Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng PTNN thông qua hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ 24 36 tháng trong trường mầm non hưng lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.68 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
1. MỞĐẦU……………………………………………………………….1
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………..1
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………….. ….3
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………. ….3
1.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... .3
2. NỘI DUNG....................................................................................... …3
2.1. Cơ sở lý luận……………………………………………………... …3
2.2. Thực trạng vấn đề……………………………………………………4
2.3. Các giải pháp và biện pháp………………………………………. …6
2.3.1. Các giải pháp………………………………………………………6
2.3.2. Các biện pháp tổ chức thực hiện thực hiện………………………..6
2.4. Hiệu quả của sang kiến kinh nghiệm…………………………….....17
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………….. .19
3.1. Kết luận……………………………………………………………..19
3.2. Kiến nghị………………………………………………………….. .20


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
“Trẻ em hôm nay, thế giơi ngày mai”
Vâng! Có thể nói trẻ em chính là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là
mầm xanh tương lai của đất nước, là những người sẽ tiếp bước sự nghiệp ông
cha. Chính vì vậy việc bảo vệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ là trách nhiệm
của mỗi gia đình và của toàn xã hội đối với việc phát triển nhân cách trẻ từ lứa
tuổi mầm non.
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên, là nền tảng trong hệ thống giáo
dục quốc dân, là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành
những con người có ích cho xã hội. Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những
con người có trí thức, có khoa học có tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, yêu lao
động mà còn tạo nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giầu mơ


ước và sáng tạo. Những phẩm chất ấy con người phải được hình thành từ lứa
tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai. Giáo dục trẻ từ
lứa tuổi mầm non chính là đào tạo cho xã hội những công dân tí hon đầy triển
vọng. Ở giai đoạn mầm non là lứa tuổi đang trên đà hình thành và phát triển
mạnh mẽ về tâm sinh lí, trẻ thích tìm tòi khám phá cái mới lạ trong cuộc sống
hàng ngày, trẻ rất muốn biết sự vật hiện tượng xung quanh trẻ, muốn làm được
những việc như những người lớn làm. Để đạt được điều đó thì ngôn ngữ chính là
phương tiện đưa ước muốn của trẻ đạt được kết quả tối ưu. Vì vậy chúng ta
chính là những người giúp trẻ hiểu biết những gì mà trẻ cần biết.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới,
chương trình giáo dục trẻ mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các
hoạt động phù hợp đối với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ
hoạt động một cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều
kiện cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức
các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương
châm: “Học mà chơi - Chơi mà học” Nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ
một cách toàn diện về mọi mặt: “Đức - Trí - Thể - Mỹ” .
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ
mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng đặc biệt không
thể thiếu được. Đó là phương tiện giao tiếp của con người, mỗi một dân tộc có
một ngôn ngữ riêng. Tiếng dân tộc là một bộ phận trong hệ thống ngôn ngữ
nhân loại, đồng thời còn là tài sản vô giá, một vốn quý báu của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện nhận
thức và giao tiếp hữu hiệu nhất của con người. Nhờ có ngôn ngữ, con người
mới có phương tiện để nhận thức và thể hiện nhận thức của mình, để giao tiếp
với nhau.
Thông qua ngôn ngữ, lời nói của người lớn, trẻ làm quen với sự vật, hiện
tượng và hiểu những đặc điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng của các sự vật,
hiện tượng tự nhiên và xã hội và học được từ tương ứng. Ngôn ngữ giúp trẻ mở
2



rộng hiểu biết về thế giới xung quanh. Từ ngữ giúp cho việc củng cố những
biểu tượng đã được hình thành.
Sự phát triển của ngôn ngữ cho hoạt động trí tuệ, các thao tác tư duy ngày
càng được hoàn thiện, kích thích trẻ tích cực, sáng tạo hoạt động trí tuệ. Thông
qua ngôn ngữ trẻ nhận thức thế gới xung quanh chính xác, rõ ràng, sâu và rộng.
Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực, sáng tạo trong hoạt động trí tuệ .
Nói như thế để biết được ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc hình thành
và điều chỉnh những hành vi của trẻ. Thông qua ngôn ngữ trẻ biết những gì nên
làm, những gì không nên làm, qua đó rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt ở
trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu về đạo đức như: “Ngoan
– hư – tốt – xấu”. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi
trường xung quanh, thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với
các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc
điểm, tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có
ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp
xúc trong cuộc sống hàng ngày.
Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm
mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp, nhất là đối với trẻ nhỏ thì đó là
phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành
những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng
và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người
lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi
thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn
ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với các thành viên trong
cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người.
Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ dể dàng tiếp
nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn.
Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ những hiểu biết về

những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và
hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống.
Chính vì vậy, việc dạy cho trẻ tập nói tiếng Việt là một việc khó khăn đối
với cô giáo Mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng. Ở lứa tuổi 24 – 36
tháng, sự phát triển tâm sinh lý của trẻ rất mạnh, ảnh hưởng đến cả quá trình
phát triển sau này của trẻ.
Đây chính là giai đoạn tập nói của trẻ, ở giai đoạn này cơ quan phát âm
chưa hoàn thiện, trẻ còn nói ngọng, nói lắp nhiều, trẻ chưa nói được thành câu
trọn vẹn. Mặt khác trẻ lại có nhu cầu giao tiếp rất lớn mà ngôn ngữ, vốn từ của
trẻ còn hạn chế. Nhưng các bậc cha mẹ chưa quan tâm chú ý đến sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ, mà chỉ chú trọng đến cuộc sống chăm sóc ăn uống. Trong giai
đoạn này trẻ luôn mong muốn được cha mẹ nuông chiều, và mong muốn đó
hoàn toàn được đáp ứng, cha mẹ hay nựng trẻ, nuông chiều trẻ thái quá như: Mẹ
cho con ăn chơm nhé!... Đây chính là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến quá trình
phát triển ngôn ngữ của trẻ mà cha mẹ không hề quan tâm đến.
3


Chính vì vậy cần phải sự uốn nắn kịp thời của người lớn, nhất là những cô
giáo mầm non đang hằng ngày tận tụy chăm sóc nuôi dạy các cháu.
Bởi vậy, là một cô giáo mầm non tôi luôn ý thức được rằng mình phải có
những sáng kiến trong quá trình dạy trẻ, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu
của ngành học trong thời kỳ đổi mới, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ quả thực là một vấn đề vô cùng quan
trọng. Là giáo viên đang trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ 24-36 tháng, tôi luôn
suy nghĩ về cách tổ chức các hình thức để phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách
tốt nhất.
Năm học 2015 – 2016, tôi được ban giám hiệu phân công phụ trách nhóm
trẻ 24 - 36 tháng, với số lượng 16 cháu, vốn từ của các cháu còn hạn chế thêm
vào nữa là các cháu còn nhút nhát, khả năng phát triển ngôn ngữ, phát triển

nhận thức còn chậm. Do vậy việc truyền đạt kiến thức cho trẻ còn gặp nhiều khó
khăn. Chính vì lý do trên nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: “một số
biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận
biết tập nói cho trẻ 24 – 36 tháng, trường mầm non Hưng Lộc”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đề ra một số biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ thông
qua hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ 24 – 36 tháng, trường mầm non Hưng
Lộc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
16 trẻ 24- 36 tháng tại trường mầm non Hưng Lộc – Huyện Hậu Lộc
1.4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
+ Phương pháp điều tra khảo sát, quan sát, trực quan, đàm thoại...
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Ngày xưa ông cha ta đã có câu: “Trẻ lên 3 cả nhà tập nói” và quả đúng
như thế.
Đối với trẻ em sự phát triển ngôn ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc phát triển hình thành tư duy và phát triển nhân cách trẻ, là công cụ để
học tập, giao tiếp, vui chơi. Đối với trẻ 24- 36 tháng, ở giai đoạn này do bộ máy
phát âm của trẻ chưa hoàn thiện, trẻ còn hay nói ngọng, nói lắp, nói kéo dài, phát
âm chưa chuẩn…Nhưng nhu cầu giao tiếp của trẻ thì rất lớn, trẻ thích được giao
tiếp. Đặc biệt ở độ tuôi này vốn từ của trẻ phát triển rất nhanh khoảng 486 từ,
đến cuối 36 tháng trẻ đạt thêm 254 từ. Trẻ thích được trò chuyện, có thể la hét
khi vui sướng mà không cần biết người xung quanh có thích hay không.
Chính vì vậy, là một giáo viên chủ nhiệm lớp, ngay từ đầu năm học tôi
luôn quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý cũng như ngôn ngữ giao tiếp của từng
trẻ nhằm khám phá, tìm hiểu khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ để kịp thời có
những biện pháp giáo dục và nâng cao dần ngôn ngữ cho trẻ. Khi tiếp xúc với

trẻ tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế về câu, từ, về cách
4


phát âm, cách diễn đạt câu. Khi trẻ nói hầu hết toàn bớt âm trong các từ, giao
tiếp không đủ câu, nói dớ, nói lắp cho nên nhiều khi giáo viên không hiểu trẻ
đang nói về cái gì? Cũng có một số trẻ còn hạn chế khi nói, trẻ chỉ biết chỉ tay
vào những thứ mình cần khi cô hỏi. Mức độ hiểu nghĩa của từ còn rất hạn chế và
có nét đặc trưng riêng.
Chính vì thế mà ở giai đoạn này, chúng ta cần giúp trẻ phát triển, mở rộng
các từ loại trong vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu, dạy trẻ phát âm chính xác
các âm vị, âm tiết, từ, câu theo chuẩn mực âm thanh tiếng mẹ đẻ, làm giàu vốn
từ, nâng cao khả năng hiểu nghĩa của từ, củng cố và tích cực hóa vốn từ cho
trẻ, giúp trẻ biết vận dụng phù hợp vốn từ đó trong hoạt động giao tiếp, cho trẻ
thường xuyên được nghe, được nói theo các mô hình câu chuẩn, củng cố cách
sử dụng đúng một số kiểu câu, sửa một số kiểu câu sai cho trẻ, cho trẻ làm
quen với một số kiểu câu mới khó hơn. Bằng cách thường xuyên trò chuyện
với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày. Nói
cho trẻ biết các từ biểu hiện về các đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng.
Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản qua tranh. Đặt một
số loại câu hỏi giúp trẻ biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp thông qua các hoạt
động trong ngày.
2.2. Thực trạng vấn đề:
Trường mầm non Hưng Lộc là trường nhiều năm đạt danh hiệu tiên tiến
cấp huyện, cấp tỉnh.
Năm học 2015- 2016. Toàn trường có 21 nhóm lớp. Trong đó lớp mẫu
giáo là 17 lớp và 4 nhóm nhà trẻ :
+ Khối mẫu giáo: 6 lớp: 5- 6 tuổi
6 lớp: 4- 5 tuổi
5 lớp: 3- 4 tuổi

+ Khối nhà trẻ: Có 4 nhóm
* Thuận lợi:
Trường mầm non Hưng Lộc luôn được sự quan tâm của Uỷ ban nhân dân,
các ban ngành đoàn thể, hội cha mẹ trẻ đã xây dựng cho nhà trường mầm non
một khu trung tâm khang trang sạch sẽ, tương đối đầy đủ về phòng học, trang
thiết bị, bếp ăn. Khuôn viên trường rộng rãi thoáng mát, cơ sở vật chất, đang
ngày càng được nâng cấp cao hơn, đây chính là môi trường tốt để trẻ được hoạt
động, vui chơi.
Bên cạnh đó nhà trường có đội ngũ cán bộ giáo viên có năng lực chuyên
môn vững vàng, yêu nghề mến trẻ, luôn đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau nhằm phát
huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường. Những năm học gần đây trường không
những thu hút con em trong xã mà còn thu hút được trẻ ở các xã lân cận.
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức
cũng như năng lực chuyên môn cho giáo viên, thường xuyên xây dựng, tổ chức
tiết mẫu, tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo chủ đề, để giáo viên được dự giờ,
trao đổi những kinh nghiệm về chuyên môn với các đồng chí, đồng nghiệp.
Nhà trường luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất,
B

5


trang thiết bị đảm bảo cho các hoạt động của trẻ.
Năm học 2015 – 2016, tôi được nhà trường phân công tôi chủ nhiệm
nhóm trẻ 24 – 36 tháng tuổi với tổng số cháu là 16 cháu. Được sự quan tâm giúp
đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, bản thân tôi là một giáo viên có chuyên môn
vững vàng, luôn yêu nghề mến trẻ, chăm sóc, giáo dục trẻ bằng tình thương yêu
và sự công bằng của một nhà giáo, tôi không ngừng học hỏi nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn để nắm được định hướng trong tổ chức các hoạt động.
Đa số phụ huynh quan tâm đưa trẻ đến trường đúng độ tuổi, chăm sóc

giáo dục trẻ theo khoa học, thực hiện tốt công tác phối hợp giữa gia đình và nhà
trường và đa số rẻ có nề nếp thói quen trong sinh hoạt cũng như học tập, tích cực
tham gia vào các hoạt động .
*Khó khăn
- Phòng học còn thiếu, số trẻ đến nhóm lớp đông .
- Một giáo viên trên một nhóm lớp 16 trẻ là hết sức khó khăn trong việc
chăm sóc và giáo dục trẻ.
- Một số phụ huynh nuông chiều trẻ, hay nậng trẻ theo tiếng địa phương.
- Cháu còn quá nhỏ, lần đầu tiên làm quen với cô giáo và xa gia đình nên
trẻ còn khóc nhiều, dẫn đến ảnh hưởng đến giờ chơi tập của trẻ.
- Nhóm trẻ 24 – 36 tháng tuổi đa số lần đầu tiên ra lớp nên trẻ còn nhút
nhát, trẻ nói lắp, nói tiếng địa phương, trẻ chưa biết sử dụng vốn từ, phát âm
chưa rõ ràng, hạn chế trong việc diễn đạt, chưa mạnh dạn tự tin trong giao tiếp.
- Trẻ chưa thích nghi với việc ăn ngủ tại trường, chưa có ý thức trong giờ
học, chưa biết tự phục vụ vệ sinh cá nhân.
* Kết quả khảo sát của thực trạng:
Để có được các biện pháp giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ phù hợp, hiệu
quả tôi tiến hành khảo sát đánh giá thực trạng ngôn ngữ của trẻ 24– 36 tháng mà
tôi đang phụ trách kết quả như sau :
Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng.
Đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu
Nội dung khảo sát
Số trẻ
cầu
Tốt
Khá
TB
Yếu
Kém

16
SL % SL % SL % SL % SL %
-

B

Khả năng nghe hiểu 16
ngôn ngữ và phát âm
rõ tiếng.
Phát triển vốn từ
16

3

19 4

25 4

25

4

25 1

6

3

19 4


25 4

25

5

31 0

0

Sử dụng các từ chỉ đồ 16
vật,con vật, đặc điểm,
hành động quen thuộc
trong giao tiếp.
Xem tranh và gọi tên 16

2

13 4

25 5

31

5

31 0

0


2

13 4

25 5

31

5

31 0

0
6


các nhân vật, sự vật,
hành động gần gũi
trong tranh.
Qua kết quả khảo sát về thực trang trên cho thấy:
+ Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm rõ tiếng là 25% yếu. Phát
triển vốn từ 31% yếu. Sử dụng các từ chỉ đồ vật, con vật, đặc điểm, hành động
quen thuộctrong giao tiếp 31% yếu. Xem tranh và gọi tên các nhân vật, sự vật,
hành động gần gũi trong tranh 31% yếu.
* Nguyên nhân:
- Do trẻ phát âm còn chưa chuẩn, nói ngọng, nói lắp nhiều.
- Trẻ chưa nói được thành câu thành thạo.
- Trẻ chưa mạnh dạn trong giao tiếp, do trẻ được nuông chiều thái quá…
2.3. Các giải pháp và biện pháp.
2.3.1. Các giải pháp:

- Nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động
nhận biết tập nói và nghiên cứa về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 24-36 tháng.
- Tăng cường công tác tham mưa với Ban giám hiệu, phối hợp với phụ
huynh học sinh để tăng cường điều kiện nhằm nâng cao chất lượng của nhận biết
tập nói.
- Sử dụng linh hoạt các biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn
ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ 24-36 tháng.
2.3.2. Các biện pháp tổ chức thực hiện:
* Biện pháp 1: Gíao dục nề nếp thói quen cho trẻ.
Để trẻ lĩnh hội được về kiến thức và phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất,
ngay từ những ngày đầu tiên đến lớp tôi luôn luôn giáo dục trẻ có một thói quen
nề nếp nhất định, khi đến lớp các cháu phải biết lễ phép chào cô giáo…và giáo
dục trẻ ở mọi luc mọi nơi.
Ví dụ:
- Giờ đón trẻ: Cô dạy trẻ cách chào hỏi với mọi người xung quanh.
+ Con chào cô! Con chào ông bà, bố mẹ…
Hơn nữa trong giờ hoạt động tôi luôn luôn nhắc nhở trẻ luôn chú ý, biết
lắng nghe cô giáo khi đang giảng bài. Từ đó trẻ mới tập trung vào hoạt động và
đạt được kết quả cao .
Việc đưa trẻ vào các hoạt động và thông qua hoạt động để giáo dục trẻ ở
mọi lúc, mọi nơi là một biện pháp tốt: Các hoạt động đón trả trẻ hàng ngày, hoạt
động chơi tập, lao động vệ sinh… Đều là những dịp để trẻ bộc lộ cá tính, cách
ứng xử lời ăn tiếng nói của mình. Yêu cầu giáo viên phải gần gũi để kịp thời
phát hiện và uốn nắn những sai sót của trẻ trong hành vi, lời nói theo những tiêu
chí của chuyên đề lễ giáo quy định. Giáo dục lễ giáo cho trẻ thường xuyên, mọi
lúc mọi nơi là một trong những biện pháp chủ yếu đem lại những kết quả cao
trong khả năng giao tiếp của trẻ.
Khi tổ chức bất cứ hoạt động nào mà đặc biệt là hoạt động nhận biết tập
nói cho trẻ, thì sự hứng thú tích cực của trẻ là yếu một trong những yếu tố quyết
Đ


Đ

7


định đến hiệu quả của hoạt động. Chính vì thế, tôi rất coi trọng đến việc tạo nề
nếp thói quen cho trẻ và tôi đã thực sự thành công khi tổ chức hoạt động nhận
biết tập nói cho trẻ.
* Biện pháp 2: Nghiên cứa tài liệu, học hỏi đồng nghiệp.
Ngoài việc dạy trên lớp, tôi luôn dành thời gian để tham khảo tài liệu như:
Nghiên cứu trên mạng, đọc sách báo, xem tạp chí, tạp san, xem chương trình
thiếu nhi, đọc sách dành cho trẻ mầm non, học hỏi bạn bè đồng nghiệp để tìm ra
phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo. Nhằm cuốn hút trẻ vào tiết học say mê
hơn, tích cực hơn.
Muốn đạt được kết quả cao trong vấn đề này thì trước hết tôi luôn tự học,
tự bồi dưỡng chuyên môn qua nghiên cứu tài liệu để tìm tòi khám phá những cái
hay cái đẹp trong từng tác phẩm văn học, tích luỹ kiến thức, hiểu biết về các
phương háp phát triển ngôn ngữ cho trẻ em, đặc biệt là trẻ nhà trẻ qua tất cả các
hoạt động nhằm phát triển vốn từ, khả năng giao tiếp…cho trẻ một cách tốt nhất.
Bên cạnh đó, tôi thường xuyên học hỏi đúc rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp, qua
mạng internets ….
Qua việc tích cực tự học tôi đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm cho
bản thân, để tích lũy thêm kinh nghiệm cho bản thân khi tổ chức các hoạt động
mà đặc biệt là hoạt động nhận biết tập nói.
* Biện pháp 3: Linh hoạt sáng tạo trong tổ chức hoạt động nhận biết
tập nói.
Thông qua việc nắm chắc phương pháp dạy cỏc hoạt động núi chung và
hoạt động “phát triển ngôn ngữ” nói riêng tôi luôn tham khảo thêm nhiều tài
liệu và nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, chuẩn bị lời nói và soạn giáo án trước

khi lên lớp một cách khoa học có lô gic, kết hợp giữa đồ dùng trực quan tranh
ảnh, vật thật có màu sắc đẹp, chất liệu bền, với các cử chỉ âu yếm gần gũi, lời
nói nhẹ nhàng, phát âm chuẩn, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu, sát thực với nội
dung của từng bài, từng đề tài. Và đặc biệt tôi đã sử dụng các biện pháp, các thủ
thuật khác nhau một cách linh hoạt, sáng tạo giúp trẻ hứng thú trong các hoạt
động đạt hiệu quả cao.
Ví dụ 1:
Với chủ đề: “Bé và các bạn” Đề tài: Nhận biết “Bạn trai - Bạn gái”.
- Mục đích: Trẻ nhận biết, gọi tên bạn trai, bạn gái. Biết được trang phục
của bạn trai và bạn gái. Rèn luyện sự chú ý, ghi nhớ của trẻ.
- Chuẩn bị:
Cho cô: Tranh ảnh có các bạn trai – gái.
Cho trẻ: Tranh ảnh lô tô bạn trai – gái
- Cách tiến hành:
+ Các con ơi, cô mời các con đứng lên hát và vận động cùng cô bài hát
“Ru em”
- Cô và các con vừa hát vận động bài hát gì?

8


- Em bé búp bê được làm gì? (Bồng, bế)
+ Nhận biết, bạn gái.
- Đoán xem, đoán xem?
- Các con nhìn xem cô có bức tranh gì đây?
(Ảnh 1- Phần phụ lục)
- Bức tranh vẽ bạn trai, hay bạn gái. (bạn gái)
- Các con có nhận xét gì về bạn gái?
- Bạn gái mặc áo màu gì? (màu đỏ)
- Tóc bạn gái ngắn hay dài? (dài ạ)

- Đúng rồi đấy các con ạ! Đây là bức tranh vẽ bạn gái vì bạn ấy mặc váy,
tóc dài, đi giày búp bê đấy.
+ Đoán xem, đoán xem? Các con quan sát xem cô có tranh gì nữa đây?
(Ảnh 2- Phần phụ lục)
- Các con có nhận xét gì về bạn trai?
- Bạn trai mặc áo màu gì? (màu xanh)
- Tóc bạn trai ngắn hay dài? (ngắn ạ)
- Qua đó phát triển khả năng phát âm và phát triển vốn từ và trẻ hứng thú
tham gia hoạt động, trẻ biết phân biệt ban trai, bạn gái.
Ví dụ 2:
Chủ đề “ Đồ dùng, đồ chơi của bé” Đề tài: Nhận biết tập nói “ Đồ dùng
của bé”.
- Mục đích:
+Trẻ nhận biết và gọi tên một số đồ dùng của trẻ như: Quần áo, mũ,
dép…
phát triển ngôn ngữ, và phát âm. Rèn khả năng chú ý, quan sát cho trẻ
- Chuẩn bị: Mô hình siêu thị bán đồ dùng cho trẻ như: quần , áo, mũ, giày,
dép...
- Cách tiến hành: Cô cho trẻ đi siêu thị có bán đồ dùng của bé và hỏi trẻ
con mua được gì?..
Cho quan sát và trẻ nhận biết đôi dép. Các con xem cô có gì đây? (đôi
dép)
Đôi dép dùng để làm gì? Đôi dép có màu gì? Các con mua được gì nữa?
(quần,áo) …..
Và cứ như thế cô đàm thoại cùng trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, sử sử
dụng các từ chỉ đồ vật, đặc điểm quen thuộc trong giao tiếp.
Ví dụ 3:
Chủ đề: “Mẹ và những người thân yêu” Cho trẻ nhận biết “Các thành
viên trong gia đình”
- Mục đích: Trẻ nhận biết được các thành viên trong gia đình (bố mẹ, anh

chị...)
- Chuẩn bị: Máy chiếu, tranh lô tô về các thành viên trong gia đình, nhac
bài hát: “ Ba ngọn nến lung linh”…
- Cách tiến hành: (cô cho trẻ xem tranh về già đình trên máy chiếu)
9


Các con ơi! Đoán xem, đoán xem? Các con có biết trên màn hình có hình
ảnh vẽ về ai đây không? (tranh gia đình)
(Ảnh 3- Phần phụ luc)
À, đây là tranh về gia đình đấy. Hôm nay cô và các con sẽ tìm hiểu xem
gia đình các con và các bạn trong lớp có những ai nhé!
+ Quan sát tranh về các thành viên trong gia đình.
- Trò truyện với trẻ về gia đình bé:
(Cô đưa trẻ hướng lên màn hình, lần lượt cho xuất hiện hình ảnh các
thành viên trong gia đình cho trẻ quan sát và đàm thoại)
- Các con ơi! Trên màn hình xuất hiện hình ảnh về ai đây? (ông, bà)
- Ông đang làm gì?..
- Cô lai có hình ảnh về ai nữa đây? (bố)
- Bố đang làm gì?
- Thế đây là ai? Ai là người sinh ra các con đây? (mẹ)
- Mẹ đang làm gì đây?...
(Ảnh 4- Phần phụ lục)
- Cô có thể cho 1 - 2 trẻ lên giới thiệu về gia đình bé.
VD:
- Nhà con có bố gì?
- Bố con làm nghề gì?
- Nhà con có bố Thành, bố đi dạy học.
- Nhà con có mẹ gì?
- Mẹ con tên là Oanh, mẹ con đi dạy học,

- Còn con tên gì? Nguyễn Minh Anh.
- Cô lần lượt hỏi một số cháu.
Các bạn ạ! có một số bạn là có anh hoặc có chị, còn bạn Minh Anh là con
đầu nên có cả em bé nữa đấy. Vừa rồi đã có nhiều bạn giới thiệu về các thành
viên trong gia đình mình rất giỏi. Cô đã chuẩn bị cho mỗi con một rổ đồ chơi,
trong rổ có hình ảnh của bố mẹ, anh chị... con. Cô mời các cháu lấy rổ đồ dùng
về phía trước để cùng chơi nào?
+ Trò chơi: “Nói tên các thành viên theo yêu cầu”
- Cách chơi: Cô đưa tranh lô tô, trẻ nói tên thành viên trong gia đình.
- Cô giáo dục trẻ biết yêu quí mọi người trong gia đình.
- Cô hát bài : Ba ngọn nến lung linh.
Qua cách sử dụng máy chiếu một cách linh hoạt, sáng tạo đã gây sự hứng
thú cho trẻ và đạt được hiệu quả cao trong hoạt động nhận biết tập nói.
Ví dụ 4:
Chủ đề: “Những con vật đáng yêu” cho trẻ nhận biết tập nói: “con gà,
con vịt, con ngan”
- Mục đích: Giúp trẻ nhận biết gọi tên: “con gà, con vịt, con ngan”. Biết
một số đặc, điểm đặc trưng, của các con vật, luyện sự phát âm cho trẻ.
- Cô chuẩn: Con gà, con vịt, con ngan, mô hình trang trại.
- Cách tiến hành:
*

-

10


Trước hết cô dùng một thủ thuật khác nhau để giới thiệu đến trẻ nhằm gây
hứng thú cho trẻ, cô cho trẻ đi thăm qua mô hình trang trại…
+ Quan sát con gà:

- Trời tối trời tối, trời sáng!
- Các con ơi! Cô có bức tranh vẽ về con gì đây? (con gà trống)
(Ảnh 5- Phần phụ lục)
- Con gà trống gáy như thế nào? (ò ó o o)
- Đây là cái gì của gà trống? (mào gà). Cô chỉ vào từng bộ phân của con
gà và đàm thoại với trẻ. Lần lượt cho trẻ quan sát và đàm thoại với trẻ.
+ Quan sát con vịt:
- Đoán xem? Đoán xem?
- Cô lại xuất hiện bức tranh gì đây? (con vịt)
(Ảnh 6- Phần phụ lục)
- Vịt con kêu như thế nào? (vít, vít)
- Vịt con có màu gì đây? (màu vàng)
- Cô lần lượt cho trẻ quan sát và đàm thoại
+ Quan sát con ngan: (tương tự như quan sát con gà và vịt)
Qua đó giúp trẻ nhận biết tên gọi, màu sắc, đặc điểm của các con vật và
phát triển ngôn ngữ trong giao tiếp.
Ví dụ 5:
Chủ đề : "Rau củ quả và những bông hoa đẹp”.
Đề tài: NBTN “ Hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền”
- Mục đích: Giúp trẻ nhận biết và gọi tên: “Hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng
tiền”. Biết một số đặc điểm, đặc trưng của các loại hoa.
- Chuẩn bị: Hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền và một số loại hoa khác.
- Cách tiến hành: Cô gây hứng thú cho trẻ bằng cách :
Cô đọc câu đố : “Hoa màu nhung đỏ
Cánh tròn xinh xinh
Gió thổi rung rinh
Hương thơm thơm ngát”
- Các con biết đó là hoa gì? (hoa hồng)
+ Quan sát hoa hồng:
- Cho trẻ quan sát hoa hồng bằng cách dùng thủ thuật: “Trời tối, trời

sang” và đặt các câu hỏi đàm thoại với trẻ.
- Các con ơi! Cô có hoa gì đây? (hoa hồng)
(Ảnh 7- Phần phụ lục)
- Các con có nhận xét gì về hoa hồng?
- Hoa hồng có màu gì? (màu đỏ)
- Đây là gì của hoa hồng? (cánh hoa)….
- Hoa hồng dùng để làm gì?
+ Quan sát hoa cúc:
- “Đoán xem, đoán xem”.
- Các con ơi! Cô lại có hoa gì nữa đây? (hoa cúc)
11


(Ảnh 8- Phần phụ lục)
- Các con có nhận xét gì về hoa cúc?
- Hoa cúc có màu gì? (màu vàng)
- Đây là gì của hoa cúc? (cánh hoa)…
+ Quan sát hoa đồng tiền: (đặt câu hỏi tương tự như hoa hồng. Sau đó cho
trẻ so sánh về các loại hoa)
- Với hình thức này sẽ giúp trẻ phát triển tư duy và phát triển vốn từ cho
trẻ và sẽ dạt hiệu quả cao trong hoạt động nhận biết tập nói.
Ví dụ 6:
Chủ đề: “Bé có thể đi khắp nơi bằng phương tiện giao thông gì”
Đề tài: Nhận biết tập nói: “Xe đạp xe, xe máy, xe ô tô”
- Mục đích: Trẻ nhận biết và gọi tên và tác dụng của xe đạp, xe máy, phát
triển ngôn ngữ cho trẻ. Trẻ trả lời các câu hỏi rõ ràng, mạch lạc.
- Chuẩn bị: Mô hình xe đạp, xe máy, xe ô tô.
- Cách tiến hành:
* Cô cho trẻ hát bài hát: “Bác đưa thư vui tính” của nhạc sĩ Hoàng Lân.
+ Các con vừa hát bài hát nói về cái gì?

+ Buổi sáng bố mẹ chở các con đến trường bằng phương tiện gì?
+ Khi ngồi trên xe các con có được quay trước quay sau không?
+ Hôm nay cô cùng các con sẽ quan sát các phương tiện giao thông đường
bộ nhé, muốn biết loại phương tiện gì các con quan sát cùng cô nhé!
* Quan sát xe đạp : “Đoán xem, đoán xem”
- Các con ơi cô có gì đây? (Xe đạp) xe đạp chạy ở đâu? Các con có nhận xét
gì về xe đạp? Chuông xe đạp kêu như thế nào? (Kính coong) Đây là gì của xe
đạp? (chỉ vào từng bộ phận cho trẻ nhắc lại).
* Quan sát: ( xe máy và xe ô tô): tương tự như xe đap.
Cứ như vậy tôi đặt câu hỏi tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời, nhằm kích
thích trẻ phát triển tư duy và vốn từ cho trẻ, qua đó lồng ghép lien hệ giáo dục
về an toàn giao thông cho trẻ khi tham gia giao thông.
* Giáo dục : Các con ạ khi tham gia giao thông đường bộ các con phải đi
bên tay phải của mình, và khi đi ra đường phải có người lớn dắt các con nhớ
chưa ?
* Trò chơi: “Về đúng bến” .
Trong tất cả các hoạt động nói chung và “hoạt động nhận biết tập nói”
nói riêng, cô phải luôn linh hoạt trong mọi cử chỉ, hành vi lời nói khi vào bài
häc, giữa các phần phải lien kết với nhau thì giờ hoạt động mới sinh động, hấp
dẫn và đạt kết quả cao và giúp trẻ hứng thú trong hoạt động và phát triển vốn
từ cho trẻ một cách tốt nhất.
Sau khi nghiên cứu và áp dụng biện pháp tổ chức linh hoạt sáng tạo trong
hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ, tôi đã thu được kết quả đáng phấn khởi đó
là: 16/16 trẻ hứng thú tích cực tham gia hoạt động đạt 100%.
* Biện pháp 4: Chuẩn bị dùng và sử dụng đồ dùng trực quan.
Đối với trẻ nhà trẻ đồ dùng trực quan là phương tiện không thể thiếu, bởi
-

-


*

-

*

12


đồ dùng trực quan là phương tiện hữu hiệu để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì
vậy mà cô phải chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan trước khi dạy trẻ, đồ dùng
trực quan đó là: (vật thật, đồ chơi, tranh ảnh, máy chiếu, mô hình.. ) Chuẩn bị
các đồ vật đa dạng, đặc biệt các đồ vật gần gũi, đồ chơi có màu sắc, hình dạng
phong phú, hấp dẫn đảm bảo tính khoa học, thẩm mỹ và an toàn.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan cần sử dụng đúng lúc và kết hợp với lời
nói minh họa phù hợp.
Cho trẻ xem các hình ảnh trên máy chiếu cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho
trẻ, lựa chọn các hình ảnh phù hợp với nhận thức, sở thích của trẻ kết hợp với tổ
chức trò chuyện, đàm thoại.
Ví dụ:
Đối với chủ đề: “Những con vật đáng yêu”, cho trẻ nhận biết tập nói
”con gà ,con vịt, con ngan”
Tôi chuẩn bị các con vật bằng nhựa để trẻ được quan sát.
Với cách sử dụng linh hoạt, sang tạo giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt đông
nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.
Ví dụ:
Đối với chủ đề: “Rau củ quả và những bông hoa đẹp” Cô cho trẻ nhận
biết “ Hoa hồng - hoa cúc, hoa đồng tiền” về nhánh quả thì cô phải đưa quả
cam cho trẻ quan sát, sờ, nếm và hỏi trẻ đây là quả gì, màu gì; quả cam có vị
như thế nào?

Tôi cho trẻ tiếp xúc với đồ dùng trực quan, trẻ tích lũy dần dần những
kinh nghiệm, những hình ảnh, những biểu tượng và dùng phương tiện ngôn ngữ
để trẻ củng cố và diễn đạt lại nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.
Tôi đã nhận biết được tầm quan trọng của đồ dùng trực quan trong tổ chức
các hZoạt động cho trẻ, mà đặc biệt là hoạt động nhận biết tập nói. Chính vì thế
tôi đã chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan và sử dụng một cách linh hoạt, nên đã
đạt được hiệu quả cao.
* Biện pháp 5: Tạo môi trường cho trẻ phát triển ngôn ngữ.
Đối với trẻ 24 – 36 tháng tuổi thì môi trường hoạt động rất quan trọng
trong việc phát triển ngôn ngữ đó là môi trường trong và ngoài nhóm.
Môi trường trong nhóm: Môi trường cho trẻ hoạt động bố trí ngăn nắp,
đảm bảo an toàn, có khoảng không gian khu vực yên tĩnh để cho trẻ tìm tòi,
khám phá, các góc chơi chuẩn bị đầy đủ các đồ chơi để trẻ được thao tác vai
chơi, được giao lưu với bạn bè.
Trang trí nhóm theo chủ đề: “Bé có thể đi khắp nơi bằng những phương
tiện giao thông”
Ví dụ:
Xung quanh nhóm lớp cô trang trí các phương tiện giao thông như: ô tô,
xe máy, máy bay, xe đạp…Cô cho trẻ lên quan sát và hỏi trẻ?
- Cô chỉ vào máy bay và hỏi?
(Ảnh 9- Phần phụ lục)
- Đây là cái gì? (máy bay)
V

V

-

13



- Cô cho trẻ nhắc lại cụm từ “máy bay” và cho cá nhân trẻ nhắc lại.
- Máy bay kêu như thế nào? ( ù ù ù )
- Cô cho trẻ làm tiếng kêu của máy bay.
- Cô chỉ vào từng bộ phận của máy bay và hỏi trẻ.
Qua đó giúp trẻ có khả năng nghe hiểu và phát ân một cách tốt nhất
Môi trường ngoài nhóm : Sân chơi và sắp xếp thiết bị đồ chơi ngoài trời
gần nhóm trẻ, có vườn cây, bồn hoa.
Ví dụ:
Khi trẻ chơi với các đồ chơi ngoài trời như: “cầu trượt”… cô hỏi trẻ con
đang chơi gì đây? Trẻ sẽ trả lời: “con chơi cầu trượt”.
Qua đó giúp trẻ phát triển về giao tiếp và nói đủ câu (3- 4 tiếng).
Việc tạo môi trường phù hợp, thuận lợi cho trẻ hoạt động nhận biết tập
nói đã giúp trẻ củng cố vốn từ cho trẻ và phát âm rõ tiếng, mạnh dạn hơn trong
giao tiếp, nói đúng ngữ pháp. Từ đó góp phần phát triển trí tuệ cho trẻ.
* Biện pháp 6: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua sinh hoạt hàng ngày.
Các thời gian trong ngày đều có thể tạo ra các tình huống phát triển ngôn
ngữ cho trẻ như :
Ví dụ:
- Giờ cho trẻ ăn: Cô trò chuyện với trẻ.
+ Hôm nay các con ăn món gì ?
+ Các cô nuôi dưỡng nấu có ngon không ?
- Cho trẻ ngủ: Cô cùng trẻ đọc bài thơ “Giờ đi ngủ”
- Vệ sinh: Trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, khi tay bẩn các con phải làm
gì?
- Chơi tự do: Cô quan sát trẻ chơi và hỏi trẻ nội dung mà trẻ đang chơi.
Các thời điểm trong ngày tôi đều lựa chọn nội dung thích hợp, trò chuyện
với trẻ về các nội dung công việc trong sinh hoạt hàng ngày có liên quan với trẻ.
Ngoài ra, trong các thời điểm đón trẻ, trả trẻ tôi luôn trò chuyện với trẻ, gợi mở
giúp trẻ tích cực giao tiếp bằng ngôn ngữ để phát triển vốn từ cho trẻ.

Thường xuyên lồng ghép tích hợp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua
sinh hoạt hàng ngày, giúp trẻ củng cố vốn từ, phát âm rõ tiếng, mạnh dạn tự tin
hơn trong giao tiếp.
* Biện pháp 6: Phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động khác.
Ngoài hoạt động nhận biết tập nói cô thường xuyên lồng ghép tích hợp
vào các hoạt động khác để phát triển ngôn ngữ cho trẻ như:
+ Thông qua hoạt động giáo dục âm nhạc.
Đối với hoạt động âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật (trống, lắc,
phách tre, mõ, xắc xô…… và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu
vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm
được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao
tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật,
giúp trẻ yêu âm nhạc.
Qua
những giờ ca hát, vận động theo nhạc, trò chơi âm nhạc trẻ đã biết sử dụng ngôn
14


ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình
ảnh đẹp của bài hát.
Ví dụ:
Chủ đề
“Đồ dùng, đồ chơi của bé” Dạy trẻ hát bài “Chiếc khăn tay”
Cô chuẩn bị một chiếc khăn tay để trẻ quan sát.
Với cách gây hứng thú linh hoạt sáng tạo của mình như: Cô có một hộp
quà tặng cho cả lớp, và cho 1 trẻ lên phám phá (Một chiếc khăn tay) và cô dẫn
dắt vào bài hát.
Trẻ hát cùng cô từ đầu đến hết bài, làm động tác cùng cô theo lời bài hát.
Khi cô hát mẫu trẻ lắng nghe cô hát, trẻ sẽ cảm nhận được giai điệu bài hát, cô
mời trẻ hát cùng cô, cho trẻ hát theo tổ, nhóm, cá nhân. Qua đó đã giáo dục ngôn

ngữ mạnh lạc cho trẻ.
Qua trò chơi và vận động theo nhạc: Tập tầm vông sẽ rèn luyện cho trẻ
nói rõ ràng, lưu loát.
Qua giờ hoạt động âm nhạc giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, hát rõ câu và có khả
năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm đạt kết quả cao.
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động văn học.
Giờ làm quen với văn học có tác dụng làm giàu vốn từ (đặc biệt là vốn từ
nghệ thuật ), phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, bồi dưỡng năng lực cảm thụ
tác phẩm nghệ thuật và diễn đạt bằng ngôn ngữ văn học .
Ví dụ:
Chủ đề: “Tết và mùa xuân” Đề tài truyện “Bạn Mai đi chơi tết”
Cô chuẩn bị máy chiếu, nhạc bài hát: “Sắp đến tết rồi”.
Cô kể chuyện cho trẻ nghe, khi kể chuyện cô giáo sử dụng ngữ điệu giọng
nói để bộc lộ được đặc điểm, tính cách nhân vật, đọc, kể phải chậm rãi, vừa
phải để trẻ còn lắng nghe và ghi nhớ được các từ ngữ, câu văn trong chuyện, qua
đó để giúp trẻ tích lũy vốn từ và học được cách thể hiện qua giọng đọc, giọng kể
của cô.
Sau khi trẻ được nghe cô kể chuyện, cô đưa ra hệ thống câu hỏi để đàm
thoại với trẻ. Trong khi đàm thoại yêu cầu trẻ phải suy nghĩ, lựa chọn từ ngữ,
cách diễn đạt. Qua quá trình đàm thoại, trẻ được nói về những suy nghĩ, hiểu
biết của mình, điều đó đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Cô tập cho trẻ kể chuyện một cách sáng tạo câu chuyện theo mẫu trẻ đã
được nghe, giúp trẻ ghi nhớ và kể lại những điều trẻ đã được nghe. Trẻ biết vận
dụng ngôn ngữ của mình để kể lại chuyện .
Với cách sử dụng máy chiếu linh hoạt, giọng điệu êm ái, nhẹ nhàng đã
gây hứng thú cho trẻ khi tham gia vào hoạt động, giúp trẻ phát triển về vốn từ,
nói đúng ngữ pháp và nói mạch lạc.
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động động góc.
Đối với trẻ 24 – 36 tháng, thời gian chủ yếu là trẻ hoạt động ở các góc và
chơi tự do. Bởi vậy phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động có chủ đích

là chưa đủ mà phải phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc.
-

-

-

15


Trẻ sử dụng các yếu tố chơi, các trò chơi thích hợp để kích thích trẻ hoạt
động, qua đó luyện phát âm, luyện thở ngôn ngữ, phát triển vốn từ, nói đúng ngữ
pháp.
Ví dụ :
- Trẻ chơi góc thao tác vai:
“Chơi với búp bê” Trẻ biết chơi, biết mặc quần áo cho em búp bê, trẻ biết
chào hỏi mọi người khi đưa em búp bê đi chơi. Qua trò chơi phát triển kỹ nói
giao tiếp ngôn ngữ có văn hóa.
- Góc hoạt động với đồ vật :
Trò chơi xếp hình “Xếp hình công viên cây xanh, vườn hoa mùa xuân”
Quá trình trẻ chơi cô đặt câu hỏi: Con đang xếp gì đây? Con dùng cái gì để xếp?
Trong vườn hoa có những loại hoa gì đây ?
Như vậy thông qua những câu hỏi của cô, kích thích sự suy nghĩ để trả lời
đúng với yêu cầu câu hỏi cô đưa ra sẽ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc, nói
đúng ngữ pháp.
- Góc nghệ thuật: Sau khi trẻ thực hiện xong, cô hỏi trẻ về những sản phẩm của
trẻ làm ra, trẻ sẽ trả lời tên được sản phẩm mình làm ra, nhận biết và nói được màu xanh,
màu đỏ, hình tròn, hình dài.
- Góc văn học: Cho trẻ xem tranh ảnh
Cho trẻ xem tranh chuyện về chủ đề thực vật trẻ biết gọi tên các loại rau, củ quả. Qua đó

phát triển vốn từ cho trẻ.
- Góc vận động: Cho trẻ chơi trò chơi “dung dăng dung dẻ” giúp trẻ luyện được
khả năng phát âm.
Như vậy. Trò chơi chiếm giữ một vị trí quan trọng trong các hoạt động giáo dục ở
trường mầm non trong đó có nhóm trẻ 24 – 36 tháng tuổi. Thông qua trò chơi trẻ sẽ được
thực hành ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để nói ra những ý nghĩ của mình và học hỏi, chia sẻ
kinh nghiệm với bạn.
Qua hoạt động vui chơi tạo cho trẻ một trạng thái học nói tự nhiên, là con đường
nhanh nhất để trẻ bắt chước, tập nói và ghi nhớ lâu những từ ngữ mới học được.
* Biện pháp 7: Phát triển ngôn ngữ qua hoạt động dạo chơi, tham
quan.
Hoạt động dạo chơi, tham quan có tác dụng rất lớn đối với việc mở rộng tầm
hiểu biết của trẻ. Trẻ rất thích dạo chơi. Đồng thời trong quá trình dạo chơi cô
đặt nhiều câu hỏi về tên gọi, công dụng của sự vật mà trẻ được tiếp xúc.
Ví dụ:
Cho trẻ quan sát một số loại cây ăn quả cô hỏi trẻ?
+ Đây là cây gì? (cây hồng xiêm)
+ Thân cây màu gì?(màu nâu)
+ Lá màu gì?(màu xanh)
+ Quả màu gì? Hình gì? (màu nâu, hình tròn)
+ Quả này có ăn được không?(ăn được)
+ Khi ăn thì phải làm gì? (gọt vỏ, bỏ hạt)
Hoặc trẻ sẽ đặt ra câu hỏi để hỏi cô, hỏi bạn:
16


Ví dụ:
Trẻ nhìn thấy bông hoa trẻ hỏi: Cô ơi hoa gì đây? Hoa để làm gì?
Qua hoạt động dạo chơi, tham quan có tác dụng rất lớn trong việc phát
triển vốn từ cho trẻ.

Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những
câu không có nghĩa.
Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ
nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.
* Phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi.
Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một
biện pháp rất tốt. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được
nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử
dụng “vốn từ ” đó một cách thành thạo.
Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát
hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi
xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một
cách nhẹ nhàng và thoải mái.
- Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy
rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn
ngữ của trẻ ngày càng phong phú.
- Trò chơi 1: “Chiếc túi kỳ diệu”
- Mục đích của trò chơi này là củng cố vốn từ cho trẻ
- Chuẩn bị: Một số loại quả (Quả na, quả chuổi, quả cam, quả khế), 1 cái
túi may bằng vải.
- Cách tiến hành: Cô cho trẻ ngồi hình chữ u, cô nói cô có một cái túi kỳ
diệu trong túi có rất nhiều loại quả. Yêu cầu các con sờ vào túi lấy loại quả mà
cô yêu cầu và nói tên quả.
Ví dụ:
Cô nói: Quả gì vỏ sù sì? Khi nghe cô nói mắt các con không được nhìn
vào túi mà các con chỉ sờ tay vào túi lấy quả na giơ lên và nói quả na .
Cô mời lần lượt mời từng trẻ lên chơi.
+ Trò chơi 2: “Con muỗi”
Mục đích của trò chơi này là củng cố vốn từ cho trẻ: Cô cho trẻ đứng quanh cô
Ví dụ:

Cách chơi:
- Cô dứng trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô.
- Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác:
+ Có con muỗi vo ve, vo ve (trẻ dơ ngón tay trỏ ra trước mặt vãy qua vẫy
lại theo nhịp đọc)
+ Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay xa. (lấy dơ ngón tay trỏ chỉ vào cánh
tay đối diện, chỉ xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang)
+ Úi chà! Úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp lép, nhún vai 2
lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay 1 cái rồi chỉ vào chóp mũi)
17


Khi trẻ chơi tôi nhận thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô cũng có
trẻ trẻ được cả câu, có trẻ bập bẹ bớt 1-2 từ. Qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ
dần dần dược hình thành trọn vẹn hơn.
* Biện pháp 8: Tuyên truyền với các bậc phụ huynh.
Để phụ huynh dễ quan sát, dễ đọc tôi đã trang trí góc tuyên truyền ngay cửa
lớp.
- Những kiến thức cần củng cố cho trẻ trong chủ đề. Một số loại tranh ảnh,
sách báo, đồ dùng phế liệu cần để làm đồ chơi cho chủ đề đó. Hoặc khi trang trí
góc biểu bảng, tôi cũng đã xây dựng chủ đề từ dễ đến khó cho trẻ.
Ví dụ:
Với chủ đề: “Bé thích đi bằng phương tiện giao thông gì”
+ Phương tiện giao thông đường bộ .
+ Phương tiện giao thông đường thủy .
+ Phương tiện giao thông đường sắt, đường hàng không.
Đồ dùng cần có: Sách, tranh, ảnh, đồ chơi các phương tiện bằng nhựa. Khi
đã quan sát và biết được khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ tôi tuyên truyền
các bậc phụ huynh có những phương pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ tốt ở nhà
đó là: Không nên dùng những lời nói sai để nựng trẻ như: mẹ xươn, chơm chá,

ăn xịt…mà phải dùng từ ngữ chính xác để trẻ phát âm được đúng từ mà trẻ
nghe.
Với trẻ nghe hiểu lời nói (Chỉ đúng những gì được hỏi như: tai đâu? Mắt
đâu?..hoặc thực hiện những mệnh lệnh đơn giản như: lấy áo, cất mũ…)
Tôi tuyên truyền với phụ huynh cần giúp trẻ phát triển ngôn ngữ ở nhà như:
nói với trẻ phải đúng ngữ pháp, nói chậm và tạo điều kiện để trẻ được nói nhiều
hơn.
Ví dụ:
Con chào mẹ! Mẹ cho con uống sữa…Với những trẻ nói lắp, nhút nhát
hoặc ít nói thì tuyên truyên với các phụ huynh phải luôn giúp trẻ được cảm thấy
thoải mái, không nên ép trẻ khi trẻ không thích nói và không nên bắt trẻ nhắc lại
câu nói lắp và dần dần giúp trẻ và động viên trẻ nói một từ và nói đúng.
Với những trẻ chậm cả diễn đạt lẫn cảm thụ ngôn ngữ thì nhắc phụ huynh
phải đưa đi khám ngay.
Tuyên truyền với phụ huynh luôn hình thành thói quen lật mở sách, xem
sách đúng. Khuyến khích đọc chuyện cho trẻ nghe, chỉ vào các hình ảnh, trò
chuyện, trẻ đọc và nói tạo ra môi trường ngôn ngữ tốt cho trẻ: Tranh chuyện
sáng tạo và truyện trong sinh hoạt hàng ngày ngay trong nhóm. Ngoài ra tôi còn
kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, truyện có chữ, hình ảnh to, rõ
nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm quen và để xây dựng
góc thư viện sách truyện của lớp.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Bảng 2: Kết quả khảo sát sau khi áp dụng các biện pháp.
Đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu cầu
Nội dung khảo sát
Số trẻ Tốt
Khá
TB
Yếu

Kém
Đ

V

+

+

*

V

-

V

T

2.4.

18


Khả năng nghe hiểu
ngôn ngữ và phát
âm rõ tiếng.
Phát triển vốn từ

SL


% SL

% SL %

SL %

SL %

16

8

50 6

38 2

12

0

0

0

0

16

8


50 6

38 2

12

0

0

0

0

Sử dụng các từ chỉ 16
8 50 5 31 3 19 0 0 0 0
đồ vật, con vật, đặc
điểm, hành động
quen thuộc trong
giao tiếp
Xem tranh và gọi 16
9 56 5 31 2 12 0 0 0 0
tên các nhân vật, sự
vật, hành động gần
gũi trong tranh.
Trải qua một quá trình thực hiện bền bỉ, liên tục, trẻ ở trên lớp tôi đã có
những chuyển biến rõ rệt so với kết quả đầu năm tôi đã khảo sát.
- Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong khi giao tiếp.
- Trẻ khi giao tiếp biết nói đủ câu hoàn chỉnh.

- Trẻ không còn nói ngọng, nói lắp nữa
- Ngôn ngữ của trẻ đã phong phú hơn và trẻ đã biết vận dụng vốn từ vào
cuộc sống hàng ngày.
Bằng một số kinh nghiệm của mình mà tôi đã áp dụng một số biện háp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ trẻ 24 – 36 tháng, đạt kết quả cao hơn so với thực
trạng được thể hiện qua bảng khảo sát sau :
* Kết quả đối chứng so sánh:
- Trước khi thực hiện đề tài:
+ Số trẻ đạt yêu cầu:
- Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm rõ tiếng đạt: 69%
- Phát triển vốn từ đạt: 69%
- Trẻ sử dụng các từ chỉ đồ vật, con vật, đặc điểm, hành động quen thuộc
trong giao tiếp đạt: 69%
- Xem tranh và gọi tên các nhân vật, sự vật, hành động gần gũi trong tranh
đạt: 69%.
* Sau khi thực hiện đề tài:
Trẻ hoàn toàn thích thú khi đi học, và kết quả số trẻ đạt yêu cầu 100%, số
trẻ yếu, kém không còn nữa.
Qua cuộc chuyển biến này khiến tôi rất vui mừng vì bản thân đã tìm ra
được các biện pháp đúng đắn, và áp dụng có hiệu quả cao.
Không những đạt được kết quả trên mà còn hình thành nhân cách con cho


19


trẻ, biết yêu thương, lễ phép với mọi người xung quanh, biết chia sẻ đồng
cảm với bạn, biết thực hiện một số quy tắc theo yêu cầu của người lớn
Rèn luyện khả năng tư duy của trẻ, trẻ hồn nhiên hứng thú tham gia vào
các hoạt động, phát triển ngôn ngữ trẻ biết diễn đạt suy nghĩ của mình.

Những kết quả đó là niềm vui lớn nhất, luôn động viên tôi yêu nghề mến
trẻ và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng công tác chăm sóc giáo dục.
Từ những thành tích đã đạt được, bản thân đã cùng chia sẽ với các đồng
nghiệp, để cùng nhau nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi, để kết quả năm sau
ngày càng cao hơn năm trước.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Có thể nói: “Phát triển ngôn ngữ” cho trẻ ở trường mầm non là vấn đề rất
quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau.
“Phát triển ngôn ngữ” giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống giao tiếp
hàng ngày và hoạt động nhận thức của con người nói chung, sự phát triển tâm lý
nhận thức của trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi khả năng
ngôn ngữ phát triển rất nhanh.
Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá
trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó
khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của
trẻ, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp phần
bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước:
Muốn có được kết quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua quá
trình thực hiện:
- Cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lý và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
nhà trẻ. Qua việc nghiên cứu nắm vững đặc điểm tâm sinh lý và sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ. Tôi đã có biện pháp kích thích trẻ trò chuyện cùng cô và các
bạn trong nhóm một cách thường xuyên, liên tục, giúp ngôn ngữ của trẻ phát
triển nhanh, phát âm chuẩn, đúng ngữ pháp.
- Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành
và phát triển nhân cách cho trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ
chuyên môn, rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn.
- Làm giầu vốn từ của trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, vui chơi, kể

truyện và đọc truyện cho trẻ nghe. Nhằm củng cố vốn từ cho trẻ.
- Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo hấp dẫn với trẻ và phù hợp với
nội dung của bài dạy nhằm thu hút sự chú ý của trẻ, giúp trẻ đạt hiệu quả cao
trong các hoạt động.
- Cần sử dụng các biện pháp linh hoạt, sáng tạo nhằm gây sự hứng thú
cho trẻ đem đến hiệu quả cao trong các hoạt động.

20


- Luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, tạo điều kiện quan tâm
đến những trẻ nhút nhát, dành thời gian gần gũi trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh
dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa cô giáo và phụ huynh để nắm được đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ từ đó có kế hoạch phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một
biện pháp rất tốt. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được
nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử
dụng “vốn từ” đó một cách thành thạo.
Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát
hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi
xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào các hoạt động khác. Như vậy trẻ sẽ tiếp
thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái.
- Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ,
luôn tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động.
- Tích cực cho trẻ làm quen với thiên nhiên để phát triển khả năng quan
sát, giúp trẻ củng cố và tư duy hoá các biểu tượng bằng ngôn từ.
- Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy
rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn
ngữ của trẻ ngày càng phong phú.

3.2. Kiến nghị:
* Ban giám hiệu nhà trường:
Tăng cường tham mưu xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo phòng học cho
nhóm trẻ tạo điều kiện thuận lợi trong chăm sóc, giáo dục trẻ.
* Phòng giáo dục:
Đề nghị cấp thêm một số trang thiết bị cũng như: tranh ảnh, đồ chơi và
một số tài liệu theo phương pháp đổi mới để chúng tôi tham khảo và thực hiện
chương trình giáo dục mầm non.
Trên đây là “Một số biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ
thông qua hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ 24- 36 tháng, trường mầm non
Hưng lộc”. Tôi xin mạnh dạn trình bày với Hội đồng khoa học, với các đồng
nghiệp. Trong quá trình thực hiện đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót.
rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học và các đồng nghiệp để đề tài của
tôi được hoàn thành tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

k

Hưng Lộc,ngày 25 tháng 02 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Tác giả

21


Mai Thị Tuyết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, “Chương trình chăm sóc giáo dục
Mầm non” Thông tư số 17/2009/ TT – BGDĐT, ngày 25 tháng 7 năm 2

2009
2. Lý luận và phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ em. Nhà xuất bản Đại
học Huế, 2013
3. Lã Thị Bắc Lý: Giáo trình “văn học trẻ em- phần 2” NSX: 20- 01- 2016
4. Tài liệu bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên.
5. Nguyễn Bích Thủy “ Tâm lý học trẻ em” NSX: 25- 04- 2014
H

22


PHỤ LỤC

Ảnh 1: Bạn gái

23


Ảnh 2: Bạn trai

24


Ảnh 3: Gia đình bé

25


×