Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số kinh nghiệm giáo dục trẻ 5 6 tuổi bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 18 trang )

MỤC LỤC
Mục

Nội dung

Trang

1

Mở đầu

1

-

Lí do chọn đề tài

1

-

Mục đích nghiên cứu

2

-

Đối tượng nghiên cứu

2


-

Phương pháp nghiên cứu

2

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

4

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

6


-

Lên kế hoạch một cách rõ ràng cụ thể theo từng giai đoạn, bám
sát nội dung yêu cầu của chuyên để để giáo dục trẻ:

6

-

Tạo môi trường giáo dục xung quanh trẻ:

9

-

Làm tốt công tác tuyên truyền tới phụ huynh và cộng đồng
trong việc phối hợp giáo dục trẻ biết bảo vệ môi trường:

10

-

Giáo dục cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi vào các hoạt động tổ chức
tham quan danh lam thắng cảnh ở địa phương là 1 biện pháp tốt
để giáo dục BVMT cho trẻ

13

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân đồng nghiệp và nhà trường.


14

3

Kết luận kiến nghị

15

-

Kết luận

15

-

Kiến nghị

16

Tài liệu tham khảo

17

2.4


1. Mở Đầu
- Lý do chọn đề tài.

Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật. Hàng
ngày, mỗi con người đều cần một không gian nhất định, để hoạt động. Nhà ở,
nơi nghỉ, không khí, nước uống, lương thực, thực phẩm, đất đai để sản xuất...
Như vậy môi trường phải có không gian thích hợp cho mỗi con người.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố con người, có ảnh
hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên
nhiên. Môi trường rất quan trọng đối với cuộc sống của con người vì môi
trường bị ô nhiễm sẽ gây hại đến sức khỏe của con người, sự phát triển của
sinh vật và làm giảm chất lượng của cuộc sống. Hiện nay môi trường trên thế
giới và ở Việt Nam đang bị ô nhiễm nặng nề do gia tăng dân số quá nhanh,
nghèo khổ và lạc hậu ở các nước đang phát triển nhanh dẫn đến khí thải của
công nghiệp, nhà máy và lượng rác trong sinh hoạt ngày quá nhiều nhưng
chưa được quan tâm và xử lý tốt.
Trong những năm gần đây vấn đề khắc phục ô nhiễm và khủng hoảng môi
trường trên toàn cầu là một mục tiêu lớn của các quốc gia. Các chuyên gia
nghiên cứu về lĩnh vực này cũng đã chỉ ra rằng: Hiệu quả của bất kỳ của biện
pháp bảo vệ thiên nhiên nào cuối cùng cũng bị chi phối bởi hành vi thái độ cũng
như mối quan hệ của con người với thiên nhiên, sự thiếu hiểu biết của con người
là một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên sự ô nhiễm môi trường và sự
suy thoái môi trường.
Vì vậy, việc giải quyết vấn đề môi trường trên phạm vi toàn cầu không thể
thiếu được, sự thay đổi nhận thức về môi trường và bảo vệ môi trường trong con
người. Để có được một môi trường sống trong sạch và tiết kiệm chi phí cho quốc
gia thì việc giữ gìn và bảo vệ môi trường là trách nhiệm của tất cả mọi người,
mọi nhà, mọi lứa tuổi, chứ không phải của bất cứ cá nhân hay tập thể nào. Bảo
vệ môi trường là những hoạt động giúp cho môi trường trong lành, sạch đẹp, bảo
vệ môi trường sinh thái, ngăn chặn khắc phục hậu quả xấu do con người và thiên
nhiên gây ra, khai thác và sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên vì vậy:
Giáo dục bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách có tính toàn cầu, và có tính xã
hội sâu sắc cần được giáo dục cho con người ngay từ lứa tuổi còn thơ - đó là lứa

tuổi mầm non bởi vì đây là giai đoạn đặc biệt nhạy cảm của đời người, là giai
đoạn đặt nền móng cho những nét cá tính và những phẩm chất đạo đức, nhân
cách. Đây là thời kỳ quan trọng để hình thành cơ sở thái độ đúng đắn với thế
giới xung quanh (với thiên nhiên, đồ vật và con người) vì vậy việc giáo dục và
bảo vệ môi trường cần phải được tiến hành ngay từ lứa tuổi mầm non, thông qua
các hoạt động gần gũi với trẻ như: Vui chơi, học tập, lao động... Chính trong các
hoạt động này với tư cách là chủ thể hoạt động sẽ hình thành ở trẻ tình cảm, thái
độ tích cực đối với môi trường, có mong muốn giữ gìn, bảo vệ môi trường, hình
2


thành ở trẻ một số kỹ năng nhất định trong việc bảo vệ môi trường. Vì vậy việc
lựa chọn đưa các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào nội dung chăm sóc
giáo dục trẻ mầm non thông qua các hoạt động là một vấn đề đúng đắn và phù
hợp.
Mục tiêu của giáo dục và bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non đó là: đứa trẻ
phải được chuẩn bị những hiểu biết ban đầu về môi trường sống của con người,
trẻ có những kiến thức đơn giản về cơ thể, cách chăm sóc, giữ gìn sức khỏe cho
bản thân. Trẻ có những kiến thức ban đầu về mối quan hệ của động vật, thực vật
và con người với môi trường sống để trẻ biết giao tiếp yêu thương những người
gần gũi, xung quanh mình, biết chăm sóc, bảo vệ cây cối, bảo vệ con vật nơi
mình ở. Ngoài ra trẻ còn được trang bị những kiến thức về ngành nghề, văn hóa,
phong tục tập quán của địa phương mình, có thói quen sống sạch sẽ, ngăn nắp,
vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường sạch sẽ, có phản ứng với hành vi sai của con
người như: việc vức rác bừa bãi, chặt cây, hái hoa, dẫm lên cỏ, bắn giết động
vật. Yêu quý, gần gũi với thiên nhiên.
Lứa tuổi mầm non là thời kỳ mà khả năng giao tiếp và hành động của trẻ
với MT xung quanh được mở rộng, trẻ bắt đầu hình thành những quan niệm của
mình về thực nghiệm xung quanh, trẻ biết tìm hiểu và căn cứ vào sự đánh giá và
hành động của người lớn mà phân biệt điều tốt, xấu, đã biết bộc lộ được cảm

xúc, biết điều chỉnh hành động của bản thân để làm theo yêu cầu của người lớn.
Giáo dục bảo vệ môi trường chính là hình thành cho trẻ một số nền nếp, thói
quen và hành vi văn minh, vệ sinh đối với trường lớp, nơi công cộng, gia đình
của mình ở... Giúp trẻ hiểu được vai trò của môi trường và tác động của MT đối
với con người biết phản ứng với những hành vi sai trái làm ảnh hưởng tới MT.
Vì vậy việc giáo dục cho trẻ có ý thức bảo vệ MT là một trong các nhiệm vụ
quan trọng trong các trường mầm non mà người đóng vai trò trung tâm để
chuyển tải những nội dung trên đến với trẻ là các cô giáo mầm non. Trong
khuôn khổ thời gian và nội dung có hạn ở đây tôi chỉ đề cập đến vấn đề: “Giáo
dục bảo vệ MT cho lứa tuổi mẫu giáo lớn” làm đề tài nghiên cứu cho mình.
- Mục đích nghiên cứu.
Tìm ra một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 5 – 6
tuổi trong trường mầm non. Giúp cho giáo viên có một số kinh nghiệm trong
việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ từ đó hình thành cho trẻ ý thức
tốt trong việc bảo vệ môi trường.
- Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu một số kinh nghiệm giáo dục trẻ ý thức bảo vệ môi trường cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại trường mầm non tôi đang công tác.
- Phương pháp nghiên cứu.
Để thực thi đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau

3


+ Phương pháp nghiên cứu (Phân tích, tổng hợp, tài liệu Internet, tập san,
sách báo liên quan đến đề tài)
+ Phương pháp điều tra giáo dục
+ Phương pháp quan sát sư phạm
+Phương pháp thực hành, thực nghiệm sư phạm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
- Môi trương bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người. Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con
người và sự phát triển kinh tế văn hóa của nhân loại. Từ thế kỷ XIX một số nước
đã đưa ra những đạo luật về môi trường như : Luật cấm gây ô nhiễm nước sông
ở Anh năm 1876; Luật về khói than ở Mĩ năm 1896; Luật sông ở Nhật năm
1896.. và đến năm 1972, trong tuyên bố của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về “Môi
trường và con người” họp tại Stockholm đã nêu “Việc giáo dục môi trường cho
thế hệ trẻ cũng như người lớn làm sao để học có được đạo đức, trách nhiệm
trongviệc bảo vệ và cải thiện môi trường...
Chỉ thị số 36 CTTW ngày 25/06/1998 của Bộ chính trị về “tăng cường công
tác bảo vệ môi trường trong thơi kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã
đưa ra những giải pháp cơ bản để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường như;
“Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và phong
trào quần chúng bảo vệ môi trường” và “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường
vào chương trình giáo dục của tất cả các bậc học trong hệ thống quốc dân’
Cùng với luật giáo dục thì Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định số 3288/
QD BGD&ĐT ngày 02/10/1998 phê duyệt và ban hành các văn bản vê chính
sách và chiến lược giáo dục môi trường trong nhà trường, một số văn bản hướng
dẫn kèm theo. Các văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức
triển khai các hoạt động giáo dục môi trường ở các trường trong hệ thống giáo
dục quốc dân...
Ngày 21 tháng 4 năm 2006 Vụ Giáo dục mầm non đã có công văn hướng
dẫn thực hiện chỉ thị 02/2005/BGD&ĐT về việc: “Tăng cường công tác giáo dục
bảo vệ môi trường trong trường mầm non” Công văn đã đề ra nhiệm vụ cho các
các cơ sở giáo dục Mầm non tham gia vào công tác giáo dục bảo vệ môi trường
từ đó trẻ hiểu biết về môi trường, giúp trẻ có hành vi, thái độ ứng xử phù hợp
với môi trường để gìn giữ BVMT, biết sống hòa nhập với môi trường nhằm đảm
bảo phát triển lành mạnh.
Bước vào thế kỷ XXI loài người đang đứng trước những thách thức vô

cùng to lớn của tự nhiên, đó là nạn lạm phát tài nguyên, cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường ảnh hưởng tới toàn cầu như tình trạng ô nhiễm không khí,
nguồn nước, hạn hán lũ lụt, đặc biệt hiện nay sự bùng nổ dân số cùng với quá
4


trình đô thị hóa nhà máy, xí nghiệp đã tạo ra nhiều khí thải đang xâm nhập và
làm ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống của con người. Hoạt động bảo vệ môi
trường là khai thác sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa
dạng sinh học, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường,
ứng phó sự cố môi trường, là giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp. Cho nên
việc bảo vệ môi trường con người phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau
trong đó biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ được xem là hiệu quả
nhất, vì lứa tuổi nay dễ hình thành những nề nếp, thói quen tạo cơ sở cho việc
hình thành nhân cách tốt đẹp ở trẻ. Việc giáo dục bảo vệ môi trường trong trường
được đưa vào các hoạt động hàng ngày nhằm củng cố và hệ thống hóa những
kinh nghiệm mà trẻ đã tích lũy được trong cuộc sống hàng ngày, trong lúc trẻ
quan sát, hoạt động vui chơi và lao động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe.
Vì vậy để nâng cao hiệu quả tốt hơn trong công tác bảo vệ môi trường, tôi
đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp, biện pháp nâng cao chất lượng
giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trường mầm non
2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
-Thực trạng:
Trong những năm gần đây ban giám hiệu nhà trường cũng đã đưa ra
chương trình giáo dục, BVMT vào chương trình dạy học thông qua việc lồng
ghép tích hợp vào việc tổ chức các hoạt động học tập, lao động vệ sinh cho trẻ
thông qua đó giáo dục cho trẻ ý thức bảo vệ môi trường và đã thu được một số
kết quả nhất định, song do việc chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của
nó nên bản thân giáo viên cũng như phụ huynh cũng chưa ai coi trọng nhiệm vụ
này, còn quan niệm việc BVMT là của người lớn, của các cơ quan đoàn thể...

Các cháu còn nhỏ chưa biết gì, lớn lên giáo dục sau vẫn còn kịp, cho nên chưa
thực sự coi trọng đây là nhiệm vụ trọng tâm, chưa đi sâu tìm ra những biện pháp
hay để giáo dục các cháu ở mọi lúc, mọi nơi để đạt hiệu quả tốt.
Trong những năm học gần đây, thực hiện chuyên đề của Sở giáo dục và
đào tạo, của phòng giáo dục đào tạo thành phố Thanh Hóa về việc đưa
chương trình giáo dục BVMT cho trẻ vào trong trường mầm non các nhà
trường mới chính thức chỉ đạo cho giáo viên đưa các nội dung của chuyên đề
vào chương trình học. Song khi thực hiện chuyên đề chúng tôi cũng gặp phải
một số khăn lúng túng như sau: Chương trình giáo dục, BVMT không phải là
môn học cụ thể được phân phối trong chương trình nên khi triển khai nhà
trường chỉ hướng dẫn chung chung, trừu tượng, giáo viên phải tự tìm tòi tư
liệu, hình ảnh để thiết kế giờ dạy vì vậy giáo viên còn lúng túng khi lồng giáo
dục BVMT vào các môn học.
Nhà trường kinh phí còn hạn hẹp, công tác tuyên truyền, phối hợp với các
bậc phụ huynh của giáo viên chưa sâu rộng... Một số bậc phụ huynh chưa thực
sự gương mẫu trước trẻ, cho con ăn quà bánh xong còn xả rác bừa bãi ra ngay ra
sân trường, không gương mẫu trong hành vi để trẻ học tập, ăn ở sinh hoạt còn
5


mất vệ sinh.... Khi trẻ làm sai không uốn nắn trẻ kịp thời, một số phụ huynh còn
chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc giáo dục, BVMT mà cho đó
là việc người lớn họ cho rằng cháu còn bé chưa cần uốn nắn, lớn lên cháu sẽ tự
điều chỉnh lấy. Bản thân giáo viên cũng chưa thực sự mẫu mực trước trẻ, sân
chơi, phòng nhóm, đồ dùng cá nhân, đồ dùng vệ sinh của lớp đôi khi chưa được
sạch sẽ, quần áo, đầu tóc còn lôi thôi, chưa gọn gàng, ngay ngắn...
Góc thiên nhiên chưa phong phú, chưa đủ các loại cây cho trẻ quan sát,
chưa được chăm sóc thường xuyên nên chưa sạch đẹp, giáo viên cũng chưa sát
sao uốn năm hành vi cho trẻ. Chính vì những lý do đã nêu như ở phần trên, tôi
đã lựa chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ

mẫu giáo lớn" làm đề tài nghiên cứu cho mình.
Nghiên cứu vấn đề này tôi mong muốn rằng, giáo dục trẻ có ý thức BVMT
hiệu quả nhất.
- Kết quả của thực trạng trên.
Trong những năm gần đây công tác tuyên truyền giáo dục BVMT cho phụ
huynh cũng còn nhiều hạn chế một phần là do nhận thức hiểu biết của cán bộ
giáo viên cũng như các bậc phụ huynh về môi trường về các nội dung bảo vệ
môi trường còn hời hợt và chưa thấy được tầm quan trọng của công tác này. Còn
một số phụ huynh chưa có ý thức giữ gìn vệ sinh chung và giáo dục các cháu giữ
gìn vệ sinh trường lớp, vệ sinh cá nhân.
Trước khi nghiên cứu vấn đề này, đầu năm học tôi tiến hành khảo sát,
kiểm chứng trên 40 trẻ của lớp và đã thu được kết quả như sau:

Yêu cầu kỹ năng

Tốt

Khá

Chưa đạt

Trẻ

Tỷ lệ

Trẻ

Tỷ lệ

Trẻ


Tỷ lệ

1. Trẻ có thói quen tự phục vụ, sống
gọn gàng, ngăn nắp, biết vệ sinh cá
nhân, vệ sinh môi trường sạch sẽ.

20

50%

15

37,5%

5

12,5%

2. Tích cực tham gia các hoạt động
gần gũi, bảo vệ môi trường lớp học.

20

50%

15

37,5%


5

12,5%

3. Biết chia sẻ và hợp tác với mọi
người xung quanh.

17

42,5%

10

25%

13

32,5%

4. Có phản ứng với hành vi của con
người làm bẩn và phá hoại môi
trường.

15

37,5%

10

25%


15

37,5%

Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy rằng: vì là độ tuổi lớp MG lớn nên các
cháu đã được giáo dục kỹ năng lao động tự phục vụ và được tham gia các hoạt
động bảo vệ môi trường nên phần đa trẻ đã biết lao động tự phục vụ bản thân: tự
đi đại tiểu tiện, tự mặc và cởi quần áo, lao động trực nhật vệ sinh lớp học, kê bàn
6


ghế, sắp xếp đồ chơi dưới sự hướng dẫn của cô, tự xúc ăn...chăm sóc vật nuôi,
cây trồng...
Nhưng do giáo viên chưa coi trọng nhiều đến việc giáo dục các kỹ năng
sống nên việc chia sẻ, hợp tác với mọi người xung quanh hay nhận thức về các
hành vi phá hoại môi trường chưa được sâu sắc. Vấn đề này bản thân tôi thấy
cần phải có các biện pháp thiết thực, cụ thể hơn trong năm học này.
2.3. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề.
Giải pháp 1. Lên kế hoạch một cách rõ ràng cụ thể theo từng giai đoạn,
bám sát nội dung yêu cầu của chuyên để để giáo dục trẻ:
Sau khi được nhà trường triển khai học tập các nội dung của chuyên đề. Tôi
tranh thủ thời gian nghiên cứu kỹ tài liệu, nội dung chuyên đề, căn cứ vào tình
hình thực tế của lớp, tôi vạch ra một kế hoạch cụ thể để phấn đấu:
- Tôi lập kế hoạch tham mưu với ban giám hiệu nhà trường để bổ sung các
điều kiện về cơ sở vật chất thiết bị đề nghị nhà trường bổ sung những thiết bị
còn thiếu như: đèn chiếu, chậu cảnh, giá vẽ, hỗ trợ kinh phí để giáo viên trang
trí lớp, các thiết bị vệ sinh cá nhân trẻ...
- Tạo môi trường xung quanh lớp học để giáo dục trẻ như: trang trí tranh
ảnh, làm các giỏ hoa, dây leo trang trí có nội dung bảo vệ môi trường, tôn tạo

góc thiên nhiên của lớp, vận động phụ huynh sưu tầm tìm kiếm những nguyên
vật liệu phế thải đem nộp để tận dụng làm đồ dùng đồ chơi cho các cháu, kêu
gọi mỗi phụ huynh đóng góp 01 cây hay 01 chậu cây cảnh cho các cháu ...
Trường tôi đất rộng nên nhà trường chia cho mỗi lớp một mảnh đất nhỏ, tôi chia
thành 3 ô nhỏ cho 3 tổ cùng nhau chăm sóc hàng ngày, cuối tuần các cô đánh giá
và thưởng hoa bé ngoan cho các tổ, động viên khích lệ trẻ kịp thời. Lập kế
hoạch xong tôi chia mục tiêu phấn đấu ra từng giai đoạn:
*. Mục tiêu cụ thể từng giai đoạn:
Giai đoạn I: (Tháng 9,10,11)
* Rèn nền nếp thói quen vệ sinh cá nhân:
- Tập cho trẻ nhận ký hiệu và sử dụng đúng đồ dùng cá nhân của mình.
- Biết giữ vệ sinh thân thể, đầu tóc, quần áo gọn gàng; biết thường xuyên
tắm gội, thay quần áo hàng ngày.
- Biết giữ vệ sinh môi trường trong và ngoài lớp tốt, biết bỏ rác đúng
nơi quy định, không xả rác bừa bãi, biết rửa tay sạch sẽ sau khi đi vệ sinh và
trước khi ăn.
- Biết giúp cô kê bàn ghế, lấy và cất đồ chơi ngăn nắp, vệ sinh phòng nhóm.
- Tập các kỹ năng: đánh răng sau khi ăn, rửa mặt, rửa tay, xúc miệng nước
muối, rửa tay bằng xà phòng...
- Gom rác bỏ vào đúng nơi quy định.
7


(Hình ảnh minh hoạ )

* Rèn nền nếp thói quen trong giờ ăn:
- Kê bàn ghế, lấy bát thìa giúp cô
- Biết mời cô, mời bạn, mời khách trước khi ăn.
- Biết xúc cơm, cháo ăn, không để rơi vãi.
- Không nói chuyện trong giờ ăn, khi hắt hơi phải che miệng...

- Cô cùng trẻ sưu tầm một số tranh ảnh, bài thơ có liên quan đến giáo dục
bảo vệ môi trường để treo ở các góc lớp, góc trao đổi phụ huynh.

8


* Giai đoạn II: (Tháng 12 ,1, 2)
- Duy trì tiếp nền nếp thói quen vệ sinh, lao động tự phục vụ và nâng cao
kỹ năng thực hành các thói quen vệ sinh ở giai đoạn I.
- Giáo dục trẻ biết lao động chăm sóc thiên nhiên, vật nuôi, cây trồng...
không xả rác bừa bãi, giữ gìn vệ sinh đồ dùng đồ chơi, biết sắp xếp gọn gàng
ngăn nắp sau khi chơi xong, vệ sinh nơi công cộng, biết yêu quý vật nuôi và cây
trồng, gần gũi với thiên nhiên. Thấy rác thải, lá khô rơi ở sân trường tự giác nhặt
bỏ vào thùng rác.
- Trồng và chăm sóc bồn hoa, cây cảnh, rau xanh tại góc thiên nhiên của
lớp.
- Biết sử dụng nguồn nước tiết kiệm, hợp lý.

Giai đoạn III: (Tháng 3, 4, 5)
- Giáo dục trẻ biết đoàn kết giúp đỡ bạn bè, tiết kiệm nước, ăn hết xuất ăn
không làm rơi vãi, biết chia sẻ giúp đỡ bạn bè và những người xung quanh, lễ
phép với người lớn, không nói bậy, không nói trống không.
- Biết phản ứng với những hành vi của con người làm bẩn hay phá hoại môi
trường: nhắc nhở bạn khi bạn xả rác không đúng nơi quy định hay bạn bẻ lá,
ngắt hoa...khi ăn bánh kẹo, quà bánh biết bỏ vỏ vào thùng rác.
- Gom góp tận dụng nguyên vật liệu phế thải: bia lon, vỏ chai, giấy vụn
cùng cô giáo tạo ra một số đồ dùng, đồ chơi trang trí lớp, góc thiên nhiên.
- Cho trẻ đi dạo, tham quan một số khu di tích lịch sử gần địa phương nơi
trường đóng.
- Tập cho trẻ hát một số làn điệu dân ca địa phương.


9


Giải pháp 2. Tạo môi trường giáo dục xung quanh trẻ:
Tôi thấy rằng một trong những yếu tố không thể thiếu được để giáo dục
bảo vệ môi trường cho trẻ là phải tạo ra môi trường giáo dục ngay cạnh trẻ bởi
vì phạm vi tiếp xúc giao lưu của trẻ còn hạn chế, tư duy của trẻ mẫu giáo phải đi
từ trực quan cụ thể đến tư duy hành động. Muốn dạy trẻ nhớ nhanh, nhớ lâu và
đạt được hiệu quả cần phải cho trẻ được quan sát, được trải nghiệm chứ không
phải chỉ nói lý thuyết không với trẻ. Bởi vậy ngay từ đầu năm học theo kế hoạch
và sự chỉ đạo của nhà trường, tôi đã xây dựng một môi trường học tập thân thiện
từ trong lớp học cho đến môi trường bên ngoài lớp học. Xây dựng góc thiên
nhiên của lớp phong phú và đẹp mắt, tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động, được
trải nghiệm:
Ví dụ: Từ các lọ hột hạt và từ các cây con mà phụ huynh đóng góp cho
con em mình, tôi đã ghi biển tên cây đặt ký hiệu ( ví dụ 3 trẻ chăm sóc 1 cây )
để trẻ tự quản lý và chăm sóc cây của mình thông qua đó giáo dục trẻ tình cảm
đạo đức thẩm mỹ, tình cảm đối với vật nuôi cây trồng. Ngoài ra tôi còn chuẩn bị
một số can dầu ăn cắt ra, thùng xốp bỏ đất vào tổ chức cho trẻ gieo hạt hàng
ngày thay nhau chăm sóc và quan sát sự nảy mầm sinh trưởng của cây.

(Ví dụ minh hoạ)
1
0


Cùng với việc xây dựng góc thiên nhiên tôi xây dựng một môi trường
thân thiện ngay tại lớp học như xây dựng các góc chơi mở bằng hình thức sưu
tầm gom góp những phế liệu, vật liệu tận dụng tạo ra nhiều đồ dùng và đồ chơi

cho trẻ chơi, trang trí các mảng tường theo chủ điểm bằng những nguyên vật
liệu phế thải bỏ đi.
Ví dụ: Góc phân vai, sưu tầm chai, lọ, lon bia, hộp sữa vỏ bánh kẹo, vải
vụn may quần áo cho búp bê. Góc xây dựng sưu tầm các cành cây khô lá vàng,
làm những mẩu giấy màu, mẫu gỗ, sỏi, đá, cát để trẻ tạo ra những sản phẩm đưa
vào công trình của mình.
- Khi tổ chức các hoạt động giáo dục và hoạt động vui chơi, tôi đã chú
trọng đến nội dung lồng ghép tích hợp các kiến thức bảo vệ môi trường và môi
trường sống đối với con người vào bài học, ở chủ đề nào tôi cũng lồng ghép, sau
mỗi giờ dạy tôi lại tự rút ra những kinh nghiệm cho bản thân bằng cách ghi vào
sổ nhật ký hàng ngày.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tổ chức các hoạt
động vì những hình ảnh tôi tải được trên mạng thông qua trình chiếu powerpoin
là những hình ảnh sinh động nhất để giáo dục trẻ bảo vệ môi trường đạt hiệu quả
nhất, ngoài ra tôi còn thường xuyên tổ chức những trò chơi có nội dung giáo dục
và bảo vệ môi trường để trẻ tham gia. Với hình thức “Học bằng chơi, chơi mà
học” giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng.
- Tích cực tham gia vào các hội thi do nhà trường và PGD TP tổ chức.
- Phải luôn thay đổi cách trang trí lớp tạo cho lớp học luôn mới lạ, đẹp mắt
thu hút sự chú ý của trẻ
Giải pháp 3. Làm tốt công tác tuyên truyền tới phụ huynh và cộng
đồng trong việc phối hợp giáo dục trẻ biết bảo vệ môi trường:
Tôi nhận thấy rằng muốn đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường đến
với trẻ ngoài việc giáo viên triển khai tốt ở lớp ra cần phải có sự phối kết hợp
của phụ huynh, của gia đình và toàn xã hội. Cô giáo phải là những nhà tuyên
truyền viên tích cực tới các bậc phụ huynh. Thông qua hội nghị phụ huynh ở
lớp, cùng thảo luận với phụ huynh về nội dung này, phụ huynh hiểu được người
lớn chính là tấm gương phản chiếu để trẻ bắt chước làm theo. Các bảng biểu
tranh ảnh, áp phích có nội dung tuyên truyền về giáo dục bảo vệ môi trường tôi
treo ngay trước lớp làm sao để phụ huynh dễ nhìn dễ đọc, tôi xin sưu tầm tranh

ảnh có những hành vi xấu và hành vi tốt đối với nội dung giáo dục bảo vệ môi
trường để trẻ được xem và bày tỏ quan điểm của mình cũng như hành động của
mình.

1
1


1
2


( hình ảnh minh hoạ )
- Bản thân giáo viên và người lớn chính là tấm gương phản chiếu và giáo dục
hiệu quả nhất đối với trẻ. Ý thức được điều đó, ở lớp tôi luôn mẫu mực trước trẻ ăn
mặc cử chỉ, lời nói tác phong đối với trẻ, đối với phụ huynh, đối với đồng nghiệp
nhẹ nhàng, đúng mực. Sắp đặt đồ dùng trong nhóm lớp khoa học, đẹp mắt. Khi thấy
những hành vi sai của trẻ phải kịp thời nhắc nhở uốn nắn ngay.
- Thường xuyên trao đổi với phụ huynh trong giờ trả trẻ và đón trẻ gom
góp nguyên vật liệu phế thải để làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ. Tôi có suy nghĩ
rằng rằng: đồ dùng đồ chơi bán sẵn tuy đẹp về hình thức nhưng lại đắt tiền mau
hỏng và có thể còn gây độc hại tới sức khỏe trẻ. Vì vậy tôi nhờ phụ huynh góp
nhặt các phế liệu bỏ đi để làm đồ dùng đồ chơi cho lớp phần nào tiết kiệm được
chi phí mà lại còn góp phần vào việc bảo vệ môi trường.
Tại gia đình mình sau khi dùng xong các sản phẩm như dầu ăn, dầu gội,
nước rửa bát tôi đã rửa sạch đem đến lớp để làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ, từ
những vỏ hợp những mảnh vải vụn qua bàn tay khéo léo của mình tôi đã tạo ra
những sản phẩm đẹp mắt như các chìm hoa, bông hoa, các giò phong lan bộ sưu
tập thời trang, bộ con giống, con rối thế giới động vật, thực vật phong phú đầy
màu sắc, ngoài ra tôi còn xuống bếp nhờ các bác gom cho tôi những vỏ chai dầu,

thùng các tông, thùng xốp đề dùng trồng cây ở góc thiên nhiên của lớp, các vỏ
ngao, vỏ hến cành cây khô rửa sạch phơi khô để trẻ chơi xây lắp ghép. Đặc biệt
nhân dip ngày 20/11 tôi đã sưu tầm từ nguyên liệu phế thải làm những bộ đồ dùng
đồ chơi được Ban giám hiệu nhà trường đánh giá là có tính sáng tạo cao và có giá
trị sử dụng cao. Đồ dùng đồ chơi lớp tôi tham gia luôn được xếp loại xuất sắc.

1
3


Giải pháp 4. Giáo dục cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi vào các hoạt động tổ
chức tham quan danh lam thắng cảnh ở địa phương là 1 biện pháp tốt để
giáo dục BVMT cho trẻ.
Có thể nói rằng: Đưa trẻ vào hoạt động và thông qua các hoạt động để
giáo dục trẻ ở mọi lúc, mọi nơi là một biện pháp tốt để giáo dục, BVMT cho trẻ.
Thông qua các hoạt động đều là những dịp để trẻ bộc lộ cá tính, cách ứng xử và
hành vi của mình.
Ví dụ: Giáo dục trẻ thông qua hoạt động vui chơi: Thông qua các trò chơi
phân vai trẻ được đóng vai, và thực hiện các công việc của người làm công tác
BVMT như: Chăm sóc cây, thu gom rác, xử lý các chất thải thông qua các trò
chơi “Bé tập làm nội trợ” dạy trẻ có ý thức tiết kiệm nước và các nguyên liệu,
thu gom đồ dùng gọn gàng... Thông qua các hoạt động học tập, lao động trẻ
được tìm hiểu các hiện tượng trong môi trường, phân biệt môi trường sạch, MT
bẩn, và tìm ra nguyên nhân của chúng. Thông qua các trò chơi đóng kịch, trẻ thể
hiện nội dung các câu chuyện BVMT, được tự mình thể hiện, trải nghiệm những
hành vi tốt, có hại cho môi trường để điều chỉnh cho bản thân. Thông qua hoạt
động lao động trẻ ý thức được lao động tự phục vụ bản thân như đi tiểu tiện
đúng nơi quy định, đi xong biết dội nước, biết tiết kiệm nước, vòi nước không
vặn quá to, giữ gìn đồ dùng vệ sinh cá nhân, vệ sinh đồ dùng đồ chơi của lớp
luôn sạch sẽ,.. Trẻ được lao động chăm sóc vật nuôi cây trồng, cũng chính là bảo

vệ môi trường, ý thức được đây chính là việc làm tốt và trẻ còn tự hào khi được
góp công sức của mình vào việc bảo vệ môi trường.
Ngoài ra chúng tôi còn tổ chức cho trẻ ở lớp tôi đi tham quan một khu di
tích của địa phương là Đền Vặng, chỉ cách trường tôi không đầy nửa cây số, qua
đó trẻ hiểu biết hơn về sự tích của Đền, từ đó trẻ thấy càng gắn bó hơn với quê
hương mình, giáo dục trẻ có ý thức giữ gìn, và bảo tồn danh lam thắng cảnh của
địa phương.
1
4


Bám sát vào những nội dung của chuyên đề tôi luôn gần gũi và uốn nắn
những sai sót của trẻ, ở mọi lúc, mọi nơi. Trong năm học vừa qua, trường tôi đã
tham gia hội thi “Bé khoẻ - bé thông minh" cấp Thành Phố. Được sự chỉ đạo
của ban giám hiệu nhà trường, bản thân tôi cũng là giáo viên trực tiếp luyện thi
cho các cháu. Trong 5 cháu dự thi cấp thành phố thì lớp tôi có 3 cháu. Trường
tôi đã đạt giải xuất sắc cấp cụm. Điều quan trọng là qua hội thi chúng tôi đã gửi
tới các bậc phụ huynh, các cơ quan, đoàn thể, những thông điệp đầy đủ nhất về
tình trạng môi trường và công tác giáo dục BVMT. Thành công hơn cả đó là trẻ
đã thực sự có những suy nghĩ, những hành vi đúng, những việc làm thiết thực
trong công tác bảo vệ môi trường.
Có thể nói rằng đưa nội dung giáo dục và BVMT đến với trẻ ngay từ lứa
tuổi mẫu giáo là một việc làm vô cùng cần thiết. Giáo dục cho trẻ thường xuyên
ở mọi lúc, mọi nơi là một trong những biện pháp chủ yếu để đạt được kết quả
trong nội dung giáo dục bởi vì đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mầm non là mau nhớ
nhưng cũng chóng quên. Vì vậy cô giáo phải thường xuyên uốn nắn, đôn đốc,
nhắc nhở trẻ hàng ngày và phải cho trẻ được thực tế trải nghiệm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nhiệp và nhà trường
Qua một năm ứng dụng các biện pháp trên vào công tác giáo dục trẻ, tôi thấy

các cháu lớp tôi có những chuyển biến tích cực cả về nội dung lẫn hình thức.
Cuối năm học như sau tôi tiến hành khảo sát đối chứng kết quả để so sánh
với đầu năm thì thấy như sau: (khảo sát 40 trẻ).
Yêu cầu kỹ năng

Tốt

Khá

Chưa đạt

Trẻ

Tỷ lệ

Trẻ

Tỷ lệ

Trẻ

Tỷ lệ

1. Trẻ có thói quen tự phục vụ, sống gọn
gàng, ngăn nắp, biết vệ sinh cá nhân, vệ
sinh môi trường sạch sẽ.

30

75%


10

25%

0

0

2. Tích cực tham gia các hoạt động gần
gũi, bảo vệ môi trường lớp học.

34

85%

6

25%

0

0

3. Biết chia sẻ và hợp tác với mọi người
xung quanh.

30

75%


10

25%

0

0

4. Có phản ứng với hành vi của con
người làm bẩn và phá hoại môi trường.

30

75%

10

25%

0

0

Nhìn vào bảng trên cho chúng ta thấy rằng việc áp dụng các biện pháp như
đã trình bày ở trên đã mang lại kết quả thật rõ rệt về chất lượng giáo dục, gần
như 100% các cháu có thói quen BVMT ngăn nắp biết giữ gìn vệ sinh cá nhân,
vệ sinh MT sạch sẽ, tích cực tham gia vào hoạt động tập thể để góp phần
BVMT, kể cả những cháu nhút nhát nhất đã biết chia sẻ hợp tác với bạn bè, biết
bộc lộ cảm xúc, phản ứng với những hành vi làm ô nhiễm hay phá hoại môi

trường. Chơi với bạn biết đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Trẻ không hái hoa, ngắt lá,
1
5


bẻ cành, biết bỏ rác đúng quy định mà cô không cần nhắc nhở, biết nhặt nhanh,
gom góp những đồ dùng, phế thải ở gia đình như: Chai dầu, lọ rửa bát mang đến
cho cô giáo, điều này chứng tỏ rằng kiến thức cô dạy đã ăn sâu vào tiềm thức
của các cháu, các bậc phụ huynh của lớp tôi cũng đều có ý thức xây dựng trường
lớp, họ luôn nhặt nhạnh những đồ dùng, phế thải ở gia đình đem đến cho tôi.
Đặc biệt lớp học của tôi trong và ngoài lớp luôn luôn được sạch sẽ. Trẻ lớp tôi
hễ thấy lá rụng trước sân là biết nhặt bỏ vào thùng rác chứ không còn như trước
đây cô nhắc thì trẻ mới làm.
Đối với phụ huynh, đối xử nói năng với cô giáo nhẹ nhàng đúng mực,
không đánh mắng con trẻ chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng, không nói to thô lỗ trước mặt
trẻ...bản thân các bậc phụ huynh cũng có ý thức cao và có trách nhiệm cao hơn
rất nhiều về việc bảo vệ môi trường trong và ngoài trường mầm non cụ thể là
dọn cỏ, tham gia lao động vệ sinh trường, vệ sinh đường làng khu dân cư.
Việc áp dụng các biện pháp trên vào công tác giảng dạy giúp cho bản thân
tôi và các bạn đồng nghiệp luôn tự điều chỉnh mình từ các hành vi thái độ, có sự
chuẩn bị hơn, luôn ân cần, nhẹ nhàng, thương yêu và đối xử công bằng, luôn xây
dựng mối quan hệ giữa cô giáo với phụ huynh ngày càng tốt đẹp hơn, thường
xuyên trao đổi kiến thức nuôi dạy trẻ theo khoa học với phụ huynh về cách chăm
sóc, giáo dục trẻ, thông tin hai chiều đều đặn giữa nhà trường và gia đình.
3 Kết luận và kiến nghị
+ Kết luận
Trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước,
chăm sóc sức khỏe trẻ em là chăm sóc tương lai cho cả một dân tộc. Bởi vậy các
nhà nghiên cứu khoa học đêu thống nhất rằng; Giáo dục bảo vệ môi trường cần
được quan tâm đúng mức ngay từ lứa tuổi mầm non vì trẻ ở lứa tuổi này rất

thích tiếp xúc với thế giơi tự nhiên và cuộc sống xung quanh.
- Để giáo dục trẻ có ý thức BVMT được tốt, thì cô giáo phải luôn làm tấm
gương sáng cho trẻ noi theo. Cô còn phải là những tuyên truyền viên giỏi đối với
các bậc phụ huynh về các nội dung giáo dục trẻ.
- Trong lớp các góc hoạt động phải được sắp đặt gọn gàng, đẹp mắt, khoa
học, luôn tạo ra một MT giáo dục phong phú giúp trẻ tích cực hoạt động.
- Cô giáo phải mẫu mực, kiên trì, nhiệt tình, chịu khó linh hoạt sáng tạo
trong việc tổ chức các hoạt động cho trẻ, biết lồng nội dung giáo dục BVMT cho
phù hợp, với từng hoàn cảnh, từng hoạt động thì mới hiệu quả và đặc biệt là phải
có hình thức để giáo dục trẻ cá biệt.
- Cô giáo mầm non còn là người phải chịu khó, khéo tay, biết tận dụng
nhặt nhạnh những nguyên liệu, vật liệu phế thải làm đồ dùng dạy học thì hiệu
quả của việc giáo dục mới cao. Biết khai thác những ưu thế trong hoạt động
hàng ngày, để truyền tải những nội dung cần giáo dục tới trẻ một cách nhẹ
nhàng mà hiệu quả.
1
6


- Phải có sự ủng hộ, phối kết hợp của phụ huynh, bởi vì gia đình thật sự là
mái ấm của trẻ và phụ huynh phải là tấm gương sáng cho trẻ noi theo.
- Trong quá trình giáo dục, cô giáo phải có đánh giá, tổng kết, và có hình
thức động viên, khích lệ những trẻ làm tốt và có biện pháp nhắc nhở với những
trẻ làm chưa tốt.
- Kiến nghị
* Đối với sở, phòng giáo dục và đào tạo.
- Đầu tư thêm kinh phí cho ngành học mầm non và hỗ trợ thêm các trang
thiết bị có nội giáo dục bảo vệ môi trường như: Đĩa DVD, tập san..về nạn phá
rừng, các nạn sóng thần, thiên tai lũ lụt, rác thải, khí thải...
- Phát động các phong trào sáng tác thơ ca, hò vè, câu đố, hội thi, hội giảng

có nội dung giáo dục bảo vệ môi trường.
* Đối với nhà trường
- Nhà trường cần đầu tư thêm các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị,
cải tạo khuôn viên, tạo điều kiện cho giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động
cho trẻ mọi lúc mọi nơi để khắc sâu thêm kiến thức.
Trên đây là những biện pháp thực tế mà tôi đã thực hiện và đạt được một số
thành công. Nhưng không tránh khỏi những thiếu sót nên rất mong sự đóng góp
ý kiến của hội đồng khoa học, bạn bè đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện và
đạt kết quả cao hơn cho những lần sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nhận xét của HĐKH nhà trường

Ngày

tháng

năm 2016

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Nguyễn Thị Ngọc

1
7


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài liệu hướng dẫn chương trình chăm sóc, giáo dục mầm non, mẫu

giáo Bộ giáo dục và HN 2005
2. Dự thảo chương trình giáo dục mầm non
3. Xây dựng chương trinh đưa giáo dục bảo vệ môi trường vào các trường
mẫu giáo. (Dự án Bộ Giáo dục và Đào tạo Hà Nội 1999)
4. Lồng ghép giáo dục và bảo vệ môi trường. (Lê Xuân Hồng 2005)
5. Một số tập san về giáo dục và bảo vệ môi trường..

1
8



×