Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tích hợp liên môn trong dạy học phần địa lí tự nhiên địa lí 10 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.08 KB, 21 trang )

Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

Phần I. MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong
việc xác định nội dung dạy và học ở trường phổ thông và trong xây dựng
chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Dạy học tích hợp sẽ giúp học
sinh phát triển năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp làm cho việc học trở
nên có ý nghĩa hơn so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện
riêng rẽ.
Dạy học tích hợp trong Địa lí là sự vận dụng tổng hợp các kiến thức, kỹ
năng của các phân môn của Địa lí tự nhiên và Địa lí kinh tế xã hội vào việc
nghiên cứu tổng hợp môn Địa lí. Mặt khác tích hợp cũng còn là việc sử dụng các
kiến thức kỹ năng của các môn học có liên quan như Toán học, Vật lí, Hóa học,
Văn học, Âm nhạc,…vào việc dạy Địa lí giúp học sinh hiểu và nắm vững các
nội dung học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Việc dạy học Địa lí có sự
tích hợp- trong Địa lí có Văn học, có kỹ năng tính toán, có kiến thức Vật lí, Hóa
học, có văn hóa âm nhạc, hội họa, có giá trị thẩm mỹ. Vì vậy dạy tích hợp các
môn học vào môn Địa lí sẽ làm cho bài học Địa lí mãi sống, mãi lung linh tỏa
sáng, ngấm vào tâm hồn mỗi học sinh. Các em không chỉ hiểu mà còn biết vận
dụng kiến thức vào thực tiễn. Đó là vấn đề đặt ra đôi với mỗi giáo viên Địa lí.
Do đó tích hợp liên môn trong giảng dạy Địa lí không còn là vấn đề đơn
thuần, mà nó trở thành nhiệm vụ của mỗi ai đã, đang và sẽ là giáo viên môn Địa
lí trong nhà trường.
Đối với học sinh, đặc biệt là những học sinh có năng lực tư duy tốt thì tích
hợp các kiến thức tự nhiên, xã hội, … vào môn Địa lí sẽ làm cho học sinh cảm
thấy hứng thú với bài học hơn, hiểu bài hơn và mỗi giờ học sẽ không còn cảm
giác tẻ nhạt đối với cả cô và trò.
Vì những lí do trên tôi chọn đề tài: “Tích hợp liên môn trong dạy học phần
Địa lí tự nhiên - Địa lí 10-Trung học phổ thông”.
2. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm.


Trong khuôn khổ của sáng kiến, tôi mạnh dạn trình bày một số kiến thức
thông qua các bài tập được tích hợp trong các bài giảng môn Địa lí lớp 10- Phần
Địa lí tự nhiên để học sinh hiểu bài hơn, yêu môn học hơn và có thể giải thích
được nhiều vấn đề xảy ra xung quanh chúng ta.
3. Phạm vi, đối tượng áp dụng của sáng kiến:
- Phạm vi nghiên cứu: Một số kiến thức tự nhiên, xã hội có liên quan và bổ trợ
cho các bài giảng phần Địa lí tự nhiên lớp 10 THPT.
1
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

- Đối tượng nghiên cứu: Học sịnh lớp 10 trường THPT Lê văn Hưu-Thiệu hóaThanh hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề.
- Phương pháp đàm thoại….
5. Những điểm mới của SKKN:
Nội dung SKKN chưa được công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng
văn bản hay bất kỳ hình thức nào; sáng kiến là những phương pháp tổ chức điêu
hành hoàn toàn mới và sáng tạo.
Mục tiêu: Phương pháp dạy học thông thường và SGK hiện nay được viết
theo kiểu đơn môn đề cập đển kiến thức một môn học. Dạy học theo hướng tích
hợp liên môn đề cập đến kiến thức của hai hay nhiều môn học nên phát triển
được năng lực tư duy của HS. Từ đó giúp HS vận dụng kiến thức tổng hợp nhiều
môn học để giải quyết những vấn đề thực tiễn, ít phải ghi nhớ máy móc.
Hiệu quả: Hiện nay nhiều GV có nhận xét: Muốn nâng cao chất lượng giáo
dục cần phải tích cực dạy học theo hướng tích hợp. Vì:
Giảng dạy tích hợp liên môn đem lại lợi ích là kích thích GV tư duy và không
ngừng trau dồi kiến thức ở nhiều lĩnh vực, bộ môn khác nhau để có một phông

kiến thức sâu, rộng đủ để đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của dạy học
hiện nay. HS lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sát thực tế tránh những kiến
thức mang tính “hàn lâm khoa học”
Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn đã “Truyền cảm hứng dạy, học” cho cả
GV và HS. Không còn những bài giảng khuôn mẫu theo SGK, tiết học theo tích
hợp liên môn được “biến tấu” với niều yếu tố sáng tạo. Đặc biệt kiến thức Địa lí
trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.
Ví dụ: SGK Địa lí 10- Bài 9: Tác động của ngoại lực đến địa hình bề
mặt Trái đất- Mục II.1. Phong hóa hóa học.
Hình 9.2- Hang động- kết quả của sự hòa tan đá vôi do nước.
GV dạy tích hợp liên môn bằng cách trình chiếu cho các em xem hình ảnh
sinh động của các hang động lớn ở nước ta (động Phong Nha- Quảng Bình, hang
Sơn Đòong,...). Bằng kiến thức môn Hóa học hãy giải thích sự hình thành các
hang động đó).

2
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

Phần II. NỘI DUNG SKKN.
II.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến:
Hệ thống khoa học Địa lí là một hệ thống khoa học tự nhiên và xã hội,
nghiên cứu các thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên và sản xuất và các thành phần của
chúng, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hệ thống khoa học Địa lí bao
gồm hai nhóm lớn là nhóm khoa học tự nhiên và nhóm khoa học xã hội. Giữa
Địa lí học và các khoa học khác có những mối quan hệ mật thiết như: Địa lí tự
nhiên có quan hệ mật thiết với Toán học, Vật lí, Hóa học, sinh học. Địa lí kinh
tế xã hội có mối quan hệ mật thiết với Sử học, Văn học và nhiều môn khác. Như

vậy trong Địa lí có các khoa học khác cũng như trong khoa học khác có Địa lí.
Sử dụng kiến thức liên môn được coi là nguồn kiến thức quan trọng nhằm
giúp HS hiểu sâu sắc hơn kiến thức Địa lí góp phần tạo hứng thú cho HS và
nâng cao hiệu quả học tập. Mặt khác sử dụng kiến thức liên môn còn là biên
pháp đổi mới dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói riêng. Sử dung kiến thức
liên môn bảo toàn được tính toàn vẹn của kiến thức Địa lí trên cơ sở sử dụng
kiến thức các môn học khác và ngược lại. Kiến thức liên môn giúp HS tránh
được những lỗ hổng kiến thức khi học tách rời các môn học. Nhờ đó các em
hiểu được sâu sắc hơn kiến thức Địa lí và thúc đẩy quá trình nhận thức đạt kết
quả cao.
II.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN.
Dạy học tích hợp là định hướng dạy học trong đó GV tổ chức hướng dẫn để
HS biết huy động kiến thức, kỹ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải
quyết nhiệm vụ học tập, đời sống, thông qua đó hình thành những kiến thức, kỹ
năng mới, phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết
vấn đề trong học tập và trong cuộc sống của HS.
Khảo sát tại đơn vị tôi thấy việc dạy tích hợp liên môn có một số khó khăn
sau:
* Từ phía đội ngũ GV: Đội ngũ GV hiện nay phần lớn được đào tạo theo
chương trình sư phạm đơn môn, chưa được trang bị về cơ sở lý luận dạy học tích
hợp liên môn một cách chính thống, khoa học nên khi thực hiện phần lớn là do
GV tự tìm hiểu nên không tránh khỏi việc hiểu không đúng, chưa đầy đủ.
Phần lớn các GV đã quen với việc dạy học đơn môn nên kiến thức các môn liên
quan còn hạn chế.
* Từ phía các em HS: Phần lớn các ẹm HS học môn Địa lí vẫn chủ yếu nắm
kiến thức bộ môn, còn việc sử dụng kiến thức, kỹ năng của các môn liên quan
Toán, Lý, Hóa, Sinh,…khai thác kiến thức mới ở môn Địa lí hay hiểu sâu vấn đề
Địa lí còn hạn chế, một số em kỹ năng tính toán hay kiến thức Toán, Lý, Hóa,
còn yếu.
3

Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

* Từ phía chương trình SGK của môn Địa lí hiện nay: Được viết theo kiểu
đơn môn nên khi tiến hành xác định nội dung tích hợp mang lại hiệu quả không
cao.
Khảo sát thực tế một số HS về vận dụng kiến thức liên môn trong học tập:

Nội dung khảo sát
Dựa vào kiến thức hóa học hãy giải thích sự
hình thành nhũ đá trong hang động của
nước ta?
Dựa vào kiến thức Vật lí giải thích tại sao
các con tàu đi trên biển thường gắn một
miếng kim loại Kẽm ở phần vỏ tàu ngâm
trong nước biển?

Số HS
khảo sát

Số HS
trả lời
đúng

Tỉ lệ HS
trả lời
đúng


20

4

20%

25

6

24%

Mặc dù còn nhiều khó khăn, xong từ thực trạng trên tôi thấy mỗi GV Địa
lí cần dạy học theo hướng tích hợp liên môn. Cần có giải pháp dạy học tích hợp
liên môn như thế nào để đào tạo thế hệ HS không chỉ biết có kiến thức “hàn
lâm” mà cần có năng lực vận dụng kiến thức đã học giải quyết các tình huống
trong thực tiễn cuộc sống. Tôi đã cố gắng học hỏi kinh nghiệm và qua thực tế để
viết sáng kiến của bản thân nhằm góp một phần vào việc dạy và học tích hợp
liên môn trong dạy học Địa lí.
II.3. Các giải pháp dạy tích hợp liên môn trong Địa lí.
II.3.1. Xác định mục tiêu bài học, mục tiêu tích hợp:
Căn cứ vào chuẩn kiến thức kỹ năng Đia lí để xác định mực tiêu bài học.
Căn cứ đặc điểm nhận thức của HS để xác định mục tiêu, đảm bảo tính vừa sức
cũng như đặc thù bộ môn.
II.3.2. Xác định các nội dung tích hợp và mức độ tích hợp trong các bài học
Địa lí.
Trước tiên tôi xác định nội dung cần tích hợp cụ thể là gì và mức độ tích hợp
(địa chỉ cần tích hợp). Căn cứ vào thời lượng của bài học đó, xác định hình thức
tích hợp phù hợp. Cần vận dụng những kỹ năng của các môn học có liên quan
để việc giảng dạy có hiệu qủa.

II.3.3. Một số yêu cầu khi sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học Địa lí:
Sử dụng kiến thức liên môn phải đáp ứng được mục tiêu môn học. Phải giúp
HS lĩnh hội được kiến thức cơ bản của bài học Địa lí.

4
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

Sử dụng kiến thức liên môn để gây hứng thú học tập của HS, phải góp phần
phát triển năng lực tư duy và kỹ năng Địa lí cho HS.
Sử dụng kiến thức liên môn phải linh hoạt, sáng tạo, tùy thuộc vào yêu cầu
bài học.
II.3.4. Thực nghiệm dạy học tích hợp liên môn trong dạy học Địa lí:
Một số ví dụ tích hợp tôi đã thực hiện trong quá trình dạy học ở trường
THPT Lê văn Hưu:
ĐỊA CHỈ TÍCH HỢP I: Bài 5: Vũ trụ- Hệ Mặt trời và Trái đất. Hệ quả
của chuyển động tự quay quanh trục của Trái đất.
Mục II – Hệ quả của chuyển động tự quay quanh trục của Trái đất. Giờ
trên Trái đất và đường chuyển ngày quốc tế.
- Mục đích tích hợp: Đánh giá khả năng vận dụng kiến thức đã học của HS.
- Nội dung tích hợp liên môn: Tính giờ và ngày của các nơi thuộc các múi giờ
khác nhau trên thế giới.
Tính giờ và tính kinh tuyến khi biết giờ
Bước1: Tính múi giờ
A thuộc bán cầu đông Kinh độ A:15= x (múi giờ mang dấu+)
A thuộc bán cầu tây : A :15 = y (múi giờ mang dấu -)
Bước 2: Tính khoảng cách chênh lệch hai múi giờ
Bước 3: Tính giờ:

Cần tính khu vực múi cao hơn thì (+)tính về phía Đông
Cần tính khu vực múi thấp hơn thì (-) về phía Tây
Bước 4: Tính ngày:
- Cùng bán cầu không đổi ngày
- Khác bán cầu đổi ngày theo quy luật T- Đ lên một ngày
Bài tập vận dụng:
Bài số 1: Biết giờ ở kinh tuyến số 102 0Đ là 16 giờ ngày 20/5/2017. Tính
giờ ở kinh tuyến số 1000T, 1150T, 1760Đ
Bài làm
5
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

Kinh tuyến 1020Đ thuộc múi giờ: 102:15 = 6 dư 12 (lớn hơn 7,5 0), nên
thuộc múi giờ 7.
Kinh tuyến 1000 T thuộc múi giờ:
giờ -7

-(100:15) = 6 dư 10, nên thuộc múi

Kinh tuyến 1150 T thuộc múi giờ: -(115:15) =7 dư 10 nên thuộc múi giờ -8
Kinh tuyến 1760Đ thuộc múi giờ: 176 : 15 = 11 dư 11 nên thuộc múi giờ 12
Múi giờ -7 có giờ đến chậm hơn múi giờ 7 là 14 giờ nên lúc khi đó kinh
tuyến 1000 T là 16- 14= 2 giờ ngày 20-5-2017
Múi giờ -8 có giờ đến chậm hơn múi giờ 7 là 15 giờ nên khi đó kinh tuyến
115 T là 16-15 = 1 giờ ngày 20-5-2017
0


Múi giờ 12 có giờ đến sớm hơn múi giờ 7 là 5 giờ nên khi đó kinh tuyến
1760Đ là 16 + 5= 21 giờ ngày 20-5-2017
Bài tập tương tự: (HS làm nhanh trên lớp hoặc GV giao bài tập về nhà)
Một bức điện được đánh từ Hà nội (múi giờ số 7) đến Pari (múi giờ số 2)
lúc 2 giờ ngày 20-5-2017, hai giờ sau trao cho người nhận. Hỏi lúc đó là mấy
giờ và ngày nào ở Pari?
Điện trả lời từ Pari về Hà nội hồi 1 giờ ngày 20-5-2017, hai giờ sau trao
cho người nhận. Hỏi lúc đó là mấy giờ và ngày nào ở Hà nội?
Bài số 2: Vào giờ nào ở Việt nam (múi giờ số 7) thì mọi nơi trên Trái đất có
giờ khác nhau nhưng cùng ngày?
Kiến thức trong bài học cần nắm được: Trên Trái đất chia làm 24 múi
giờ. Qui ước múi giờ có giờ đến sớm nhất trên thế giới là múi giờ 12, múi giờ có
giờ đến muộn nhất trên thế giới là múi giờ 13 (tức múi giờ số -11)
Cách làm như sau: Gọi giờ cần tìm ở Việt nam là x giờ. Múi giờ đến sớm
nhất là múi giờ 12 lúc đó: x + 5 giờ (lệch với Việt nam 5 giờ). Múi giờ có giờ
đến muộn nhất trên Trái đất là múi giờ số 13 lúc đó: x-18 giờ (múi giờ số 13
tương đương với múi giờ số -11) và lệch với Việt nam 7 - (-11) = 18 giờ.
Vì trong cùng ngày nên phải có đồng thời : x+5<24 và x – 18 > 0
Vậy 18< x<19 (khoảng thời gian từ 18 đến 19 giờ) ở Việt nam thì mọi nơi
trên Trái đất có giờ khác nhau nhưng cùng ngày.
GV yêu cầu HS về nhà làm bài tương tự: Cũng hỏi như bài trên với bất kỳ
địa điểm nào trên Trái đất (ví dụ ở thủ đô Luân đôn nước Anh)
6
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

ĐỊA CHỈ TÍCH HỢP 2: Bài 6: Hệ quả của chuyển động xung quanh
Mặt trời của Trái đất- Mục I: Chuyển động biểu kiến của Mặt trời quanh

hai chí tuyến.
Mục đích tích hợp: Vận dụng kiến thức đã học để tìm hiểu và giải thích
các hiện tượng tự nhiên
Kiến thức cơ bản:
- Nhớ và hiểu được đường chuyển động biểu kiến của Mặt trời quanh 2 chí
tuyến (mục I- SGK). Khái niệm “Chuyển động biểu kiến”. Những nơi trên
Trái đât trong một năm có 2 lần, 1 lần và không có lần nào Mặt trời lên thiên
đỉnh? Càng gần xích đạo khoảng cách giữa 2 lần Mặt lên thiên đỉnh càng xa
nhau.
- Khi Trái đất quay quanh Mặt trời trục Trái đất nghiêng một góc không đổi
với Mặt phẳng Hoàng đạo là 66033’. Ngày 22/6 bán cầu Bắc ngả nhiều về
phía Mặt trời nhất (Ngày Hạ chí). Mặt trời lên thiên đỉnh ở 23 027’B góc nhập
xạ vào ngày 22/6 ở chí tuyến Bắc là 900.
- Ngày 22/12 bán cầu Nam ngả nhiều về phía Mặt trời nhất (Đông chí). Vào
ngày này Mặt trời lên thiên đỉnh ở chí tuyến Nam 23 027’N, góc nhập xạ vào
ngày 22/12 ở Chí tuyến Nam là 900.
- Ngày 21/3(Xuân phân) và 23/9 (Thu phân) ánh sáng Mặt trời đều chiếu
vuông góc với Xích đạo lúc giữa trưa, góc nhập xạ vào ngày Xuân phân và
Thu phân ở Xích đạo là 900..
- Tính chất bằng nhau của các góc đồng vị và góc có cạnh tương ứng song
song trong hình học.
- Mặc dù có thể dùng công thức tổng quát tính góc tới tại các địa điểm có vĩ độ
khác nhau:
h0 = 900 - φ ± α
Trong đó, h0 là góc tới, φ là vĩ độ của điểm cần tính, α là góc nghiêng của tia
sáng Mặt trời với mặt phẳng Xích đạo.
Vào các ngày 21/3, 23/9, α = 0 nên h0 = 900 – φ
Nếu dựa vào công thức này học sinh sẽ khó hiểu, rất dễ nhầm lẫn và chắc
chắn còn rất nhiều băn khoăn thắc mắc, nên dù tính bằng cách nào cũng phải
dạy cho học sinh biết vẽ hình để tính góc nhập xạ.

Bài tập1: Ở TP Hồ chí Minh (10047’B) Mặt trời lên thiên đỉnh mấy lần trong 1
năm? Tại sao nhiệt độ tháng cao nhất trong năm ở TP Hồ chí Minh là tháng 4?
Trả lời:
Dựa vào đường chuyển động biểu kiến trong năm của Mặt trời quanh 2 chí
tuyến (Hình 6.1 trang 22 SGK Địa lí 10) ta thấy TP Hồ chí Minh thuộc vòng đai
7
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

nội chí tuyến nên có 2 lần Mặt trời lên thiên thiên đỉnh trong năm là đầu tháng 5
và tháng 8. Tuy nhiên tháng 8 là mùa mưa độ ẩm cao nên nhiệt độ hạ thấp. Vì
thế nhiệt độ tháng cao nhất trong năm ở TP Hồ chí Minh là tháng 4 (mùa khô).
Bài tập 2: Dựa vào kiến thức đã biết về chuyển động biểu kiến hàng năm của
Mặt trời. Hãy tính thời gian Mặt trời lên thiên đỉnh vào các ngày nào tại các vị
trí sau: (Cho phép sai số 1 ngày).
Địa điểm

Hà nội 21001’B

Huế 16024’B

TPHCM 10047’B

Lần I
Lần II
Bài làm:
a) Tại Hà nội:
Yêu cầu học sinh nhớ được hình vẽ về chuyển động biểu kiến của Mặt trời ở 4

ngày đặc biệt Xuân phân, Hạ chí, Thu phân, Đông chí.
Theo sơ đồ ta thấy Mặt trời lên thiên đỉnh ở các vĩ độ Bắc chỉ có trong thời gian
từ 21/3 đến 22/6 và từ 22/6 đến 23/9. Các thời gian khác Mặt trời lên thiên đỉnh
ở các vĩ độ nằm trong trong vòng đai nội chí tuyến Nam bán cầu.
Như vậy hai lần Mặt trời đi qua thiên đỉnh ở Hà nội sẽ nằm vào hai khoảng thời
gian từ 21/3 đến 22/6 và từ 22/6 đến 23/9.
Lần I: Ngày 21/3 Mặt trời lên thiên đỉnh ở Xích đạo 00.
Ngày 22/6 Mặt trời lên thiên đỉnh ở 23027’B.
Từ 21/3 đến 22/6 (93 ngày) Mặt trời di chuyển được 23027’.
Một ngày Mặt trời di chuyển được 23027’(1407’) : 93 = 15,1’
Từ 00 đến 21001’Mặt trời di chuyển được 21001’(1261’)
Để di chuyển được 1261’ Mặt trời phải mất thời gian là: 1261’: 15,1’=
83,5 ngày
Vây thời gian Mặt trời lên thiên đỉnh lần I là:
21/3 + 83,5 ngày (khoảng 13 tháng 6)
Lần II: Ngày 22/6 Mặt trời lên thiên đỉnh ở 23027’B
Ngày 23/9 Mặt trời lên thiên đỉnh ở 00
Từ 22/6 đến 23/9 (93 ngày) Mặt trời di chuyển được 23027’
8
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

Một ngày Mặt trời di chuyển được 23027’ : 93 ngày = 15,1’
Từ 23027’ về 21001’ Mặt trời di chuyển được 23027’- 21001’= 2026’ (146’)
Vậy Mặt trời phải mất thời gian là: 146’: 15,1’= 9,7 ngày
Ngày đó là khoảng 22/6 + 9,7ngày (khoảng 2/7)
Kết luận: Hai lần Mặt trời lên thiên đỉnh tại Hà nội (21001’B) là 13/6 và 2/7.
b) GV yêu cầu HS tính tương tự đối với hai địa điểm Huế và TP Hồ chí

Minh. Sau đó GV nhận xét bổ sung và điền kết quả vào bảng.
Kết quả như sau:
Thời gian Mặt trời lên thiên đỉnh ở Hà nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh.
Địa điểm
Lần I
Lần II

Hà nội 21001’B
Ngày 13/6
Ngày 2/7

Huế 160 24’B
Ngày 15/5
Ngày 20/7

TPHCM 10047’B
Ngày 3/5
Ngày 2/8

* Nhận xét: Ở những điểm gần Xích đạo khoảng cách giữa hai lần Mặt trời đi
qua thiên đỉnh xa nhau còn những điểm xa Xích đạo khoảng cách giữa hai lần
Mặt trời đi qua thiên đỉnh gần nhau. Vì vậy đường biểu diễn sự thay đổi nhiệt độ
trong năm của những địa điểm nằm gần Xích đạo có hai cực đại, những điểm
nằm xa Xích đạo đường biểu diễn nhiệt độ năm chỉ có một cực đại.
Bài tập 3: Tìm tạo độ các điểm trên Trái đất biết rằng:
+ Vào ngày 22/6 tia bức xạ Mặt trời lúc giữa trưa hợp với mặt phẳng chân trời
một góc 600.
+ Sau thời gian 30 phút đài BBC (Luân đôn) báo 4 giờ thì tại vị trí này Mặt trời
mọc.
Trả lời:

a) Tìm vĩ độ: Qua hình vẽ ta tìm được vĩ độ mà ngày 22/6 tia bức xạ Mặt trời
lúc giữa trưa hợp với mặt phẳng chân trời một góc 600 là:
+ Vĩ độ của điểm A là số đo góc O1:

300 + 23027’ = 53027’B

+ Vĩ độ của điểm C là số đo góc O2:

300 – 23027’ = 6033’ N

Hình vẽ như sau:

9
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

b) Tìm kinh độ: Theo đề bài vị trí của điểm đó có giờ đến sớm hơn Luân đôn
là: 6 + 0,5 – 4 = 2,5 giờ.
Vậy kinh độ của điểm đó là: 2,5 x 150 = 37030’Đ
Kết luận: Vị trí của điểm đó là: (53027’B; 37030’Đ) và (6033’N; 37030’Đ)
Bài tập 4: Ngày 20/5/2011 có một chiếc tàu biển đi trên đại dương, vị trí của
chiếc tàu đó ở vị trí mà Mặt trời đi qua thiên đỉnh cùng ngày. Buổi trưa trên
boong tàu khi Mặt trời đứng bóng lúc đó ở kinh tuyến gốc là 14 giờ. Hãy cho
biết:
a) Vị trí của chiếc tàu đó nằm ở khoảng kinh độ, vĩ độ nào?
b) Tàu biển đó đang ở múi giờ số mấy?
c) Tàu biển đó đang ở Đại dương nào?
Trả lời:

a) Tìm vị trí của chiếc tàu biển:
Tìm vĩ độ: Vĩ độ của tàu biển là ví trí mà Mặt trời đi qua thiên đỉnh ngày
20/5.
Ta biết ngày 20/5 Mặt trời đi qua thiên đỉnh ở vĩ độ Bắc bán cầu vì ngày đó nằm
trong khoảng từ 21/3 đến 22/6.
Ngày 21/3 mặt trời lên thiên đỉnh ở Xích đạo 00
Ngày 22/6 Mặt trời lên thiên đỉnh ở chí tuyến Bắc 23027’B.
Từ ngày 21/3 đến 22/6 (93 ngày) Mặt trời đi được 23027’
Một ngày Mặt trời đi được: 23027’: 93=15,1’
Từ ngày 21/3 đến 20/5 (60 ngày) Mặt trời đi được: 60 x 15,1’ = 906’(15 06’).
Vậy vĩ độ cần tìm là: 1506’B
10
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

*Tìm kinh độ:
Trên boong tàu khi Mặt trời đứng bóng (12 giờ) lúc đó kinh tuyến gốc là 14 giờ.
Vậy kinh tuyến gốc có giờ đến sớm hơn ví trí của tàu là 2 giờ (15 0 x 2 =300 kinh
tuyến).
Kinh độ của ví trí tàu đang đứng là: 300 T
Vậy tọa độ của tàu là: (15006’B; 300 T)
b) Tìm múi giờ nơi tàu đang đứng:
Tàu biển đang đứng ở múi giờ số 22 vì có giờ đến muộn hơn kinh tuyến
gốc là 2 giờ.
c) Đại dương nơi tàu đang đứng:
Vì có tọa độ 15006’B và 300T nên tàu đang ở Đại Tây Dương.
Bài tập 5: Một đoạn Nhật kí của một nhà thiên văn có đoạn viết:
“ Độ cao sao Bắc cực

Hai mốt độ ba ba
Giữa trưa hướng về Bắc
Bóng dài bằng thân ta.”
Xác định vĩ độ và ngày tháng mà tác giả đã quan sát để ghi đoạn nhật kí trên.
(Trích bài tập sách thiên văn)
Bài làm:
-

Vĩ độ của một điểm là độ cao sao Bắc cực trên đường chân trời tại điểm đó,
nên tác giả đang đứng ở vĩ độ 21033’.
** Nếu ở Nam bán cầu thì tại điểm B có vĩ độ 66 033’N, giữa trưa Mặt trời đi
qua thiên đỉnh là vô lí.
Hình vẽ minh họa như sau:
CD song song với BO (tia bức xạ)
AD = AC (bóng = thân) nên góc C = 450
Góc DCA = góc AOB = 450 (so le) nên B có vĩ độ là: 21033’+ 450= 66033’N.
Tại B, Mặt trời không bao giờ lên thiên đỉnh.

11
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

** Nếu tác giả đang đứng ở Bắc bán cầu 21033’ B tại điểm A ta có hình vẽ minh
họa sau:

Theo hình vẽ: A là điểm quan sát có vĩ độ 21033’.
AD=AC ( bóng = thân) nên góc C = 450
Góc AOB = góc DCA = 450 (so le) nên góc O’OB = 450 – 21033’ =23027’N

Vậy B nằm trên chí tuyến Nam.
Tia bức xạ Mặt trời chiếu thẳng góc tại B vào ngày 22-12 (Đông chí)
12
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

Vậy tác giả đang đứng ở vĩ độ 21 033’B, ngày mà tác giả quan sát là ngày Đông
chí 22/12.
ĐỊA CHỈ TÍCH HỢP 3: Tích hợp liên môn bài 6: Hệ quả của chuyển động
của Trái đất xung quanh Mặt trời.- Mục III: Ngày đêm dài nhắn khác nhau
theo mùa và theo vĩ độ.
Bài tập về: Xác định các vĩ độ khi biết hình vẽ thể hiện chênh lệch độ dài ngày
đêm theo mùa:
Dựa vào hình vẽ thể hiện ngày và đêm như sau:

a.
b.
Trả lời:

Hãy cho biết các hình A, B, C, D, E, G thuộc vĩ độ bao nhiêu? Ở
bán cầu nào? Tại sao?
Trình bày và giải thích hiện tượng ngày và đêm ở hình D.

a. Xác định vị trí:
- Hình A ở 00 (xích đao). Nơi có ngày, đêm luôn dài bằng nhau.
- Hình B ở 900 B (cực bắc). Nơi có 6 tháng ngày liền và 6 tháng đêm liền.
13
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.



Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

- Hình C ở 66033’B (vòng cực bắc). Nơi chỉ có 1 ngày dài 24 giờ, 1 đêm dài
24 giờ. Tháng 5,6,7,8 có ngày dài hơn đêm.
- Hình D ở 23027’B (Chí tuyến bắc). Nơi có sự chênh lệch ngày đêm là 1 giờ
30’, tháng 5,6,7 ngày dài hơn đêm. Tháng 10,11,12,1,2 có đêm dài hơn ngày.
- Hình E ở 23027’N (chí tuyến Nam). Ngược với hình D, tháng 5,6,7 có đêm
dài hơn ngày, tháng 10,11,12, ngày dài hơn đêm.
- Hình G ở 66033’N (vòng cực nam). Ngược với hình C, tháng 5.6.7 đêm dài
hơn ngày, nơi đây chỉ có 1 ngày dài 24 giờ, 1 đêm dài 24 giờ trong năm.
b. Trình bày và giải thích hiện tượng ở hình D.
- Trái đất luôn giữ độ nghiêng 66033’so với mặt phẳng quĩ đạo nên khi quay
quanh Mặt trời nên: Băc bán cầu có hiện tượng ngày dài đêm ngắn từ tháng 5
đến tháng 10.
- Nam bán cầu có hiện tượng ngày ngắn đêm dài từ tháng 5 đến tháng 10.
- Hình D – Từ tháng 5 đến tháng 10:
Khi bắc bán cầu nghiêng nhiều về phía Mặt trời, là lúc hiện tượng ngày dài
đêm ngắn, còn Nam bán cầu có hiện tượng ngày ngắn đêm dài. Tại chí tuyến bắc
hiện tượng này rõ nhất vào các tháng 5,6,7 nên nhân dân ta có câu:
“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng.
Ngày tháng mười chưa cười đã tối”
Từ tháng 10 trở đi, khi bán cầu nam nghiêng nhiều về phía Mặt trời thì hiện
tượng ngược lại.
Theo hình D, sự chênh lệch ngày đêm dài nhất là vào tháng 6, khoảng 1,5
giờ. Tương tự chênh lệch đêm ngày dài nhất vào tháng 12, khoảng 1,5 giờ. Vì
vậy hình D là biểu đồ ngày đêm tại chí tuyến Băc (23027’B).
* Ở Việt nam – trong 3 địa điểm: Lạng sơn, Huế, TP Hồ Chí Minh, câu ca
dao đó đúng ở địa điểm nào và không đúng lắm cho điểm nào? Vì sao?

Trả lời:
Trong thực tế hiện tượng “Ngày dài, đêm ngắn”(tháng 5) và “Ngày ngắn
đêm dài” (tháng 10) là do ảnh hưởng sự tự quay quanh trục của Trái đất và
chuyển động của Trái đất quanh Măt trời nên sinh ra hiện tượng ngày đêm chênh
lệch giữa 2 nửa cầu và các mùa.
-

Vào ngày 22-6 hằng năm, tia bức xạ chiếu vuông góc với tiếp tuyến bề mặt
Trái đất tại chí tuyến Bắc (23027’B) nên thời gian chiếu sáng ở nửa cầu Bắc
(Việt nam) dài. Càng về phía cực Bắc càng dài nên có hiện tượng ngày dài đêm
ngắn.

14
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

-

Vào ngày 22-12, Mặt trời chuyển động biểu kiến về chí tuyến Nam và vuông
góc với tiếp tuyến bề mặt Trái đất tại chí tuyến nam (23 027’N) thì ở Việt nam có
hiện tượng ngày ngắn đêm dài.
Câu ca dao trên chỉ đúng cho Lạng sơn và Hà nội, TP Hồ chí Minh không
đúng lắm vì gần Xích đạo (luôn có hiện tượng ngày đêm dài bằng nhau trong
năm)
ĐỊA CHỈ TÍCH HỢP 4:
Tích hợp liên môn với môn Hóa học trong bài 9 : Tác động của ngoại
lực đến địa hình bề mặt Trái đất. Mục II: Phong hóa hóa học.
GV yêu cầu HS sử dụng kiến thức môn hóa học mô tả và giải thích quá

trình hình thành hang động ở núi đá vôi. Cụ thể như sau:
Nhũ đá được tạo thành từ CaCO3 các khoáng chất khác kết tụ từ dung
dịch nước khoáng. Đá vôi là đá chứa cacbonat canxi bị hòa tan trong nước có
chứa khí cacbonic tạo thành dung dịch Ca(HCO3)2.
Phản ứng như sau: CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2
Dung dịch này chảy qua các kẽ đá cho đến khi gặp vách đá hay trần đá và nhỏ
giọt xuống. Do Ca(HCO3)2 không bền khi dung dịch tiếp xúc với không khí,
phản ứng hóa học tạo thành nhũ đá như sau:
Ca(HCO3)2 → CaCO3 + H2O + CO2
Nhũ đá “lớn lên” hàng năm. Các nhũ đá “lớn” nhanh nhất là những vùng
núi đá vôi có độ ẩm dồi dào, nhiều CO 2 . Từ đó GV có thể khẳng định khu vực
nhiệt đới ẩm là khu vực có quá trình phong hóa hóa học diễn ra mạnh do có
lượng nước dồi dào, nhiệt độ cao nên khả năng hòa CO2 vào nước rất lớn.
GV yêu cầu HS liên hệ với thực tế địa phương về sự phân bố, nguyên
nhân hình thành của các hang động.
ĐỊA CHỈ TÍCH HỢP 5: Tích hợp kiến thức Toán học, Văn học, Âm nhạc,
… để dạy Bài 12 – Sự phân bố khí áp. Một số loại gió chính - Mục II- 4Gió Địa phương
Bài tập: Cho sơ đồ về hiện tượng gió phơn ở một dãy núi như sau:
B
h

A =210C

C = 450C
15

Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.


a, Cho biết sự khác biệt về thời tiết ở 2 sườn núi về nhiệt độ, độ ẩm.
b. Hãy tính độ cao h của dãy núi. Tính nhiệt độ tại đỉnh núi.
c. Hiện tượng này thể hiện rõ nhất ở vùng nào của nước ta? Em liên hệ đến câu
hát nào trong ca khúc rất hay của nhạc sĩ Phan huỳnh Điểu- phổ thơ Thúy Bắc.
Bài làm:
a. Sự khác biệt ở 2 sườn núi về nhiệt độ: Chân núi ở sườn đón gió có nhiệt độ
thấp hơn chân núi ở sườn khuất gió (210C so với 450C)
- Sự khác biệt về độ ẩm: Sườn đón gió mưa nhiều, sườn khuất gió khô, nóng,
độ ẩm dưới 50%
- Sườn AB là sườn đón gió, không khí bị đẩy lên cao sẽ giảm nhiệt độ, trung
bình cứ lên cao 100m giảm 0,60C đó là điều kiện ngưng kết hơi nước, tạo mây
gây mưa.
- Sườn BC, không khí vượt qua sườn AB trở nên khô và di chuyển xuống núi,
nhiệt độ tăng dần, trung bình cứ xuống 100m tăng 1 0C, không có điều kiện
ngưng tụ hơi nước, trời trong, nhiệt độ cao, không hoặc ít mưa.
b. Tính độ cao của dãy núi:
Nếu ngọn núi cao 100m thì khi gió vừa đi lên rồi xuống núi nhiệt độ chênh
lệch giữa A và C là: 10C – 0,60C = 0,40C
Thực tế qua hình minh họa ta thấy nhiệt độ chênh lệch giữa A và C là
450C – 210C = 240C
Vậy độ cao của đỉnh núi là: 240C x 100m : 0,40C = 6000 m
Tính nhiệt độ tại đỉnh núi:
Ta có nhiệt độ giảm từ A đến B là: (6000 x 0,6) : 100 = 360C
Vậy nhiệt độ tại đỉnh núi là: 210C - 360C = -150C
c. Hiện tượng này thể hiện rõ nhất ở vùng Bắc Trung bộ của nước ta, tỉnh chịu
ảnh hưởng của gió phơn mạnh nhất vào đầu mùa hạ là Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Thừa Thiên Huế.
Câu hát ta thường liên hệ đến trong Bài “Sợi nhớ, sợi thương” của nhạc sĩ
Phan huỳnh Điểu- phổ thơ Thúy Bắc là: “Trường sơn Đông, Trường sơn Tây.

Bên nắng đốt, bên mưa bay”.
*** GIÁO ÁN MINH HỌA (Phần phụ lục)
Sau đây là kế hoạch dạy học tích hợp đã được thử nghiệm ở khối 10 (Lớp
10A6) trường THPT Lê Văn Hưu, năm học 2016-2017. Chủ đề “ Tích hợp liên
16
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

môn Toán, Vật lý, Văn học, Âm nhạc,... trong Bài 12- Sự phân bố khí áp. Một
số loại gió chính.

II.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, đối với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường.
Qua thời gian tổ, nhóm và cá nhân vừa nghiên cứu cơ sở lý luận vừa áp
dụng vào một số nội dung dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn ở trường tôi
nhận thấy các nội dung kiến thức có tiềm năng dạy học tích hợp liên môn, việc
dạy học tích hợp liên môn mang lại hiệu quả cao như sau:
* Trong học tập của HS đạt kết quả cao:
- Bằng những quan sát định tính tôi thấy các tiết dạy tích hợp liên môn các em
học sinh học tích cực, chủ động, hứng thú trong việc tìm ra các tri thức mới với
những biểu hiện như: các em học sôi nổi, tích cực trao đổi, chủ động bày tỏ quan
điểm.
- Các kiến thức mới hình thành đều được gắn với những tình huống cụ thể vì thế
sẽ tăng được khả năng vận dụng được kiến thức vào thực tế cuộc sống.
- Được phát huy kiến thức nhiều môn học sẽ tạo điều kiện cho HS học toàn diện
các môn, tránh xu hướng học lệch ở các em.
-Các em được phát triển năng lực quan sát, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực
phán đoán, năng lực thu nhận thông tin, năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng

tạo,...
Trong năm học 2016-2017 vừa qua tôi đã ứng dụng đề tài này vào giảng
dạy. Qua các tiết GV quan tâm đến sử dụng kiến thức liên môn và không sử
dụng kiến thức liên môn, tôi đã thăm dò ý kiến và qua kết quả học bài cũ, kết
quả học tập thu được như sau:
Hứng thú của HS khi GV sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy Địa lí

Số học sinh
Tỉ lệ

Lớp đối tượng HS học theo đề tài
(10A6)

Lớp đối tượng HS không học
theo đề tài (10A7).

-Sĩ số 38-

-Sĩ số 37-

Thích

Không ý
kiến

Không
thích

Thích


Không
ý kiến

Không
thích

32

3

3

20

4

13

84,2%

7,9%

7,9%

54,1%

10,8%

35,1%
17


Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

Để kiểm tra kết quả học tập của HS học theo đề tài, sau bài học tôi thường
cho các em làm bài kiểm tra (cả bài tự luận, cả bài trắc nghiệm khách quan) về
nội dung của các bài học các em vừa được học trên lớp. Để kết quả kiểm tra
chính xác nhất, tôi thực hiện kiểm tra 2 lớp (1 lớp học theo đề tài và 1 lớp không
học theo đề tài).

Tỉ lệ

Lớp đối tượng HS học theo đề
tài (10A6)

Lớp đối tượng HS không
học theo đề tài (10A7)

-Sĩ số 38-

-Sĩ số 37-

Bài
Tự luận Số
HS
Tỉ
lệ
Trắc

Số
nghiệm HS
khách
Tỉ
quan
lệ

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Giỏi

Khá

TB

Yếu

16

17

5

0


4

14

17

2

0%

10,8%

37,9
%

0

5

16

0%

13,5%

43,2
%

42,1% 44,7% 13,2%

14

18

6

36,8% 47,4% 15,8%

45,9 5,4%
%
13

3

35,1 8,2%
%

Kết quả thực nghiệm chứng tỏ rằng, khi sử dụng kiến thức liên môn để gây
hứng thú cho HS trong dạy học môn Địa lí ở trường phổ thông sẽ đem lại kết
quả cao trong việc giúp HS lĩnh hội kiến thức. Kết quả thu được cho thấy: chất
lượng HS của lớp thực nghiệm cao hơn nhiều và điều đó khẳng định mục đích
của đề tài mà tôi đã thực hiện thành công.
- Sáng kiến này có thể áp dụng hiệu quả đối với HS các trường THPT, đặc biệt
có thể làm tài liệu tham khảo cho HS khi ôn luyện HSG Địa lí.
- Trong năm học vừa qua các em tham dự kỳ thi HSG lớp 10 cấp trường, những
em ở lớp tôi thực hiện đề tài có kết quả cao hơn nhiều so với các năm học trước.
(Một em giải nhì, 2 em giải ba, 3 em giải khuyến khích).

18
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.



Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

III.

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:

1. Kết luận: Từ thực tế giảng dạy tôi đã rút ra một số kinh nghiệm về việc
vận dụng tích hợp liên môn trong giảng dạy địa lí như sau:
- Việc tổ chức dạy học tích hợp liên môn trong giảng dạy Địa lí phải được thực
hiện thường xuyên, liên tục, những nội dung tích hợp cần mang tính cụ thể,
gắn với thực tiễn của cuộc sống tránh lý thuyết mang tính hàn lâm khoa học.
- Nội dung tích hợp cần phải thực hiện cụ thể trong giáo án của GV ở từng
bài, từng đơn vị kiến thức phải rõ mức độ tích hợp.
- Thường xuyên trau dồi kiến thức trong sách vở cũng như thực tế làm cho bài
giảng trở nên tự nhiên, sinh động hơn.
2. Kiến nghị, đề xuất:
- Đối với BGH nhà trường:
Tăng cường công tác chỉ đạo, khuyến khích GV tích cực đổi mới phương
pháp dạy học tích hợp liên môn.
Tạo điều kiện cho GV có năng lực nghiên cứu, có hỗ trợ về kinh phí và động
viên kịp thời các GV đưa ra những đề tài, ý tưởng có tính khả thi cao.
- Đối với tổ, nhóm chuyên môn:
Thường xuyên tổ chức các đợt sinh hoạt chuyên môn để trao đổi kinh nghiệm
dạy học tích hợp một cách có hiệu quả.
- Trong giảng dạy, mỗi GV xem đây là yêu cầu không thể thiếu, cần được ứng
dụng rộng rãi trong nhiều mục giảng dạy của một tiết lên lớp. Đồng thời cũng
cần đề cao vai trò của dạy học tích hợp liên môn thường xuyên, nghiêm túc,
nhằm đưa chất lượng dạy học ngày càng cao.

Thanh hóa, ngày 20-5-2017.
Người viết

Hoàng Thị Hà.

19
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo khoa Địa lí lớp 10 - NXB giáo dục.
2. Sách giáo viên Địa lí lớp 10 - NXB giáo dục.
3. Tuyển tập đề thi Ôlimpic môn Địa lí các năm từ 2004 đến 2014.
4. Đề thi học sinh giỏi cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc gia các năm từ
năm 2006-2014.

20
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.


Tích hợp liên môn trong dạy học phần Địa lí tự nhiên- Địa lí 10- THPT.

Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị.

Thanh hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người

khác.
Người viết

Hoàng Thị Hà

21
Hoàng Thị Hà - THPT Lê văn Hưu.



×