Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy chương 1 trồng trọt, lâm nghiệp đại cương, công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trường THPT nguyễn hoàng – huyện hà trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.92 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

MỤC LỤC
Phần 1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
Phần 2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông
2.2.2. Thực trạng dạy và học Công nghệ 10 ở trường THPT Nguyễn Hoàng
2.2.3. Số liệu điều tra cụ thể
2.3. Giải quyết vấn đề
2.3.1. Những nguyên tắc khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy
2.3.2. Vai trò của dụng cụ trực quan
2.3.3. Cách khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan
2.4. Hiệu quả thu được
Phần 3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
1
1


2
2
2
3
3
4
4
4
5
6
6
7
7
17
18
18
18

1


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu
cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định
hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính
hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình
thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định
hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực,

tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc
của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà
trường phổ thông.
Phần I, Nông – Lâm – Ngư nghiệp, Công nghệ 10 có vị trí và ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ ngày nay, do có liên quan trực tiếp
đến cuộc sống và rất gần gũi với con người, phục vụ nhu cầu cơ bản hàng ngày
cho con người. Không như các bộ môn khác, tài liệu tham khảo của bộ môn
công nghệ phải nói rất phong phú và đa dạng, ngoài sách báo, internet… học
sinh có thể học hỏi trực tiếp từ ông bà, bố mẹ, anh chị trong gia đình thông qua
các công việc hàng ngày như chuẩn bị bữa ăn, chăm sóc cây trồng, vật nuôi,…
Từ những hiểu biết về trồng trọt và chăn nuôi sẽ giúp các em nắm bắt công việc
trong tương lai từ đó các em có thể định hướng nghề nghiệp cho mình một cách
đúng đắn nhất.
Đối với môn Công nghệ đồ dùng trực quan được sử dụng trong mọi hoạt
động của quá trình dạy học: Từ khâu giới thiệu tình huống, xử lý tình huống cho
đến khâu thực hành. Từ xưa cha ông ta đã nói “Trăm nghe không bằng một
thấy”, đó là kết luận rút ra từ thực tế nhận thức sự vật. Hay nhận thức luận Macxít cũng nêu rõ tầm quan trọng của việc dạy học có dùng trực quan, nhận thức
của con người diễn ra theo con đường biện chứng: Từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Sinh thời, Bác Hồ đã
từng dạy: “Các thầy cô phải tìm cách dạy… dạy thế nào để học trò hiểu chóng,
nhớ lâu, tiến bộ nhanh. Trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui
cũng cần làm cho chúng học…”.
Như chúng ta thấy, con đường nhận thức ngắn nhất sẽ là con đường “Đi từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” và phương tiện hết sức cần thiết để
đi được trên “Con đường” nhận thức này chính là các “Dụng cụ trực quan”.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phương pháp sử dụng đồ
dùng trực quan trong giảng dạy Chương 1: Trồng trọt, Lâm nghiệp đại
cương, Công Nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh Trường
THPT Nguyễn Hoàng – Huyện Hà Trung”
1.2. Mục đích nghiên cứu:

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học nên trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã có ý thức tìm
tòi, sưu tập và tự làm những đồ dùng dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng
các giờ lên lớp.
Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ mong được đóng góp một vài ý
kiến của mình giúp giáo viên có thể tham khảo thêm về việc sử dụng đồ dung
trực quan trong các giờ dạy nhằm giúp học sinh tích cực và hứng thú hơn trong
2


giờ học, từ đó giúp các em yêu thích hơn môn Công nghệ và đạt kết quả cao hơn
trong học tập.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nội dung chương trình SGK.
- Sách hướng dẫn giáo viên, phân phối chương trình Công nghệ 10, và các
tài liệu có liên quan
- Đối tượng học sinh khối 10 gồm các lớp: 10A1, 10A2, 10A3, 10A4,
10A5, 10A6 và 10A7 Trường THPT Nguyễn Hoàng trong năm học 2016 - 2017
- Giáo viên dạy bộ môn và thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan ở
trường hiện tại.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu đổi mới PPDH theo
hướng tích cực hóa việc học của học sinh.
- Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 10 phần
nông, lâm, ngư nghiệp.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực
quan trong giảng dạy
1.4.2. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến

làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
1.4.3. Phương pháp thực tập sư phạm
Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT, tiến hành theo quy trình của đề tài
nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu.
1.4.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được
qua các tiết dạy trên lớp.
1.5. Những điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
- Đề tài áp dụng kinh nghiệm giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động dạy và học ở trường THPT.
- Kết hợp với các phương tiện dạy học truyền thống, phương tiện hiện đại
cho hiệu quả rõ rệt. Đây là một chủ đề rất mới trong những năm học gần đây.
- HS hứng thú học tập, công tác giảng dạy, giáo dục của GV trở nên nhẹ
nhàng hơn vì phần chủ yếu hướng dẫn cho HS tìm ra kiến thức.
Từ những điểm nêu trên bản thân tôi khẳng định đề tài có tính khoa học
và thực tiễn cao:
Ý nghĩa khoa học:
Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học, cũng như phát
huy tính sáng tạo trong việc dạy và học. Kết quả của đề tài sẽ góp phần phát
triển tư duy của GV và HS .
Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Công nghệ 10 nói riêng và
các môn học khác nói chung. Đề tài cũng góp phần phát huy tính chủ động, tích
cực, sáng tạo trong học tập của người học.
PHẦN 2. NỘI DUNG
3


2.1. Cơ sở lí luận
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học

công nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực trong
cuộc sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến thay đổi
to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học- kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu
thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành
GD- ĐT nói chung và người thầy chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay, đó là
mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp
nhận của con người có giới hạn, bởi vì sự nhận thức của con người nói chung là
tuyệt đối và không có giới hạn song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con
người đều hữu hạn và tương đối.
Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh việc bồi dưỡng
kiến thức chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học nâng cao chất
lượng giáo dục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới
Luật giáo dục điều 24.2 đã ghi rõ: “phương pháp dạy học phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
từng đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.[3]
Từ trước tới nay đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tích tính
cực của học sinh trong học tập Công nghệ 10. Tuy nhiên những vấn đề mà các
nhà nghiên cứu đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể mà ít đi sâu vào một
khối lớp cụ thể vi vậy trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ xin lưu ý đến một
khía cạnh gắn liền với việc giảng dạy nhiều năm môn Công nghệ, đó là một số
biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Công nghệ 10 với mục đích
là góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Công nghệ
10 ở trường nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là để trao đổi, học tập kinh
nghiệm của các thầy giáo, các đồng nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn
cũng như phương pháp dạy học.
Đồ dùng trực quan là một trong những phương pháp cơ bản của lý luận
dạy học, tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ
sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật.

Trong dạy học công nghệ, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan nếu được
khơi dậy đúng mức tích cực, sự chủ động trong học tập cũng như các hoạt động
khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất
cho bản thân mà còn là cơ sở vững chắc để các em chọn nghề sau này
Việc giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mỹ thông qua dạy học có sử dụng
đồ dùng trực quan cũng có ý nghĩa rất lớn. Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu
sâu về bản chất của sự việc, là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái
niệm trong trồng trọt – lâm nghiệp - chăn nuôi – thủy sản, giúp cho học sinh
nắm vững các quy luật phát triển của thực vật và động vật. Đồ dùng trực quan có
vai trò rất quan trọng trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh,
những kiến thức. Những hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ
chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Cùng với việc góp
phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm, đồ dùng trực quan còn phát triển
4


khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Mỗi khi
quan sát vào loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán
đoán, hình dung xem cây trồng, vật nuôi, thủy sản được phản ánh, minh họa như
thế nào? Từ đó các em mới suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính
xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh đã qua.
Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng
trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học môn công nghệ nói
riêng và các môn học khác nói chung, gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp
học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những sự kiện, những kiến thức. Nó
là chiếc “cầu nối” cho rất nhiều các phương pháp dạy học khác.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông
Phương pháp dạy học được hiểu là phương pháp triển khai một quá trình
dạy học cụ thể. Tức là cách thức hình thành mục đích dạy học, cách thức soạn

thảo và triển khai nội dung dạy học, cách thức tổ chức hoạt động dạy và hoạt
động học nhằm hiện thực hóa mục đích, nội dung, dạy học , cách thức kiểm tra,
đánh giá kết quả của quá trình dạy học.
Khi bàn về hiện trạng phương pháp dạy học những năm gần đây, chúng ta
phải tránh một nhận xét chung chung là: Chúng ta đã sử dụng phương pháp dạy
học lạc hậu trì trệ. Tuy nhiên, cũng không thể nói trong thực tế ngày nay phương
pháp truyền thống vẫn được coi là ưu việt, bởi thực chất của phương pháp dạy
học những năm vừa qua chủ yếu vẫn xoay quanh việc: “thầy truyền đạt, trò tiếp
nhận, ghi nhớ” thậm chí ở một số bộ môn do thúc bách của quỹ thời gian với
dung lượng kiến thức trong một giờ (đặc biệt ở các lớp có liên quan đến thi cử)
dẫn đến việc “thầy đọc - trò chép” hay thầy đọc chép và trò đọc, chép”. Nói như
vậy, cũng không phủ nhận ở một số không ít các thầy cô giáo có ý thức và tri
thức nghề nghiệp vững vàng vẫn có nhiều giờ dạy tốt, phản ánh được tinh thần
của một xu thế mới.
2.2.2. Thực trạng dạy và học Công nghệ 10 ở trường THPT Nguyễn Hoàng
Trường THPT Nguyễn Hoàng được thành lập năm 2001 với tên gọi ban
đầu là Trường THPT Bán Công số 1 Hà Trung. Trải qua 16 năm thành lập cho
đến nay về cơ sở vật chất của nhà trường, số giáo viên đứng lớp có kinh nghiệm
trong giảng dạy và chủ nhiệm dần đi vào ổn định. Tuy nhiên, phòng máy và
phòng chức năng riêng dành cho thực hành thì lại thiếu trầm trọng, cụ thể toàn
trường chỉ có 1 phòng máy khi sử dụng lúc hỏng lúc được, không có phòng thí
nghiệm riêng cho môn sinh, môn hóa, môn công nghệ,... Vì vậy, học sinh ít có
cơ hội được xem tranh ảnh trên máy chiếu.
Thiết bị giảng dạy như mẫu vật, dụng cụ thí nghiệm, tranh ảnh, hình mô
phỏng đối với môn công nghệ 10 đang còn thiếu, mặt khác có một số ít giáo
viên chỉ cho học sinh khai thác sơ sài hoặc quan sát qua loa tranh ảnh, tài liệu
trong sách giáo khoa. Cũng có khi giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị đồ dùng
làm thí nghiệm mà không hướng dẫn kĩ càng, học sinh không biết cách làm nên
tiết dạy không có kết quả thu hoạch,… đặc biệt do thiếu giáo viên bộ môn nên
việc giảng dạy môn công nghệ ở trường THPT Nguyễn Hoàng chủ yếu là do

giáo viên môn Sinh học giảng dạy khiến cho việc sử dụng phương pháp đồ dùng
5


trực quan càng khó khăn, dẫn đến tiết học nhàm chán, học sinh nắm bắt kiến
thức mơ hồ, mau quên nên kết quả học tập của học sinh chưa cao.
Bên cạnh đó một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng dạy và học
Công nghệ 10 hiện nay do môn này không được học sinh coi là môn học chính,
vì không thi tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ
buông lõng, thả trôi trong ý thức học tập của học sinh.
* Thực trạng dạy học của giáo viên
Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp
dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh
tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như: vẫn
còn sử dụng phương pháp “thầy nói – trò nghe”, “thầy đọc – trò chép”. Do đó
nhiều học sinh không nắm vững kiến thức, khi trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách
giáo khoa đọc nguyên bản nên học thuộc một cách máy móc nhanh quên.
Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động học sinh khá,
giỏi trả lời; chưa có câu hỏi giành cho học sinh yếu kém nên các đối tượng học
sinh yếu kém ít được tham gia hoạt động, dễ chán nản môn học của mình. Một
số ít giáo viên lại đặt ra những câu hỏi hơi khó mà không có hệ thống câu hỏi
gợi mở nên học sinh không trả lời được, nhiều khi giáo viên trả lời thay cho học
sinh. Vấn đề này được thể hiện rõ trong hoạt động quan sát tranh ảnh, thảo luận
nhóm, giáo viên chỉ biết nêu ra câu hỏi mà không gợi ý, không hướng dẫn học
sinh trả lời câu hỏi như thế nào. Vì không có câu hỏi gợi mở để giải quyết vấn
đề nên học sinh không trả lời được,...
* Thực trạng việc học của học sinh
Học sinh thường trả lời câu hỏi do giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn
sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc
nguyên xi sách giáo khoa để trả lời câu hỏi, học sinh cá biệt còn lười học thậm

chí không ghi bài, không chuẩn bị bài mới ở nhà, trên lớp không tập trung suy
nghĩ cho nên việc ghi nhận các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu.
Bởi vậy học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, còn một số câu hỏi tổng
hợp, phân tích, so sánh, giải thích,… thì học sinh trả lời còn lúng túng hoặc
mang tính chất chung chung, không rõ ràng.
2.2.3. Số liệu điều tra cụ thể
Trong năm học 2016 – 2017 tôi được Ban lãnh đạo nhà trường phân công
giảng dạy môn Công Ngệ 10. Trong quá trình giảng dạy và tiếp cận học sinh lớp
10, với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh
đồng thời tôi tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra hiện thực
thông qua sử dụng đồ dùng trực quan, thảo luận, hỏi đáp để phát triển tư duy học
sinh ở trên lớp.Việc đánh giá học sinh qua kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút,
kiểm tra 1 tiết ... Từ kết quả kiểm tra tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời
được những câu hỏi mang tính chất trình bày; còn những câu hỏi so sánh, giải
thích, phân tích, đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng túng. Do vậy kết quả
điều tra môn Công nghệ 10 cũng không cao, cụ thể được thể hiện qua bảng số
liệu sau:
GIỎI

KHÁ

T. BÌNH

YẾU

KÉM
6


LỚP



SỐ

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL %

10A1 37 01 2,7% 12 32,4% 22 59,5% 02 5,4% 0 0%
10A2 40 01 2,5% 15 37,5% 22 55% 02
5%
0 0%
10A3 38
0
0%
12 31,6% 23 60,5% 03 7,9% 0 0%

10A4 40
0
0%
10
25%
26 65% 04 10%
0 0%
10A5 37
0
0%
11 29,7% 22 59,5% 04 10,8% 0 0%
10A6 35
0
0%
6
17%
22 63% 07 20%
0 0%
10A7 38 01 2,65% 15 39,75% 20 52,3% 02 5,3% 0 0%
2.3. Giải quyết vấn đề
2.3.1. Những nguyên tắc khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của
nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai
nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dÔ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực
chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng
mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung vào
các dấu hiệu cơ bản chủ yếu. Đồ dùng trực quan có nhiều loại. Mỗi loại lại có
cách sử dụng riêng, nhưng phải chú ý các nguyên tắc cơ bản sau:
- Đồ dùng trực quan phải phù hợp với lứa tuổi, trình độ nhận thức của học
sinh: Đồ dùng phải đơn giản, hấp dẫn và giúp học sinh lớp dưới hiểu ra ngay vấn

đề, đối với học sinh lớp trên đồ dùng trực quan mang tính chất tổng hợp, gợi
mở, tạo tình huống và giúp học sinh suy nghĩ sáng tạo.
- Đồ dùng trực quan phải mang tính khoa học, sư phạm. Chúng ta biết
rằng đồ dùng dạy học có nhiều loại từ những loại đơn giản, thô sơ đến những cái
phức tạp, hiện đại. Tất cả đồ dùng dạy học ấy, khi làm cũng như khi sử dụng
phải đảm bảo tính khoa học, sư phạm và thích hợp với từng kỷ năng và giai
đoạn học tiếng. Các đồ dùng trực quan tránh làm một cách hình thức mà phải
cẩn thận, chu đáo có sự suy nghĩ kỹ cả về hình thức và nội dung. Cách bố trí, tạo
hình dáng của đồ dùng trực quan phải đẹp, rõ ràng và nêu được vấn đề cụ thể,
chữ viết trên các biểu đồ, sơ đồ phải to, rõ ràng. Tránh hết sức dùng nhiều màu
sắc lòe loẹt, khó nhìn, các “poster” này phải được treo một cách ngay ngắn và bố
trí khoa học ở trên bảng.
- Không nên dùng những đồ dùng dạy học thay thế cho sự suy nghĩ sáng
tạo của học sinh, chỉ dùng những dụng cụ trực quan cho những vấn đề “chịu trực
quan” thôi.
- Nếu sử dụng tốt những đồ dùng trực quan ở một giờ tiếng Anh trên lớp,
học sinh sẽ nắm bắt ngữ liệu, cấu trúc nhanh hơn dễ hiểu bài hơn, yêu thích môn
học hơn và đặc biệt những tranh ảnh đẹp, các bảng sơ đồ, tổng kết, kẻ viết rõ và
đẹp, các đồ dùng trực quan được chọn lọc hấp dẫn sẽ nâng cao trình độ thẩm mỹ
cho học sinh.
- Một nguyên tắc nữa là đồ dùng trực quan phải mang tính chất thông
dụng có nghĩa là phải dễ làm, dễ sử dụng, rẻ tiền, dễ kiếm, và sử dụng được lâu.
Trên cơ sở đó chúng ta tránh được tư tưởng ngại khó, ỷ lại, sợ tốn kém, thiếu
sáng tạo khi áp dụng nguyên tắc đảm bảo tính trực quan trong giảng dạy ngoại
ngữ ở trường phổ thông.
7


2.3.2. Vai trò của dụng cụ trực quan
Như đã được đề cập ở trên, dụng cụ trực quan đóng một vai trò hỗ trợ tích

cực trong việc dạy môn công nghệ 10, cụ thể tôi đã sử dụng đồ dùng dạy học với
những vai trò sau đây:
- Sử dụng tranh ảnh trong việc giảng dạy các khái niệm mới và giới thiệu
các đặc tính, tính chất của cây giống, đất trồng, con giống. vật liệu chăn nuôi –
trồng trọt,…VD: Bài 1 – Công nghệ 10: “Khảo nghiệm giống cây trồng”, Bài 7
– Công nghệ 10: “Một số tính chất của đất trồng”
- Sử dụng phương tiện giới hạn và khống chế sử dụng phạm vi nghiên cứu
của học sinh trong các bài có những kiến thức rộng, cao hơn cấp bậc học THPT.
VD: Trong Bài 6 – Công nghệ 10: “Ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô tế bào
trong nhân giống cây trồng nông, lâm nghiệp”
- Tạo tiền đề, làm cơ sở cho các bài tập thực hành. VD: Thảo luận qua
tranh, phim ảnh để từ đó nhận biết được các dấu hiệu trên cây trồng, vật nuôi,
thủy sản, ứng dụng trong đời sống thực tế của các em. VD; Bài 16 – Công nghệ
10: Thực hành nhận biết một số loại sâu hại lúa”
- Phản ánh, cung cấp các thông tin nội dung văn hóa giúp học sinh mở
mang kiến thức và hiểu biết thế giới quanh mình từ đó gây hứng thú, làm cho
bài học trở nên thú vị và gần với cuộc sống thật hơn.
2.3.3. Cách khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan
Học sinh rất thích xem tranh ảnh, vì vậy giáo viên phải làm nổi nội dung
tranh ảnh để gây hứng thú cho học sinh, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực
nhận thức. Từ đó làm cho các em khám phá kiến thức bài học.
Tuy nhiên phải khi sử dụng, giáo viên phải phân tích, định hướng cho học
sinh, tự mình đánh giá được hàm ý của tranh ảnh đó.
Tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình dạy
học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng. Thông
qua quan sát miêu tả, tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt, lựa
chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh, giáo viên luyện
cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa học,
có xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra những kết
luận

- Đối với giáo viên: Tham khảo sưu tầm nhiều tranh ảnh, tư liệu có liên
quan đến tiết dạy để minh hoạ trên lớp .
- Đối với học sinh: Ngoài việc làm bài tập và học ở nhà học sinh sưu tầm
trên sách báo, ví dụ báo nông nghiệp, báo khuyến nông, những tranh ảnh liên
quan đến bài học .
*Ví dụ 1:
Khi dạy Bài 2 – Công nghệ 10: “Khảo nghiệm giống cây trồngi”, ở mục
II: Các loại thí nghiệm khảo nghiệm giống cây trồng, giáo viên cho học sinh
quan sát tranh ảnh về điển hình 3 loại thí nghiệm dưới đây kết hợp với nghiên
cứu sách giáo khoa, từ đó tìm ra: mục đích, nội dung và kết quả từng thí nghiệm
Họat động GV & HS
*GV treo tranh, sau đó nêu vấn đề cho II.

Nội dung
Các loại thí nghiệm khảo
8


HS thảo luận:
nghiệm giống cây trồng
- Giống mới chọn tạo được so sánh với 1. Thí nghiệm so sánh giống
giống nào. Ý nghiã so sánh giống?
- Mục đích: so sánh giống mới chọn
tạo hoặc nhập nội với giống phổ
biến trong sản xuất đại trà.
- Nội dung: so sánh các chỉ tiêu:
sinh trưởng, phát triển, năng suất,
chất lượng , tính chống chịu với các
điều kiện ngoại cảnh.
- Kết quả: nếu giống mới vượt trội

so với giống phổ biến sản xuất đại
trà thì được chọn và gửi đến trung
tâm khảo nghiệm giống Quốc gia để
khảo nghiệm giống trên toàn quốc.
Họat động GV & HS
*GV treo tranh, yêu cầu:

Nội dung
II.
Các loại thí nghiệm khảo
nghiệm giống cây trồng

- Nghiên cứu cho biết mục đích và
phạm vi của thí nghiệm kiểm tra kĩ
thuật?
- Giải thích cách bố trí thí nghiệm ở
hình 2.1 và hình 2.2
( Hình 2.1: cùng nền đất, yếu tố môi
trường giống nhau, để so sánh giống
nào tốt hơn.
Hình 2.2: Cùng giống, đất như nhau,
lượng phân bón khác nhau, so sánh 2. Thí nghiệm kiểm tra kỹ thuật
ruộng nào cho kết quả tốt hơn)
- Mục đích: Kiểm tra những đề xuất
của cơ quan chọn tạo giống về quy
trình kĩ thuật gieo trồng (xác định thời
vụ, mật độ, chế độ phân bón...)
- Phạm vi: tiến hành trong mạng lưới
khảo nghiệm giống quốc gia.
- Nội dung: xác định thời vụ, mật độ

gieo trồng, chế độ phân bón của
giống.
- Kết quả: xây dựng quy trình kĩ thuật
gieo trồng để mở rộng sản xuất ra đại
trà.
Họat động GV & HS
Nội dung
*GV treo tranh, sau đó nêu vấn đề cho II.
Các loại thí nghiệm khảo
HS thảo luận:
nghiệm giống cây trồng
(?) Thí nghiệm sản xuất quảng cáo
9


nhằm mục đích gì. Nội dung như thế
nào để có hiệu quả?
*HS nghiên cứu và trả lời.
3. Thí nghiệm sản xuất quảng cáo
- Mục đích: để tuyên truyền đưa giống
mới vào sản xuất đại trà.
- Nội dung: triển khai trên diện tích
lớn, cần tổ chức hội nghị đầu bờ để
khảo sát đánh giá kết quả. Đồng thời
cần phổ biến trên các phương tiện
thông tin đại chúng để mọi người đều
biết về giống mới.
* Ví dụ 2:
Khi dạy Bài 7 – Công nghệ 10: “Một số tính chất của đất trồng”, giáo
viên sử dụng tranh ảnh kết hợp với làm thí nghiệm để dạy cho học sinh nhận

biết được tính chất của từng loại đất
- Để giới thiệu tổng quan bài học, giáo viên có thể sử dụng sơ đồ tư duy
ngay khi bắt đầu giảng bài, yêu cầu học sinh quan sát và cho ra ý kiến về nội
dung bài học hôm nay

Hoạt động GV và HS
*GV sử dụng thí nghiệm sau:
Có 2 cốc, một cốc hoà bột đất, 1 cốc
hoà bột đường.
Hãy quan sát màu sắc ở hai cốc? Lý
giải vì sao có sự khác nhau về màu sắc
ở hai cốc?
*Qua TN, GV dẫn dắt để đưa đến khái
niệm keo đất?

Nội dung
I. Keo đất và khả năng hấp phụ của
đất
1. Keo đất:
a. Khái niệm
Là những phần tử có kích thước nhỏ
dưới 1 micromet, không tan trong
nước mà ở trạng thái huyền phù.
b. Cấu tạo keo đất
10


(GV bổ sung: Hạt keo được tạo thành
là KQ của quá trình phong hóa đá hay
ngưng tụ các phần tử DD trong đất và

quá trình biến hóa các xác hữu cơ
trong đất. Do kích thước của hạt keo
quá bé nên chúng lơ lửng trong đất, có
thể chui qua giấy lọc và chỉ quan sát
bằng kính hiển vi).
- Quan sát hình 7 – SGK:
+ Trình bày cấu tạo chung keo đất?
+ Phân biệt keo âm và keo dương?
- Khái niệm khả năng hấp phụ của đất?
*HS trả lời.

Gồm:
- 1 nhân
- lớp ion mang điện tích:
+ Lớp ion quyết định điện
+ Lớp ion bù:
Lớp Ion bất động
Lớp Ion khuếch tán (Có khả
năng TĐ Ion với Ion của DD đất. Đây
là cơ sở sự trao đổi dinh dưỡng giữa
đất và cây)
c. Phân loại: Tùy theo điện tích lớp Ion
quyết định điện chia thành: Keo âm và
keo dương.
2. Khả năng hấp phụ của đất
Là khả năng giữ lại các chất dinh
dưỡng, các phần tử nhỏ, hạn chế sự rửa
trôi của chúng dưới tác động của nước
mưa, nước tưới.
Giáo viên lấy ví dụ một số loại đất có trong tự nhiên


Khi dạy mục III – Độ phì nhiêu của đất, giáo viên có thể sử dụng tranh
Hoạt động GV và HS
*GV hỏi:
- Thế nào là độ phì nhiêu
của đất?
- Cho biết những yếu tố
quyết định độ phì nhiêu của
đất?
- Muốn làm tăng độ phì
nhiêu của đất phải sử dụng
biện pháp gì?
- Phân biệt độ phì nhiêu tự
nhiên và nhân tạo?

Nội dung
III. Độ phì nhiêu của đất
1. Khái niệm:
Là khả năng của đất cung cấp đồng thời và
không ngừng nước, chất dinh dưỡng, không chứa
các chất độc hại cho cấy bảo đảm cây đạt năng
suất cao.
2. Phân loại
- Độ phì nhiêu tự nhiên: Hình thành dưới lớp
thảm TV tự nhiên, ko tác động con người.
- Độ phì nhiêu nhân tạo: Do hoạt động con người

Ví dụ 3:
Khi dạy Bài 12 – Công nghệ 10: “Đặc điểm, tính chất và kĩ thuật sử
dụng một số loại phân bón thường dùng”

- Giáo viên chuẩn bị mẫu vật thật như: phân bón NPK, phân vi sinh vật có
bán trên thị trường để giới thiệu cho học sinh hoặc sưu tầm nhãn mác các loại
phân bón trên thị trường kèm theo tranh ảnh từ đó giúp học sinh phân biệt được
nhóm phân bón
11


Hoạt động GV và HS
*GV: Các em quan sát tranh kết hợp
với nghiên cứu sách giáo khoa:
- Kể tên các loại phân bón thường
dùng trong nông, lâm nghiệp?
- Thế nào là phân hoá học? Có mấy
loại? Cho ví dụ?
Thế nào là phân hữu cơ? Cho ví dụ?
- Thế nào là phân VSV? Cho ví dụ?

Nội dung
I. Một số loại phân bón thường dùng
trong nông, lâm nghiệp:
Căn cứ vào nguồn gốc, có 3 loại
1. Phân hoá học:
- ĐN: là loại phân bón được SX theo quy
trình công nghiệp, có sử dụng 1 số
nguyên liệu tự nhiên hoặc tổng hợp
- Phân loại:
+ Phân đơn nguyên tố: chứa 1 ntố dd
VD: Phân Kali, phân lân....
+ Phân đa nguyên tố: chứa 2 hoặc nhiều
ntố dinh dưỡng

VD: phân hỗn hợp NPK....
2. Phân hữu cơ:
- ĐN: Bao gồm tất cả các chất hữu cơ
vùi vào đất để duy trì và nâng cao độ phì
nhiêu của đất bảo đảm cho cây trồng có
năng suất cao, chất lượng tốt.
- Ví dụ: phân xanh, phân chuồng...

3. Phân vi sinh vật:
- ĐN: Là loại phân bón có chứa các loài
VSV cố định đạm, chuyển hoá lân hoặc
VSV phân giải chất hữu cơ
- VD:
- Kết hợp với bài giảng về phân bón giáo viên có thể lồng ghép tích hợp
bảo vệ môi trường sống như phân loại rác thải, sử dụng phân hữu cơ từ
nguồn cây xanh hay Bioga nhằm hạn chế tối đa lạm dụng phân bón hóa học
nhiều gây biến đổi tính chất đất theo chiều xấu

Bài học đã gặt hái được những thành công đáng kể và qua đó nhằm giáo
dục tới toàn thể các bạn học sinh về phân loại rác thải tại nguồn. nghiên cứu
phân loại rác thải ở trường học còn nhằm góp phần giảm lượng chất thải rắn, tạo
thuận lợi cho việc thu gom và xử lý tiếp theo. Đặc biệt hơn là nhằm giáo dục cho
các bạn học sinh về việc bảo vệ môi trường. Có ý thức nâng cao vai trò trách
12


nhiệm trong việc xây dựng môi trường sống trong lành, có sức khỏe, có tinh
thần đoàn kết. Đồng thời các bạn cũng được rèn luyện kỹ năng tổ chức, phân
công nhiệm vụ, kỹ năng làm việc theo nhóm, tự chịu trách nhiệm trước công
việc…

Ví dụ 4:
Khi dạy Bài 16 – Công nghệ 10: “Thực hành nhận biết một số loại sâu,
bệnh hại lúa”, muốn để cho học sinh nhận biết được đặc điểm, hình thái của
một số loại sâu, bệnh hại lúa, người giáo viên cần sử dụng tranh ảnh các loại sâu
đã được chuẩn bị trước như: Sâu đục thân lúa, Sâu cuốn lá lúa, Rầy nâu hại lúa
đang ở giai đoạn trưởng thành, hay tranh ảnh các loại bệnh ở lúa như: Bệnh bạc
lá lúa, Bệnh khô vằn, Bệnh đạo ôn, sau đó hoạt động nhóm tìm ra được đặc điểm
chúng trong các giai đoạn khác nhau, có như vậy mới tạo không khí sôi nổi và
hứng thú trong học tập.
Hướng dẫn của giáo viên
*GV giới thiệu quy trình thực
hành:
GV lần lượt giới thiệu các
loài sâu , bệnh hại lúa về đặc
điểm gây hại sau đó treo tranh
lên bảng cho hS quan sát

Nội dung
1. Giới thiệu một số loại sâu, bệnh hại.
- Sâu đục thân bướm hai chấm
- Sâu cuốn lá lúa loại nhỏ
- Rầy nâu hại lúa
- Bệnh bạc lá lúa
- Bệnh khô vằn
- Bệnh đạo ôn
- Giáo viên sử dụng tranh kết hợp với phiếu học tập thảo luận nhóm tìm ra
đặc điểm hình thái và gây hại của Sâu đục thân hai chấm và Rầy nâu
Hướng dẫn của giáo viên
Nội dung
* GV giới thiệu quy trình thực 2. Nhận biết một số loại sâu hại lúa ở

hành: treo tranh lên bảng cho hS nước ta.
quan sát
a. Sâu đục thân bướm hai chấm:
- Đặc điểm hình thái:
* GV yêu cầu các nhóm HS nhận + Trứng: hình bầu dục, xếp thành ổ.
biết một số loại sâu hại lúa dựa + Sâu non; màu trắng sữa hay vàng nhạt.
trên quan sát đặc điểm hình thái.
+ Nhộng: màu vàng tới nâu nhạt.
+ Sâu trưởng thành: Đầu ngực và cánh
có màu vàng, gần giữa hai cánh trước mỗi
cánh có một chấm đen.
- Đặc điểm gây hại: sâu non đục vào thân
lúa cắt đứt đường vận chuyển dinh dưỡng
làm lúa héo.

b. Rầy nâu:
- Đặc điểm hình thái:
+ Trứng: Hình quả chuối tiêu, xếp theo
13


kiểu úp thìa.
+ Rầy non: màu trắng xám.
+ Rầy trưởng thành: Màu nâu tối, cánh
ncó 2 đôi.
- Đặc điểm gây hại: Rầy nâu chích hút
nhựa cây làm cản trở dòng vận chuyển
trong cây làm lúa héo.
Hướng dẫn của giáo viên
Nội dung

* GV lần lượt giới thiệu các bệnh hại 3. Nhận biết một số loại bệnh hại
lúa sau đó treo tranh lên bảng cho hS lúa ở nước ta.
quan sát
a. Bệnh đạo ôn:
- Nguyên nhân: Do nấm gây ra.
- Biểu hiện: Gây hại ở tất cả các bộ
phận trên mặt đất và ở các giai đoạn
khác nhau.
Hậu quả: lá chết khô, cháy, cây dễ
đổ và rụng hạt

b. Bệnh bạc lá lúa:
- Nguyên nhân: do vi khuẩn gây ra.
- Biểu hiện: Gây hại rên phiến lá làm
cho phần lá mắc bệnh bị chết, lá khô
trắng.
Ví dụ 5:
Khi dạy Bài 17 – Công nghệ 10: “Phòng trừ tổng hợp dịch hại cây
trồng”. Bài học này mang tính thực tế rất cao, giúp các em hiểu rõ được sử dụng
các biện pháp trong phòng trừ dịch hại cây trồng từ đó liên hệ với bản thân và có
lời khuyên bổ ích đến gia đình và địa phương nơi sinh sống góp phần bảo vệ sức
khỏe con người và gia súc đồng thời bảo vệ môi trường sống
- Giáo viên sử dụng tranh ảnh, phương pháp hỏi đáp, gợi mở, tạo nhóm
nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
Hoạt động GV và HS
*GV hỏi: các em quan sát tranh kết
hợp với nghiên cứu và trao đổi bài rồi
trả lời câu hỏi?
- Thế nào là phòng trừ tổng hợp dịch
hại cây trồng?

- vì sao phải phòng trừ tổng hợp dịch

Nội dung
I. Khái niệm phòng trừ tổng hợp
dịch hại cây trồng.
Là sử dụng phối hợp các biện pháp
phòng trừ một cách hợp lý.

14


hại?
* HS suy nghĩ và trả lời.
- Khi giảng dạy mục III – Biện pháp chủ yếu của phòng trừ tổng hợp dịch
hại cây trồng, với phương pháp dạy học sử dụng tranh là chính kết hợp với trao
đổi tại chỗ và phiếu nhằm tạo hứng thú cho các em
Họat động GV và HS
* GV hỏi:
- Kể tên các phương pháp chủ
yếu trong phòng trừ dịch hại
cây trồng?
- Trình bày nội dung các biện
pháp phòng trừ? Từ đó rút ra
ưu, nhược điểm của từng
phương pháp?
- Lấy ví dụ về các loại thiên
địch?

- Phân tích ưu, nhược điểm
biện pháp hóa học?

- Khi sử dụng biện pháp này
cần lưu ý gì?
- Quan sát tranh vẽ em hãy
điền từ “nên” hay “không
nên” vào các hì

- Lấy ví dụ một số loại bẫy
được sử dụng trong phòng trừ
dịch hại?
*HS đọc SGK và trả lời.

Nội dung
III. Biện pháp chủ yếu trong phòng trừ
tổng hợp dịch hại:
1. Biện pháp kĩ thuật:
- ND: Cày bừa, tiêu hủy tàn dư cây trồng,
tưới tiêu, bón phân hợp lý, gieo trồng đúng
thời vụ...
- ƯĐ: Đơn giản, dễ làm.
2. Biện pháp sinh học:
- ND: Sử dụng sinh vật có ích hay sản phẩm
do chúng tiết ra để diệt trừ sâu bệnh hại.
- ƯĐ: Không gây ô nhiễm môi trường.
3. Biện pháp hóa học:
- ND: Dùng thuốc hóa học để diệt trừ sâu,
bệnh hại.
- ƯĐ: Diệt trừ sâu bệnh nhanh, hiệu quả cao.
- NĐ: Gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng
tới sức khỏe con người.
- Lưu ý khi sử dụng:

+ Chỉ dùng khi dịch hại tới ngưỡng gây hại.
+ Dùng các loại thuốc tính chọn lọc cao, cos
trong danh mục được phép sử dụng.
+ Khi sử dụng phải đảm bảo vệ sinh an toàn
lao động.
4. Biện pháp cơ giới, vật lý
- ND: Diệt trừ sâu bệnh bằng cách bắt bằng
tay, vợt hay các loại bẫy.
5. Biện pháp sử dụng giống cây trồng
mang gen chống chịu sâu bệnh.
6. Biện pháp điều hòa
Sử dụng phối hợp các biện pháp để giữ cho
sâu bệnh phát triển ở một mức độ nhất định
nhằm giữ cân bằng sinh thái.

Cuối cùng, khi sử dụng giáo cụ trực quan, giáo viên phải luôn nhận thức
được rằng giáo cụ trực quan bản thân chúng chưa phải là thủ thuật dạy học.
Chúng chỉ có thể trở thành thủ thuật dạy học, phục vụ cho mục đích giao tiếp
15


khi giáo viên đưa chúng vào hoạt động mang tính giao tiếp. Vì vậy chính giáo
viên sẽ quyết định giá trị của dụng cụ trực quan và phát huy được hết tiềm năng
của chúng trong dạy học bằng các thủ thuật khác nhau của mình.
Như vậy phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Công
nghệ 10 ở trường THPT là một việc làm rất quan trọng, rất phong phú và có ý
nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận
dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng
như hoạt động ngoại khoá. Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến
mạnh mẽ mang tính cách mạng trong phương pháp dạy – học Công nghệ và phải

có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống. Mỗi
giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học này vào từng bài phải có
sự nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để
khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.
Cần trách khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”... đáp ứng được những yêu
cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện
đại hoá .
2.4. Hiệu quả thu được
Qua việc áp dụng phương pháp sử dụng dụng cụ trực quan ở chương I,
phần I, Công nghệ 10 tôi nhận thấy kết quả khả quan như sau:
- Phần lớn các em đã có ý thức học tập bộ môn và có phương pháp học
tập tốt.
- Các em đã hiểu rõ và nắm chắc các khái niệm.
- Đại bộ phận các em đã hình thành được một số kỹ năng đơn giản, các
em biết quan sát tranh ảnh, hình vẽ để rút ra kiến thức cần nắm, các em tích cực,
chủ động trong việc lĩnh hội các kiến, biết liên hệ thực tế.
* Kết quả cụ thể:
Qua việc áp dụng phương pháp sử dụng một số đồ dùng trực quan phù
hợp với nội dung bài dạy tôi thu kết quả như sau:
- 100% học sinh có sách giáo khoa, sách bài tập thực hành.
- Phần lớn các em học sinh đã có hứng thú thích học bộ môn Công nghệ 10
- Không có học sinh xếp loại yếu kém, tỉ lệ học sinh khá giỏi tăng cao
- Chất lượng môn Công nghệ 10, năm học 2016 – 2017 tại khối 10
Trường THPT Nguyễn Hoàng:

GIỎI
KHÁ
T. BÌNH
YẾU
KÉM

LỚP SỐ SL %
SL
%
SL
%
SL % SL %
10A1 37
07 19% 22 59,4% 08 21,6% 0
0%
0 0%
10A2 40
10 25% 25 62,5% 05 12,5% 0
0%
0 0%
10A3 38
05 13% 25 54% 08 21%
0
0%
0 0%
10A4 40
04 10% 27 67,5% 09 22,5% 0
0%
0 0%
10A5 37
03 8% 27 73% 07 19%
0
0%
0 0%
10A6 35
02 5,7% 23 63,4% 10 28,6% 0

0%
0 0%
10A7 38
10 26% 25 65% 03
9%
0
0%
0 0%
Như vậy so với phương pháp truyền thống thì hiệu quả của phương pháp
sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp trong các tiết dạy mang lại hiệu quả cao.
16


PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
- Dụng cụ trực quan là phương tiện không thể thiếu được trong hoạt động
dạy học. Bằng những dụng cụ trực quan sinh động, giáo viên sử dụng phương
pháp tốt nhất giúp học sinh tự khai thác, lĩnh hội kiến thức, phát huy được vai
trò chủ thể của học sinh trong quá trình học tập. Những dụng cụ trực quan khi
sử dụng trong giảng dạy cần phải có sự lựa chọn cho phù hợp với nội dung bài
dạy, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, đặc biệt là những dụng cụ trực
quan tạo ấn tượng, giúp học sinh khắc sâu, nhớ kỹ, tái hiện lại những kiến thức
đã học.
- Về phương pháp sử dụng: phải sử dụng tinh tế, khéo léo phải đảm bảo
tính trực quan, vừa đảm bảo tính khoa học. Điều đáng lưu ý là dụng cụ trực quan
dù sinh động đến đâu cũng không thể giúp học sinh học tốt nếu thiếu sự chỉ đạo
tận tình của giáo viên bộ môn. Vậy với cương vị là người chỉ đạo, hướng dẫn,
người giáo viên phải luôn tác động ý thức học tập của các em, phải khơi dậy
trong các em sự tìm tòi, ham hiểu biết, sẵn sàng khám phá khoa học có như thế
mới đem lại hiệu quả

- Điều cuối cùng là muốn thực hiện tốt phương pháp sử dụng đồ dùng trực
quan trong giảng dạy Công nghệ 10, đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái
tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng
người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu học sinh
hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy chúng ta
mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà:
có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh
sáng tạo… đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước
trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá .
3.2. Kiến nghị
Qua nghiên cứu đề tài này, tôi rút ra một số kiến nghị sau:
- Cần nghiên cứu sử dụng phương pháp dạy học sử dụng đồ dùng trực
quan cụ thể phù hợp đối với từng đối tượng học sinh (trình độ trung bình hay
khá, giỏi).
- Giáo viên trong tổ cần học hỏi kinh nghiệm, trao đổi lẫn nhau để có
thêm nhiều hình thức phong phú lôi cuốn học sinh tham gia bài học.
- Cần nghiên cứu, bổ sung thêm nhiều tình huống thực tiễn và yêu cầu học
sinh sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết.
Do khả năng và thời gian có hạn nên kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại
ở một số bài dạy thuộc chương I, phần I: nông, lâm và ngư nghiệp, vì vậy không
thể tránh khỏi những thiếu sót, do đó tôi rất mong có sự giúp đỡ, xây dựng của
các đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để thêm hoàn thiện, có hiệu quả, nâng cao
chất lượng bộ môn Công nghệ 10 và góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới
PPDH và thực hiện đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác dạy
17


học; Hưởng ứng phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực
và cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung của Bộ giáo dục và Đào tạo đang

phát động./.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 22 tháng 05 năm 2017
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Trần Thị Kim Dung

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực
hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10 trung học phổ thông môn Công nghệ
10, NXBGD.
2. Bộ Giáo dục – Đào tạo; Tài liệu Tập huấn cán bộ quản lí, giáo viên về
biên soạn đề kiểm tra, đánh giá môn công nghệ cấp trung học phổ thông; NXB
Giáo dục.
3. Luật của Quốc Hội số 11/1998/QH ngày 02/12/1998 Giáo dục, Điều 24.2
4. Nguyễn Văn Khôi (chủ biên) - Trần Văn Chương – Vũ Thùy Dương –
Văn Lệ Hằng – Vũ Văn Hiển (2006), Sách giáo khoa Công nghệ 10, NXBGD.
5. Nguyễn Văn Khôi (chủ biên) - Trần Văn Chương – Vũ Thùy Dương –
Văn Lệ Hằng – Vũ Văn Hiển (2006), Sách giáo viên Công nghệ 10, NXBGD.
6. Thái Duy Tuyên (2010), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi
mới, NXBGD.
7. PGS.TS Trần Khánh Đức (2013), Lý luận và phương pháp dạy học
hiện đại, NXBGD.
8. Trần Đình Châu - Đặng Thu Thủy - Phan Thị Luyến, Module 18
Phương pháp dạy học tích cực, NXBGD.

9.
10.

19



×