I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non hiện nay, giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ là một yêu cầu quan trọng, có tác động mạnh mẽ đến giáo dục
phát triển toàn diện cho trẻ, đặc biệt là hiệu quả tác động hình thành nhân cách
ban đầu của trẻ. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đã được triển khai chỉ đạo thực
hiện thường xuyên trong trường mầm non. Giáo dục kỹ năng cho trẻ bao gồm
giáo dục cho trẻ các kỹ năng về giao tiếp ứng xử, các hành vi văn minh theo
chuẩn phù hợp với lứa tuổi Mầm non ở mỗi độ tuổi; là một trong những yêu cầu
để hình thành nhân cách chuẩn cho trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ được sớm hình thành các tố chất
nhân cách, tôn vinh giá trị đích thực của của trẻ; Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
là giúp trẻ có khả năng ứng xử với các mối quan hệ thế giới xung quang trẻ; phát
huy ở trẻ các tiềm năng về năng lực phù hợp với mỗi đứa trẻ.
Trẻ em là giai đoạn học tiếp thu, lĩnh hội những giá trị cuộc sống để phát
triển nhân cách, do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ nhận thức đúng
và có hành vi ứng xử ngay từ khi còn nhỏ.
Một thực tế hiện nay nhiều phụ huynh thường coi trọng văn hóa của con
hơn, hay nói đúng hơn là chạy theo “thành tích”. Một số khác lại cho rằng con
nhỏ thì không nên bắt con vào khuôn phép mà mất đi nét hồn nhiên, đã luôn bao
bọc, nuông chiều con, tất cả mọi việc đều làm giúp con… Tất cả điều đó đã làm
cho trẻ thụ động, không biết ứng phó trong các hoàn cảnh nguy cấp, không biết
cách tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ người
khác… Có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó việc thiếu kỹ năng
sống là nguyên nhân sâu xa nhất.
Như vậy, để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả, đòi hỏi giáo
viên cần phải có những hiểu biết đầy đủ về những yêu cầu giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ lứa tuổi mầm non. Cùng với đó, giáo viên cần phải
quan tâm đến việc nghiên cứu các phương pháp, tìm tòi các cách thức, các
giải pháp sáng tạo trong việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
trong tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Với mục đích rèn
luyện các kỹ năng sống cho trẻ một cách nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả.
Nhận thức được vai trò, ý nghĩa của giáo dục kỹ năng sống với sự
phát triển toàn diện của trẻ, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chăm sóc
giáo dục trẻ tôi luôn quan tâm đến việc lựa chọn nội dung giáo dục các kỹ
năng sống cho trẻ phù hợp với các độ tuổi mầm non để đạt được hiệu quả
giáo dục như mong đợi. Trong năm học 2016 – 2017 tôi đã chọn đề tài:
“Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại
trường mầm non Ba Đình”.
1
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn ở trường
Mầm non Ba Đình.
- Nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ mầm non.
- Giúp trẻ chuyển tải những gì mình biết (nhận thức), những gì mình cảm
nhận (thái độ), và những gì mình quan tâm( giá trị) thành những khả năngthực
thụ giúp trẻ biết phải làm gì và làm như thế nào (hành vi) trong những tình
huống khác nhau của cuộc sống hàng ngày. Từ đó phát triển toàn diện nhân cách
trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi và các hoạt động giáo dục giúp trẻ có kỹ năng sống
tích cực ở trường Mầm non Ba Đình – Nga Sơn – Thanh Hóa
4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan
đến thực tiễn và công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra: Điều tra về mức độ trẻ đạt được các nhóm kỹ năng
sống. Tìm hiểu các biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
- Phương pháp quan sát: Quan sát các biểu hiện, hành vi, các kỹ năng của
trẻ thông qua ngôn ngữ và hoạt động hàng ngày.
- Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với các đồng nghiệp để trao đổi các
kinh nghiệm hay trong dạy kỹ năng sống cho trẻ. Đàm thoại với phụ huynh để
tìm hiểu đặc điểm của trẻ khi ở gia đình. Đàm thoại trực tiếp với trẻ trong quá
trình thực hiện các biện pháp giáo dục.
- Phương pháp trực quan: Bao gồm phương pháp làm mẫu, làm gương…
giúp trẻ quan sát và bắt chước thực hành thường xuyên những kỹ năng sống cần
hình thành.
- Phương pháp thực hành: Trò chơi, giao việc, trải nghiệm. Những phương
pháp này giúp trẻ bắt chước/ tập thử và tích cực thực hành thường xuyên các kỹ
năng sống giáo viên cần dạy trẻ.
- Phương pháp toán học: Xử lý những số liệu khảo sát, đã đạt được kết
quả, mức độ đạt được, để rút ra kinh nghiệm hay cho vấn đề nghiên cứu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
- Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là khả năng để có hành
vi thích ứng và tích cực giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu
cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
2
- Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), kỹ năng sống là cách tiếp
cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự
cân bằng về khả năng tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
- Theo UNESCO, kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học
để biết, gồm các kỹ năng tư duy như: giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, ra
quyết định, nhận thức được hậu quả…; Học làm người gồm các kỹ năng cá nhân
như: ứng phó với căng thẳng, giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp, làm
việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông; Học để cùng làm, gồm các kỹ năng thực
hiện công việc và các nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách
nhiệm. ( Trang 62, bài giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong chương trình giáo
dục mầm non. Tài liệu tập huấn bồi dưỡng hè cho cán bộ quản lý và giáo viên
mầm non năm học 2009 – 2010).
Như vậy, kỹ năng sống là hành động tích cực, có liên quan đến kiến thức và
thái độ trực tiếp hướng vào hoạt động của cá nhân, hoặc tác động vào người
khác, hoặc hướng vào những hoạt động làm thay đổi môi trường xung quanh,
giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả các yêu cầu, thách thức của cuộc
Lứa tuổi mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội những giá trị sống
để phát triển nhân cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành
và phát triển về các mặt thể chất, tình cảm-xã hội, ngôn ngữ, nhận thức, giúp trẻ
sẵn sàng đi học lớp một ở trường tiểu học sau này. Cụ thể là:
- Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo bền
bỉ, có khả năng thích ứng với thay đổi của điều kiện sống.
- Trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương, đồng cảm với mọi
người xung quanh.
- Có kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tôn trọng người
khác, có khả năng giao tiếp tốt, trẻ biết lắng nghe, nói năng lịch sự, hòa nhã, cởi
mở, ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt động học tập
ở lớp một như: sẵn sàng hòa nhập, nỗ lực vượt qua, khó khăn để hoàn thành
nhiệm vụ, có trách nhiệm với bản thân, với công việc, với các mối quan hệ xã
hội…
Từ đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các nội dung đơn giản và
hết sức gần gũi, thiết thực với trẻ như: giao tiếp và ứng xử phù hợp với những
người gần gũi xung quanh, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng học
tập…các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau,
được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình huống nào
xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ có nhân
cách tốt.
3
2. Thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại trường mầm
non Ba Đình hiện nay
2.1. Thực trạng chung
Trường mầm non Ba Đình là trường đã đạt chuẩn quốc gia mức độ I,
nên cơ sở vật chất trang thiết bị cơ bản đầy đủ để thực hiện hoạt động chăm sóc
giáo dục trẻ. Trang thiết bị ở trường luôn được đầu tư nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học. Trường, lớp có đủ đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị cần thiết
trong các hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ. Không gian hoạt động sạch sẽ, an
toàn, hệ thống cống rãnh hợp vệ sinh.
Đội ngũ cán bộ giáo viên trẻ, trình độ đạt chuẩn trở lên. Ban giám hiệu
nhà trường thường xuyên tích cực bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên môn, xây
dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo
mọi điều kiện giúp tôi có đủ những nguyên vật liệu, tài liệu để làm đồ dùng dạy
học và đồ chơi cho trẻ.
Phụ huynh luôn sát cánh cùng nhà trường cho nên công tác phối kết hợp
giữa gia đình trẻ và cô giáo đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh những thuận lợi chung thì thực trang những khó khăn đối với nhà
trường để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ còn tồn tại đó là: Kinh phí trong việc tổ
chức một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy KNS
cho trẻ còn hạn chế và chưa thường xuyên.
Do khối lượng công việc lớn, giáo viên không có nhiều thời gian cho công
tác phối hợp với gia đình và xã hội trong việc giáo dục trẻ như mong muốn.
Một bộ phận phụ huynh chưa nhận thức đúng về giáo dục mầm non, nhiều
khi chưa phối hợp với giáo viên để giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ tại gia
đình, nuông chiều trẻ quá mức.
2.2. Thực trạng nhóm lớp
Năm học 2016 - 2017 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 5 - 6 tuổi
với tổng số cháu 31, trong đó có 14 cháu nữ, 17 cháu nam, tất cả đều đã qua lớp
mẫu giáo nhỡ nên đã có một số kỹ năng cơ bản. Đa số trẻ ngoan ngoãn, mạnh
dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về tất cả các lĩnh vực, biết cảm thụ cái hay cái đẹp
trong cuộc sống xung quanh. Trẻ đã học qua lớp mẫu giáo nhỡ nên đã có kiến
thức và kỹ năng nhất định. Trẻ mạnh dạn ham học hỏi và thích khám phá tìm
hiểu thế giới xung quanh. Các cháu đã có một số kỹ năng nhận thức về bản thân,
kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội, kỹ năng quản lí cảm xúc.
Bản thân tôi là một giáo viên trẻ, năng động, có tâm huyết với nghề, có
trình độ đại học, tích cực nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
Đa phần phụ huynh trong lớp đều quan tâm đến việc phối kết hợp với giáo
viên trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Tuy nhiêm bên cạnh những thuận lợi, nhóm lớp cũng có nhiều những khó
khăn nhất định. Ngoài những khó khăn chung của nhà trường, lớp học còn có
4
những khó khăn riêng như: Trẻ lớp tôi đa số là con em nông thôn nên ít nhiều
ảnh hưởng văn hóa vùng miền, sự hiểu biết về kỹ năng sống còn nhiều hạn chế.
Một số trẻ ngoan ngoãn và nhanh trí thì có nhiều kỹ năng cơ bản tốt, với sự
hướng dẫn, động viên của cô giáo trẻ luôn biết phát huy những kỹ năng tốt đó.
Ngược lại, một số trẻ nhận thức còn chậm, hay nghịch ngợm thì kết quả dạy kỹ
năng sống của cô trên trẻ đó đạt kết quả thấp. Bên cạnh đó có một số trẻ được bố
mẹ và người thân cưng chiều khiến vốn kỹ năng sống của trẻ hạn chế.
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100% phụ
huynh là nông thôn. Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các
anh chị hoặc ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít.
Từ điều kiện thực trạng trên, tôi đã tiến hành khảo sát về yêu cầu thực trạng
kỹ năng sống của học sinh trong lớp; kết quả khảo sát đạt được như sau:
* Kết quả khảo sát ban đầu
Tôi đã tiến hành khảo sát lần 1 trên tổng số 31 trẻ trong lớp với 6 nội dung
để khảo sát trẻ 5 tuổi trong nhóm kỹ năng sống có thể dạy cho trẻ em lứa tuổi
mầm non như sau:
T
T
1
2
3
4
5
Nội dung khảo sát
- Nhóm kỹ năng nhận
thức bản thân
- Nhóm kỹ năng quản
lí cảm xúc
- Nhóm kỹ năng giao
tiếp và quan hệ xã hội
- Nhóm kỹ năng học
tập
- Nhóm kỹ năng tương
tác
Số
trẻ T %
Kết quả trên trẻ
Đạt
K %
TB
%
CĐ
Y
%
31
7 22,6
8
25,8
10
32,2
6
19,4
31
7 22,6
8
25,8
8
25,8
8
25,8
31
6 19,4
7
22,6
8
25,8
10
32,2
31
7 22,6
7
22,6
8
25,8
9
29
31
6 19,4
6
19,4
7
22,6
12
38,7
Qua bảng khảo sát cho thấy kết quả chung trên trẻ còn thấp: Trẻ đạt (TốtKhá) chưa cao, tỷ lệ trẻ chưa đạt còn nhiều. Từ thực trạng trên để giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ tôi đã nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo và áp dụng các hình thức
giáo dục phù hợp giúp trẻ tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái để từ đó giúp
trẻ phát triển một cách toàn diện hơn.
5
3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
3.1. Lựa chọn những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo
lớn
Việc lựa chọn những kỹ năng sống phù hợp để dạy trẻ có vai trò hết sức
quan trọng, không những giúp trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá trong
suốt năm học mà còn giúp trẻ rèn luyện các kỹ năng qua thực tế và học tốt khi
có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận
thức, cảm xúc và xã hội. Vì vậy tôi đã tiến hành dạy trẻ các kỹ năng sau:
* Kỹ năng tự tin:
Hình thành kỹ năng tự trọng nghĩa là giúp có sự tự tin vào bản thân; có sự
tự tin vào sức mạnh để hoàn thành các nhiệm vụ; Tự hài lòng với bản thân; tự tin
rằng mình có thể trở thành một hình mẫu tích cực, có mong đợi và tiềm năng về
tương lai.
Để dạy trẻ hình thành kỹ năng tự tin tôi đã thực hiện các biện pháp sau:
+ Luôn tôn trọng giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình. Cổ vũ
khích lệ trẻ mọi lúc mọi nơi một cách kịp thời.
Ví dụ: Khi trẻ xung phong lên kể chuyện cho cả lớp nghe tôi sẽ khen ngợi
trẻ rất giỏi rất mạnh dạn…
+ Tôi luôn bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ: Tôi căn cứ vào sở thích
niềm đam mê của trẻ để bồi đắp sở trường đó.
Ví dụ: Trẻ có giọng hát hay tôi sẽ tạo điều kiện cho trẻ được thể hiện nhiều
ở lớp trong các hoạt động học, hoạt động góc, những buổi biểu diễn văn nghệ ở
trường, trao đổi với phụ huynh để gia đình tạo điều kiện cho trẻ được nâng cao
tài năng.
+ Quy định hành vi: Đầu năm học tôi đề ra một số quy định phù hợp với
lớp học nhằm đạt mục tiêu chăm sóc giáo dục, tạo thói quen nề nếp cho trẻ. Yêu
cầu trẻ trong lớp thực hiện nội quy đó để làm việc có kế hoạch cho trẻ trong lớp.
Ví dụ: Yêu cầu trẻ cất và để đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định.
+ Tổ chức một số hoạt động khác để phát triển sự tự tin của trẻ: tạo cơ hội
cho trẻ được trải nghiệm.
Ví dụ: Cho trẻ tự lấy đồ dùng học tập…
* Kỹ năng hợp tác:
Thể hiện sự thân thiện hòa thuận với bạn, chia sẻ và giúp đỡ bạn khi cần
thiết. Cùng bạn hoàn thành một việc đơn giản; Tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần
thiết.
+ Để dạy trẻ kỹ năng hợp tác tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm việc
theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động.
Ví dụ: Cho trẻ thảo luận theo tổ để cùng nhau nhận xét về một đối tượng
nào đó.
6
+ Tổ chức một số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như: Thảo luận về
sự hợp tác, trò chơi “Đôi bạn”, trò chơi “Những chiếc tháp tập thể”, cho trẻ tập
đóng kịch…
* Kỹ năng tự nhận thức bản thân:
Kỹ năng này giúp trẻ nhận thức sự khác nhau giữa mình với các bạn khác,
nhận thức mỗi cá nhân có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những
suy nghĩ tích cực về bản thân mình. Trẻ nhận ra điểm yếu của mình cũng giúp
trẻ dự đoán được những khó khăn trong quá trình hoạt động từ đó tìm ra cách
khắc phục khó khăn đó.
Để hình thành kỹ năng nhận thức tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:
+ Trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua một số câu hỏi: Con
là ai? Con thích gì và không thích gì?, con có ước mơ gì?...
+ Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau: Tôi nhận
thấy rằng khi tôi tôn trọng trẻ thì trẻ sẽ noi gương tôi và tôn trọng các bạn trong
lớp với nhau.
Ví dụ: Trong lớp có bạn khuyết tật trẻ trong lớp không chơi với bạn tôi sẽ
trò chuyện để trẻ hiểu rằng bạn ấy cũng có nhiều điểm tốt bạn ấy bị thiệt thòi
hơn các con vì vậy các con cần yêu thương bạn, chơi cùng bạn.
+ Đặt yêu cầu cao cho các trẻ và khích lệ trẻ hoạt động để đạt mục tiêu đó
Ví dụ: Nhảy xa sử dụng thước dây, Bấm thời gian cho trẻ xếp hình để lần
sau trẻ làm tốt hơn lần trước.
+ Giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học điều đó sẽ gúp trẻ
tự tin về bản thân mình.
+ Tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng nhận thức như:
Hoạt động “Soi gương” cho trẻ soi gương và hỏi con nhìn thấy ai trong đó? Con
thấy mình như thế nào?..., Hoạt động “ Hái hoa dân chủ” trẻ lên hái hoa và trả
lời câu hỏi được gắn trong bông hoa, Hoạt động “tôi có thể vẽ” chuẩn bị giấy và
bút cho trẻ và cho trẻ vẽ ý tưởng của trẻ…
* Kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội:
Kỹ năng ứng xử phù hợp với người xung quanh, kỹ năng hợp tác, kỹ năng
nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng tuân thủ các quy tắc xã hội, giao tiếp lịch
sự và lễ phép, kỹ năng tự phục vụ.
Để giáo dục tốt cho trẻ nội dung này tôi đã thực hiện một số biện pháp:
+ Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình.
Ví dụ: Có 2 trẻ đánh nhau tôi sẽ hỏi 2 trẻ vì sao con lại làm như vậy. Sau đó
giải thích cho trẻ hiểu bạn nào đúng bạn nào chưa đúng. Giáo dục trẻ lần sau
chơi phải đoàn kết với nhau.
+ Tạo cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác như hoạt động
góc, biểu diễn văn nghệ cuối chủ đề…
7
+ Tổ chức một số trò chơi như “Gọi điện thoại” giúp trẻ biết lắng nghe
người khác nói.
* Kỹ năng học tập:
Ý thức trách nhiệm, kỹ năng thiết lập và thực hiện mục tiêu.
Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng
nhưng có vai trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa ở
trường phổ thông sau này. Với trẻ ở lớp tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác
định cụ thể mục tiêu, hướng dẫn cụ thể nội dung, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ
trao đổi cách thực hiện với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình,
đồng thời tôi cũng khuyến khích và tuyên dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ,
giúp đỡ những trẻ thực hiện kém, động viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao với tâm trạng thoải mái và hứng thú nhất.
Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình vẽ ngôi nhà (theo đề tài). Tôi cho trẻ quan
sát và nhận xét 1 số tranh vẽ ngôi nhà đã chuẩn bị trước để gợi ý cách vẽ cho trẻ.
Trong quá trình trẻ thực hiện tôi bao quát để kịp thời tuyên dương những trẻ có
sáng tạo như biết vẽ thêm các chi tiết trang trí cho bức tranh, đồng thời giúp đỡ
những trẻ chưa biết cách thực hiện hoàn thành sản phẩm của mình.
* Kết quả: Sau khi sử dụng biện pháp trên tôi thấy trẻ tự tin hơn, biết trao đổi,
thảo luận và hợp tác với nhau, hăng hái tham gia vào hoạt động học, từ đó trẻ
nhanh chóng thực hiện được mong muốn của mình đồng thời khả năng hòa nhập
với cộng đồng được nâng cao.
3.2. Tích hợp giáo dục kỹ năng sống trong các nội dung, các hoạt động giáo
dục trong chương trình giáo dục Mầm non
* Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động học
Hoạt động học là hoạt động giúp trẻ lĩnh hội được nhiều kiến thức, kỹ năng
sống. Những kiến thức mà trẻ lĩnh hội được đều có hệ thống, từ đơn giản đến
phức tạp và mang tính lô gic cao. Giúp trẻ học các kỹ năng sống nhanh và chính
xác nhất. Vì vậy, tôi đã tiến hành lựa chọn các nội dung phù hợp để giáo dục trẻ
thông qua các hoạt động có chủ định.
Ví dụ: Đối với hoạt động KPKH chủ đề “Gia đình” với đề tài “Tìm hiểu về
một số đồ dùng trong gia đình”. Ngoài việc cung cấp kiến thức cho trẻ để trẻ
hiểu tên gọi, đặc điểm, cấu tạo, chức năng của các đồ dùng đó. Tôi còn lồng
ghép vào đó những hình ảnh giáo dục an toàn cho trẻ khi chơi hoặc khi sử dụng
những đồ dùng hoặc cũng có thể dùng trò chơi cho trẻ phân loại hành vi đúng,
hành vi sai bằng cách dán hành vi đúng tương ứng với khuôn mặt cười, khuôn
mặt mếu.
Ví dụ: Với hoạt động khám phá khoa học “Một số hiện tượng tự nhiên”.
Tôi cho trẻ khám phá trải nghiệm các hình ảnh về mưa, các hiện tượng tự nhiên,
sấm, chớp, sét. Tôi tạo tình huống để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, để giúp trẻ
có kiến thức ứng phó với mưa, các hiện tượng tự nhiên đúng cách để bảo vệ sức
8
khỏe như: Khi trời mưa các con phải làm gì? (mặc áo mưa, đội mũ); Khi có sấm
sét các con phải như thế nào? (không đứng dưới gốc cây to)…
Cứ như vậy thông qua các hoạt động có chủ định tôi khéo léo lồng các nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ
nhàng, thoải mái, không gò ép, thụ động. Nhờ đó, trẻ khắc sâu kiến thức nhanh
và chính xác nhất.
* Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi
Đối với trẻ mầm non, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ ở trường.
Thông qua hoạt động chơi, trẻ được đóng các vai khác nhau trong xã hội, trẻ
đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong cuộc sống. Tất cả những
kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có sẽ được trẻ thể hiện qua họat
động vui chơi. Chính vì vậy, tôi rất chú trọng đến việc tạo các tình huống khi trẻ
chơi để trẻ tìm cách giải quyết, cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được
những kiến thức mà trẻ đã có. Qua đó giúp trẻ phát triển các kỹ năng ý thức về
bản thân, quan hệ xã hội, giao tiếp, thực hiện công việc, ứng phó với những thay
đổi và có nhiều cơ hội được trải nghiệm.
Ví dụ: Ở trò chơi hoạt động góc, sau khi trẻ chơi xong, trẻ để đồ chơi bừa
bãi, tôi hỏi trẻ “Con đã cất đồ chơi chưa?”, “Con nhìn xem các bạn đang làm
gì?”, “Con cùng cất đồ chơi với các bạn nhé”. Dần dần tạo cho trẻ có kỹ năng
sắp xếp đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp, đúng nơi quy định.
Hình ảnh: Trẻ đang sắp xếp cất đồ chơi sau giờ chơi
9
Với trò chơi “Đi ô tô” ở hoạt động ngoài trời tôi cũng chú ý xem cách thể
hiện của trẻ để có những gợi mở kịp thời như: Các bác đừng thò đầu, thò tay ra
ngoài khi xe đang chạy nhé.
Như vậy, bằng việc thực hiện các trò chơi tôi đều nhẹ nhàng giáo dục trẻ
các kỹ năng sống đơn giản qua việc tái hiện, mô phỏng các hoạt động của người
lớn, tạo ra “xã hội thu nhỏ” để trẻ được thực hành trải nghiệm và lĩnh hội kiến
thứccũng như rèn các kỹ năng sống khi tham gia vào các chơi.
* Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Không chỉ trong hoạt động học, hoạt động vui chơi. Tôi còn tiến hành cho
trẻ rèn luyện kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động như: Giờ đón trả
trẻ; Hoạt động tự chọn và hoạt động tích hợp lồng ghép vào các môn học khác.
* Ở hoạt động đón - trả trẻ
Trong thời gian này trẻ chưa thực sự bước vào hoạt động học nên tâm lý rất
thoải mái, cởi mở, không căng thẳng... Do đó tôi đã tiến hành trò chuyện với trẻ
những nội dung về chủ đề trẻ đang thực hiện.
Ví dụ: Khi đón trẻ vào lớp tôi nhắc nhở trẻ cất đồ dùng cá nhân gọn gàng
đúng nơi quy định. Đây cũng là lúc mà tôi rèn cho trẻ kỹ năng sống gọn gàng
ngăn nắp. Đồng thời giáo dục trẻ ứng xử giao tiếp có văn hóa, chào hỏi lễ phép
với cô giáo, bố mẹ, biết thưa gửi, gọi dạ, bảo vâng, biết nhận lỗi khi mình mắc
lỗi.
Việc cho trẻ rèn luyện kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi giúp trẻ được rèn
luyện các kỹ năng sống một các thuần thục hơn bên cạnh đó thì trẻ có thêm hiểu
biết về thế giới xung quanh trẻ một cách sâu rộng hơn. Nhờ đó khi bước vào giờ
học trẻ đã được rèn luyện kỹ năng tự tin để tham gia trả lời câu hỏi một cách sôi
nổi và hứng thú hơn. Và như vậy giờ học trở thành cuộc trò chuyện giữa cô và
trẻ chứ không mang tính áp đặt, gò bó. Nhờ đó mà giờ học mang lại kết quả cao
hơn.
- Ở hoạt động ăn – ngủ
+ Trong giờ ăn: Tôi thường tạo ra các tình huống để giáo dục trẻ các nghi lễ văn
hóa trong ăn uống và giao tiếp như: phải ăn hết xuất, khi ăn không nói chuyện
riêng, khi ho, hắt hơi phải lấy tay che miệng, ăn chậm, nhai kỹ, không ăn miếng
to, ăn vội vàng, phải giữ gìn vệ sinh chung trong ăn uống, không làm cơm rơi
vãi. Trước khi ăn phải mời cô, mời bạn và mọi người xung quanh. Khi ăn xong
phải cất bát, thìa, ghế đúng nơi quy định, uống nước súc miệng và lau miệng
sạch sẽ.
+ Trong giờ ngủ: Tôi cho trẻ làm vệ sinh cá nhân sau đó trẻ tự lấy gối, đi ngủ
đúng giờ, không nói chuyện, khi ngủ dậy biết cất gối, đồ dùng cá nhân gọn
gàng.
10
Hình ảnh: Trẻ có thói quen trong giờ ăn, giờ ngủ của trẻ tại trường
*Tóm lại, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động các hoạt động và ở
mọi lúc mọi nơi đã đạt được kết quả rất tốt. Trẻ có ý thức tự giác thực hiện các
kỹ năng lao động tự phục vụ, sống gọn gàng ngăn nắp, vệ sinh sạch sẽ đúng nơi
quy định, thực hiện giờ nào viêc ấy, biết nhường nhịn bạn, vui chơi đoàn kết…
3.3. Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập
thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường
Nội dung phong trào“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”, có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một
cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ
chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù
hợp với lứa tuổi.
Cụ thể tôi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau:
Tổ chức cho trẻ được tham gia vui chơi các trò chơi dân gian trong dịp đầu
xuân như: nhảy lò cò, cướp cờ, chơi đu tại sân vận động hoặc nhà văn hoá xã,
giúp trẻ có dịp đến tham quan tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng ở địa phương.
- Tổ chức cho trẻ được tham gia hội thi “Hội khỏe bé Mầm non” cấp lớp và
cấp trường, qua hội thi trẻ được tập luyện, được chơi các trò chơi tập thể, được
thể hiện mình, từ đó giúp trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp cũng như trong các
hoạt động tập thể.
-Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “Triển lãm tranh”, tổ
chức hoạt động phát triển tư duy qua một số hội thi có sự tham gia trực tiếp của
cha mẹ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn, kỹ năng hợp tác
với cha mẹ, ông bà để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi, phát triển kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.
11
Tổ chức cho trẻ được tham gia vui chơi các trò chơi dân gian trong dịp đầu
xuân như: nhảy lò cò, cướp cờ, chơi đu tại sân vận động hoặc nhà văn hoá xã,
giúp trẻ có dịp đến tham quan tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng ở địa phương.
- Ở chủ đề Gia đình tổ chức cho trẻ được đến thăm nhà bạn theo từng tổ,
từng nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có thể giúp
trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè
tại gia đình.
- Ở chủ đề Quê hương – Đất nước trẻ được tham quan các công trình công
cộng (như trạm y tế, nhà truyền thống của xã,…) nhằm rèn luyện kỹ năng giao
tiếp, giáo dục lòng yêu quê hương đất nước con người…
12
Hình ảnh: Trẻ được trải nghiệm giã ngoại thăm quan nhà truyền thống, công
sở xã để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
* Kết quả: Khi áp dụng biện pháp này vào giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi
thấy trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, hứng thú tham gia vào các hoạt động một cách
tự tin hơn, vui vẻ, sôi nổi, hòa đồng với bạn bè và cô giáo, luôn biết động viên
nhau gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách tốt nhất.
3.4. Xây dựng các tình huống cho trẻ được thực hành trải nghiệm
Trước đây khi giáo dục kỹ năng sống và dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ
không an toàn và cách phòng tránh thì tôi thường giáo dục trẻ với những lời dặn
dò nhắc nhở đơn giản nên kết quả không cao, trẻ không được thực hành trải
nghiệm. Vì vậy, trong năm học này, tôi nghiên cứu lựa chọn những tình huống
bất trắc thường xảy ra đưa ra những tình huống cụ thể để dạy trẻ có kỹ năng ứng
biến khi gặp tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và giải quyết.
Từ những kiến thức về giáo dục kỹ năng sống đã được tôi cung cấp ở trên,
tôi luôn suy nghĩ tìm ra các tình huống tạo điều kiện để trẻ được thực hành trải
nghiệm trong thực tế như:
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Bản thân”. Trước đây thông qua câu chuyện
“Chú vịt xám” hoặc nội dung bài hát “Đàn Vịt con” tôi chỉ dùng lời giáo dục
trẻ:
+ “Khi đi chợ hoặc đến những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ, không
được chạy lung tung để khỏi bị lạc”.
13
Tôi chưa đưa ra tình huống dạy trẻ “Nếu chẳng may bị lạc trẻ sẽ phải xử lý
như thế nào?”.
Với cách giáo dục như vậy tôi thấy kết quả đạt trên trẻ chưa đạt hiệu quả.
Trẻ ghi nhớ một cách thụ động, và thường chóng quên. Và điều cốt yếu trẻ
không hiểu cốt lõi của vấn đề là tại sao không nên làm như vậy và nếu xảy ra thì
phải làm thế nào. Do đó ngoài việc giáo dục như vậy vào giờ hoạt động chiều,
tôi đã đưa ra tình huống:
+ “Khi bé đi chợ cùng mẹ mà bị lạc, bé sẽ làm gì?
Tôi đã cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết của riêng trẻ.
Lắng nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ và trả lời theo ý kiến của mình, gợi
mở cho trẻ bằng các câu hỏi:
+ Theo con làm như vậy có được không? Tại sao? Sau đó, tôi giúp trẻ rút ra
phương án tối ưu nhất:
+ “Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung tung mà hãy
đứng yên tại chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ quay lại chỗ đó để tìm bé. Tuyệt đối không đi
theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ. Vì có thể đó sẽ là kẻ xấu
lợi dụng cơ hội đó bắt cóc hoặc làm hại bé”.
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có
thể xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc, xâm hại...Tôi đã đưa ra những tình huống
để dạy trẻ như:
+ “Nếu có người không quen biết cho bé quà bé nên làm như thế nào?”
Ở tình huống này, với đặc điểm của lứa tuổi lên 3 là trẻ rất thích khi được
cho quà và sẽ không biết tại sao không được nhận. Khi trẻ thảo luận, tôi đưa ra
những giả thiết, những tình huống xấu:
+ “Nếu đó là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho bé”.
Tôi phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết đó là:
+ “Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể bị người
xấu tẩm thuốc mê và trúng mưu của kẻ xấu. Khi gặp trường hợp này bé nên nói
“Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”.
Với chủ đề “Gia đình”, ngoài việc giáo dục trẻ nhận biết và tránh những đồ
dùng nguy hiểm như ổ điện, bàn là, phích nước, bếp đang đun. Tôi đưa tình
huống trẻ biết tránh những mối nguy hiểm khác như:
+ “Nếu con đang ở nhà một mình, có người đến gọi mở cửa con sẽ làm gì?”
Tôi cho trẻ nói suy nghĩ, cách giải quyết của mình. Trong khi thảo luận với trẻ
tôi gợi mở: cũng có trường hợp kẻ xấu có thể gây hại cho bé hoặc lấy trộm đồ
của gia đình lại chính là người thu tiền điện, hoặc chính là người quen biết với
bố mẹ bé để giúp trẻ suy đoán tìm cách giải quyết. Sau đó tôi giúp trẻ rút ra
phương án tối ưu nhất trong trường hợp này:
+ “Tuyệt đối không mở cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ,
người thu tiền điện, hẹn họ nhắn lại gì hoặc tối đến gặp bố mẹ”.
14
Trong yêu cầu giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thì giáo dục trẻ kỹ năng
phòng trách các tình huống trong cuộc sống, để đảm bảo an toàn tính mạng cũng
như giáo dục thực hành một số kỹ năng ứng biến với các vấn đề nguy hiểm để
trẻ có cách ứng phó nếu khi gặp tình huống đó xảy ra với trẻ. Chẳng hạn như:
- Hướng dẫn trẻ sử biết cách phòng trách đảm bảo an toàn về điện: Tôi
hướng dẫn cho trẻ tránh xa các ổ điện, không được dùng các vật khác, nhất là
vật bằng sắt chọc vào ổ điện; khi phát hiện ở lớp hạy ở gia đình thì trẻ phải tránh
xa và gọi người lớn xử lý…
- Hướng dẫ trẻ và tổ chức cho trẻ thực hành về cách thoạt hiểm khi gặp tình
huống cháy nổ; Hướng dẫn thực hành tình huống: “Nếu bé thấy có khói, hoặc
cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm thế nào?”
+ Qua tình huống này tôi dạy trẻ: “Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu,
trước hết bé phải chạy xa chỗ cháy. Hãy hét to để báo với người nhà và những
người xung quanh có thể nghe thấy. Nếu không có người ở nhà thì chạy báo cho
hàng xóm
- Hướng dẫn và tổ chức cho trẻ thực hành về chấp hành quy định về giao
thông đơn giản như: Chấp hành tín hiệu đèn khi đi qua ngã tư đướng phố; tham
gia giáo thông phải đi bên phải đường; khi đi bộ đi trên vỉa hè; chấp hành đội
mũ bảo hiểm khi đi trên xe moto…
15
Hình ảnh: Cô hướng dẫn trẻ thực hành thoát một số kỹ năng hoát hiểm
Từ những tình huống cụ thể trong cuộc sống mà rất dễ xảy ra đối với trẻ,
bằng cách cho trẻ thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của
mình đã có để tìm cách giải quyết vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra
phương án tối ưu nhất, đó cũng chính là kinh nghiệm mà ta cần dạy trẻ. Thông
qua hoạt động đó cũng giúp trẻ có sự tư duy lôgic, biết cách diễn đạt suy nghĩ
của mình, và giúp trẻ có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống, có thể sẵn sàng ứng
phó với cac tình huống nguy hiểm xảy ra mà trẻ gặp phải.
3.5. Ứng dụng công nghệ thông tin trong ứng dụng trẻ
Để giáo dục KNS gây hứng thú và đạt hiệu quả hơn cho trẻ tôi đã tìm và sử
dụng các hình ảnh cho trẻ quan sát, (Ví dụ: Hình ảnh một bạn cõng bạn khuyết
tật đi học… để trẻ biết giúp đỡ người khác.), sử dụng những bài học có hình ảnh
ngộ nghĩnh về các hành vi, các kỹ năng cơ bản cần dạy trẻ, các câu chuyện nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ xem và trò chuyện với trẻ về nội dung các
câu chuyện đó.
Với các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục trẻ, tôi đã
khai thác được nhiều các hình ảnh trực quan về các nội dung kỹ năng sống cần
cung cấp cho trẻ. Qua một số hình ảnh thực tế về các kỹ năng sống từ ứng dụng
trên vi tính đã giúp trẻ bắt chức làm theo các hành vi đúng, bắt chước trải
nghiệm các kỹ năng phù hợp với trẻ một cách thích thú và hiệu quả.
Khi ứng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi
thấy trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động và giúp trẻ có nhiều kinh nghiệm
sống hơn.
16
3.6. Phối hợp với gia đình, cộng đồng tạo môi trường giáo
dục an toàn, thân thiện
Đây là một giải pháp vô cùng quan trọng. Nó không chỉ đơn thuần lôi cuốn
sự quan tâm của các bậc phụ huynh để họ cùng tham gia phối hợp dạy kỹ năng
sống cho trẻ, mà còn tạo cơ hội để các bậc phụ huynh hiểu được công tác chăm
sóc giáo dục trẻ vất vả như thế nào. Từ đó thực hiện tốt lượng thông tin hai
chiều để phối kết hợp chặt chẽ hơn bằng nhiều hình thức như:
- Tăng cường công tác tuyên truyền cung cấp cho cho phụ huynh những
yêu cầu về các kỹ năng cần cung cấp, rèn luyện cho trẻ như:
+ Phải dạy trẻ tính tự lập từ bé, không làm hộ trẻ những việc trẻ có thể làm;
+ Hướng dẫn sớm về cách tự bảo vệ mình khi gặp các tình huống không an
toàn; + Nhận biết những mối nguy hiểm từ xung quanh và cách xử lý, dũng
cảm qua những thử thách trong mọi tình huống…
- Từ việc tuyên truyền đến phụ huynh nắm được các yêu cầu cần giáo dục cho
trẻ; tôi hướng dẫn cho phụ huynh tận dụng các cơ hội có thể để giáo dục rèn
luyện cho trẻ như:
+ Trong sinh hoạt hàng ngày tại gia đình, phụ huynh nhắc nhở trẻ các cách
phòng trách nguy hiểm từ sử dụng điện tại gia đình; Cùng làm việc giúp đỡ bố
mẹ những công việc vừa sức; ứng xử giao tiếp với mọi người trong gia đình, khi
có khách, dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống sinh hoạt cần thiết
trong gia đình, cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi
đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ…
+ Nhắc nhở giáo dục trẻ phòng tránh an toàn giao thông khi đi trên đường,
đi trên các phương tiện giao thông cùng bố mẹ…
Để cung cấp cho phụ huynh có được sự nhận thức về các yêu cầu cần phối
hợp để giáo dục trẻ, tôi đã thực hiện qua nhiều hình thức: Thông qua Trò
chuyện, trao đổi với các bậc phụ huynh, thông qua giờ đón trả trẻ hàng ngày để
họ hiểu được và thực hiện giáo dục trẻ tại gia đình, từ đó giúp trẻ có được những
thói quen hành vi tốt, có được các kỹ năng phù hợp.
Tôi trao đổi, hướng dẫn cho phụ huynh phương pháp rèn luyện các kỹ năng
cho trẻ cần phải được quan tâm thường xuyên luyện tập, dựa trên việc đáp ứng
được những nhu cầu và năng lực thực tế của mỗi trẻ một cách phù hợp.
- Ngoài ra, thông qua các buổi họp phụ huynh theo định kỳ. Bản thân tôi
phối hợp một cách chặt chẽ và hợp lý với cha mẹ trẻ để họ tham gia tình nguyện
vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ tham gia vào các buổi trao đổi
với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự
các hoạt động trong ngày; từ đó giúp cha mẹ hiểu được rằng giúp trẻ học là ở
mọi lúc mọi nơi là phải học cả đời.
Cung cấp cho phụ huynh phương pháp phối hợp giáo dục trẻ là dực trên
đặc điểmnhận thức của trẻ, dạy trẻ phải được thông qua các hoạt động, các tình
huống để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin. Trước hết cần đánh thức sự tự ý thức của
17
trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và
đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
Qua biện pháp này, đã phối hợp với phụ huynh giúp trẻ có được các kỹ
năng sống phù hợp, trẻ tự tin hơn trong các tình huống trong học tập, vui chơi và
các mối quan hệ với mọi người xung quanh. Qua đó trẻ có vốn kinh nghiệm
sống phong phú hơn.
4. Kiểm nghiệm kết quả
- Từ khi áp dụng những sáng kiến, kinh nghiệm trên cùng với sự cố gắng
nỗ lực của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích
cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ
lớp mình các KNS cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
* Hiệu quả trên trẻ
Tôi đã tiến hành đánh giá kết quả đạt được trên trẻ với các nội dung đã tiến
hành đánh giá ban đầu; kết qảu đạt được như sau:
T
T
Nội dung khảo sát
Số
trẻ
T
%
Kết quả trên trẻ
Đạt
K %
TB
%
CĐ
Y %
1
- Nhóm kỹ năng nhận thức
31 19 61,3
bản thân
7
22,6
5
16,1
0
0
2
- Nhóm kỹ năng quản lí cảm
31 16 51,6
xúc
8
25,8
7
22,6
1
0
3
- Nhóm kỹ năng giao tiếp và
31 16 51,6
quan hệ xã hội
8
25,8
7
22,6
1
0
4
- Nhóm kỹ năng học tập
31 15 48,4
8
25,8
8
25,8
0
0
5
- Nhóm kỹ năng tương tác
31
16 51,6 8
25,8
7
22,6
0
0
Qua bảng khảo sát lần 2 cho thấy sau khi áp dụng các biện pháp giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ, kết quả chung trên trẻ tăng lên rõ rệt: Trẻ đạt (Tốt - Khá)
tăng cao, (Trung bình) giảm và chiếm tỷ lệ ít; Đặc biệt trẻ không con trẻ chưa
đạt . Điều này cho thấy kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ sau khi áp dụng
đề tài nghiên cứu đạt hiệu quả cao.
Như vậy tôi khẳng định các giải pháp đã tổ chức thực hiện trong đề tài có
hiệu quả; đề tài đã thể hiện được những cách làm mới.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
18
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đóng một vai trò vô cùng quan trọng,
không chỉ giúp trẻ phát triển tư duy, óc quan sát, ghi nhớ, chú ý có chủ định mà
còn giúp trẻ so sánh, phân tích, tổng hợp… Còn là những kinh nghiệm bổ ích
đối với thực tiễn cuộc sống hàng ngày diễn ra xung quanh trẻ. Giúp trẻ có một
hành trang vững vàng, một tâm lí tự tin bước vào cuộc sống.
Giáo dục cho trẻ kỹ năng sống phù hợp với độ tuổi là yêu cầu cần thiết
tyrong chương trình giáo dục mầm non mà các trường mầm non cũng như mỗi
giáo viên mầm non cần phải quan tâm và tổ chức thực hiện hiệu quả. Giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mầm non là giúp trẻ phát triển một cách toàn diện đồng
thời tạo tiền đề giáo dục con người mới trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài này đã góp phần giúp giáo viên nâng cao
chất lượng hoạt động dạy, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ mà
còn giúp cho trẻ 5 – 6 tuổi có một hành trang tốt để sẵn sàng bước vào lớp 1 đầy
tự tin đúng như sự mong đợi của chương trình giáo dục.
Qua thực hiện đề tài, tôi rút ra một số sáng kiến mới làm kinh nghiệm có
thể ứng dụng quá trình giáo trẻ đó là:
- Giáo viên cần phải quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục kỹ năng sống cho trẻ;
- Giáo viên có trách nhiệm cao trong việc tổ chức giáo dục kỹ nằn sống
cho trẻ một cách thường xuyên;
- Tận dụng và tạo các tình huống cho trẻ được học tập và trải nghiệm các
kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống của trẻ.
- Phối hợp chặt chẽ và hướng dẫn phụ huynh thường xuyên quan tâm phối
hợp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại gia đình.
2. Kiến nghị
* Đối với nhà trường
- Tổ chức hội thảo về chuyên đề “ Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ” tại
trường để cung cấp vững vàng kiến thức về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, đến
tất cả cán bộ giáo viên trong trường.
- Mua bổ sung thêm tài liệu, hình ảnh, đồ dùng đồ chơi trong công tác giáo
dục trẻ nói chung và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nói riêng.
- Đề xuất hội đồng khoa học trường xem xét và triển khai các kinh nghiệm
trong đề tài đã rút ra ứng dụng trong giáo dục trẻ tại nhà trường.
* Đối với phòng GD&ĐT
- Chỉ đạo các trường mầm non tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn nữa
chuyên đề về kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ được rút ra trong quá trình tôi giảng
dạy nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ. Những kinh nghiệm trên của tôi không tránh
khỏi phần thiếu sót và hạn chế. Những vấn đề đó nếu được cấp trên, các đồng
chí, đồng nghiệp đóng góp ý kiến xây dựng, tôi sẽ khắc phục trong quá trình
19
chăm sóc và giáo dục trẻ nói chung và giáo dục kỹ năng sống nói riêng trong
những năm học tiếp theo đạt kết quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Ba Đình, ngày 02 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm không sao chép của
người khác.
Người viết sáng kiến
Hoàng Thị Huệ
Hoàng Thị Thu Huyền
20