Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm góp phần nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong môn địa lí 11 thông qua phần vào bài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 22 trang )

SỞ
DỤC
VÀVÀ
ĐÀO
TẠO
THANH
HÓAHÓA
SỞGIÁO
GIÁO
DỤC
ĐÀO
TẠO
THANH
TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 3

TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRONG MÔN ĐỊA
LÍ 11 THÔNG QUA PHẦN VÀO BÀI

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GÓP PHẦN NÂNG CAO
HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRONG MÔN ĐỊA LÍ 11
THÔNG QUA PHẦN VÀO BÀI

Người thực hiện: Tống Văn Thành
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Địa lý



Người thực hiện: Tống Văn Thành
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Địa lý

THANH HÓA NĂM 2017

MỤC LỤC
THANH HÓA NĂM 2017

Tran
g


1. Mở đầu ......................................................................................................
1.1. Lí do chọn đề
tài ......................................................................................
1.2. Mục đích nghiên
cứu ...............................................................................
1.3. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................
1.4. Phương pháp nghiên
cứu .........................................................................
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm............................................................
2.1 Cơ sở lí luận ............................................................................................
2.2. Thực trạng dạy học Địa lí tại trường THPT Tĩnh Gia 3..........................
2.3. Giải pháp tổ chức thực hiện……………………………………………
2.4.. Hiệu quả của đề tài……………………………………………………..
3. Kết luận, khuyến nghị
..............................................................................
3.1. Kết luận……...…………………………………………………………

3.2. Kiến nghị………………………………………………….……………

1
1
1
1
1
2
2
2
3
18
19
19
19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Người thầy giáo có thể say mê giảng bài suốt 45 phút của một tiết học mà
không có cảm giác mệt mỏi. Nhưng với học sinh, việc tập trung nghe thầy giảng
bài suốt 45 phút trong một buổi học thường có từ 4 - 5 tiết học lại không phải là
điều dễ dàng. Hiện tượng uể oải, ngáp vặt, ngủ gục, nói chuyện riêng trong lớp
diễn ra khá phổ biến.
Từ thực tế trên, ta thấy trong quá trình dạy học thì việc tạo hứng thú, tạo
niềm đam mê học tập là rất quan trọng. Khi có được sự hứng thú thì các em sẽ
tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và hiểu quả.
Trong các môn học ở lớp 11, thì bộ môn Địa lí được học sinh coi là khá
khô khan và đơn điệu. Chương trình Địa lí 11 các em sẽ đi tìm hiểu khái quát
nền kinh tế - xã hội thế giới, địa lí khu vực và quốc gia – là những vấn đề mà các

em nghĩ là xa xôi, các em chưa hiểu tới,...Từ những suy nghĩ ban đầu đó sẽ làm
cho các em có tâm lí chán học, không có hứng thú đối với bộ môn. Đây cũng
chính là những lí do làm cho chất lượng dạy – học của thầy và trò chưa đạt kết
quả như mong muốn.
Vậy làm sao để tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Địa lí 11?
Theo tôi, người giáo viên phải đầu tư cho khâu soạn giảng của mình, phải
hướng dẫn học sinh biết cách khám phá tri thức, phải tạo tâm thế thoải mái trong
các tiết học và đôi khi cũng phải hài hước một chút, không dễ dàng nhưng cũng
không quá cứng nhắc,...
Có nhiều cách để tạo hứng thú cho một tiết học, trong đó khâu vào bài
cũng góp một phần rất quan trọng.
Một phần vào bài hay, lôi cuốn sẽ kích thích được sự tò mò từ học sinh,
giúp các em phấn chấn hơn, muốn tìm hiểu xem tiếp sau đó là gì? Và như thế sẽ
có một tiết học thoải mái và đạt kết quả cao.
Vì những lí do đó, sau nhiều năm giảng dạy Địa lí 11 tôi muốn chia sẻ
cùng quý thầy cô một số kinh nghiệm được viết trong đề tài:“ Một số kinh
nghiệm góp phần nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong môn địa lí 11
thông qua phần vào bài”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Một số kinh nghiệm góp phần nâng cao hứng thú học
tập của học sinh trong môn địa lí 11 thông qua phần vào bài” với mục đích:
Nâng cao hiệu quả học tập môn Địa lý trong từng giờ dạy. Tạo nguồn hứng thú
để học sinh tập trung và tiếp thu nội dung bài học tốt hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Hứng thú học tập môn Địa lý của học sinh lớp 11 trường THPT Tĩnh Gia
3 thông qua phần vào bài.


1.4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: nhằm nghiên cứu cơ sở

lí luận cho đề tài
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: nhằm nắm bắt
được thực trạng dạy và học của bộ môn Địa lí ở trường THPT Tĩnh Gia 3, từ đó
thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học.
+ Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: việc thống kê và xử lí số liệu để có
những thông số cần thiết đánh giá hiệu quả trước và sau khi thực hiện đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý
nhất trong các nghề cao quý, sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo”. Sự sáng
tạo của nghề dạy học là người thầy phải nghiên cứu, phải tìm hiểu kiến thức, rèn
luyện kĩ năng dạy học để lôi cuốn học sinh vào bài dạy của mình để rồi từ đó các
em chủ động lĩnh hội kiến thức, biết áp dụng kiến thức vào thực tiễn.
Để đạt được yêu cầu đó đòi hỏi người giáo viên phải biết “đào sâu” cũng
như vận dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau không chỉ ở nội dung
chính của bài mà cả những phần phụ như vào bài, chuyển ý hay là liên hệ thực
tế. Đối với bộ môn Địa lí, trong quá trình dạy học tôi thường sử dụng các
phương pháp sau để vào bài một tiết học mới:
Giải quyết vấn đề
Ở phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một (hay hệ thống) vấn
đề nhận thức, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, sau đó giáo viên phối
hợp cùng học sinh (hướng dẫn, điều khiển học sinh) giải quyết vấn đề, đi đến
những kết luận cần thiết của nội dung học tập.
Đàm thoại gợi mở
Là phương pháp, trong đó giáo viên soạn ra câu hỏi lớn, thông báo cho
học sinh. Sau đó, chia câu hỏi lớn ra thành nhiều câu hỏi nhỏ hơn, có quan hệ
lôgic với nhau, tạo ra những cái mốc trên con đường thực hiện câu hỏi lớn.
Trong quá trình dạy học giáo viên có thể sử dụng 6 dạng câu hỏi: nhận
biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá.
Phương pháp trực quan

Là phương pháp sử dụng tranh ảnh, lược đồ, biểu đồ, mô hình…để minh
họa nội dung kiến thức hoặc cao hơn là thông qua đó học sinh rút ra được kiến
thức cần thiết cho nội dung bài học.
Dạy học nhóm
Dạy học nhóm là một hình thức của dạy học, trong đó học sinh của một
lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi
nhóm tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm
việc. Kết quả của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.
Tóm lại, không có phương pháp nào là tối ưu cho một tiết học, cho nên
tùy theo đối tượng học sinh, thời gian, kiến thức…mà giáo viên đưa ra những
phương pháp dạy phù hợp nhất, trong đó có phần vào bài mới.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.


Chương trình Địa lí 11 gồm hai phần lớn: khái quát nền kinh tế - xã hội
thế giới và địa lí khu vực, quốc gia. Trong quá trình dạy học phần vào bài tôi
thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
2.2.1. Thuận lợi
Chương trình và sách giáo khoa có sự đổi mới cơ bản. Nội dung được tinh
lọc hơn, mỗi bài học có nhiều kênh hình, bảng số liệu, biểu đồ…giúp học sinh
dễ dàng chiếm lĩnh kiến thức hơn. Trong đó có những hình ảnh ngay trong bài
học để giáo viên dựa vào đó đặt câu hỏi để chuyển vào bài mới.
Đặc điểm tâm – sinh lý học sinh thay đổi theo hướng tích cực. Học sinh
tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ nhiều mặt của cuộc sống,
có hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi
trước đây, đặc biệt là học sinh phổ thông. Đó là điều kiện thuận lợi để giáo viên
cho các em tự chiếm lĩnh tri thức. Bản thân tôi đã mạnh dạn để giao cho các em
soạn phần vào bài trước ở nhà (có giới hạn nội dung và thời gian) để lên lớp kết
hợp với máy tính, máy chiếu trình bày trước lớp.
Cơ sở vật chất kĩ thuật, giáo cụ phục vụ cho việc dạy và học Địa lý đã

được tăng cường. Từ bản đồ, tranh ảnh đến máy tính, máy chiếu, ti vi,… giúp
quá trình dạy học tốt hơn, trong đó có phần dạy vào bài mới.
2.2.2. Khó khăn
Trong chương trình địa lí lớp 11, các em sẽ tìm hiểu về một số châu lục,
khu vực và các quốc gia trên thế giới. Nội dung học khá đơn giản nhưng nếu
không hướng dẫn học sinh tiếp cận kiến thức đúng thì nó có thể biến thành “đơn
điệu” và trùng lặp gây tâm lí chán nản với học sinh trước khi đi vào tiết học.
Những khó khăn lớn mà giáo viên Địa lí gặp khó khăn trong quá trình dạy
học nói chung và vào bài nói riêng là:
- Những kiến thức về địa lí thế giới, khu vực, quốc gia các em học từ lớp
7, lớp 8 nên để nhớ lại kiến thức cũ là khó khăn. Mỗi bài học nếu học sinh
không xem trước bài ở nhà thì nó sẽ trở nên xa lạ và khó tiếp thu bài ở trên lớp.
- Để hiểu được những nét khái quát về tự nhiên, dân cư, xã hội và kinh tế
của các quốc gia hay châu lục đòi hỏi học sinh phải linh hoạt, biết vận dụng
những kiến thức đại cương từ lớp 10. Các em phải thấy được mối liên hệ gữa
các nhân tố đó để phân tích, giải thích một vấn đề. Điều này “hơi khó” đối với
những học sinh có học lực trung bình và học sinh yếu.
- Hiện nay, trong quan điểm của một số học sinh thì môn Địa lí được coi
là môn học phụ, cho nên chưa đầu tư tìm hiểu, suy nghĩ để phát huy hết khả
năng nhận thức của mình trong quá trình học tập.
2.3. Giải pháp tổ chức thực hiện
2.3.1. Ý nghĩa của phần vào bài trong một bài học
Vào bài hay còn được gọi là khởi động, định hướng có ý nghĩa rất quan
trọng trong một tiết học.
Nếu một khởi đầu hay, hấp dẫn nó sẽ thu hút sự chú ý của học sinh từ
những phút đầu tiên. Như vậy, có thể nói phần vào bài nhằm tạo tâm thế học tập
cho học sinh trong một tiết học.


Ngược lại, nếu một vào bài chưa thuyết phục có thể làm học sinh thất

vọng, không muốn hợp tác với giáo viên và ảnh hưởng đến cả quá trình học.
Hoặc nếu giáo viên bước vào dạy bài mới mà không vào bài có thể sẽ không
kích thích được sự tò mò cũng như hứng thú học tập của học sinh.
Trong một tiết học sẽ không có hai lần vào bài, do đó giáo viên cần phải
xem xét nhiều yếu tố để quyết định cách mở đầu hiệu quả nhất.
2.3.2. Nguyên tắc chung khi vào bài một tiết học mới
Theo tôi, để vào bài trong bộ môn Địa lí 11 phát huy tác dụng và phù hợp
với phương pháp giảng dạy bộ môn cần chú ý một số nguyên tắc chung sau:
Phần vào bài mới phải đặt ở đầu tiết dạy, thường được giáo viên tiến
hành sau khi kiểm tra bài cũ (đối với những bài học liên quan đến nhau) hoặc
đầu tiết (đối với các bài bắt đầu của chương mới).
Thời gian vào bài phải phù hợp với nội dung kiến thức dạy bài mới. Trong
môn Địa lí 11 nên diễn ra trong khoảng thời gian 2 – 3 phút cho một tiết học.
Phần vào bài mang tính chất định hướng bài học, khơi gợi sự tò mò, hứng
thú học tập của học sinh vào đầu giờ học nên phải sử dụng hợp lí, không bỏ qua
nhưng cũng không được lạm dụng. Vào bài mới được coi là thành công khi thỏa
mãn hai yêu cầu: gây hứng thú cho học sinh và gắn kết bài mới.
Cũng giống như một đơn vị kiến thức, học sinh sẽ đón nhận phần vào bài
theo hướng tích cực nếu phù hợp với trình độ nhận thức của mình. Vì vậy, tùy
đối tượng học sinh ở từng lớp mà giáo viên chọn cho mình một cách vào bài
thích hợp nhất. Điều này yêu cầu giáo viên không được rập khuôn máy móc một
cách vào bài cho nhiều lớp, nhiều năm học. Giáo viên phải sáng tạo, tìm tòi để
mỗi bài học ở mỗi lớp học có một “cánh cửa” đi vào khác nhau.
2.3. 2. Một số hình thức vào bài trong môn Địa lí 11
a. Vào bài bằng phương pháp đặt câu hỏi
Vào bài bằng câu hỏi là giáo viên chuẩn bị trước các câu hỏi, có thể theo
hình thức đàm thoại gợi mở hoặc nêu vấn đề để học sinh chủ động, tự lực suy
nghĩ trả lời. Giáo viên dựa vào nội dung của câu hỏi để dẫn dắt vào bài mới.
Ưu điểm lớn nhất của việc đặt câu hỏi trước khi vào bài mới là giúp học sinh
tích cực học tập, không khí lớp học sôi nổi. Càng kích thích học sinh học tập

hơn nếu giáo viên cho điểm (điểm miệng) cho những câu trả lời hay, có sự sáng
tạo và hiểu biết. Bên cạnh đó, phương pháp này cũng có hạn chế là mất nhiều
thời gian (vì phụ thuộc nhiều vào câu trả lời của học sinh).
Để phát huy ưu điểm và khắc phục hạn chế của phương pháp này yêu cầu
giáo viên phải chuẩn bị trước nội dung và đáp án của câu hỏi. Kiến thức trong
câu hỏi phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh từng lớp.
Ví dụ 1:
Bài 3. Một số vấn đề mang tính toàn cầu
Đối với bài này tôi sử dụng những câu hỏi đàm thoại để đánh giá trình độ
nhận thức của học sinh vào bài học (lưu ý : khi đặt câu hỏi, yêu cầu học sinh
không được mở sách giáo khoa).
Câu 1: Kể tên một số vấn đề toàn cầu mà em biết?
Học sinh trả lời, bổ sung.


Giáo viên chuẩn kiến thức: Bùng nổ dân số, già hóa dân số, ô nhiễm môi trường,
biến đổi khí hậu toàn cầu, khủng bố,…
Câu 2: Theo em, tại sao những vấn đề trên mang tính toàn cầu?
Học sinh trả lời, bổ sung.
Giáo viên chuẩn kiến thức: Là vấn đề toàn cầu vì chúng gây ra những hậu
quả nghiêm trọng; cần sự hợp tác, chung sức của toàn nhân loại để giải quyết.
Giáo viên dẫn dắt vào bài: Bên cạnh xu hướng toàn cầu hóa , khu vực hóa
để phát triển kinh tế - xã hội, ngày nay các quốc gia trên thế giới đang phải đối
mặt với một số vấn đề mang tính toàn cầu trên. Vậy những vấn đề đó có biểu
hiện, nguyên nhân và giải pháp khắc phục gì? Chúng ta cùng bước sang bài 3.
Một số vấn đề mang tính toàn cầu.
Như vậy, việc đặt câu hỏi ngay trong phần mở đầu bài học này vừa đánh
giá được sự hiểu biết của học sinh đối với bài mới, vừa tạo được không khí học
tập sôi nổi và định hướng được những nội dung trong bài học mới.
Ví dụ 2:

Bài 5. Một số vấn đề của khu vực và châu lục
Tiết 1. Một số vấn đề của châu Phi
Tiết 2. Một số vấn đề của Mĩ La Tinh
Tiết 3. Một số vấn đề của khu vực Tây Nam Á và khu vực Trung Á.
Ở cả 3 tiết này, học sinh đều được tìm hiểu những nét nổi bật về các châu
lục (châu Phi, Mĩ la tinh) và khu vực (Tây Nam Á, Trung Á). Những nét nổi bật
này các em đã có thể bắt gặp ở đâu đó trên truyền hình, trên mạng Internet, báo
chí hay kiến thức ở những năm học trước. Vì vậy, để vào bài mới giáo viên có
thể sử dụng câu hỏi sau:
Câu hỏi: Em biết gì về châu Phi?
Gợi ý trả lời:
- Là một châu lục nghèo đói, lạc hậu, có số người nhiễm HIV cao nhất thế giới.
- Châu lục mà người dân ở đây có đặc điểm: da đen, tóc xoăn, răng trắng…
- Có nền văn minh lâu đời (văn minh sông Nin), với các kim tự tháp (ở Ai Cập),

- Cảnh quan nổi bật của châu lục là hoang mạc, lớn nhất là hoang mạc Sahara.
- Ý khác...
Câu hỏi: Em biết gì về Mĩ la tinh?
Gợi ý trả lời:
- Là châu lục giàu tài nguyên khoáng sản.
- Có con sông Amazon, rừng Amazon…
- Là “sân sau” của Hoa Kì.
- Là cái nôi của nền bóng đá thế giới : Brazin, Achentina,...
- Ý khác...
Câu hỏi: Em biết gì về khu vực Tây Nam Á và khu vực Trung Á?
Gợi ý trả lời :
- Là những khu vực giàu có về tài nguyên dầu khí.
- Khí hậu khô hạn, nhiều cảnh quan hoang mạc và bán hoang mạc.
- Thường xảy ra mâu thuẫn, xung đột sắc tộc, tôn giáo.
- Phần lớn dân cư theo đạo Hồi.



- Ý khác...
Cùng sử dụng một câu hỏi nhưng giáo viên có thể tiếp cận học sinh ở
nhiều cách học khác nhau như:
Cá nhân học sinh trả lời (Giáo viên chưa yêu cầu chuẩn bị ở nhà), nếu
đúng được 3 đặc điểm trở lên có thể cho điểm miệng.
Tổ chức thi theo nhóm (Giáo viên yêu cầu chuẩn bị trước ở nhà) lên bảng
trình bày trong thời gian 2 phút, nhóm nào ghi được nhiều điểm nổi bật của châu
lục và khu vực sẽ tuyên dương và có thể cộng điểm khuyến khích cho nhóm
Với câu hỏi Em biết gì…? Ngoài sử dụng cho bài 5 thì giáo viên cũng có
thể sử dụng cho các tiết học về các quốc gia (Hoa Kì, Nhật Bản, Liên Bang Nga,
Trung Quốc, Ô-xtrây-li-a)
Ví dụ: Em biết gì về đất nước Liên Bang Nga
Gợi ý trả lời
- Liên bang Nga được tách ra từ Liên bang Xô Viết.
- Là đất nước có diện tích lớn nhất trên thế giới.
- Được mệnh danh là “xứ sở Bạch Dương”.
- Tỉ lệ gia tăng dân số ở mức âm.
- Có nhiều thành công trong lĩnh vực “Vũ Trụ”.
- Là “người bạn” của Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước.
- Ý khác...
Ví dụ: Em biết gì về đất nước Ô-xtrây-li-a
Gợi ý trả lời
- Ô-xtrây-li-a là quốc gia nằm ở Bán cầu nam.
- Là quốc gia duy nhất trên thế giới chiếm cả một lục địa.
- Có nhiều loại động vật đặc trưng, như: Căng-gu-ru, gấu túi, rái mỏ vịt...
- Là đất nước có nền kinh tế phát triển.
- Ý khác...
Với những hiểu biết ban đầu về châu lục, khu vực hay quốc gia trong bài

học, đôi lúc những hiểu biết đó còn đơn giản, còn sai sót,…nhưng qua đó các
em thấy mình cũng có “hiểu biết” và muốn biết thêm những kiến thức mới trong
bài học hôm đó. Như vậy, giáo viên đã khơi dậy sự hứng thú học tập của học
sinh ngay từ những phút đầu tiên vào bài mới và sẽ “tận dụng nguồn năng
lượng mới” này cho cả tiết học để đạt hiệu quả cao nhất về nhận thức cho từng
học sinh.
b. Vào bài bằng hình ảnh
Đặc trưng của bộ môn Địa lí là có nhiều hình ảnh trực quan. Nội dung
chương trình học liên quan đến những hình ảnh quen thuộc ở ngoài thực tế. Tôi
đã sử dụng ưu thế này trong quá trình dạy học nói chung và phần vào bài nói
riêng.
Ưu điểm của sử dụng đồ dùng trực quan (hình ảnh) trong phần vào bài là
rất lớn, nó giúp học sinh phát huy hết giác quan của mình trong quá trình học
tập, tạo sự tò mò và hứng thú của học sinh khi phát hiện ra một điều mới lạ.
Hạn chế của phần vào bài bằng hình ảnh trực quan là có thể làm cho học
sinh thiếu tập trung và chú ý vào những dấu hiệu cơ bản.


Để sử dụng hình thức vào bài bằng hình ảnh đạt hiểu quả thì phải có hai
điều kiện sau: Một là, nhà trường phải có phòng máy (máy tính, máy chiếu, loa,
âm li,…). Hai là, giáo viên phải đầu tư soạn giảng, biết sử dụng Power Point,
phải tìm ra những hình ảnh phù hợp, tạo sự đa dạng, lôi cuốn nhưng không quá
lạm dụng.
Hầu như tiết học, bài học nào (lí thuyết) giáo viên cũng có thể vào bài
bằng phương tiện trực quan. Dưới đây tôi xin đưa ra một số ví dụ cụ thể sau:
Ví dụ 1:
Bài 5. Một số vấn đề của châu lục và khu vực
Tiết 1. Một số vấn đề của châu Phi
Các hình ảnh được sử dụng trong phần vào bài (có kèm theo chữ minh
họa và nhạc không lời làm nền để tạo tâm lí thoải mái nhất cho học sinh).

Slide 1

ông Nin

Sông Nin

Hoang mạc Xa-hara

Châu Phi – nơi có con sông dài nhất
trên thế giới

Châu Phi – cũng là nơi có cảnh quan
hoang mạc là chủ yếu.

Slide 2

Slide 2

Kim tự tháp Ai – cập

Nền văn minh sông Nin rực rỡ từ
thời cổ đại

Nhưng hiện nay châu Phi vẫn còn
là châu lục nghèo nàn, lạc hậu.

Giáo viên chỉ sử dụng bốn hình ảnh nhưng học sinh sau khi theo dõi có


thể thấy được sự tương phản:

- Châu lục có sông dài nhất thế giới (sông Nin) nhưng cảnh quan chính ở
châu Phi là hoang mạc.
- Có nền văn minh lâu đời (văn minh sông Nin) nhưng hiện nay người dân
vẫn sống trong đói nghèo, lạc hậu.
Giáo viên chuyển ý vào bài: Vậy tại sao lại có sự tương phản đó? Nguyên
nhân do đâu? Ngoài những đặc điểm trên, châu lục này còn có gì nổi bật về tự
nhiên, kinh tế, xã hội, chúng ta cùng bước vào tìm hiểu bài 5. Một số vấn đề của
châu lục và khu vực. Tiết 1. Một số vấn đề của châu Phi.
Khi tôi đưa ra phần vào bài này là muốn sử dụng hình ảnh để đặt ra tình
huống có vấn đề mà muốn giải quyết nó các em phải học xong tiết học.
Ví dụ 2:
Bài 9. Nhật Bản
Tiết 2. Các ngành kinh tế và các vùng kinh tế
Đặc trưng lớn nhất của chương trình Địa lí 11 là khi học về quốc gia
thường có ba tiết (tiết 1 học về tự nhiên, dân cư và xã hội; tiết 2 học về kinh tế;
tiết 3 học thực hành). Phần vào bài của tiết 1 thường được bắt đầu ngay khi vào
bài mới, tiết 2 và tiết 3 thường được bắt đầu sau khi kiểm tra bài cũ. Để phần
vào bài hay, liên tục thì tôi thường lựa chọn những hình ảnh liên quan đến câu
hỏi bài cũ để đưa tiếp các hình ảnh vào bài mới. Ưu điểm của cách làm này là
học sinh không phải chuẩn bị tâm thế mới cho bài học, giúp các em hệ thống
kiến thức bước vào bài mới một cách hiệu quả nhất.
Cụ thể, ở tiết 2 của bài 9. Nhật Bản tôi làm như sau:
Bước 1 : kiểm tra bài cũ
Câu hỏi: a. Kể tên 4 hòn đảo lớn của Nhật Bản.
b. Phân tích những thuận lợi và khó khăn của vị trí địa lí và điều kiện
tự nhiên Nhật Bản đối với phát triển kinh tế.
Học sinh lên bảng trả lời, cho học sinh khác nhận xét, bổ sung.
Giáo viên nhận xét, cho điểm.
Bước 2 : vào bài
Giáo viên trình chiếu các slide:

Slide 1

Đất nước Nhật Bản được tạo nên bởi 4 hòn đảo lớn (Hô-cai-đô,

Hôn-xu, Xi-cô-cư, Kiu-xiu) và hàng nghìn đảo nhỏ.


Slide 2
Thuận lợi lớn nhất mà vị trí địa lí và tự nhiên đem lại cho đất
nước này là phát triển tổng hợp kinh tế biển.

Khai thác điện từ gió

Đánh bắt cá heo

Vịnh Miyazu – điểm du lịch biển nổi
tiếng ở Nhật Bản

Cảng biển Tokyo

Slide 3
Về tự nhiên, Nhật Bản được biết đến là một đất nước nghèo tài nguyên khoáng sản,
thường xuyên chịu nhiều thiên tai: động đất, núi lửa, sóng thần…

Sóng thần

Động đất

Núi lửa Sakurajima



Slide 4
Về kinh tế, Nhật Bản là cường quốc kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới-SGK Địa11

Thủ đô Tokyo

Cảng Osaka

Sau khi kết thúc các slide, giáo viên chuyển ý vào bài: Nền kinh tế Nhật
Bản lớn mạnh như thế nào? Nhân tố nào quyết định sự phát triển kinh tế của
quốc gia này? Chúng ta tiếp tục bước sang bài 9. Nhật Bản – Tiết 2. Các ngành
kinh tế và các vùng kinh tế.
Ví dụ 3:
Bài 11. Khu vực Đông Nam Á
Tiết 1. Tự nhiên, dân cư và xã hội.
Ở bài tiết học này, tôi cũng sử dụng hình ảnh nhưng có kèm theo lời giới
thiệu của một đoạn văn, có lồng ghép bài hát “Vì một thế giới ngày mai”. Khi
theo dõi xong đoạn vào bài, học sinh sẽ có một hình dung khái quát về những
quốc gia và khu vực Đông Nam Á.
Slide 1


Đông Nam Á – một khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới
hiện nay…

Slide 2
…Ở đó, có Sin-ga-po một trong bốn con rồng của châu Á,…

Slide 3
… có Thái Lan - một đất nước của xứ sở chùa vàng,…


… có Việt Nam – quốc gia đang có sự phát triển vượt bậc về kinh tế,…

Slide 4


Slide5
…cũng có một đất nước (In-đô-nê-xi-a) chịu nhiều thiên tai…

Slide 6
…và còn nhiều quốc gia khác nữa …

EAST_TIMOR


Slide 7
…Các nước trong khu vực sống hòa bình, hợp tác với nhau, cùng nhau
phát triển.

Giáo viên chuyển tiếp vào bài mới: Đông Nam Á có 11 quốc gia, tuy mỗi
quốc gia có một đặc điểm cụ thể về tự nhiên, dân cư, kinh tế nhưng nhìn một
cách tổng thể thì đây là khu vực có nhiều điểm tương đồng. Vậy những điểm
tương đồng đó như thế nào? Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu sang bài 11. khu vực
Đông Nam Á. Tiết 1- tự nhiên, dân cư và xã hội.
c. Vào bài bằng những đoạn video, clip
Khác với những phương tiện dạy học khác, video có khả năng trình bày
nội dung bài học bằng hình thức hình ảnh kết hợp với âm thanh theo một trình tự
liên kết hữu cơ. Nội dung bài học được truyền tải một cách sinh động qua hiệu
ứng âm thanh tạo cho học sinh hứng thú học tập.
Ưu điểm của các video (clip) là rất lớn, tuy nhiên khi sử dụng video trong

phần vào bài giáo viên phải chú ý đến nội dung, thời gian của nó.
Trong đề tài này tôi xin giới thiệu một số video sưu tầm trên you tube và
một số clip do học sinh làm để dẫn dắt vào bài.
Ví dụ 1:
Bài 4. Thực hành: Tìm hiểu những cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa
đối với các nước đang phát triển
Thường trong môn Địa lí 11 thì tiết thực hành là để học sinh rèn luyện kĩ
năng đọc, nhận xét bảng số liệu, lược đồ hoặc vẽ biểu đồ. Riêng đối với bài này
các em lại làm quen với cách viết một bài báo cáo. Để làm giảm đi sự lo lắng
của học sinh khi viết bài, đồng thời cung cấp kiến thức và cũng tạo hứng thú cho
nội dung mà các em sẽ viết, sau khi kiểm tra bài cũ tôi sử dụng đoạn video –
Toàn cầu hóa ở Việt Nam (quốc gia đang phát triển) với thời lượng 2 phút 40
giây để vào bài.

Hình ảnh cắt từ video “toàn cầu hóa ở Việt Nam”


Nội dung đoạn video gồm có hai phần:
Phần 1 – Những thành tựu khi Việt Nam tham gia toàn cầu hóa: kinh tế
(nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các lĩnh
vực xã hội (y tế, giáo dục), khoa học – công nghệ.
Phần 2 – Những thách thức khi Việt Nam tham gia toàn cầu hóa: ô nhiễm
môi trường, tệ nạn xã hội, suy giảm tài nguyên thiên nhiên.
Thông điệp: hòa nhập nhưng không hòa tan
Kết thúc video, giáo viên dẫn dắt vào bài thực hành: toàn cầu hóa đã và
đang ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có các nước
đang phát triển. Vậy ảnh hưởng như thế nào? Chúng ta cùng bước vào bài 4.
THỰC HÀNH –Tìm hiểu những cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa đối với
các nước đang phát triển
Ví dụ 2:

Bài 8. Liên Bang Nga
Tiết 1. Tự nhiên, dân cư và xã hội
Sau khi ổn định lớp, GV chiếu đoạn video – những bước tiến trong quan
hệ Việt – Nga với thời lượng 1 phút 50 giây để vào bài.

Hình ảnh cắt từ video “những bước tiến trong quan hệ Việt - Nga”
Sau khi xem xong đoạn phim: những bước tiến trong quan hệ Việt – Nga
giáo viên chuyển vào bài mới: Việt Nam và Liên Bang Nga có mối quan hệ
truyền thống được nâng lên tầm cao mới. Vậy đất nước anh em (Liên Bang Nga)
có đặc điểm nổi bật gì về tự nhiên, dân cư, kinh tế,…chúng ta cùng bước sang
bài 8. Liên Bang Nga. Tiết 1. Tự nhiên, dân cư và xã hội.
d. Vào bài bằng những số liệu thống kê, biểu đồ


Đặc trưng của bộ môn Địa lí nói chung và Địa lí 11 nói riêng là luôn gắn
liền với những con số (số liệu về diện tích, dân số, sông, rừng, các ngành kinh
tế…). Việc lấy những số liệu tiêu biểu sẽ kích thích được sự tò mò, trí tưởng
tưởng của học sinh trong quá trình học tập, tạo động lực cho các em trong quá
trình tiếp cận, lĩnh hội tri thức.
Để có những số liệu đặc thù, tiêu biểu đòi hỏi người giáo viên phải luôn
cập nhật thông tin. Có khi, để có một số liệu phục vụ phần vào bài, giáo viên
phải tính toán rồi mới đưa vào bài giảng.
Ví dụ 1
Bài 6. Hợp chúng quốc Hoa Kì
Bài 10. Trung Quốc
Đây là 2 cường quốc kinh tế của thế giới (1cũ và 1 mới nổi), hàng năm
đều có số liệu thống kê về mức tăng trưởng GDP, tổng GDP, GDP/ng. Để học
sinh thấy được một nền kinh tế lớn, tôi thường sử dụng những biểu đồ (minh họa
bằng cờ quốc gia) để các em quan sát, rút ra nhận xét, sau đó chuyển tiếp vào
bài mới.

Cụ thể:
Bài 10. Hợp chúng quốc Hoa Kì
Tiết 2. Kinh tế
Tôi sử dụng biểu đồ của 4 năm (2000, 2010, 2013)
- Giáo viên: chiếu cùng lúc 4 biểu đồ - 10 nền kinh tế lớn nhất của thế giới qua
10 yêu
nền kinh
tế lớn
nhất
trênxét
thếvề
giới
các năm trên 1 slide,
cầu học
sinh
nhận
GDP của Hoa Kì trong 10
(Đơn vị: Nghìn tỷ USD)
nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Năm 2000
Học sinh trả lời, bổ sung.
GV nhận xét, dẫn dắt vào bài:
Trải qua thời gian, nền kinh tế Hoa Kì vẫn luôn ở vị trí số 1 thế giới và bỏ
xa các nước xếp sau. Để xem sự hùng mạnh của cường quốc này như thế nào?
Hôm nay chúng ta sẽ bước sang tiết 2 để tìm hiểu về tổng quan nền kinh tế cũng
như các ngành kinh tế của Hoa Kì.

Năm 2010

Năm 2013



2000

Bài 10. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc)

2006
Tiết 2. Kinh tế
10 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới
(Đơn vị: Nghìn tỷ USD)

2007

2010


Cũng sử dụng các biểu đồ - 10 nền kinh tế lớn nhất của thế giới qua các
năm, nhưng khác với Hoa Kì, ở tiết 2 – Kinh tế của bài Trung Quốc tôi chọn
những năm có sự thay đổi vị trí của Trung Quốc trong 10 nền kinh tế để vào bài:
Năm 2000: đứng thứ 6 /10 quốc gia
Năm 2006: đứng thứ 4/10 quốc gia.
Năm 2007: đứng thứ 3/10 quốc gia
Năm 2010: đứng thứ 2/10 quốc gia.
Học sinh nhìn vào biểu đồ sẽ thấy được nền kinh tế Trung Quốc ngày càng phát
triển theo chiều hướng đi lên. Đây sẽ là một cường quốc kinh tế lớn nhất trong
tương lai.
Giáo viên vào bài: Trung Quốc, một nền kinh tế mới nổi của thế giới đã và đang
trở thành một “hiện tượng” về tốc độ tăng trưởng GDP trong thời gian qua.
Nền kinh tế của quốc gia này có đặc điểm gì? Các ngành nông nghiệp và công
nghiệp lớn mạnh như thế nào? Chúng ta cùng tìm hiểu sang tiết 2 – Kinh tế.

Như vậy, cùng một bảng số liệu, một biểu đồ nhưng nếu giáo viên khéo
léo sử dụng thì có thể phục vụ cho nhiều bài học, nhiều quốc gia khác nhau.
Điều này sẽ giảm đi rất nhiều thời gian cho giáo viên khi tìm kiếm số liệu.
e. Để học sinh soạn và trình bày vào bài
Mới nghe sẽ có người đặt câu hỏi: làm sao học sinh biết cách vào bài?
Nếu cho học sinh thực hiện khâu vào bài thì thời gian bao nhiêu là đủ?,…Tôi đã
thử, đã cho học sinh thực hiện khâu vào bài trong chương trình dạy học Địa lí 11
và đã thành công.
Có nhiều cách để hướng dẫn học sinh thực hiện khâu vào bài cho một tiết
học. Giáo viên có thể phân công cá nhân làm việc hoặc theo nhóm để các em
thực hiện.
Tùy vào cơ sở vật chất kĩ thuật của trường (phòng máy, máy tính,…), trình độ
nhận thức của học sinh, giáo viên có thể giao nhiệm vụ vào bài cho học sinh
bằng các hình thức sau:
- Viết một đoạn văn giới thiệu về đất nước, khu vực hoặc châu lục.


Đây là một hình thức vào bài mà giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm
hiểu và trình bày trong tất cả các tiết học của môn Địa lí 11. Ưu điểm của nó là
không cần các phương tiện hiện đại như máy tính, máy chiếu. Chỉ cần các em về
nhà đọc tài liệu, lên mạng xem thông tin là có thể hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Vào đầu một tiết học, nhóm được phân công sẽ trình bày bài thuyết trình
chủa mình. Giáo viên nhận xét, cho điểm và chuyển ý vào vài.
- Tìm một số hình ảnh đặc trưng của quốc gia hoặc khu vực và thuyết trình về
các hình ảnh đó (áp dụng cho tất cả các bài, kể cả phần tự nhiên hay kinh tế).
Với hình thức vào bài này, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà đọc tài liệu
sau đó lên mạng tìm những hình ảnh đặc trưng của khu vực hay quốc gia sẽ học
ở tiết sau. Ví dụ, để chuẩn bị cho bài 5. Một số vấn đề của khu vực và châu lục –
tiết 1. Một số vấn đề của châu Phi thì học sinh tìm những hình ảnh về hoang
mạc, về kim tự tháp Ai cập, về cuộc sống đói nghèo của người dân,...Để nâng

cao kết quả của việc sử dụng hình ảnh trong học tập thì giáo viên sẽ yêu cầu học
sinh lên thuyết minh về các hình ảnh đó (thời gian trình bày: 3 phút)
- Soạn một đoạn clip giới thiệu về quốc gia, khu vực (thường sử dụng cho tiết
đầu tiên khi học về quốc gia, khu vực)
Trong các nhiệm vụ để cho các em về nhà chuẩn bị thì đây là nhiệm vụ
đòi hỏi sự công phu nhất. Các em phải đọc tài liệu, sách giáo khoa, lên mạng tìm
hình, chép nhạc,…sau đó mới dựng lên một đoạn video.
Với cách làm này, giáo viên “được” rất nhiều thứ: Một là, học sinh hứng
thú hơn với môn học, chờ cho đến tiết học Địa lí để được trình bày, được nghe
bạn trình bày. Khi học sinh đã hứng thú thì kết quả học tập sẽ được nâng cao;
Hai là, giáo viên sẽ có những kho tư liệu đa dạng để sử dụng cho những năm
học tiếp theo, có thể tham khảo những tư liệu của các em cung cấp để nâng cao
chất lượng dạy học của mình.
Tuy nhiên, để phương pháp này đạt kết quả cao, không gây tốn nhiều thời gian
của tiết học mà lại đem được hứng thú cho cả người dạy và người học cần đảm
bảo một số yêu cầu sau:
Dù bài viết, hình ảnh hay clip đều không được vượt quá 3 phút.
Trong một tiết học, không thể sử dụng nhiều bài nên trước khi kết thúc bài
học, giáo viên phải dặn dò và giao nhiệm vụ cho cá nhân/nhóm. Ở đây, tôi
thường phân lớp ra 4 tổ và mỗi lần sẽ giao cho các tổ luân phiên trình bày.
Để bài làm của các em có chất lượng, giáo viên nên cộng điểm khuyến
khích cho những bài làm hay. Số điểm này có thể là 0,5 điểm, 1 điểm/1 bài
làm/nhóm, nhưng nó sẽ làm cho các em có động lực hơn khi làm việc.
Ngoài các hình thức vào bài trên, đối với môn Địa lí 11 giáo viên cũng có
thể sử dụng một số cách vào bài khác như: Vào bài bằng bài hát (ví dụ: sử dụng
bài hát Kachiusa trong bài Liên Bang Nga, tiết 1. Tự nhiên, dân cư và xã hội) ;
vào bài bằng những câu nói nổi tiếng (ví dụ: sử dụng câu nói: “ Chỉ có thực tiễn
mới kiểm nghiệm được chân lí” của Đặng Tiểu Bình trong bài Trung Quốc, tiết
2. Kinh tế)…
2.4– Hiệu quả của đề tài.



Trong hoạt động dạy học, hiệu quả của tiết dạy phụ thuộc và nhiều yếu tố,
trong đó phần vào bài là bước đầu, là sự khởi động cần thiết đối với học sinh và
cả giáo viên.
Đối với học sinh : việc sử dụng phần vào bài hay, hứng thú sẽ làm cho các
em có được sự “mong chờ”. Chờ cho đến giờ học để xem hôm nay cô vào bài
mới bằng cách nào? Các bạn trình bày phần vào bài có hay không? Rồi đến bản
thân các em có đủ kiến thức để trả lời các câu hỏi của giáo viên đưa ra không?,
…Tất cả những điều đó sẽ là nhân tố để giúp các em cố gắng trong học tập. Hơn
nữa, tạo ra tâm thế học tốt, một sự khởi đầu hào hứng, sôi nổi, vui vẻ thì việc
tiếp thu kiến thức trong cả một tiết học cũng sẽ nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
Đối với giáo viên: tạo tâm thế học tập cho lớp học ngay từ những phút
đầu tiên của tiết học là rất quan trọng. Phần vào bài vui vẻ, với nhiều kiến thức
bổ ích là chìa khóa để giáo viên tiếp tục mở những cánh cửa tri thức tiếp theo.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Dựa trên nội dung của đề tài, với mỗi tiết học giáo viên có thể lựa chọn
cho mình một cách vào bài thích hợp nhất. Cách vào bài sẽ đạt hiệu quả cao nếu
nó phù hợp với đối tượng học sinh, với điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.
Đổi mới phương pháp trong dạy học Địa lí nói chung và phần vào bài nói
riêng đều nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học, rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo cần thiết cho học sinh,…bồi dưỡng những thế hệ học sinh
mới có đủ điều kiện để hội nhập với sự phát triển nhanh của thế giới.
3.2. Kiến nghị
Để đạt được những điều đó ngoài sự đầu tư, tự nâng cao kiến thức của bản
thân người giáo viên đứng lớp thì còn cần rất nhiều nhân tố khác nữa. Trong
phạm vi đề tài này tôi có những đề xuất đối với các ban ngành có liên quan như
sau:

- Nên tổ chức nhiều hơn những buổi họp giữa giáo viên đồng môn theo cụm
trường hoặc theo trường để thao giảng, dự giờ từ đó trao đổi, bàn luận về các
phương pháp tổ chức dạy học, trong đó có nội dung phần vào bài của các tiết
học của môn Địa lí nói chung và Địa lí 11 nói riêng.
- Về phía nhà trường: Cần đầu tư, bổ sung nhiều hơn nữa các phương tiện dạy
học như máy tính, máy chiếu, tranh ảnh, bản đồ, mô hình, video…để giáo viên
chủ động hơn trong quá trình dạy học.


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 26 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Tống Văn Thành

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Chúng – Nguyễn Đức Vũ. Tìm hiểu kiến thức Địa lí thế giới
trong nhà trường. NXB giáo dục Việt Nam năm 2009.
2. Lê Thông. Sách giáo khoa Địa lí 11. NXB giáo dục Việt Nam năm 2012.
3. Lê Thông. Sách giáo viên Địa lí 11. NXB giáo dục Việt Nam năm 2007.
4. Lê Thông. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Địa lí 11. NXB đại học
sư phạm năm 2010.
5. Phạm Thị Sen - Nguyễn Kim Liên – Nguyễn Kim Hồng – Phạm Thị Bình. Tư
tư liệu dạy và học Địa lí 11. NXB Hà Nội năm 2007.
6. Tư liệu mạng Internet.
7. Bùi Thị Hải Yến. Giáo trình Địa lí kinh tế - xã hội thế giới. NXB giáo dục

Việt Nam năm 2006.



×