Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm lồng ghép giáo dục địa lí địa phương huyện tĩnh gia nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy địa lí THPT tại trường THPT tĩnh gia 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.63 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 3

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP
GIÁO DỤC ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG HUYỆN TĨNH GIA NHẰM
KINH
NGHIỆM
GHÉP
NÂNGMỘT
CAOSỐ
HIỆU
QUẢ
GIẢNGLỒNG
DẠY ĐỊA
LÝ THPT
GIÁO DỤC ĐỊATẠI
LÝTRƯỜNG
ĐỊA PHƯƠNG
HUYỆN
TĨNH
THPT TĨNH GIA 3 GIA NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY ĐỊA LÝ THPT
TẠI TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 3



Người thực hiện: Nguyễn Thị Bích
Chức vụ: Giáo viên
Người
hiện:
Nguyễn
SKKNthực
thuộc
môn:
Địa lý Thị Bích
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Địa lý

THANH HÓA NĂM 2017


MỤC LỤC
1. Mở đầu ......................................................................................................
1.1. Lí do chọn đề
tài ......................................................................................
1.2. Mục đích nghiên
cứu ...............................................................................
1.3. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................
1.4. Phương pháp nghiên
cứu .........................................................................
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm............................................................
2.1 Cơ sở lí luận ............................................................................................
2.2. Thực trạng dạy học Địa lí tại trường THPT Tĩnh Gia 3..........................
2.3. Một số kinh nghiệm lồng ghép giáo dục Địa lí địa phương huyện
huyện Tĩnh Gia nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy địa lí THPT tại trường

THPT Tĩnh Gia 3 ...........................................................................................
2.3.1. Lồng ghép kiến thức Địa lí địa phương trong từng bài giảng phù hợp
với mục tiêu bài học .......................................................................................
2.3.2. Lồng ghép kiến thức Địa lí Địa phương Tĩnh Gia qua việc ra bài tập
về nhà để học sinh tự nghiên cứu và tìm hướng giải quyết ...........................
2.3.3. Lồng ghép kiến thức Địa lí Địa phương Tĩnh Gia qua việc yêu cầu
HS sưu tầm các tư liệu Địa lí liên quan đến kiến thức trong bài học .............
2.4. Hiệu quả của đề tài...................................................................................
3. Kết luận, khuyến nghị ...........................................................................
Tài liệu tham khảo .......................................................................................

Tran
g
1
2
2
2
2
3
3
4
5
5
9
11
14
17
19



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
“ Học đi đôi với hành”, “ Lí luận gắn liền với thực tiễn”là một trong những
quan điểm giáo dục giá trị mà sinh thời Hồ Chí Minh – Vị lãnh tụ kiệt xuất của dân
tộc đã để lại cho nền giáo dục Việt Nam. Trải qua hơn nữa thế kỉ, kề thừa quan
điểm ấy, trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đưa ra đường lối đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách,
quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con
đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân
sinh mới của nền giáo dục nước nhà “ dạy người, dạy chữ, dạy nghề”.
Xuất phát từ yêu cầu trên, chương trình môn Địa lí đã có nhiều bổ sung phần
Địa lí địa phương nhằm theo kịp xu hướng chung của giáo dục hiện nay. Mục tiêu
của giáo dục Địa lí địa phương là giúp cho học sinh có được các kiến thức về Địa
lý địa phương qua việc học tập trên lớp, khảo sát, nghiên cứu Địa lý địa phương,
tạo điều kiện cho học sinh hiểu rõ thực tế địa phương về những khó khăn và thuận
lợi của tự nhiên, dân cư và kinh tế xã hội ở địa phương. Qua đó giúp cho học sinh
có ý thức tham gia cải tạo, xây dựng địa phương, đồng thời bồi dưỡng tình cảm tốt
đẹp đối với quê hương đất nước. Ngoài ra còn rèn luyện kĩ năng khảo sát, nghiên
cứu,khảo sát, điều tra, quan sát, phân tích ,vẽ, thiết lập các số liệu, biểu đồ, bản
đồ...., bước đầu tập cho học sinh làm quen với tính chất và công việc của công tác
nghiên cứu khoa học. Từ đó giúp cho học sinh bồi dưỡng thế giới quan khoa học,
phát triển năng lực trí tuệ và những kỹ năng thực tiễn. Mặt khác, bài giảng Địa lý
có sự liên hệ, chứng minh bằng thực tiễn nơi các em đang sinh sống và học tập sẽ
trở nên hấp dẫn và có tính thuyết phục với học sinh hơn.
Theo yêu cầu của Bộ GD&ĐT phải kết hợp giảng dạy lí thuyết với các hoạt
động thực tiễn như tham quan, dã ngoại, thực hành…nhưng hiện nay hầu như chỉ
mới tiến hành dạy lí thuyết, các hoạt động thực hành chưa triển khai được do thiếu
thời gian, khó khăn về kinh phí. Về phía học sinh, do sự quá tải của chương trình và
tâm lý thực dụng chỉ tập trung học các môn, các nội dung liên quan đến thi cử nên
rất ít quan tâm đến nội dung giáo dục địa phương. Hậu quả là rất nhiều HS đã học

xong chương trình THPT nhưng kiến thức về địa phương rất hạn chế. Ngoài các tiết
dạy Địa lý địa phương theo quy định, thầy (cô) giáo chưa thường xuyên đưa kiến
thức Địa lý địa phương vào bài giảng , hoặc nếu có cũng chỉ dừng lại ở mức dùng
kiến thức Địa lí địa phương minh họa cho những kiến thức trong bài dạy. Vì vậy
học sinh chỉ nhìn thấy các hiện tượng địa lí như: ở địa phương mình có khoáng sản
gì? Có ngành công nghiệp gì, có cây trồng, vật nuôi gì…trong khi đó học sinh
không có cơ hội để tìm hiểu sâu hơn một cách có hệ thống. Do đó, kiến thức Địa lý


địa phương của học sinh thường nghèo nàn, việc cung cấp và bổ sung kiến thức Địa
lý địa phương cho học sinh còn nhiều hạn chế.
Một số lí do trên đang cản trở con đường tiếp cận, sáng tạo tri thức của Thầy
và Trò trong môn Địa lí. Nhận thấy tính cấp thiết đó, những năm học qua tôi đã thử
nghiệm phương pháp lồng ghép một số nội dung Địa lí địa phương huyện Tĩnh Gia
vào các bài học Địa lí THPT mà chủ yếu là cho khối 10 và khối 12. Đó cũng là lí
do Tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Một số kinh nghiệm lồng ghép giáo dục Địa lí địa
phương huyện Tĩnh Gia nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy Địa lí THPT tại trường
THPT Tĩnh Gia 3”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “ Một số kinh nghiệm lồng ghép giáo dục Địa lí địa
phương huyện Tĩnh Gia nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy Địa lí THPT tại trường
THPT Tĩnh Gia 3” với mục đích:
Giúp học sinh có thể nắm rõ và hiểu được các hiện tượng địa lí tự nhiên,
kinh tế - xã hội và các vấn đề môi trường qua các hiện tượng địa lí cụ thể của
huyện Tĩnh Gia.
Rèn luyện các kĩ năng xác định vị trí, thu thập, xử lí và phân tích bản đồ,
biểu đồ và các thông tin qua các hiện tượng địa lí thực tiễn tại địa phương nơi các
em sinh sống, từ đó dần hình thành cho học sinh tính chủ động tìm tòi, sáng tạo, tự
học.
Khơi gợi và vun đắp ở học sinh lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất

nước và ý thức trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc thông qua thái độ, cách đối xử của các em đối với chính vùng đất nơi chôn
nhau cắt rốn, nơi các em khôn lớn, trưởng thành.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài sẽ nghiên cứu về một số giải pháp giáo dục Địa lí địa phương qua các
bài học trong chương trình Địa lí cấp THPT để mang lại hiệu quả giáo dục cao cho
bộ môn Địa lí của trường THPT Tĩnh Gia 3.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: nhằm nghiên cứu cơ sở lí
luận cho đề tài
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: nhằm nắm bắt
được thực trạng dạy và học của bộ môn Địa lí ở trường THPT Tĩnh Gia 3, từ đó
thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học.
+ Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: việc thống kê và xử lí số liệu để có những
thông số cần thiết đánh giá hiệu quả trước và sau khi thực hiện đề tài.


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài.
Nghiên cứu về quan điểm dạy học Địa lí địa phương trong nhà trường theo
hướng tích cực, PGS – TS Lâm Quang Dốc cho rằng: “ Khi dùng thuật ngữ địa lý
địa phương (geogrphic locale), Giáo viên tự đặt mình trong một viễn cảnh xác định.
Sự quan tâm của Giáo viên tập trung vào địa phương, tức là vào cái cụ thể, vào cái
đập vào mắt của học sinh, không cần bất cứ một sức tưởng tượng nào. Đó chính là
nhà cửa, làng mạc, ruộng vườn, đình chùa, miếu mạo xung quanh học sinh; là các
làng nghề; là trang trại; là các nhà máy, xí nghiệp, là các hầm mỏ, các danh thắng
.v.v. và mọi thứ bao quanh chúng. Giáo viên đưa học sinh tiếp cận với thế giới hiện
thực của quê hương và giới thiệu cho học sinh những cơ sở nào hoạt động gây ô
nhiễm, những cơ sở nào bị huỷ hoại theo thời gian và luyện tập cho học sinh về
cách thức làm việc của khoa học quan sát; hướng dẫn học sinh thu thập các chất

gây ô nhiễm không khí, nước, thực vật và đất; hướng dẫn học sinh chụp ảnh, quay
phim thu thập chứng cứ huỷ hoại nguồn tài nguyên nhân văn, các danh thắng của
quê hương và đất nước. Rõ ràng là mục tiêu của Giáo viên không chỉ giới hạn ở
chỗ chỉ nghiên cứu một không gian quen thuộc. Hiểu biết địa lí địa phương chỉ là
giai đoạn đầu của quá trình nhận thức mà qua hiểu biết địa lí địa phương và quốc
gia có thể nói khái quát hơn là địa lí khu vực (geographic regionale) sẽ đi tới hiểu
biết thế giới”.
Điạ lý địa phương - cơ sở của kiến thức địa lí. Ngày nay, thực tế mọi người
đều công nhận rằng dạy học địa lí địa phương phải bắt đầu bằng những sự kiện có
thực trong không gian bao quanh trường, trong làng xóm quê hương mà học sinh
có thể quan sát được. Đó là yêu cầu một mặt do chính bản thân khoa học địa lí, một
trong những khoa học dựa trên phương pháp quan sát, mặt khác do tâm lí học sinh
thiên về tính cụ thể, thích khám phá và hướng về hành động đòi hỏi phải như vậy.
Ưu tiên nghiên cứu môi trường địa phương trong giảng dạy địa lí, ít nhất là về mặt
thời gian là công nhận một phương pháp giảng dạy có tính trực giác và cụ thể, tức
là tôn trọng nguyên tắc lấy hiện thực làm nền tảng cho giảng dạy. Theo quan niệm
hiện đại về việc học “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó
chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị con người mình,
bằng cách thu nhận xử lí thông tin, lấy từ môi trường sống chung quanh”. Nguyên
tắc mà địa lí tuân thủ một cách đặc biệt chính là xuất phát từ chỗ những khái niệm
tiếp thu sau phải dựa trên những khái niệm đã tiếp thu từ trước và lấy thực tiễn làm
trực quan sinh động.
Như đã nói ở trên, Địa lí địa phương phải tạo điều kiện để học sinh có thể
học trên lớp, nghiên cứu khảo sát ngoài thực địa, phân tích, tổng hợp, trình bày
quan điểm cá nhân một cách khoa học. Để làm được điều đó, bản thân mỗi giáo


viên ngoài việc cần dành nhiều thời gian cho phần liên hệ thực tế thì còn phải
thường xuyên đưa ra những yêu cầu để học sinh về nhà tìm hiểu những hiện tượng
địa lí tại địa phương mình có liên quan đến bài học trên lớp, suy nghĩ và giải thích

nguyên nhân sau đó trình bày lại trước lớp trong thời gian thích hợp. Với quan
điểm như vậy, bản thân tôi đã tìm tòi, suy nghĩ và mạnh dạn thử nghiệm một số
biện pháp nhằm tạo nâng cao hiệu quả hoạt động giảng dạy địa lí địa phương và đã
thu được kết quả khả quan.
2.2. Thực trạng dạy học Địa lí tại trường THPT Tĩnh Gia 3.
2.2.1. Thuận lợi.
Trường THPT Tĩnh Gia 3 năm 2016 - 2017 có 29 lớp học với hơn 1200 học
sinh. Những năm qua, môn Địa lí là môn học trọng điểm thi học sinh giỏi cấp tỉnh,
thi tốt nghiệp cuối cấp và một bộ phận học sinh lựa chọn là môn thi Đại học, cao
đẳng. Vì vậy đây là một trong những môn học trọng tâm của nhà trường.
Bộ môn cũng đã nhận được sự quan tâm sát sao của Ban giám hiệu và lãnh
đạo nhà trường, điều đó đòi hỏi bản thân mỗi giáo viên phải biết đào sâu tìm tòi,
nâng cao năng lực và hiệu quả giảng dạy.
Sự phát triển nhanh chóng công nghệ thông tin hiện đại đã tạo điều kiện để
thầy (cô) giáo và học sinh được tiếp cận bài học theo nhiều phương pháp tiên tiến
với những kết quả tích cực nhất định.
2.2.2. Khó khăn.
Đối với học sinh, hiện nay đa số các em chưa nắm vững được kiến thức; kĩ
năng thực hành còn yếu; thái độ học tập thụ động, đối phó, không chịu tìm tòi,
thiếu tính tư duy sáng tạo nên kết quả học tập chưa cao.
Về phía giáo viên, đội ngũ giáo viên trường Tôi với tuổi đời và tuổi nghề còn
trẻ, việc tiếp thu kiến thức mới, phương pháp và phương tiện dạy học mới là một
lợi thế, song kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, nhất là trong vấn đề nắm bắt và
hiểu được tâm lí học sinh, nên vai trò của người Thầy đối với môn học còn chưa
được phát huy tốt, tâm lí dạy học còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố mà quan trọng
nhất là từ thái độ thiếu tích cực của học sinh, từ đó dần hình thành thói quen “
Thầy ngại dạy - Trò ngại học”.
Nhiều phương pháp dạy học tích cực chưa được chú trọng do nhiều yếu tố
chi phối như thời gian một tiết học eo hẹp, sự sắp xếp thời khóa biểu chưa hợp lí,
cơ sở vật chất còn nghèo nàn dẫn đến nhà trường và bản thân giáo viên không chủ

động áp dụng và đưa các phương pháp dạy học tích cực trở thành phương pháp
dạy học chính thức.
Kinh phí đầu tư cho tiết học khảo sát thực địa không có đã hạn chế vai trò
của giáo dục địa phương đối với việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.
Kết quả xếp loại học lực môn Địa lí trường THPT Tĩnh Gia 3 năm học 2015
– 2016 như sau: Tổng số: 1202 học sinh
Xếp loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém


Số lượng( Học sinh)
30
640
434
89
6
Tỉ lệ (%)
2,5
53,3
36,3
7,4
0,5
Phân tích kết quả của môn học như trên cho thấy: tỉ lệ học sinh xếp loại bộ
môn Địa lí từ trung bình trở xuống là khá cao (chiếm hơn 40%), đặc biệt là nhóm
học sinh yếu, kém mà nguyên nhân đã được nêu ở trên, như vậy cần thiết phải hình
thành cho học sinh cách thức học tập để tiếp cận với môn học nhanh, đơn giản và

hiệu quả nâng cao chất lượng dạy học, từ đó tạo được hứng thú tránh sự uể oải và
nhàm chán trong mỗi giờ học. Vì vậy, đề tài sẽ góp phần khắc phục những khó
khăn trên và xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục Địa lí trong nhà
trường.
2.3. Một số kinh nghiệm lồng ghép giáo dục Địa lí địa phương huyện Tĩnh Gia
nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy địa lí THPT tại trường THPT Tĩnh Gia 3.
2.3.1. Lồng ghép kiến thức Địa lí địa phương trong từng bài giảng phù hợp với
mục tiêu bài học
Một trong những cách làm hay được vận dụng nhiều trong những năm gần đây
là giáo viên đưa các kiến thức Địa lý địa phương dưới dạng các ví dụ để phục vụ
cho bài giảng. Bài giảng địa lý lúc đó không chỉ có tính thuyết phục, hấp dẫn mà
còn làm cho học sinh nắm kiến thức chắc, nhớ kiến thức lâu. Bởi những kiến thức
Địa lý địa phương là những hiểu biết rất đời thường, rất gần gũi, quen thuộc với các
em được khái quát lên thành khái niệm, thành quy luật và thành tri thức mà các em
cần phải nắm.
Thực tế cho thấy, bộ môn địa lý khác với các môn khoa học tự nhiên khác ở
chỗ: đối tượng nghiên cứu của nó rất rộng, trải dài trên nhiều lãnh thổ và mỗi nơi
lại có những nét đặc trưng. Vì thế, khi hình thành khái niệm địa lý (nhất là các khái
niệm địa lý chung) không có gì tốt bằng việc giáo viên lấy ví dụ minh hoạ cho khái
niệm là những sự vật, hiện tượng ở gần, thân thuộc với các em; một ngọn núi, dòng
sông cạnh làng (xã, huyện, tỉnh) sẽ làm biểu tượng rõ nét hơn nhiều so với nơi
khác. Các ví dụ minh họa gần gũi, thân quen phải là những điều học sinh đã từng
nhìn, từng nghe thấy; như vậy bài giảng địa lý sẽ có tính thuyết phục cao hơn, gắn
với thực tiễn cuộc sống nhiều hơn và học sinh cũng sẽ yêu môn địa lý hơn.
Tuy nhiên để việc lồng ghép kiến thức Địa lí địa phương đạt hiệu quả cần đảm
bảo nguyên tắc:
Phải dựa vào nội dung bài học, nghĩa là các kiến thức Địa lý địa phương đưa
vào bài học phải có mối quan hệ logic chặt chẽ với các kiến thức có sẵn trong bài
học. Các kiến thức của bài học được coi như là cái nền làm cơ sở cho kiến thức Địa
lý địa phương có chỗ dựa. Nói cách khác, dạy bài nào chúng ta cần nghiên cứu kỹ

nội dung kiến thức của bài đó, từ đó mới đi tìm và lựa chọn các kiến thức phù hợp
với nội dung của bài học.
Các kiến thức đưa vào bài phải có hệ thống, tránh sự trùng lặp, phải thích
hợp với trình độ của học sinh, không gây quá tải đối với nhận thức của các em


trong việc lĩnh hội nội dung chính của bài học. Theo nguyên tắc này, những kiến
thức đưa vào bài cần được sắp xếp đúng chỗ, hợp lý, làm cho kiến thức môn học
thêm phong phú, sát với thực tiễn và logic của môn học, bài học không bị phá vỡ,
học sinh hứng thú học tập vì luôn được cung cấp những kiến thức mới.
Sau đây là một số ví dụ dẫn chứng của đề tài:
Ví dụ 1:
Khi dạy bài 8 – Địa lí 10 “ Tác động của nội lực đến địa hình bề mặt đất”,
mục tiêu đặt ra cần phải giúp học sinh hiểu rõ nội lực có vai trò rất quan trọng làm
thay đổi địa hình bề mặt Trái đất thông qua các vận động địa chất. Để giúp học sinh
hiểu được tác động của nội lực theo phương nằm ngang qua hiện tượng uốn nếp,
giáo viên đặt câu hỏi: Dựa vào vận động uốn nếp địa hình, Em hãy mô tả những
đặc điểm hình dạng của vùng núi đá vôi tại xã Trường Lâm, Tân Trường. Sau đó
học sinh có thể mô tả: vùng núi đá vôi gồm nhiều ngọn núi đá nằm liền kề với kích
thước lớn bé khác nhau, có màu trắng đục hoặc màu hỗn hợp của đá trầm tích. Nếu
có lát dọc sẽ thấy những đường vân uốn thành nếp có thứ tự rõ rệt, đó là hệ quả của
vận động uốn nếp địa chất điển hình.
Nếu học sinh còn vướng mắc trong câu trả lời thì giáo viên sẽ bổ sung thêm.
Bởi đây cũng là phần kiến thức liên quan đến địa chất khá phức tạp, nếu chỉ để học
sinh tự giải quyết sẽ khó khăn. Tuy nhiên, không phải địa phương nào cũng có
được ví dụ điển hình thực tế này, vì vậy đây là cơ hội tốt để các em khám phá thực
tế.
Ví dụ 2:
Khi dạy bài 9 – Địa lí 10 “ Tác động của ngoại lực đến địa hình bề mặt đất”,
Kết hợp với bài học trước, khi liên hệ địa hình uốn nếp đá vôi tại xã Trường Lâm,

Giáo viên sẽ đặt câu hỏi: Khi di chuyển vào sâu bên trong Động Trường Lâm, hãy
nêu những dạng địa hình mà em quan sát được? Học sinh trả lời: đầu tiên bước đến
cửa động sau đó quan sát thấy động sâu, cao với nhiều hình thù kỳ quái, phức tạp
như măng đá, cột đá, nhũ đá, hình con vật, hình cô Tiên nên Động này còn có tên
gọi là Động Cô Tiên.
Giáo viên hỏi thêm: Tại sao ở vùng núi đá vôi lại xuất hiện những địa hình
này? HS dựa vào kiến thức đã học trả lời: Đây là hệ quả của quá trình phá hủy đá
do yếu tố ngoại lực, trong đó nước sẽ đóng vai trò chủ yếu tạo nên những phản ứng
hóa học nhằm và hình thành nên hệ thống hang động đá vôi – một dạng địa hình
cacxtơ phổ biến tại đây.
Ví dụ 3:
Khi dạy bài 12 – Địa lí 10 “ Sự phân bố khí áp. Một số loại gió chính”, mục
tiêu của bài này cần trang bị cho học sinh hiểu biết về khí áp trên Trái Đất và một
số loại giáo hoạt động trên địa cầu. Trong phần tìm hiểu gió địa phương, Giáo viên
có thể cho học sinh liên hệ với đặc điểm của gió biển và gió đất nơi các em sinh
sống. Bởi vì Tĩnh Gia là địa phương ven biển nên không khó để các em có thể nhận


biết ngay loại gió này. Học sinh thuộc xã Hải Bình còn có thể quan sát trực tiếp ý
nghĩa của gió đất và gió biển đối với hoạt động đánh bắt thủy sản của người dân
vùng biển quê các em, nhất là thời điểm khi mơ sáng các tàu ghe bắt đầu nổ máy
lao ra biển cả để chiều về cá, tôm, cua, mực.v.v lại đầy ắp khoang từ xa tấp nập cập
bờ.
Giáo viên đặt câu hỏi: Tại sao ghe tàu của ngư dân lại ra khơi vào thời điểm
sáng sớm và trở về lúc buổi chiều? Học sinh dựa trên nguyên lí hoạt động của gió
đất và gió biển để trả lời( Gió đất hoạt động ban đêm giúp sự di chuyển của ghe tàu
ra khơi nhanh hơn và ngược lại buổi chiều gió biển thổi vào đất liền mạnh hơn giúp
tàu thuyền về bến cũng thuận lợi hơn).
Ví dụ 4:
Khi dạy bài 33 – Địa lí 10 “ Một số hình thức chủ yếu của tổ chức lãnh thổ

công nghiệp”. Mục tiêu của bài này là phân biệt được đặc điểm của bốn hình thức
tổ chức lãnh thổ công nghiệp chủ yếu. Đối với hình thức khu công nghiệp, Giáo
viên rất thuận lợi khi cho học sinh lấy ví dụ về khu công nghiệp Nghi Sơn làm
minh họa rõ nét. Câu hỏi đặt ra: Các em quan sát biểu hiện nào cho thấy Nghi Sơn
cũng được xem là hình thức của khu công nghiệp?
Học sinh sẽ lần lượt trả lời: để có diện tích mặt bằng rộng các nhà thầu thực
hiện di dời dân ra khỏi khu công nghiệp, nhiều ngành công nghiệp trong đó có một
số ngành công nghiệp quan trọng hạt nhân và chỉ ra nhà máy sản xuất công nghiệp
làm hạt nhân cho khu công nghiệp của địa phương các em, đặc biệt là nhà máy lọc
hóa dầu Nghi Sơn đang trong quá trình hoàn thiện sẽ trở thành nhà máy hóa dầu
tầm cỡ khu vực Đông Nam Á. Đang tiếp tục xây dựng các công trình bổ trợ sản
xuất như nâng cấp, mở rộng tuyến đường 513, xây dựng cao tốc sân bay Sao Vàng
- cảng Nghi Sơn chiều dài 60km, quốc lộ 1A đoạn qua địa bàn Tĩnh Gia, cảng nước
sâu Nghi Sơn, công trình nhiệt điện ra đời, các nhà kho bến bãi.v.v. đã thu hút rất
lớn sự quan tâm và đầu tư của Chính phủ và doanh nghiệp nước ngoài như Coet,
Nhật Bản, Trung Quốc.
Ví dụ 5:
Khi dạy bài 36 – Địa lí 10 “ Vai trò, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển, phân bố ngành giao thông vận tải”, để chứng minh cho vai trò của ngành
này trong việc tạo mối liên hệ kinh tế, xã hội giữa các địa phương, Giáo viên yêu
cầu các em nêu những tuyến giao thông chính mà địa phương hiện đang sử dụng,
đồng thời so sánh sự khác biệt trong nền kinh tế của các xã thuộc địa bàn Tĩnh Gia
trong những năm qua khi Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống giao thông này. Với
yêu cầu này, học sinh sẽ kể tên ngay lập tức một số tuyến đường bộ quan trọng gồm
quốc lộ 1A, tuyến đường đông tây 513, đường một chiều khu kinh tế Nghi Sơn,
cảng biển nước sâu Nghi Sơn.v.v. Những tuyến giao thông huyết mạch này đang
làm thay đổi từng ngày bộ mặt địa phương, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và cải
thiện đời sống nhân dân một cách rõ rệt.



Ví dụ 6:
Khi dạy bài 8 – Địa lí 12 “ Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển”,
trong mục thiên tai do biển gây ra, Giáo viên yêu cầu học sinh kể tên các xã của
Tĩnh Gia giáp biển, đồng thời hãy nêu những thiên tai của biển đối với địa phương
các em. Học sinh có thể kể tên ngay những xã giáp biển như Hải Châu, Hải Ninh,
Hải Lĩnh, Hải Hòa, Hải Thanh, Hải Bình, Tĩnh Hải, Hải Yên, Hải Thượng, Hải Hà,
Nghi Sơn. Sau đó, học sinh nêu những tác động do thiên tai mà biển các em thấy
nhất: Nhiều xã phát triển nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản, trong đó phải kể
đến nghề cá của các xã Hải Thanh, Hải Bình và Nghi Sơn với cảng cá Lạch Bạng
và cảng cá Nghi Sơn. Hay siêu bão số 10 Haiyan cuối năm 2013 làm ngập lụt diện
rộng toàn huyện gây cản trở tất cả các hoạt động sinh hoạt và sản xuất của địa
phương.
Ví dụ 7:
Khi dạy bài 18 – Địa lí 12 “ Đô thị hóa”, Giáo viên có thể giúp học sinh xác
định được tác động hai mặt của đô thị hóa đến phát triển kinh tế, xã hội nước ta
thông qua quá trình đô thị hóa đang diễn ra rất điển hình ở Tĩnh Gia – nơi các em
đang từng ngày chứng kiến những đổi thay mạnh mẽ. Sự lớn lên không ngừng của
một vùng quê vốn nghèo đói chưa ai biết đến trước đây, ngày nay đã và đang thay
da đổi thịt với những công trình, nhà máy đồ sộ( nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn, nhà
máy xi măng Nghi Sơn và thậm chí là dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn.v.v.). Tuy
nhiên, học sinh cũng lập tức nhận thức được mặt trái của một khu kinh tế Nghi Sơn
từ khi được thành lập đã gây ra nhiều mối lo ngại tiêu cực chủ yếu về mặt xã hội và
môi trường. Học sinh có thể lấy ví dụ cụ thể: Tình trạng di dời dân đến các khu tái
định cư Nguyên Bình, Hải Hà, Tĩnh Hải còn bất hợp lí, việc thu hồi đất ở, đất canh
tác gây ra tình trạng thất nghiệp đại trà cho người lao động thuộc các xã này, chưa
kể đến một bộ phận con em các hộ gia đình trong đó có chính bản thân các em học
sinh đang rơi vào con đường tha hóa đạo đức lối sống vì sẵn có khoản tiền đền bù
từ dự án của Nhà nước dẫn đến bỏ bê học hành, ăn chơi đua đòi, nghiện hút, cờ bạc
đang đe dọa tình hình an ninh trật tự của địa phương.
Việc Giáo viên linh hoạt lồng ghép vấn đề này vào bài học sẽ không chỉ có

tác dụng đạt mục tiêu hình thành kiến thức và kĩ năng đặt ra, mà còn một phần giáo
dục nhận thức của các em, hoặc có thể thức tỉnh một số đối tượng học sinh nếu các
em đang ở trong thực trạng như trên.
Bên cạnh đó, đô thị hóa gắn liền với công nghiệp hóa đang gây ra tình trạng
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở các xã nơi các em hàng ngày sinh sống, đi lại,
học tập. Học sinh có thể nêu ra tình trạng ô nhiễm bụi do xe công trường trọng tải
lớn liên tục vận hành, chuyên tải đất đá trên tuyến đường 513 đoạn Cầu Hổ - Nghi
Sơn, thậm chí còn gây nên những tai nạn giao thông thương tâm cho nguời dân và
ngay chính bản thân các em học sinh. Một số xã như Mai Lâm, Hải Thượng, Hải


Hà còn bị cô lập nếu mùa mưa kéo dài, đường sá lầy lội bùn đất, học sinh phải nghĩ
học.
Có thể nói, trong số các bài học lồng ghép giáo dục địa lí địa phương, thì đây
là bức tranh sống động nhất mà chắc chắn rất nhiều em học sinh trường Tĩnh Gia 3
được trực tiếp trải nghiệm. Vì vậy sẽ thật là thiếu sót nếu Giáo viên không thể
truyền tải thông điệp bài học qua kiến thức thực tế ấy của các em.
Ví dụ 8:
Khi dạy bài 23 – Địa lí 12 “ Vấn đề phát triển thủy sản và lâm nghiệp”,
Riêng trong nội dung ngành thủy sản, Giáo viên có thể liên hệ hiểu biết của học
sinh về hoạt động thủy sản của địa phương với các xã ngư nghiệp như Hải Bình,
Tĩnh Hải, Hải Yến, Nghi Sơn. Câu hỏi đặt ra cho các em là: hoạt động kinh tế chính
của địa phương các em là gì? Tại sao địa phương em có thể phát triển hoạt động
kinh tế đó?
Học sinh có thể trả lời: kinh tế chính ở địa phương em là nghề cá dựa trên
đánh bắt là chủ yếu. Dựa vào vị thế giáp biển, nhiều bãi cá, tôm và các hải sản
khác. Các đội tàu đánh bắt được đầu tư đánh bắt xa bờ. Một số học sinh Nghi Sơn
còn bổ sung hoạt động nuôi trồng thủy sản của đảo này.
Như vậy, không cần mất nhiều thời gian và công sức cho việc giảng giải,
giáo viên đã giúp học sinh khắc sâu được hoạt động thủy sản và những tiềm năng

của ngành này ở nước ta.
2.3.2. Lồng ghép kiến thức Địa lí địa phương Tĩnh Gia qua việc ra bài tập về
nhà để học sinh tự nghiên cứu và tìm hướng giải quyết
Thời gian 45 phút mỗi tiết học trên lớp không đủ để Giáo viên vừa có thể
cung cấp được kiến thức địa lí địa phương lại vừa giúp học sinh tự chủ động nghiên
cứu vấn đề này một cách hiệu quả. Vì vậy ra bài tập về nhà để các em tự nghiên
cứu, đồng thời qua đó cũng đánh giá được ý thức tự học của học sinh và phân hóa
được các nhóm đối tượng học sinh có mức độ tư duy khác nhau để giáo viên có
biện pháp điều chỉnh quá trình dạy học một cách hợp lí hơn.
Tuy nhiên trên thực tế các bài tập cuối bài học trong sách giáo khoa mới chủ
yếu dừng lại ở việc củng cố kiến thức vừa học, một số bài tập cũng có độ khó nhất
định nhưng chưa đủ để phân loại học sinh, việc bổ sung một số bài tập có liên quan
đến kiến thức địa phương với các mức độ khó dễ khác nhau sẽ làm phong phú thêm
hiểu biết và phát triển được năng lực của học sinh. Để làm được công việc này đòi
hỏi trước hết ở Giáo viên phải có sự đầu tư nghiên cứu và lựa chọn hợp lí bài tập
sao cho phù hợp với bài học, với thời gian học và tư duy của học sinh, đồng thời
vẫn khuyến khích được ý thức tự giác và đam mê nghiên cứu trong các em.
Ví dụ 1:
Khi dạy bài 6 – Địa lí 10 “ Hệ quả chuyển động xung quanh Mặt Trời của
Trái Đất”, Mục tiêu bài học yêu cầu học sinh phải nắm được những hệ quả địa lí
khi Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời. Trong đó, Giáo viên có thể bổ sung thêm


cách xác định thời điểm Mặt Trời lên thiên đỉnh tại một địa điểm bất kỳ. Sau đó đến
cuối bài Giáo viên ra bài tập làm thêm: Hãy tính ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh ở địa
phương các em, biết Tĩnh Gia thuộc khoảng vĩ độ 19º27'B, Mặt Trời chuyển động
biểu kiến từ xích đạo lên chí tuyến bắc hết 93 ngày. (Có thể chênh lệch 1 ngày).
Học sinh dựa vào hướng dẫn của Giáo viên để về nhà nghiên cứu và tìm ra kết quả
bài tập như sau:
Cách tính:

Bước 1: Đổi vĩ độ của Tĩnh Gia ra giây:
19º27'= 70020''
Bước 2: Tính số giây Mặt Trời di chuyển mỗi ngày:
23º27': 93 ngày = 15'8''= 908''
Bước 3: Tính số ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh từ xích đạo đến Tĩnh Gia(19º27'B):
70020'' : 908'' = 77 ngày
Bước 4: Tính ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Tĩnh Gia:
Vậy Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Tĩnh Gia lần thứ nhất vào ngày:
21 tháng 3 + 77 ngày = ngày 6 tháng 6
Vậy Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Tĩnh Gia lần thứ hai vào ngày:
23 tháng 9 - 77 ngày = ngày 8 tháng 7
Sau khi học xong bài này, giáo viên có thể yêu cầu các em tự kiểm nghiệm thực
tế vào ngày 6 tháng 6 và ngày 8 tháng 7 để quan sát hiện tượng này. Tuy nhiên,
dạng bài tập này khá phức tạp so với lực học của đa số học sinh trung bình trở
xuống, chỉ một số học sinh khá giỏi mới làm được. Song, từ kết quả tìm được
những học sinh đó vẫn có thể biết được thời điểm Tĩnh Gia có Mặt Trời lên thiên
đỉnh để các em quan sát và qua nhiều lần như vậy cũng sẽ hình thành kĩ năng tư
duy, tính toán và phân tích cho các em.
Ví dụ 2:
Khi dạy bài 12 – Địa lí 10 “ Sự phân bố khí áp. Một số loại gió chính”, Mục
tiêu bài học yêu cầu học sinh phải nắm được khí áp trên trái đất phân bố như thế
nào, nguyên nhân của sự thay đổi khí áp và đặc điểm hoạt động của một số loại gió
chính. Trong nội dung mục gió địa phương, học sinh cần nghiên cứu loại gió Fơn,
gió hình thành do sự biến tính của gió mát và ẩm thổi tới một dãy núi, bị núi chặn
lại, không khí ẩm bốc lên cao 100m giảm 0,6ºC. Vì nhiệt độ hạ, hơi nước ngưng tụ,
mây hình thành và mưa rơi bên sườn đón gió; khi không khí sang sườn bên kia, hơi
nước đã giảm nhiều, nhiệt độ tăng lên theo tiêu chuẩn không khí khô khi xuống núi,
trung bình là 100m tăng 1ºC, nên sườn khuất gió có gió khô và rất nóng. Ở miền
Trung Việt Nam thường gọi loại gió này là gió Lào. Tại Tĩnh Gia, loại gió này cũng
hoạt động vào những tháng đầu mùa hè, mạnh nhất vào các tháng V, VI và VII. Từ

kiến thức trên, Giáo viên mở rộng yêu cầu học sinh về nhà tính nhiệt độ của dãy
núi Các thuộc huyện Tĩnh Gia như sau: Hãy tính nhiệt độ của chân sườn khuất gió


dãy núi Các, biết đỉnh núi cao 1000m, nhiệt độ không khí bên sườn đón gió vào
tháng VII là 27ºC. Từ đó rút ra nhận xét về đặc điểm của gió khi vượt địa hình?
Theo hướng dẫn của Giáo viên, học sinh về nhà sẽ tính toán như sau:
Bước 1: Vẽ sơ đồ hoạt động của gió Fơn theo yêu cầu đề bài
Bước 2: Áp dụng kiến thức toán học để tính toán, hoặc luận giải:
+ Lên cao 100m nhiệt độ không khí giảm 0,6ºC. Vậy núi Các có độ cao 1000m,
nhiệt độ lên đến đỉnh còn 21ºC.
+ Bên sườn khuất gió, xuống100m tăng 1ºC. Vậy nhiệt độ chân sườn khuất gió tăng
lên đến 31ºC.
Bước 3: Học sinh có thẻ rút ra nhận xét: Khi đến một ngọn núi có sự hoạt động của
gió Fơn sẽ nhận thấy sự nóng lên về nền nhiệt và sự giảm sút độ ẩm ở bên sườn
khuất gió. Khiến ta có cảm giác khô nóng rất khó chịu. Từ đó các em sẽ lý giải
được hiện tượng thời tiết cực đoan này thường xảy ra vào mùa hè ở miền Trung
nước ta và chính thời tiết đó gây nên rất nhiều bất lợi cho sinh hoạt và sản xuất của
địa phương hằng năm.
2.3.3. Lồng ghép kiến thức Địa lí địa phương Tĩnh Gia qua việc yêu cầu học sinh
sưu tầm các tư liệu Địa lí liên quan đến kiến thức trong bài học
Đối với giảng dạy Địa lí nói chung và Địa lí địa phương nói riêng, học sinh nên
được tham gia tìm hiểu thực tế và Giáo viên sẽ đóng vai trò hướng dẫn. Yêu cầu
của việc tìm hiểu thực tế này phải có sự đầu tư về thời gian, về kiến thức của Giáo
viên và học sinh. Giáo viên phải lựa chọn những vấn đề trọng tâm, sát với bài học
bởi vì mục đích của hoạt động này là giúp học sinh nhớ được kiến thức bài học lâu
hơn. Một lưu ý là việc tìm hiểu thực tế của các em phải được tiến hành trước khi
học trên lớp. Như vậy, khả năng tiếp thu và nhớ được tri thức của học sinh chủ yếu
dựa vào quan sát hiện tượng trên thực tế, suy nghĩ tìm ra kiến thức và trình bày
được các kiến thức đó.

Giáo viên hướng dẫn một số kênh thông tin sẽ hổ trợ học sinh trong quá trình
sưu tầm tài liệu là các tạp chí, sách báo, Internet.v.v. của Tĩnh Gia.
Sau đây là một số ví dụ dẫn chứng của đề tài:
Ví dụ 1:
Trước khi dạy bài 24 - Địa lí 10: “Phân bố dân cư. Các loại hình quần cư và đô
thị hóa” phần III: Đô thị hóa, Giáo viên yêu cầu học sinh hoặc nhóm học sinh tìm
hiểu ảnh hưởng của đô thị hóa tại địa phương. Học sinh có thể quay phim, chụp
hình vể sự sầm uất trong hoạt động buôn bán, về mức sống cao của người thành thị
và bên cạnh đó là tác động tiêu cực của đô thị hóa với rác thải, khí thải và ô nhiễm
môi trường. Dưới đây là hình
ảnh minh họa được sưu tầm:
Hình 1:
Ô nhiễm cửa sông


Lạch Bạng do rác thải
sinh hoạt
( nguồn: Internet)
Ví dụ 2:
Trước khi dạy bài 42 - Địa lí 10: “Môi trường và sự phát triển bền vững”, Giáo
viên có thể yêu cầu học sinh tìm hiểu hoạt động khai thác tài nguyên tại địa
phương. Ở huyện Tĩnh Gia học sinh có thể tìm hiểu hoạt động khai thác đá tại mỏ
đá vôi Trường Lâm, từ đó đề ra các giải pháp để vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa
bảo vệ môi trường. Sau đó đại diện nhóm sẽ trình bày trước lớp và cả lớp sẽ thảo
luận. Dưới đây là hình ảnh minh họa được sưu tầm:

Hình 2:
Khai thác và sản xuất đá mỏ
đá Hang Dơi - Tân Trường
( nguồn: Internet)


Ví dụ 3:
Trước khi học bài 14 – Địa lí 12 “ Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên”
phần 1: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên sinh vật, Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc
theo nhóm tìm hiểu về tài nguyên rừng và tài nguyên sinh vật biển của địa phương.
Học sinh thu thập các tài liệu liên quan đến vấn đề này của Tĩnh Gia trong thời gian
qua. Trên thực tế đây là vấn đề rất nóng tại Tĩnh Gia một vài năm qua, khi huyện
luôn phải đối mặt với thực trạng các cánh rừng phòng hộ thuộc các xã Phú Lâm,
Phú Sơn, Tùng Lâm liên tục bị triệt phá bằng nhiều phương cách khác nhau. Đặc
biệt học sinh còn rất dễ nhận thấy tình trạng ô nhiễm môi trường biển địa phương
sau hàng loạt các vấn nạn cá biển, tôm nuôi chết, tình trạng xả nước thải của nhà
máy hóa dầu Nghi Sơn, nước thải sinh hoạt ra bãi biển Hải Yến, Tĩnh Hải, Hải
Bình, Hải Thượng, Nghi Sơn đã làm thiệt hại nặng nề nghề cá của ngư dân, cản trở
hoạt động vui chơi tắm biển của địa phương và trực tiếp gây suy giảm đa dạng sinh
học của biển. Dưới đây là hình ảnh minh họa được sưu tầm:

Hình 3:
Cá lồng chết tại đảo


Nghi Sơn
( nguồn: Internet)
Ví dụ 4:
Trước khi dạy bài 27 - Địa lí 12: “Vấn đề phát triển một số ngành công
nghiệp trọng điểm” phần 1: Công nghiệp năng lượng, Giáo viên cho học sinh tìm
hiểu và sưu tầm hình ảnh về nhà máy hóa lọc dầu Nghi Sơn. Để chứng minh cho ý
nghĩa của công nghiệp dầu khí nước ta và cho thấy sự tầm quan trọng của dự án
này đối với kinh tế địa phương và cả nước. Dưới đây là hình ảnh minh họa được
sưu tầm:


Hình 4:
Dự án hóa dầu Nghi Sơn
trong giai đoạn hoàn thiện
( nguồn: Internet)
Ví dụ 5:
Khi dạy bài 30 - Địa lí 12: “Giao thông vận tải và thông tin liên lạc”, Giáo viên
có thể yêu cầu học sinh tìm hình ảnh về thực trạng ngành giao thông vận tải và
thông tin liên lạc tại địa phương và đề xuất một số giải pháp sau đó trình bày và
thảo luận trước lớp. Dưới đây là hình ảnh minh họa được sưu tầm:
Hình 5:
Cảng Nghi Sơn đang nâng cấp
mở rộng
( nguồn: Internet)

Ví dụ 6:
Khi dạy bài 31 - Địa lí 12: “ Vấn đề phát triển thương mại và du lịch” phần 2. du
lịch, Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm hiểu về du lịch của địa phương qua
những tài nguyên du lịch đa dạng sẵn có của Tĩnh Gia có sức hấp dẫn đặc biệt du
khách như tài nguyên hang động, tài nguyên du lịch biển, các chùa chiền, lễ hội, ẩm


thực.v.v... Sau đó các nhóm tự giới thiệu về những sản phẩm được tạo ra sau quá
trình tìm hiểu, khai thác. Dưới đây là hình ảnh minh họa được sưu tầm:

Hình 6.1. Động Trường Lâm
( nguồn: Internet)

Hình 6.2. Bãi biển Hải Hòa
( nguồn: Internet)



Hình 6.3. Chùa Am Các
Hình 6.4. Nhà Thờ Ba Làng
( nguồn: Internet)
( nguồn: Internet)
Như vậy, việc lồng ghép kiến thức Địa lí địa phương Tĩnh Gia vào một số bài
học đã được cân nhắc lựa chọn kỹ lưỡng. Tuy vẫn còn nhiều thiếu sót, song đề tài
đã mang lại hiệu ứng tích cực đối với quá trình dạy học môn Địa lí tại trường sở tại,
nơi thực hiện đề tài.
2.4. Hiệu quả của đề tài
Sau một thời gian thực hiện, tôi nhận thấy kết quả thu được nhưu sau:
Đối với học sinh, cơ bản các em đã đạt được các yêu cầu của bài học:
Học sinh đã nhớ và hiểu được kiến thức địa lí của địa phương. Từ các kiến
thức địa lí của địa phương các em có thể khái quát để hiểu được các kiến thức địa lí
chung.
Học sinh rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kỉ năng quan sát, phân tích, tổng
hợp, trình bày 1 vấn đề và bảo vệ ý kiến trước tập thể.
Học sinh tìm được hứng thú trong việc học bộ môn địa lí.
Đối với giáo viên, việc áp dụng lồng ghép giáo dục Địa lí địa phương Tĩnh Gia như
trên đã góp phần:
Đề tài giúp giáo viên có cơ hội thường xuyên mở rộng, bồi dưỡng nâng cao
kiến thức tự hoàn thiện năng lực chuyên môn hơn. Riêng với cá nhân Tác giả, do


không phải là người địa phương nên đây cũng là cơ hội trải nghiệm rất cần thiết để
Tôi được học hỏi và nắm vững các vấn đề địalí của Tĩnh Gia nhằm phục vụ cho
việc giảng dạy.
Đề tài hỗ trợ giáo viên trong quá trình giảng dạy theo phương pháp mới, lấy
học sinh làm trung tâm, từ đó Giáo viên sẽ giảm được việc thuyết trình trong các
tiết dạy, đặc biệt là các tiết dạy về Địa lí địa phương.

Tất cả các môn học đều có quan hệ mật thiết với cuộc sống xung quanh các
em. Vì vậy không thể dạy học nói chung và dạy Địa lí nói riêng đạt được kết quả
nếu không gắn liền với thực tế. Ngoài ra với yêu cầu gắn giáo dục với thực tiễn,
gắn lý thuyết với thực hành thì giảng dạy Địa lí không thể thiếu phần Địa lí địa
phương. Không chỉ vậy, với tinh thần của việc đổi mới phương pháp dạy học thì
giáo viên không chỉ dạy đủ kiến thức mà còn phải tạo được hứng thú cho học sinh
trong quá trình giảng dạy. Vì thế có thể nói các giải pháp của đề tài đã góp phần
giải quyết được cả về mặt lí luận và thực tiễn trong giáo dục hiện nay.
Sau đây là một số kết quả thống kê khảo sát về kiến thức địa lí địa phương của
học sinh trước và sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tại trường THPT
Tĩnh Gia 3:
PHIẾU KHẢO SÁT KIẾN THỨC ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG CỦA HỌC SINH
TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 3
Lớp…………
1/ Em có biết ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Tĩnh Gia là ngày nào?
 Có (Đó là ngày……………………………………………)
 Không
2 / Em có biết tài nguyên du lịch có ở Tĩnh Gia và, thực trạng khai thác các tài
nguyên này.
 Có
(Đó là: .......................................................................................................................
.....................................................................................................................................
....................................................................................................................................)
 Không
3 / Em có biết ở Tĩnh Gia có những hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp nào
không? Cho ví dụ.
 Có
(Đó là: .......................................................................................................................
.....................................................................................................................................
....................................................................................................................................)

 Không
4/ Em biết gì về thực trạng ô nhiểm môi trường ở Tĩnh Gia và nêu nguyên
nhân?
Trả lời:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………


Và sau đây là kết quả được khảo sát trong năm học 2015 -2016 (trước khi
thực hiện các giải pháp của đề tài) và năm học 2016 - 2017 (Sau khi thực hiện các
giải pháp của đề tài):
1/ Tỉ lệ học sinh lớp 10 biết được ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Tĩnh Gia:.
Năm học
Lớp 10

2015-2016
5%

2016-2017
60%

Năm học
Lớp 10
Lớp 12

2015-2016
15%
25%


2016-2017
50%
70%

Năm học
Lớp 10
Lớp 12

2015-2016
5%
15%

2016-2017
40%
60%

Năm học
Lớp 10
Lớp 12

2015-2016
15%
20%

2016-2017
60%
80%

2/ Tỉ lệ học sinh lớp 10 và 12 biết tài nguyên du lịch có ở Tĩnh Gia:


3 / Tỉ lệ học sinh lớp 10 và 12 biết ở Tĩnh Gia có những hình thức tổ chức lãnh
thổ công nghiệp:

4/ Tỉ lệ học sinh lớp 10 và 12 biết về thực trạng ô nhiểm môi trường ở Tĩnh Gia
và nêu nguyên nhân:

Qua kết quả khảo sát trên, chúng ta thấy những hiểu biết của học sinh về kiến
thức địa lí địa phương tăng lên đáng kể. Và từ những kiến thức đó các em có thể
hiểu các kiến thức đại cương dễ dàng hơn. Đồng thời giáo dục cho học sinh ý thức
quan tâm đến những vấn đề xung quanh, ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng tình
yêu quê hương đất nước. Thông qua các hoạt động tìm hiểu, thảo luận sẽ rèn luyện
cho các em nhiều kỹ năng quan trọng.

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận


Để có được kết quả khả quan sau khi thực hiện, đề tài đã chịu tác động lớn từ
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Những bài học kinh nghiệm được rút ra:
Cần phải điều tra nắm rõ trình độ kiến thức, năng lực tư duy cũng như ý
thức học tập của các đối tượng học sinh để tránh việc lồng ghép kiến thức địa lý địa
phương trở thành áp lực trong học tập.
Công tác khảo sát địa lí địa phương được tiến hành dưới sự hướng dẫn, tổ
chức, chỉ đạo của Giáo viên. Vì vậy kết quả phụ thuộc rất nhiều vào trình độ kiến
thức, trình độ hiểu biết địa phương của Giáo viên, phụ thuộc vào khả năng hướng
dẫn, động viên làm cho học sinh hứng thú hơn với cách học này.
Như vậy, khi tổ chức học sinh học tập Địa lí địa phương theo hướng tích cực,
Giáo viên cần đưa học sinh vào những tình huống thực tế của địa phương, học sinh
trực tiếp quan sát, thảo luận, phỏng vấn, thu thập tài liệu... tự giải quyết những vấn
đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa nắm được kiến thức, kĩ năng mới,

vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, không rập khuôn theo
những khuôn mẫu sẵn có, phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh. Điều đó
vừa phù hợp với luật giáo dục Việt Nam vừa đào tạo được một lớp người xây dựng
xã hội hiện đại. Đây là thế mạnh của môn học trong việc áp dụng phương pháp tích
cực mà tất cả Giáo viên Địa lí cần áp dụng. Đặc biệt đối với đề tài này, khă năng áp
dụng cho đối tượng học sinh THPT trên địa bàn Tĩnh Gia nói chung và trường
THPT Tĩnh Gia 3 nói riêng sẽ rất khả quan.
3.2. Kiến nghị
Sau quá trình kiểm chứng thực tế tại trường, các giải pháp của đề tài đã chứng tỏ
được tính khả thi cũng như hiệu quả của nó. Hơn nữa những giải pháp này hoàn
toàn có thể thực hiện được cho việc giảng dạy địa lí tại trường THPT Tĩnh Gia 3.
Vì vậy tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
Về phía nhà trường:
Tạo điều kiện về cơ sở vật chất cũng như nguồn kinh phí cho giáo viên có
thể thực hiện được các hoạt động ngoại khóa tìm hiểu Địa lí địa phương
Hỗ trợ học sinh trong quá trình tiếp cận, sưu tầm,nghiên cứu các nguồn tư
liệu của địa phương
Về phía tổ chuyên môn
Có kế hoạch đề xuất các hoạt động ngoại khóa từ đầu năm học để tạo các sân
chơi cho học sinh về kiến thức Địa lí địa phương
Tổ chức trao đổi giữa các giáo viên về cách lồng ghép kiến thức địa lí địa
phương vào bài giảng sao cho vừa hiệu quả, vừa phù hợp với thực tế địa phương
mình.
Thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm giữa các giáo viên trong quá trình tổ
chức các hoạt động cho học sinh tìm hiểu Địa lí địa phương nhằm đạt hiệu quả cao
nhất
Về phía giáo viên


Cần có sự đầu tư đúng mức cho việc giảng dạy Địa lí địa phương và phải

được thể hiện trong kế hoạch giảng dạy của cả năm học. Bởi vì đây là công việc đòi
hỏi có sự chuẩn bị trước và thực hiện thường xuyên
Thường xuyên thay đổi các hình thức giảng dạy để các em không nhàm chán
Đưa phần kiến thức Địa lí địa phương vào các đề kiểm tra. Nên dành cho
phần liên hệ thực tế địa phương chiếm từ 20 đến 25% số điểm trong 1 bài kiểm tra
kể cả thi học kì. Đặc biệt các câu hỏi về Địa lí địa phương không chỉ nêu 1 số sự
vật, hiện tượng cần phải có yêu cầu phân tích và trình bày quan điểm cá nhân về sự
vật, hiện tượng đó.
Và cuối cùng cái cốt lõi cho mọi vấn đề là mỗi giáo viên phải làm tốt vai trò
đạo diễn của minh trong hoạt động dạy và học. Thành công của mỗi phương pháp
đều phụ thuộc vào tâm huyết các giáo viên đứng lớp. Chúng ta phải biết rằng xã hội
đang cần những thế hệ tương lai đầy đủ kiến thức khoa học, biết ứng dụng kiến
thức vào thực tiễn, có các kĩ năng sống cần thiết và luôn có tình yêu quê hương đất
nước, luôn muốn góp phần chung tay xây dựng tổ quốc Việt Nam trở nên giàu đẹp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Bích

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thông (tổng chủ biên)
Sách giáo khoa Địa lí lớp 10. Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2006.



2. Lê Thông (tổng chủ biên)
Sách giáo khoa Địa lí lớp 12. Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008.
3. Nguyễn Dược - Nguyễn Trọng Phú – Đậu Thị Hòa
Lí luận dạy học Địa lí. Đà Nẵng, 2003
4. Nguyễn Phi Hạnh - Nguyễn Thị Thu Hằng
Giáo dục môi trường qua môn Địa lí. Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội, năm 2002
5. Đặng Văn Đức - Nguyễn Thu Hằng
Phương pháp dạy học địa lí theo hướng tích cực. Nhà xuất bản giáo dục, năm 2000
6. Đặn Văn Đức – Nguyễn Thu Hằng
Phương pháp dạy học địa lí theo hướng tích cực. Nhà xuất bản Đại học sư phạm,
năm 2003
7. Bộ giáo dục và đào tạo
Địa lí địa phương. Nhà xuất bản giáo dục, năm 1999
8. Một số tài liệu trên Internet



×