật, tinh thần không ngại khó khăn, khả
năng sáng tạo và tư duy logic cho trẻ.
Nuôi dạy con trở thành một người độc lập, tự chủ có lẽ là ước muốn
chung của tất cả các cha mẹ. Bởi người tự lập là người biết chăm sóc bản thân,
sống nỗ lực hết mình, có trách nhiệm và kỷ luật, luôn hoàn thành các công việc
được giao, biết hợp tác, biết bày tỏ lòng biết ơn đối với sự giúp đỡ của người
khác. Vậy để trẻ có thể tự lập, việc của bố mẹ không phải là giảng dạy hay ép
buộc, mà chìa khóa nằm ở chỗ: Tạo ra môi trường để khuyến khích mời gọi trẻ
tự làm - vốn dĩ là nhu cầu lớn lao của các em bé
Xuất phát từ tư duy này, cha mẹ nên dạy con tính tự lập, sống bằng đôi
tay của mình ngay từ nhỏ. Với mỗi độ tuổi khác nhau, chúng ta nên đặt ra mục
tiêu và cách thực hiện các bước khác nhau để dạy trẻ về tính tự lập theo phương
châm “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”.
Tuyên truyền cho phụ huynh về kỹ năng dạy con tự lập để trẻ tự lấp thì
Cha mẹ nên tách xa sự bảo hộ, trẻ nhỏ có xu hướng dựa dẫm vào mẹ đầu tiên,
sau đó là đến cha, ông bà, người thân… Vì vậy để trẻ biết tự lập, người thân cần
chiến thắng mong muốn ôm ấp, chăm bẵm con mình. Vậy từ khi bé còn nhỏ,
việc đầu tiên của bé là chơi và ăn. Trong hai việc đó cha mẹ có thể dạy con vô
vàn những kỹ năng tự lập. Chính từ những việc nhỏ đó thôi, khi lớn lên trẻ sẽ
biết tự tìm và làm khi chúng có nhu cầu.
Ví dụ: Hãy cho bé tự xúc ăn từ khi bé có thể cầm thìa, bé tự cắt hoa quả
ăn hoa quả mà bé thích, tự ăn những món ăn bé thích (chấp nhận việc bé dây bẩn
ra quần áo). Mẹ có thể ngồi cạnh, động viên và hướng dẫn trẻ cách ăn, cách sử
dụng đồ ăn một cách đúng đắn. Với những việc vệ sinh cá nhân, nhắc nhở trẻ tự
đánh răng súc miệng rửa tay trước khi ăn, lau miệng, sau mỗi bữa ăn và trước
khi đi ngủ, tự mặc quần áo hoặc cởi quần áo khi cảm thấy nóng hoặc lạnh, sau
khi cởi quần áo yêu cầu trẻ gấp gọn gàng và treo hoặc đặt vào tủ hoặc tủi đồ đi
vệ sinh đúng nơi quy định vệ sinh cá nhân theo đúng yêu cầu. Nhắc nhở trẻ có
thói quen tự dọn dẹp đồ chơi, dọn phòng và đồ chơi sau chơi….
Bằng những tầm quan trọng của gia đình trong việc giáo dục trẻ nhưng để
có hiệu quả cao trong giáo dục tính tự lập cho trẻ tôi chỉ đạo giáo viên tuyên
truyền với phụ huynh bằng rất nhiều hình thức, trang trí các hình ảnh trong góc
tuyên truyền với phụ huynh các hình ảnh đẹp nội dung cụ thể nỗi bật như các
bức tranh về lễ giáo, chào hỏi, giúp đỡ bạn bè, chăm cây cối…
Có thể ở giờ đón trẻ hình thức tuyên truyền cho phụ huynh bằng những
bài viết dưới loa truyền thanh của trường, nhắc nhở phụ huynh giúp trẻ biết chào
ông bà cha mẹ, có thể mở băng kể các câu truyện về lễ giáo, các bài thơ bài hát
về lễ giáo...tuyên truyền với phụ huynh trong loa truyền thanh của nhà trường
nhắc nhở các trẻ biết làm giúp gia đình 1 số công việc hợp lý như thu dọn nhà
của, xếp gọn đồ dùng đồ chơi, nhặt rau, dọn cơm cùng gia đình, ăn xong lấy tăm
rót nước mời gia đình bằng 2 tay..., trước khi ăn nên biết chào mời....
Ví dụ : Khi trả trẻ mở baì “ Lấy tăm cho bà”
14
Cuối ngày yêu cầu giáo viên nên tranh thủ trò chuyện với phu huynh về
công việc mà ông bà ba mẹ phải làm là cần nhắc nhở, khuyên nhủ, dạy bảo trẻ
phải cùng nên làm 1 số công việc nhỏ, vừa sức để giúp người thân trong gia
đình, và sáng hôm sau phụ huynh sẽ trao đổi cùng giáo viên để lấy gương tốt,
tuyên dương trẻ trên lớp về việc làm tốt của trẻ khuyến khích trẻ tích cực hơn,
chăm ngoan hơn….
Ví dụ: Trước khi ăn trẻ biết cùng gia đình dọn bàn ăn, so đũa cho mọi
người, Khi ăn uống ba mẹ nên mời ông bà, người lớn trong gia đình, khi ăn nên
gắp giúp thức ăn, quan tâm đến bữa ăn, hỏi mọi người ăn có ngon miệng không
? tạo không khí vui vẻ khi ăn cũng gia đình, biết tự mình ăn hết suất cơm, không
nhõng nhẽo tạo cảm giác không ngon khi gia đình ăn ….sau khi ăn nhắc nhở trẻ
biết lấy tăm mời những thành viên lớn trong gia đình, cũng phụ giúp dọn dẹp bát
lau bàn ăn….
Tuyên truyền cho phụ huynh biết rằng dạy con tốt nhất đòi hỏi các bậc
cha mẹ phải hiểu được con và nắm được các phương pháp giáo dục. Nên giúp
cha mẹ phụ huynh trẻ biết rằng điều quan trọng trong việc đối xử và giáo dục
đối với con cái là biết sử dụng trái tim và lý trí sao cho thật phù hợp, hỏa mãn
những nhu cầu của con cái một cách hợp lý, biết quan tâm, chia sẻ và động viên
như là một người bạn, người hướng dẫn.. là cách thức khá phù hợp. Có thể bằng
nhắc nhở tuyên truyền phụ huynh ngay 1 hành động của phụ huynh trong giờ trả
trẻ thôi giáo viên cũng có thể nhắc nhở cả phụ huynh và trẻ
Ví dụ: Khi đón trẻ phụ huynh chạy vội đi tìm quần áo, dép và mở tủ cá
nhân của trẻ để thu đồ, giáo viên nhẹ nhàng nhắc phụ huynh nên để trẻ tự làm
những việc đó, giáo viên khuyến khích trẻ rằng “Con đã lớn rồi con có thể tự
làm những việc đó nên mẹ không phải làm đâu con nhỉ “? Rồi nhẹ nhàng nhắc
trẻ đi thu đồ dùng cá nhân của mình tự lấy thu dọn tủ đồ cá nhân sạch sẽ sau khi
về, tự sắp xếp các đồ cá nhân và cặp của mình và đeo cặp lên vai sẵn sàng chào
cô ra về. Tuy nhiên sau những hành động đó bố mẹ và cô giáo phải khen ngợi
tuyên dương vì hành động của trẻ và khuyến khích trẻ làm việc đó ở các ngày
sau nữa.
Có thể gia đình nên có một thói quen phân công công việc cho các thành
viên trong gia đình 1 cách hợp lí. Mặc dù lúc đầu những việc đó cha mẹ vẫn phụ
giúp trẻ như vừa làm vừa hướng dẫn lâu dần những việc đó sẽ trở thành thói
quen, và như 1 công việc của trẻ phải làm, nó như 1 trách nhiệm mà trẻ phải
gánh vác … dần dần ta có thể giao cho trẻ những việc lớn hơn 1 chút.. Cha mẹ
đừng làm thay con tất cả mọi việc cần giao việc cho trẻ nghĩa là khuyến khích và
cho trẻ thử làm những việc vừa sức
Ví dụ: Trong nhà mình mỗi người điều có những công việc khác nhau Mẹ
nấu cơm, Bố lau nhà….Mỗi người điều có công việc và thời gian khác nhau nên
nhiệm vụ của con đến giờ ăn phải xúc cơm ăn ..hoặc phân công công việc như
sau ‘ con là người nhỏ nhất, nên công việc của con trong nhà là; Trước khi ngủ
dậy xếp gối chăn gọn gàng, đánh răng rửa mặt sạch, chuẩn bị đồ dùng cá nhân
để chuẩn bị đi học như quần áo, mũ khẩu trang… hoặc con nhặt rau giúp mẹ,
con có thể lau, dọn bàn ăn giúp mẹ, công việc của con là so đũa, lấy tăm cho
15
mọi người sau khi ăn xong, hoặc công việc của con là dọn nhặt gọn đồ dùng đồ
chơi của con sau khi chơi…..
Tuyên truyền cho gia đình cũng nên thường xuyên khen ngợi, khích lệ khi
bé làm tốt việc cần làm, hãy tỏ thái độ tán thưởng nhiệt tình để khơi gợi lòng tự
tin cho con trẻ. Ngoài ra mẹ hãy cám ơn bé khi bé giúp đem cho mẹ chiếc khăn,
giúp mẹ dọn dẹp đồ chơi. Song song với điều này là tránh thái độ chê bai, chọc
ghẹo khi bé làm không được hoặc làm hỏng việc
Cha mẹ nên thường xuyên cho trẻ tham gia hoạt động cộng đồng. Chẳng
hạn như biểu diễn văn nghệ, đi đến các lễ hội, tham gia trò chơi cùng bạn bè,…
Hãy duy trì các hoạt động ngoại khóa, cộng đồng để rèn luyện sự tự tin, mạnh
dạn ngay từ lúc còn nhỏ cho bé. Trẻ tham gia các chương trình lễ hội trong nhà
trường, tham gia chương trình văn nghệ, trò chơi cùng các bạn.
Xem Phụ lục 8a; Phụ lục 8b: Trẻ tham gia các lễ hội trong nhà trường
Như vậy nếu người lớn, sớm biết được khả năng tự lập của trẻ, tôn trọng
những biểu hiện tự lập của trẻ, đi đôi với những biện pháp tác động đúng đắn thì
sẽ tạo điều kiện phát triển khả năng tự lập của bản thân trẻ, hình thành những
phẩm chất quý báu cần thiết cho trẻ trước ngưỡng cửa bước vào cuộc đời.
2.4. Hiệu quả của việc chỉ đạo rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi
Cuối năm học ở trường Mầm non Đông Minh- Đông Sơn- Thanh hóa.
Kết quả khảo sát ở lớp 5- 6 tuổi A1 cuối năm học 2016- 2017 là 30/30 trẻ
Nội dung
Yêu cầu đạt
Kết quả thể hiện
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Chưa có
Trẻ
%
Trẻ
%
Trẻ
- Kỹ năng Tự nhặt xếp gọn gàng đồ 27
chăm
sóc chơi, tự cởi và mặc quần áo
bản
thân gấp quần áo gọn gàng, rửa
như:
mặt, tay, đánh răng, đi dép,
chuẩn bị mũ, áo khoác, khẩu
trang khi đi ra ngoài, tự ăn,…
90
3
10
- Kỹ năng Dọn dẹp sắp xếp thu dọn đồ 25
giữ gìn vệ dùng đồ chơi cùng cô, lao
sinh:
động cùng các bạn như sắp đồ
dùng, kê bàn ăn, sạp ngủ…,
lau nước trên sàn, lau bụi trên
bàn, gạt nước sau khi đi vệ
sinh, đi vệ sinh đúng nơi, bỏ
rác đúng nơi quy định…..
83.3 5
16.6
- Kỹ năng Giúp đỡ em bé hơn đi lên 26
hỗ trợ người xuống cầu thang, dỗ em bé
khác:
khi khóc.. Bật tivi, bật quạt,
lấy bát ăn cơm, lấy cốc uống
86,6 4
13.3
%
16
nước, cất dép đúng quy định,
xách phụ đồ, tưới cây.
Tổng cộng
26
86.6 4
13,3
Thường xuyên:
đạt :
86,6 %
Thính thoảng :
đạt
13,3 %
Chưa có:
đạt
0
%
Qua bảng khảo sát dưới đây đã cho chúng ta thấy được: Nếu mỗi cô giáo
chúng ta biết vận dụng và thực hiện một cách có sáng tạo phương pháp tổ chức
trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường là cô giáo chúng ta đã tạo được
rất nhiều cơ hội cho trẻ phát triển được khả năng tự lập và sẽ góp phần đặt nền
tảng vững chắc đầu tiên để trẻ phát triện toàn diện về đức trí thể mỹ lao động và
mối quan hệ xã hội ….về phát triển thể lực, trí tuệ để đào tạo những chủ nhân
nhân tài tương lai cho đất nước và là người có thể đáp ứng được sự phát triển
của xã hội ngày nay.
III. KẾT LUẬN:
3.1. Kết luận:
Giáo dục khả năng tính tự lập cho trẻ mầm non 5 tuổi là một vấn đề quan
trọng, mà mỗi giáo viên cần phải có những biện pháp thực hiện giáo dục lồng
ghép thông qua các hoạt động trong chương trình giáo dục mầm non. Giáo dục,
rèn luyện khả năng tự lập cho trẻ là nhiệm vụ trọng tâm của cấp học mầm non
hiện nay. Vì vậy mỗi cô giáo chúng ta phải biết tạo mọi cơ hội cho trẻ được trãi
nghiệm nhiều ở mọi lúc, mọi nơi, từ đó trẻ tự giác thực hiện nhiệm vụ một cách
tích cực. Khả năng tự lập phát triển tốt, trẻ sẽ tự tin vào khả năng tự điều khiển,
tự kiểm soát được mình, tự lập quyết định việc hình thành và phát triển trí tuệ,
xúc cảm, tư duy sáng tạo, tính thẩm mỹ, đồng thời quyết đoán được những công
việc, dần dần phát triển toàn diện về nhân cách để trở thành người hữu ích cho
gia đình và xã hội tương lai.
Mong muốn trong mỗi gia đình mà nhất là giáo viên mầm non và phụ
huynh trẻ sớm biết được khả năng tự lập của trẻ, tôn trọng những biểu hiện tự
lập của trẻ, đi đôi với những biện pháp tác động đúng đắn thì sẽ tạo điều kiện
phát triển khả năng tự lập của bản thân trẻ, hình thành những phẩm chất quý báu
cần thiết cho trẻ trước ngưỡng cửa bước vào cuộc đời.
“Khi tự làm thành công một việc gì đó, trẻ sẽ tự tin vào chính mình, có
hình ảnh bản thân tốt đẹp, cảm thấy mình có giá trị, khi lớn lên trẻ sẽ tự chủ, có
khả năng để đối phó với những thách thức của cuộc sống”, Một yếu tố khác nhà
giáo dục nhắc đi nhắc lại là sự kiên nhẫn của cô giáo và cha mẹ là “Trẻ con chân
ngắn hơn chúng ta, bước chậm hơn chúng ta. Thay vì bế để con đi nhanh hơn,
chúng ta hãy đi chậm lại. Lúc đầu làm việc gì, trẻ cũng sẽ vụng về, lóng ngóng,
nhưng dần dần con sẽ tự làm được",
Cuộc sống là một cuộc hành trình. Nếu chúng ta trang bị cho trẻ có một
hành trang vững vàng thì hãy tin rằng trẻ hoàn toàn có thể tự tin bước đi trên
đôi chân của chính mình!
17
3.2. Kiến nghị:
* Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo.
- Thường xuyên có kế hoạch tập huấn cho đội ngũ giáo viên nâng cao tính
tự lập cho trẻ trong trường Mầm non dưới nhiều hình thức.
- Cung cấp tài liệu cần thiết, về kỹ năng giáo dục tính tự lập của trẻ trong
nhà trường.
* Đối với nhà trường:
- Tuyên truyền rộng rãi về sự cần thiết phải giáo dục tính tự lập cho trẻ
đến từng phụ huynh học sinh trong nhà trường.
- Giáo dục nhận thức cho cán bộ giáo viên trong hội đồng sư phạm nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của giáo dục tính tự lập cho trẻ.
- Chỉ đaọ giáo viên lồng ghép giáo dục tính tự lập cho trẻ trong các hoạt
động trong ngày phù hợp với độ tuổi.
Trên đây là một số kinh nghiệm chỉ đạo giáo viên nâng cao tính tự lập cho
trẻ Mẫu giáo 5- 6 tuổi tại Trường Mầm non Đông Minh - Đông Sơn - Thanh
hóa. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện khai thác mảng đề tài lần đầu nên bản
thân không tránh khỏi những thiếu sót về các biện pháp tốt những câu từ dùng
chưa hợp lý, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Hội đồng khoa học các
cấp.
XÁC NHẬN CỦA
HĐKH NHÀ TRƯỜNG
Đông sơn, ngày 10 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết SKKN
Lâm Thị Hồng
18
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
{1}- U-sin-xki đã trở thành một nhà giáo dục danh tiếng
{2}- Phương pháp Giáo dục Montessori là một phương pháp sư
phạm giáo dục trẻ em dựa trên nghiên cứu và kinh nghiệm của bác sĩ và
nhà giáo dục Ý Maria Montessori(1870–1952). Đây là phương pháp với tiến
trình giáo dục đặc biệt dựa vào việc học qua cảm giác. {4}
{3}- Theo giáo sư - tiến sĩ Vũ Gia Hiền
{4}- Các tác giả ở hướng nghiên cứu này như: T.I. Galina, R.G.
Nhechacva, A.A. Liublinxkaia, K.D. Usinxki,
{5}- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên: Moodule MN 39: Giao dục kỹ
năng sống cho trẻ mẫu giáo
19
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Trẻ đang nhặt rác lá, quét dọn sân trường
Phụ lục 2a: Trẻ đang chăm sóc cây ngoài vườn cổ tích
20
Phụ lục2b: Trẻ đang tưới, trồng, chăm sóc cây
Phụ lục 3: Trẻ sắp xếp đồ dùng, đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp
21
Phụ lục 4: Trẻ đang chơi trò chơi bế em
Phụ lục 5: Trẻ cùng nhau chơi trò chơi Bác sĩ
22
Phụ lục 6: Trẻ cùng nhau chơi trò chơi bán hàng
Phụ lục 7: Trẻ đang phơi khăn, ca cốc, khăn mặt
23
Phụ lục 8a: Trẻ tham gia các hoạt động lễ hội trong nhà trường
Phụ lục 8b: Trẻ tham gia các hoạt động lễ hội trong nhà trường
24