Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sử dụng phương pháp đóng vai trong giảng dạy môn công nghệ 10 nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.54 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

Trang

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………1
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………..1
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………2
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………2
PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài………………………………………………...........3
2.2. Thực trạng của đề tài………………………………………………..............5
2.3. Giải pháp thực hiện đề tài…………………………………………………..7
2.4. Kết quả thực nghiệm
2.4.1. Kết quả định lượng…………………………….................……………15
2.4.2. Kết quả định tính…………………...……………………………….......16
2.4.3. Kết luận chung về thực nghiệm……………………………………........17
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận…………………………………………………………………18
3.2. Kiến nghị …….……………………..……………………………………19


PHÂN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng
những quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu
vật chất và tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công
nghệ 10 là những kiến thức cơ bản về nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh
nghiệp. Do đó nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo
hướng cho học sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri
thức một cách chủ động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây


nhàm chán cho học sinh.
Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy
giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm.
Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy
giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho
HS để các em tự lĩnh hội tri thức.
Ở nước ta, việc đổi mới PPDH đã diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép,… người giáo
viên ít chú trọng đến vấn đề phát huy tính tự học của HS, ít khi đặt ra vấn đề
mang tính chất tìm tòi cho HS phát triển năng lực tư duy, tự học và tư nghiên
cứu. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn
vẫn còn trong tình trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH Công nghệ
10 nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của HS là cấp bách
và cần thiết.
Xác định được nhiệm vụ trên, đội ngũ giáo viên ở các cấp học đã không
ngừng đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của HS, trong đó phương pháp đóng vai được nhiều giáo viên lựu chọn.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp
đóng vai trong giảng dạy môn Công nghệ 10 nhằm phát huy tính chủ động
sáng tạo của học sinh THPT ”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế, xây dựng và sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học phần
nông, lâm, ngư nghiệp - Công nghệ 10, nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh, nâng cao hiệu quả dạy học Công nghệ 10.
2


1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh khối 10 bậc trung học phổ thông

1.4. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu đổi mới PPDH theo
hướng tích cực hóa việc học của học sinh.
- Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 10 (phần
Nông, Lâm, Ngư nghiệp).
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp, biện pháp thiết kế và sử
dụng phương pháp đóng vai trong nội dung bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ
thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10” theo hướng
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
b. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến
làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
c. Phương pháp thực tập sư phạm
Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT, tiến hành theo quy trình của đề tài
nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu.
d. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được.

3


PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Phương pháp dạy học tích cực
PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ
những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích
cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính

tích cực của người học. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì
giáo viên phải nổ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy.
Chẳng hạn, có trường hợp HS đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo
viên chưa đáp ứng học, hoặc có trường hợp HS đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt
động nhưng giáo viên chưa đáp ứng học, hoặc có trường hợp GV hăng hái áp
dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì HS chưa thích ứng, vẫn quen
với lối học tập thụ động. Vì vậy, GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để
dần dần xây dựng cho HS phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ
thấp lên cao. Trong đổi mới PPDH phải có sự hợp tác của cả thầy và trò, sự phối
hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công.
2.1.1.2. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.
Thực tế giảng dạy môn Công nghệ 10 ở trường THPT cho thấy phần lớn do
các giáo viên ở các bộ môn khác đảm nhận nên sự “đầu tư” giảng dạy chưa cao.
Việc sử dụng các PPDH truyền thống càng làm cho HS có cách nhìn tiêu cực về
môn học này, và nhiều HS ngày càng “ngán” môn Công nghệ. Để tránh hiện
tượng nhàm chán cho HS việc mạnh dạn sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy
học Công nghệ 10 là rất cần thiết, đặc biệt trong những năm gần đây với
chương trình thay sách, đóng vai là phương pháp được áp dụng khá phổ biến.
a. Ưu điểm của phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:

4


- HS được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.

- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh
- Khích lệ sự thay đổi, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo
đức và chính trị xã hội.
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các
vai diễn.
- Phát huy được những kinh nghiệm thực tế và tư duy sáng tạo của từng cá
nhân cũng như sự phối hợp chặt chẽ của cá nhân với tập thể nhóm.
- Lớp học sinh động, người học tiếp thu kiến thức thông qua những hoạt
động tích cực trong "vai diễn" của họ.
b. Hạn chế của phương pháp đóng vai
- Mất nhiều thời gian.
- Phải suy nghĩ "kịch bản", "diễn viên"...
- Đối tượng học sinh có tỷ lệ khá giỏi phải nhiều
- Nếu số lượng học sinh nhiều hiệu quả không cao.
c. Phương pháp tổ chức phương pháp đóng vai
Cách thức tiến hành phương pháp đóng vai thường theo các bước sau:
- Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm một cách
tương đối đơn giản, không quá phức tạp và quy định rõ thời gian chuẩn mực,
thời gian đóng vai.
- Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công sắm vai
- Thứ tự các nhóm đóng vai
- Các HS khác theo dõi phóng vấn, nhận xét, đánh giá, bổ sung (nếu cần).
Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm
nào?
- Cuối cùng GV kết luận chốt lại về cách ứng xử cần thiết trong tình huống
nên sự cố gắng của HS và rút kinh nghiệm.

5



Cách thức tiến hành có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau:
GV chia nhóm, giao nhiệm vụ
Các nhóm thảo luận, xây dựng kịch bản
Các nhóm đóng vai
Các nhóm khác theo dõi, nhận xét…
Giáo viên kết luận, nhận xét
Sơ đồ 1. Các bước tiến hành phương pháp đóng vai
d. Một số lưu ý khi thực hiện phương pháp đóng vai
- Chọn vấn đề đóng vai có mục tiêu dạy học rõ ràng.
- Chọn người đóng vai có kiến thức hay kinh nghiệm tương tự vai diễn hay
chọn tình huống trong các nhóm đóng vai phải sát thực tế và đáp ứng mục tiêu
dạy học.
- Giáo viên giới thiệu vai diễn rõ mục đích, thống nhất tình huống.
- Tình huống nên để mở, giáo viên không cho trước “kịch bản”, lời thoại.
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
- Người đóng vai phải hiểu rõ nhiệm vụ của mình ttrong bài tập đóng vai để
không lạc đề.
- Nên có các biện pháp khích lệ những học sinh nhút nhát tham gia.
- Nên hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng
vai.
- Rút ra được kết luận sư phạm: ý đồ đưa ra tình huống để đóng vai, mục
đích của kịch bản, kết quả sư phạm thu được v.v...
2.2. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trường THPT
2.1.1. Thực trạng dạy học của giáo viên
Nhìn chung, giáo viên cải tiến đổi mới phương pháp như sử dụng: phương
pháp vấn đáp tìm tòi, trực quan tìm tòi, thảo luận nhóm… Tuy nhiên, việc sử

6



dụng các phương pháp trên không thường xuyên, đa phần giáo án chủ yếu là nội
dung bài học chứ chưa chú trọng đến phương pháp, rất ít câu hỏi tư duy. Chỉ sử
dụng hệ thống sơ đồ trong SGK để minh học cho bài học, mà không có thêm các
sơ đồ tự thiết kế từ nội dung SGK hay liên hệ thực tiễn. Chưa chú ý sử dụng các
phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
2.1.2. Việc học của học sinh
Qua thực tế giảng dạy cho thấy, chất lượng giờ dạy môn Công nghệ 10
chiếm tỷ lệ trung bình rất cao. Hoạt động các em chủ yếu là nghe giảng, ghi
chép chứ chưa có ý thức phát biểu xây dựng bài. Một số em còn làm việc riêng
trong giờ học, có khi lớp 48-52 học sinh nhưng trong suốt giờ học chỉ tập trung
4-5 em phát biểu xây dựng bài. Các em hầu như không có hứng thú vào việc học
tập bộ môn Công nghệ 10.
Từ thực tế trên dẫn đến kết quả học tập bộ môn chưa cao. Số học sinh giỏi
ít, khá và trung bình nhiều, yếu vẫn còn. Qua thực tế giảng dạy nếu sử dụng các
PPDH phát huy tính tích cực như: thảo luận nhóm, phiếu học tập, sử dụng băng
hình… cùng với những câu hỏi tìm tòi, kích thích tư duy, gây tranh luận thì
không khí học tập sôi nổi hẳn, các em tích cực phát biểu xây dựng bài. Ngược
lại, ở một số lớp giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại tái hiện,
thông báo… lớp học trở nên trầm, ít học sinh phát biểu xây dựng bài.
2.2. Những nguyên nhân của thực trạng dạy và học Công nghệ 10 ở
trường THPT hiện nay
Giáo viên ngại áp dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học. Bởi để
dạy học theo các phương pháp mới phát huy được tính tích cực của HS đòi hỏi
phải đầu tư thời gian, trí tuệ vào việc soạn giáo án. Đồng thời giáo viên phải có
năng lực tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Đây là khó khăn đối với giáo
viên hiện nay vì một số trường chưa có giáo viên chuyên ngành kỹ thuật nông
nghiệp. Ở một số trường THPT chưa có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động
học tập của bộ môn như: chưa có phòng thực hành bộ môn, chưa có các đồ dùng
dạy học cần thiết…

Bên cạnh đó một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng dạy và học
Công nghệ 10 hiện nay do môn này không được học sinh coi là môn học chính,
vì không thi tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ
buông lõng, thả trôi trong ý thức học tập của học sinh.

7


2.3. Giải pháp
2.3.1. Áp dụng phương pháp đóng vai kết hợp ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học bài 9: “Biện pháp cải tạo và sử dụng đất xám bạc
màu, đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá”.
Đối với bài này tôi thực hiện như sau:
- Bước 1: Giáo viên đưa một số hình ảnh về đất xám bạc màu và đất xói mòn
mạnh trơ sỏi đá cho học sinh quan sát.
- Bước 2: Yêu cầu học sinh đóng vai mình chính là loại đất xấu cần được cải tạo.
- Bước 3: GV chia lớp thành 4 nhóm (10- 11 người), tương ứng với 2 loại đất.
+ Nhóm 1, 3: Đất xám bạc màu
+ Nhóm 2, 4: Đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá
Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. GV yêu cầu trong thời gian 30 phút cả
nhóm cùng nghiên cứu, xây dựng “kịch bản”, cử đại diện lên bảng “đóng vai”
chính là loại đất đó. Giới thiệu “về mình” cho cả lớp trong thời gian 5 phút.
- Bước 4: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai.
- Bước 5: Thứ tự các nhóm lên đóng vai.
- Bước 6: Các học sinh khác theo dõi, nhận xét, bổ sung.
- Bước 7: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá.
Sau đây tôi xin giới thiệu “kịch bản” của học sinh Mai Thi Thu - lớp 10C1
lên đóng vai (Từ in đậm là nội dung được HS ghi trên giấy A0):
Này! Này! Anh chị em ơi! Tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ? (phía
dưới: không xưng danh thì ai biết là ai!). Vậy thì để tôi biểu diễn 1 đoạn văn

nghệ xem các bác có đoán ra không nhé. “Đất vắng cây đất ngừng ngừng hơi
thở. Cây thiếu đất cây sống sống với ai? Chuyện chăm năm ân tình cây và đất.
Cây bám rễ sâu đất ôm chặt tận đáy lòng”....Nào các bác đoán đi!
(Phía dưới lớp: Tưởng tên gì hóa ra là đất).
Ấy! Ấy! Đất cũng có nhiều loại đất còn em đây có tên riêng là “Đất xám
bạc màu” đấy các bác ạ!

8


Họ đất xám bạc màu nhà em không phải tự nhiên mà có đâu. Chúng em chỉ
được hình thành ở những vùng có độ dốc thoải, nơi mà người nông dân vẫn giữ
lối canh tác lạc hậu như thâm canh, du canh,...và gần đây em còn có cơ hội
xuất hiện nhiều thêm nữa khi con người tăng cường chặt phá rừng bừa bãi.
Đấy, các bác nhìn thì thấy ngay.

Đố các bác biết chúng em tập trung đông đảo ở đâu nào?
(Phía dưới lớp: Ở đâu?)
Chúng em phân bố chủ yếu ở vùng Trung du Bắc Bộ, Đông Nam Bộ và
Tây Nguyên. Có mặt ở những vùng đấy thì không cần nói các bác cũng biết
chúng em trông như thế nào rồi: tầng mặt mỏng, chủ yếu là cát, lượng sét và
9


keo ít cho nên thường bị khô hạn; người lúc nào cũng chua hoặc rất chua,
nghèo dinh dưỡng, nghèo mùn. Chính vì thế ngay cả các bác vi sinh vật cũng
chẳng muốn sống cùng nên số lượng thường ít, hoạt động yếu.

(Phía dưới lớp: Xấu thế thì ai muốn sống cùng cũng chịu thôi.)
Đúng thế đấy các bác ạ. Nhưng đó là chuyện trước đây thôi, còn bây giờ

chúng em đã trở nên hữu dụng rồi. Tất cả là nhờ những người nông dân Việt
Nam đã không ngại khó khăn mà áp dụng các biện pháp để cải tạo, loại bỏ
những tính chất xấu giúp Đất xám bạc màu chúng em trở thành loại đất có thể
sử dụng rộng rãi với nhiều loại cây trồng khác nhau. Để biết các biện pháp đã
được sử dụng cải tạo chúng em là gì, mời mọi người hãy quan sát hình ảnh và
cùng suy đoán nhé!

10


Các bác xem, sau khi được cải tạo bằng các biện pháp hợp lí thì chúng em
có thể nuôi dưỡng được rất nhiều loại cây trồng khác nhau. Các giống cây trồng
sẽ sinh trưởng, phát triển tốt, mang lại mùa màng bội thu cho người nông dân.
Vì vậy mọi người đừng vội bỏ hoang đất Xám bạc màu, đó sẽ là một sự lãng phí
tài nguyên thiên nhiên rất đáng tiếc! Ông cha ta đã dạy “Tấc đất tấc vàng”.

11


2.3.2. Áp dụng phương pháp đóng vai vào dạy học bài 12. “Đặc điểm,
tính chất , kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường” – Công
nghệ 10.
Đối với bài này tôi sử dụng đóng vai theo các cách sau đây:
*Cách 1: Học sinh đóng vai mình chính là các loại phân bón
Cách này được tổ chức theo trình tự như sau:
Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm (15-16 người), tương ứng với 3
loại phân bón
+ Nhóm 1: Phân hóa học
+ Nhóm 2: Phân hữu cơ
+ Nhóm 3: Phân vi sinh vật

Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên phát đồ dùng gồm 1 giấy A 0,
1 bút xạ và yêu cầu trong thời gian 10 phút cả nhóm cùng nghiên cứu, xây dựng
“kịch bản”, sau đó cử đại diện lên bảng “đóng vai” chính là loại phân bón đó.
Giới thiệu “về mình” cho cả lớp (xem như là bà con nông dân) trong thời gian 5
phút.
Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai.
Bước 3: Thứ tự các nhóm lên đóng vai
Bước 4: Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu
cần).
Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá
Sau đây tôi xin giới thiệu “kịch bản” của học sinh Nguyễn Thị Ngọc Anhlớp 10C1 lên đóng vai:
“…Xin chào tất cả bà con, tôi xin tự giới thiệu tôi là phân hóa học, là loại
phân bón được sản xuất theo quy trình công nghiệp, có sử dụng nguyên liệu tự
nhiên hoặc tổng hợp. Nếu xét theo số nguyên tố tham gia tôi thường được chia
làm 2 loại đó là: phân đa nguyên tố và phân đơn nguyên tố, phân đơn nguyên tố
ví dụ như: đạm, lân, kali… phân đa nguyên tố ví dụ như NPK...
Bà con nông dân nên sử dụng tôi bởi tôi có những đặc điểm sau: thứ nhất,
chứa ít nguyên tố nhưng tỷ lệ chất dinh dưỡng cao nên chỉ cần bón lượng ít. Thứ
hai, tôi phần lớn dễ tan (trừ lân) nên cây dễ hấp thụ và cho hiệu quả nhanh. Tuy
nhiên, tôi lại có nhược điểm là bón nhiều và liên tục nhiều năm sẽ làm đất chua,
do đó để sử dụng tôi có hiệu quả bà con cần lưu ý một số vấn đề sau: Đạm, kali

12


bón thúc là chính. Lân (khó tan) chủ yếu bón lót. Đất dễ bị chua hóa nên cần kết
hợp bón vôi cải tạo.
Bà con lựa chọn tôi chính là đầu tư có hiệu quả, tôi hy vọng sẽ là người bạn
đưa lại năng suất cao cho các bác. Chúc bà con có một vụ mùa bội thu và thắng
lợi…”.

Ghi chú: Từ in nghiêng là nội dung chính được HS trình bày trên giấy
*Cách 2: Học sinh đóng vai là bà con nông dân 3 xã sử dụng 3 loại phân bón.
Cách này được tổ chức theo trình tự như sau:
Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, tương ứng với bà con nông dân
sử dụng 3 loại phân bón của 3 xã là: A, B, C
+ Nhóm 1: xã A - Phân hóa học
+ Nhóm 2: xã B - Phân hữu cơ
+ Nhóm 3: xã C - Phân vi sinh vật
Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên yêu cầu trong thời gian 10
phút cả nhóm cùng nghiên cứu, soạn thảo xây dựng “kịch bản”. Chọn 1 người
làm dẫn chương trình (MC) dưới hình thức tổ chức cuộc thi “Nhà nông đua tài”
với chủ đề về cách sử dụng phân bón.
Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai.
Bước 3: Đóng vai “kịch bản”. MC lần lượt mời đại diện 3 đội chơi trình
bày về cách sử dụng phân bón ở địa phương mình.
Bước 4: Cả 3 đội chơi cùng thảo luận. Các học sinh khác theo dõi, phỏng
vấn, nhận xét, bổ sung (nếu cần).
Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá, tổng kết cuộc thi trao giải
(động viên).
*Cách 3: Học sinh đóng vai là bà con nông dân 3 xã sử dụng 3 loại phân bón.
Cách này phân công nhóm giống cách 2 nhưng được tổ chức tương tự cách 1.
*Cách 4: Học sinh đóng vai người dân đi mua 3 loại phân bón ở 3 cửa hàng
khác nhau.
Cách này được tổ chức theo trình tự như sau:
Bước 1: Giáo viên cử một học sinh đóng vai người dân đi mua phân bón và
chia lớp thành 3 nhóm, tương ứng với 3 cơ sở sản xuất và bán phân bón.
+ Nhóm 1: Cửa hàng bán phân hóa học
+ Nhóm 2: Cơ sở sản xuất và bán phân hữu cơ

13



+ Nhóm 3: Cửa hàng bán phân vi sinh vật
Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên yêu cầu trong thời gian 10
phút cả nhóm cùng nghiên cứu, soạn thảo xây dựng “kịch bản”. Sau đó mời đại
diện 3 nhóm lên 3 vị trí đã sắp xếp trước, lần lượt người đóng vai nông dân sẽ
ghé thăm hỏi mua và nghe 3 “cơ sở” giới thiệu về phân bón của mình (mỗi cơ sở
trình bày 3 phút).
Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai.
Bước 3: Đóng vai “kịch bản”. Người nông dân lần lượt ghé vào 3 “cơ sở”
phân bón.
Bước 4: Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu
cần).
Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá
Lưu ý: “Cơ sở” sản xuất và bán phân hữu cơ có thể là hộ gia đình hoặc
trang trại chăn nuôi.
Sau đây tôi xin giới thiệu một “kịch bản” được soạn thảo làm ví dụ:
Bác An là một nông dân ở xã A, gia đình bác làm 3 sào ruộng nhưng bác
chưa biết lựa chọn sử dụng phân bón nào cho phù hợp nên bác đã đi xin “tư
vấn” của 3 cơ sở sản xuất và bán phân bón.
- Bác vào cửa hàng bán phân hóa học, được người bán hàng giới thiệu:
Bác nên dùng phân hóa học vì đây là loại phân bón ……… (thông tin về phân
hóa học) (3 phút).
- Bác vào cơ sở sản xuất phân hữu cơ, được người chủ cơ sở giới thiệu:
Bác nên dùng phân hữu cơ vì đây là loại phân bón ………… (thông tin về phân
hưu cơ) (3 phút).
- Bác vào cửa hàng bán phân vi sinh vật, được người bán hàng giới thiệu:
Bác nên dùng phân vi sinh vật vì đây là loại phân bón … (thông tin về phân vi
sinh vật) (3 phút).
Sau khi bác An nghe lời tư vấn của 3 cơ sở, bác rất băn khoăn chưa biết

lựa chọn loại phân nào cho phù hợp. Giáo viên sử dụng tình huống mở này làm
củng cố bài học.
Em hãy cho bác An một lời khuyên?
HS tham gia trao đổi thảo luận đưa ra lời khuyên dựa vào nội dụng bài học
và sự hiểu biết của học sinh.

14


Giáo viên tổng kết, bổ sung, đánh giá.
2.4. Kết quả thực nghiệm
Qua quá trình thực nghiệm, chúng tôi đã sử dụng phương pháp đóng vai
theo cách 1 vào dạy học bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số
loại phân bón thông thường – Công nghệ 10”.
Bài này được dạy song song cùng thời gian và chéo nhau với 2 loại giáo án:
- Giáo án thực nghiệm có sử dụng phương pháp đóng vai theo cách 1 vào
soạn bài và giảng dạy.
- Giáo án đối chứng không sử dụng phương pháp đóng vai.
Sau khi dạy xong bài, chúng tôi tiến hành kiểm tra khả năng lĩnh hội kiến
thức của học sinh bằng hệ thống câu hỏi (đề kiểm tra 15 phút).
Bước đầu thu được kết quả cụ thể như sau:
2.4.1. Kết quả định lượng
- Lớp đối chứng (ĐC): 10C1, 10C2
- Lớp thực nghiệm (TN): 10C3, 10C4
Bảng 1. Bảng tần suất
Lớp
Lớp
ĐC
Lớp
TN


Số
HS
40
43
42
42

10C1
10C2
10C3
10C4

1

2

4
3
9
6

10
0
0
2
1

7


10
0

17

15

3

2
3
4
5
6
7
8
0,94 3,77 6,60 17,92 34,91 16,98 12,26

9
6,62

10
0

0
0
0
0

3


Số học sinh đạt điểm xi
4
5
6
7
8
4
7
12
8
4
3
6
15
6
6
0
5
8
10
8
2
3
6
15
9

0
1

0
0

1
3
0
0

9

Bảng 2. Bảng tổng hợp tần suất
Lớp
Lớp ĐC
10C1,C2
Lớp TN
10C3, C4

Số
HS
83
84

1

2

3

0


1

4

0

0

0

Số học sinh đạt điểm xi
4
5
6
7
8
7
13
17
14
10
2

8

14

25

9


Bảng 3. Bảng phân phối tần suất
xi
Lớp ĐC (%)

1
0

15


Lớp TN (%)

0

0

0

1,92

7,70

15,3
8

32,70 19,23 21,19 2,88

Biểu đồ 1. So sánh tỷ lệ phân phối tần suất giữa TN và ĐC
Qua kết quả nghiên cứu ta thấy rằng, ở 2 lớp thực nghiệm tỷ lệ đạt điểm

khá giỏi đều cao hơn 2 lớp đồi chứng. Ngược lại, tỷ lệ điểm trung bình và dưới
trung bình của 2 lớp đối chứng lại cao hơn. Điều đó phần nào cho thấy học sinh
2 lớp thực nghiệm tiếp thu kiến thức nhiều hơn và tốt hơn. Một trong những
nguyên nhân đó là: Ở lớp thực nghiệm, lớp học diễn ra nghiêm túc, học sinh
hứng thú học tập, tích cực, chủ động “đóng vai”, số lượng học sinh tham gia xây
dựng bài nhiều làm cho không khí lớp học sôi nổi kích thích sự sáng tạo, chủ
động nên khả năng hiểu và nhớ bài tốt hơn.
Còn ở lớp đối chứng, lớp học vẫn diễn ra nghiêm túc, học sinh vẫn chăm
chú tiếp thu bài giảng, nhưng các em tiếp thu thụ động về kiến thức, giáo viên sử
dụng phương pháp truyền thống như thông báo, giải thích nên quá trình làm việc
thường nghiêng về giáo viên.
2.4.2. Kết quả định tính
Qua quá trình phân tích bài kiểm tra ở 2 lớp thực nghiệm và 2 lớp đối
chứng và theo dõi trong suốt quá trình giảng dạy, tôi có những nhận xét sau:
- Ở 2 lớp đối chứng:

16


+ Phần lớn học sinh chỉ dừng lại ở mức độ nhớ và tái hiện kiến thức. Tính
độc lập nhận thức không thể hiện rõ, cách trình bày rập khuôn trong SGK hoặc
vở ghi của giáo viên.
+ Nhiều khái niệm các em chưa hiểu sâu nên trình bày chưa chính xác,
thiếu chặt chẽ.
+ Việc vận dụng trí thức đối với đa số các em còn khó khăn, khả năng khái
quát hóa và hệ thống hóa bài học chưa cao.
+ Giờ học trầm lắng, kém hứng thú, các em vẫn trả lời câu hỏi nhưng chưa
nhiệt tình.
Tuy nhiên, vẫn có một số học sinh hiểu bài khá tốt, trình bày khá lôgic, chặt
chẽ.

- Ở 2 lớp thực nghiệm:
+ Phần lớn học sinh hiểu bài tương đối chính xác và đầy đủ
+ Lập luận rõ ràng, chặt chẽ
+ Độc lập nhận thức, có khả năng “đóng vai”, trình bày vấn đề một cách
chủ động theo quan điểm riêng, không theo nguyên mẫu SGK hoặc của giáo
viên. Ví dụ: như học sinh Hà Thị Liên ở lớp 10C1 “đóng vai” lưu loát, sáng
tạo…
+ Đa số các em có khả năng vận dụng những kiến thức đã học và kiến thức
thực tế để vào tình huống “đóng vai”.
+ Các em tham gia “đóng vai”, đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi với tinh thần
say mê, hào hứng, không khí giờ học thoải mái.
+ Tuy nhiên, vẫn còn một số ít học sinh chưa nắm vững nội dung bài họ,
khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và vận dụng kiến thức chưa tốt.
1. 2.4.3. Kết luận chung về thực nghiệm
Với kết quả thực nghiệm này, chúng tôi có thêm cơ sở thực tiễn để tin
tưởng vào khả năng ứng dụng phương pháp đóng vai theo hướng mà đề tài đã
chọn.
Qua thực nghiệm dạy học có sử dụng phương pháp đóng vai, chúng tôi
nhận thấy:
- Hứng thú học tập của học sinh cao hơn, hoạt động thảo luận sôi nổi hơn
và hiệu quả cao hơn, HS tập trung để quan sát và phân tích, phát biểu xây dựng
bài tốt hơn.

17


- Tăng cường thêm một số kỹ năng hoạt động học tập cho HS như quan sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh, kỹ năng làm việc độc lập, “đóng vai” và trình bày
một vấn đề trước tập thể.
- Hoạt động của giáo viên nhẹ nhàng, thuận lợi hơn để có thể tập trung vào

việc đưa HS vào trung tâm của hoạt động dạy học. Thông qua phương pháp
đóng vai, HS trong nhóm và giữa các nhóm phát biểu ý kiến, tranh luận, bổ sung
cho những người “đóng vai” tạo không khí học tập rất tích cực, nâng cao hiệu
quả tiếp thu, lĩnh hội tri thức của HS.
- Kiến thức được cung cấp thêm, bổ sung và làm rõ SGK, đồng thời gắn với
thực tiễn nhiều hơn.
Do giới hạn về thời gian cũng như các điều kiện khác nên chúng tôi chưa
thực hiện thực nghiệm được trên quy mô lớn hơn. Chính vì thế mà kết quả thực
nghiệm chắc chắn chưa phải là tốt nhất.
Mặc dù vậy, qua thời gian giảng dạy, chúng tôi nhận thấy rằng, việc sử
dụng phương pháp đóng vai vào dạy học Công nghệ 10 là điều rất cần thiết, góp
phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, phát huy tính tích cực học tập của học sinh,
đáp ứng được yêu cầu đổi mới về nội dung và phương pháp trong dạy học hiện
nay.

18


PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Từ những kết quả nghiên cứu chúng tôi rút ra những kết luận chính sau:
- Bước đầu hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng
phương pháp đóng vai trong dạy học Bài 9.“Biện pháp cải tạo và sử dụng đất
xám bạc màu, đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá” và Bài 12. “Đặc điểm, tính chất,
kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10”. Nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
- Xây dựng được quy trình thiết kế và sử dụng phương pháp đóng vai gồm
7 bước trong dạy học Bài 9.“Biện pháp cải tạo và sử dụng đất xám bạc màu,
đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá” và 5 bước trong dạy học Bài 12. “Đặc điểm, tính
chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10” theo

4 cách khác nhau.
- Tiến hành thực nghiệm ở 4 lớp 10C1,C2,C3,C4. Những kết quả bước đầu
đã đánh giá được hiệu quả của phương pháp đóng vai trong dạy học vừa nêu
trên. Từ đó kết luận được phương pháp đóng vai đã mang lại hiệu quả cao trong
dạy học môn Công nghệ 10.
- Trong dạy học hiện nay việc sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học
Công nghệ 10 theo hướng nghiên cứu của đề tài này có thể áp dụng rộng rãi.
3.2. Kiến nghị
Qua nghiên cứu đề tài này, chúng tôi rút ra một số kiến nghị sau:
- Cần phát huy tối đa vai trò của phương pháp đóng vai
- Giáo viên cần có biện pháp cụ thể để rèn luyện kỹ năng “đóng vai” cho
HS lĩnh hội tri thức trong dạy học Bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử
dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10”.
- Cần nghiên cứu sử dụng phương pháp đóng vai cụ thể phù hợp đối với
từng đối tượng học sinh (trình độ trung bình hay khá, giỏi).
- Do số lượng HS ở lớp chúng tôi nghiên cứu quá đông (42-43 HS) nên
hiệu quả chưa cao, do đó cần nghiên cứu thêm phương pháp này ở các lớp có số
lượng HS ít hơn (25-35 HS).
- Do trình độ HS nơi nghiên cứu đề tài thấp nên hiệu quả còn hạn chế vì
vậy cần nghiên cứu thêm ở những nơi có trình độ HS khá, giỏi để so sánh hiệu
quả.

19


- Khi sử dụng phương pháp đóng vai cần dành thời gian phù hợp cho việc
xây dựng “kịch bản” và “đóng vai”. Đồng thời có biện pháp kích thích những
học sinh khác tham gia “chất vấn”, đặc biệt là những học sinh nhút nhát.
- Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy
học Công nghệ 10, đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư thiết kế để tạo cho học

sinh hứng thú và học tập tốt hơn.
- Do thời gian có hạn nên chúng tôi mới đi sâu thiết kế, sử dụng phương
pháp đóng vai vào bài nghiên cứu theo cách 1. Vì vậy có thể mở rộng thêm đề
tài theo các cách 2,3 và 4 để đánh giá so sánh kết quả thu được.
- Ngoài ra có thể nghiên cứu áp dụng phương pháp đóng vai vào dạy học
mục I và II bài 29. “Sản xuất thức ăn cho vật nuôi - Công nghệ 10”.
Do khả năng và thời gian có hạn nên kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở
những kết luận ban đầu và nhiều vấn đề chưa đi sâu. Vì vậy không thể tránh
khỏi những thiếu sót, do đó chúng tôi kính mong nhận được sự góp ý của quý vị
để đề tài dần hoàn thiện hơn.

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hoá, ngày 20 tháng 4 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết

Nguyễn Thị Hạnh

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Công nghệ THPT.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ
8 (Khóa XI).
3. Ngô Quang Đê, Giáo trình Lâm sinh học, NXB Nông nghiệp Hà Nội (2001).
4. Ngô Quang Đê, Giáo trình Trồng rừng, NXB Nông nghiệp Hà Nội (2001).
5. Nguyễn Thế Đặng, Giáo trình Đất, NXB Nông nghiệp Hà Nội (2001).

6. Nguyễn Văn Khôi, Sách giáo khoa Công nghệ 10, NXB Giáo dục.
7. Trần Ngọc Ngoạn, Giáo trình Hệ thống nông nghiệp, NXB Nông nghiệp Hà
Nội (2001).
8. Luật Giáo dục (2005).
9. Trần Thị Thu Sương ,Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số
5(40)-2010.

21



×